Một thế giới đa cực với các trung tâm quyền lực mới nổi là một ý tưởng phổ biến nhưng không chính xác, và có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng về chính sách.
Không, trật tự thế giới hiện nay không phải là đa cực ! Ảnh minh họa / Getty Images
Một trong những lập luận được các chính trị gia, nhà ngoại giao, và nhà quan sát chính trị quốc tế lặp đi lặp lại nhiều nhất là thế giới đang hoặc sẽ sớm trở thành đa cực. Trong những tháng gần đây, lập luận này đã được đưa ra bởi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres, Thủ tướng Đức Olaf Scholz, Ngoại trưởng Đức Annalena Baerbock, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, Tổng thống Brazil Luiz Inácio Lula da Silva, và Tổng thống Nga Vladimir Putin. Josep Borrell, Cao ủy đặc trách đối ngoại của Liên Hiệp Châu Âu, lập luận rằng thế giới đã trở thành một hệ thống "đa cực phức tạp" kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Ý tưởng này cũng đang được phổ biến trong giới kinh doanh : ngân hàng đầu tư Morgan Stanley gần đây đã xuất bản một bài viết về chiến lược "điều hướng trong một thế giới đa cực", trong khi INSEAD, một trường kinh doanh nổi tiếng ở Châu Âu, lại tập trung vào kỹ năng lãnh đạo trong một thế giới như vậy.
Bất chấp những gì các chính trị gia, học giả, và chủ ngân hàng đầu tư nói với chúng ta, việc cho rằng thế giới ngày nay là thế giới đa cực chỉ là chuyện hoang đường.
Lý do rất đơn giản. Sự phân cực ám chỉ số lượng các cường quốc trong hệ thống quốc tế – và để thế giới trở thành đa cực, phải có ít nhất ba cường quốc. Ngày nay, chỉ có hai quốc gia sở hữu quy mô kinh tế, sức mạnh quân sự, và đòn bẩy toàn cầu đủ lớn để tạo thành một cực : Mỹ và Trung Quốc. Các cường quốc khác vẫn chưa xuất hiện và sẽ không sớm xuất hiện. Việc tồn tại các cường quốc bậc trung đang trỗi dậy cũng như các quốc gia không liên kết, với dân số đông và nền kinh tế đang phát triển, không làm cho thế giới trở nên đa cực.
Sự thiếu vắng cực thứ ba trong hệ thống quốc tế sẽ trở nên rõ ràng hơn nếu chúng ta nhìn vào các ứng viên có thể trở thành cường quốc. Năm 2021, với tốc độ phát triển nhanh chóng, Ấn Độ là nước chi tiêu lớn thứ ba cho quốc phòng – một chỉ số để đo lường quyền lực. Nhưng theo số liệu mới nhất của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, ngân sách quân sự của nước này chỉ bằng 1/4 ngân sách của Trung Quốc. (Và con số thực chất của Trung Quốc có lẽ cao hơn chúng ta nghĩ). Ngày nay, Ấn Độ vẫn chủ yếu tập trung vào sự phát triển của chính họ, với lực lượng đối ngoại yếu kém, trong khi lực lượng hải quân – một thước đo quan trọng về đòn bẩy ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương – vẫn khá nhỏ so với hải quân của Trung Quốc, quốc gia đưa vào hoạt động tải trọng tàu hải quân lớn gấp 5 lần chỉ trong vòng 5 năm qua. Đúng là Ấn Độ một ngày nào đó có thể sẽ trở thành một cực trong hệ thống, nhưng ngày đó thuộc về tương lai xa.
Sự giàu có về kinh tế là một chỉ số khác cho khả năng sở hữu quyền lực. Nhật Bản có nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, nhưng theo số liệu mới nhất của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, GDP của nước này chưa bằng 1/4 của Trung Quốc. GDP của Đức, Ấn Độ, Anh, và Pháp – bốn nền kinh tế lớn tiếp theo trên thế giới – thậm chí còn nhỏ hơn.
Liên Hiệp Châu Âu cũng không phải cực thứ ba, ngay cả khi lập luận đó đã được Macron và nhiều người khác lặp lại một cách không mệt mỏi. Các nước Châu Âu có lợi ích quốc gia rất khác biệt, và liên minh của họ dễ bị rạn nứt. Dù Liên Hiệp Châu Âu khá đoàn kết trong việc hỗ trợ Ukraine, đơn giản là không tồn tại một chính sách quốc phòng, an ninh, hoặc đối ngoại thống nhất nào cho toàn Châu Âu. Phải có lý do thì Bắc Kinh, Moscow, và Washington mới thảo luận với Paris và Berlin – nhưng hiếm khi tìm đến Brussels.
Thủ tướng Đức Olaf Scholz và Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen lắng nghe Tổng thống Pháp Emmanuel Macron trong cuộc gặp ở Brussels vào ngày 23/06/2022. © Ludovic Marin / AFP / Getty Images
Tất nhiên, Nga là một ứng viên tiềm năng cho vị thế cường quốc dựa trên diện tích lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên phong phú, và kho dự trữ vũ khí hạt nhân khổng lồ. Nước này chắc chắn có tác động vượt ra ngoài biên giới – họ đang tiến hành một cuộc chiến lớn ở Châu Âu, theo đó thúc đẩy Phần Lan và Thụy Điển gia nhập NATO. Tuy nhiên, với nền kinh tế nhỏ hơn nền kinh tế của Italy, và ngân sách quốc phòng chỉ bằng 1/4 ngân sách Trung Quốc, Nga không đủ tư cách là cực thứ ba trong hệ thống quốc tế. Nhiều nhất, Nga chỉ có thể đóng vai trò hỗ trợ cho Trung Quốc.
Một lập luận phổ biến của những người tin vào trật tự đa cực là sự trỗi dậy của thế giới phương Nam và vị thế ngày càng thu hẹp của phương Tây. Tuy nhiên, sự hiện diện của các cường quốc tầm trung cũ và mới – Ấn Độ, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, cùng Ả Rập Saudi thường được coi là những cái tên bổ sung trong danh sách này – không làm cho hệ thống trở nên đa cực, vì không nước nào trong số này có sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự, và các hình thức ảnh hưởng khác đủ lớn để trở thành một cực riêng. Nói cách khác, những nước này thiếu khả năng cạnh tranh với Mỹ và Trung Quốc.
Dù đúng là tỷ trọng của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu đang giảm dần, nhưng nước này vẫn giữ được vị trí thống trị, đặc biệt khi đem so sánh với Trung Quốc. Hai cường quốc chiếm một nửa tổng chi tiêu quốc phòng của thế giới, và tổng GDP của họ gần bằng GDP của 33 nền kinh tế lớn tiếp theo cộng lại.
Quyết định mở rộng diễn đàn BRICS sau thượng đỉnh Johannesburg vào tháng trước (trước đây, khối này chỉ bao gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, và Nam Phi) được hiểu là dấu hiệu cho thấy trật tự đa cực đã hình thành hoặc chí ít đang hình thành. Tuy nhiên, các khối thiếu sự đồng nhất để có thể hoạt động như các cực – và chúng có thể dễ dàng tan rã. BRICS hoàn toàn không phải một khối thống nhất, và dù các quốc gia thành viên có thể chia sẻ quan điểm về trật tự kinh tế quốc tế, họ lại có những lợi ích rất khác biệt trong các lĩnh vực còn lại. Trong chính sách an ninh – dấu hiệu mạnh nhất của sự liên kết – hai thành viên lớn nhất BRICS là Trung Quốc và Ấn Độ đang có mâu thuẫn. Quả thật, sự trỗi dậy của Bắc Kinh đang thúc đẩy New Delhi liên kết chặt chẽ hơn với Mỹ.
Vậy, nếu thế giới không đa cực, thì tại sao lập luận đa cực lại được ưa chuộng đến vậy ? Ngoài việc nó đã phớt lờ các sự kiện và khái niệm về quan hệ quốc tế, có ba nguyên nhân giải thích cho xu hướng này.
Đầu tiên, đối với nhiều người ủng hộ ý tưởng đa cực, nó là một khái niệm mang tính chuẩn tắc. Nó là một cách khác để nói – hoặc để hy vọng – rằng thời đại thống trị của phương Tây đã kết thúc và quyền lực của họ đang hoặc sẽ biến mất. Guterres coi đa cực là một cách để điều chỉnh thiếu sót của chủ nghĩa đa phương và mang lại sự cân bằng cho hệ thống thế giới. Đối với nhiều nhà lãnh đạo Châu Âu, trật tự đa cực là lựa chọn thay thế được ưa thích cho trật tự lưỡng cực, bởi vì trật tự đa cực được cho là sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho một thế giới được quản lý bởi các luật lệ, cho phép hợp tác toàn cầu với các chủ thể đa dạng, và ngăn chặn sự xuất hiện của các khối mới.
Khuôn khổ đa phương chắc chắn đang không hoạt động như mong đợi, và nhiều người ở phương Tây coi ý tưởng đa cực là một hệ thống công bằng hơn, một cách tốt hơn để vực dậy chủ nghĩa đa phương, và là cơ hội để khắc phục sự mất kết nối ngày càng tăng với các nước phương Nam. Nói cách khác, niềm tin vào một trật tự đa cực không tồn tại chỉ là một phần trong vô số những hy vọng và ước mơ về một trật tự toàn cầu.
Lý do thứ hai khiến ý tưởng đa cực trở nên thịnh hành là sau ba thập niên toàn cầu hóa và tương đối hòa bình, các nhà hoạch định chính sách, nhà bình luận, và học giả ngày nay rất khó chấp nhận thực tế của một thế giới căng thẳng và phân cực, trên cơ sở cạnh tranh lưỡng cực giữa Mỹ và Trung Quốc. Về mặt này, niềm tin vào đa cực là một kiểu trốn tránh – và là biểu hiện của mong muốn rằng sẽ không xảy ra một cuộc chiến tranh lạnh nào nữa.
Thứ ba, những luận điệu về đa cực thường là một phần của trò chơi quyền lực. Bắc Kinh và Moscow coi đa cực là một cách để hạn chế sức mạnh của Mỹ và nâng cao vị thế của chính họ. Trở lại năm 1997, khi Mỹ là cường quốc thống trị, Nga và Trung Quốc đã ký Tuyên bố chung về Thế giới Đa cực và Thiết lập Trật tự Quốc tế Mới. Dù ngày nay Trung Quốc đã trở thành một cường quốc nhưng nước này vẫn coi Mỹ là thách thức chính của mình ; cùng với Moscow, Bắc Kinh sử dụng ý tưởng đa cực như một cách để tâng bốc phương Nam và thu hút các nước này tin vào mục tiêu của Trung Quốc. Đa cực là chủ đề trọng tâm trong chiến dịch ngoại giao quyến rũ của Trung Quốc xuyên suốt năm 2023. Trong khi đó, tại hội nghị thượng đỉnh Nga-Châu Phi vào tháng 7, Putin tuyên bố rằng các nhà lãnh đạo tham dự đã đồng ý thúc đẩy một thế giới đa cực. Tương tự, khi các nhà lãnh đạo của các cường quốc tầm trung đang lên thúc đẩy ý tưởng về đa cực – chẳng hạn như Lula ở Brazil – thì đó thường là một nỗ lực nhằm định vị đất nước của họ như một quốc gia không liên kết hàng đầu.
Tổng thống Brazil Luiz Inácio Lula da Silva, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng thống Nam Phi Cyril Ramaphosa, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, và Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov chụp ảnh tại thượng đỉnh BRICS ở Johannesburg vào ngày 23/08. © Gianluigi / AFP / Getty Images
Người ta có thể tự hỏi liệu sự phân cực – và những quan niệm sai lầm phổ biến về nó – có quan trọng hay không. Câu trả lời đơn giản là số lượng cực trong trật tự toàn cầu có ý nghĩa rất lớn, và những quan niệm sai lầm đã cản trở tư duy chiến lược, cuối cùng dẫn đến những chính sách sai lầm. Sự phân cực có tầm quan trọng vì hai lý do sau đây.
Thứ nhất, các quốc gia phải đối mặt với những mức độ hạn chế khác nhau đối với hành vi của họ trong các hệ thống đơn cực, lưỡng cực, và đa cực, theo đó đòi hỏi các chiến lược và chính sách khác nhau. Ví dụ, chiến lược an ninh quốc gia mới của Đức, được công bố vào tháng 6, khẳng định rằng "môi trường an ninh và quốc tế đang trở nên đa cực hơn và kém ổn định hơn". Các hệ thống đa cực thực sự bị cho là kém ổn định hơn các hệ thống đơn cực và lưỡng cực. Trong các hệ thống đa cực, các cường quốc xây dựng các liên minh nhằm tránh tình trạng một quốc gia thống trị các quốc gia khác, nên việc một cường quốc thay đổi liên minh có thể dẫn đến việc liên tục tái cấu trúc liên minh và nhiều thay đổi đột ngột khác. Ngược lại, trong hệ thống lưỡng cực, hai siêu cường chủ yếu cân bằng lẫn nhau, và họ luôn biết rõ ai là đối thủ chính của mình. Do đó, chúng ta nên hy vọng rằng chiến lược của người Đức là sai.
Sự phân cực cũng quan trọng đối với các doanh nghiệp. Morgan Stanley và INSEAD đang chuẩn bị cho các khách hàng và sinh viên của họ bước vào một thế giới đa cực, nhưng việc theo đuổi các chiến lược đa cực trong một hệ thống vẫn là lưỡng cực có thể là một sai lầm phải trả giá đắt. Nguyên nhân là do các luồng thương mại và đầu tư sẽ thay đổi tùy thuộc vào số cực. Trong các hệ thống lưỡng cực, hai cường quốc chủ yếu quan tâm đến lợi ích tương đối, dẫn đến một trật tự kinh tế phân cực và chia rẽ. Mỗi loại trật tự đều có những rủi ro địa chính trị khác nhau, và một chiến lược sai lầm về nơi công ty nên xây dựng nhà máy tiếp theo có thể sẽ khiến công ty phải trả giá.
Thứ hai, ủng hộ một thế giới đa cực khi nó rõ ràng là lưỡng cực có thể dẫn đến những tín hiệu sai lầm cho cả đồng minh lẫn kẻ thù. Tình hình quốc tế chấn động sau những phát biểu của Macron trong chuyến thăm Trung Quốc hồi tháng 4 đã minh họa cho quan điểm này. Trong một cuộc phỏng vấn trên máy bay trên đường trở về Châu Âu, Macron được cho là đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc Châu Âu trở thành siêu cường thứ ba. Việc ông sẵn sàng quảng bá ý tưởng đa cực đã làm phật lòng các đồng minh của Pháp ở Washington và Châu Âu. Chủ nhà Trung Quốc của ông đã tỏ ra vui mừng, nhưng nếu họ nhầm lẫn những suy nghĩ của Macron về đa cực với việc Pháp và Châu Âu sẵn sàng hỗ trợ Bắc Kinh trong cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung, họ có thể đã nhận được những tín hiệu sai lệch.
Một hệ thống đa cực có thể ít phân cực hơn so với một hệ thống chỉ có hai siêu cường đối địch, nhưng nó không nhất thiết dẫn đến một thế giới tốt đẹp hơn. Thay vì là giải pháp nhanh chóng cho chủ nghĩa đa phương, nó có thể khiến quá trình khu vực hóa trở nên sâu rộng hơn. Thay vì kiên định với ý tưởng đa cực và tiêu tốn tài nguyên vào một hệ thống không tồn tại, một chiến lược hiệu quả hơn sẽ tìm kiếm những giải pháp và nền tảng tốt hơn cho đối thoại trong hệ thống lưỡng cực hiện có.
Về lâu dài, thế giới thực sự có thể trở nên đa cực, trong đó Ấn Độ là ứng viên tiềm năng nhất sẽ gia nhập hàng ngũ của Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, ngày đó vẫn còn rất xa. Trong tương lai gần, chúng ta vẫn sẽ sống trong một thế giới lưỡng cực – và các chiến lược cũng như chính sách cần phải được thiết kế phù hợp với thế giới đó.
Jo Inge Bekkevold là nghiên cứu viên cấp cao về Trung Quốc tại Viện Nghiên cứu Quốc phòng Na Uy và từng là một nhà ngoại giao Na Uy.
Jo Inge Bekkevold
Nguyên tác : "No, the World Is Not Multipolar", Foreign Policy, 22/09/2023
Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 29/09/2023
Jo Inge Bekkevold là nghiên cứu viên cấp cao về Trung Quốc tại Viện Nghiên cứu Quốc phòng Na Uy và từng là một nhà ngoại giao Na Uy.
Đại sứ Trung Quốc tại Hoa Kỳ hôm 30/10 nói rằng "thiện chí" và "sự sáng suốt" của nhân dân Trung Quốc và Mỹ sẽ giúp hai nước vượt qua giai đoạn căng thẳng quan hệ và rằng "chúng ta đã nghe đến nhàm chán" những lời đe dọa chiến tranh thương mại và những vụ khua gươm múa kiếm về vấn đề lãnh thổ.
Lên tiếng nhiều tuần trước cuộc gặp mặt tay đôi giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại hội nghị thượng đỉnh G20 ở Argentina, Đại sứ Thôi Thiên Khải nói mối quan hệ Mỹ-Trung, sắp kỷ niệm 40 năm vào tháng 1 năm 2019, đã có những bước tiến lớn, tuy nhiên cũng có những bước thụt lùi".
"Có vẻ như sự cạnh tranh và đối đầu đã trở nên phổ biến trong con đường phía trước chúng ta", ông Thôi nói giữa lúc Mỹ và Trung Quốc tiếp tục trả đũa nhau bằng cách áp thuế lên hàng nhập khẩu trị giá hàng trăm tỷ đô la trong một cuộc chiến tranh thương mại.
"Trong khi quan hệ hai nước đang xuống thấp, thì người dân của chúng ta luôn luôn mạnh mẽ ủng hộ cho sự gắn kết và tình hữu nghị, và đảo ngược xu hướng trong các mối quan hệ Trung-Mỹ", ông Thôi nói trong một sự kiện tại Phòng Thương mại Trung Quốc-Mỹ tại Washington, một tổ chức phi lợi nhuận đại diện cho các doanh nghiệp Trung Quốc tại Hoa Kỳ.
Trong một bài phát biểu không đề cập trực tiếp đến Tổng thống Trump hay chính phủ của ông, ông Thôi bày tỏ tự tin vào tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, thay vì các đôi co về chính trị, sẽ đưa các mối quan hệ Mỹ-Trung tiến lên phía trước.
"Người dân bình thường nhưng vĩ đại của Trung Quốc và Hoa Kỳ đang đóng góp phần của họ là thể hiện thiện chí, sự khôn ngoan và tính hào hiệp của họ, để lót đường cho các mối quan hệ song phương của chúng ta".
Theo nghiên cứu của Pew, trung tâm nghiên cứu những thay đổi về thái độ trên toàn thế giới, gần phân nửa người Mỹ có quan điểm tiêu cực đối với Trung Quốc trong năm 2017. Theo số liệu năm ngoái, cũng là số liệu mới nhất, 44% số người Trung Quốc được thẩm vấn nói họ có quan điểm tiêu cực về Mỹ.
Đại sứ Trung Quốc nói, trong năm qua "chúng tôi đã nghe tới nhàm chán những lời đe dọa chiến tranh thương mại, những phát biểu khẳng định sự cạnh tranh chiến lược giữa hai nước, những vụ giương oai diễu võ ở Biển Đông, và thậm chí những cáo buộc vô căn cứ chống lại sinh viên và học giả Trung Quốc".
Đại sứ Thôi không đề cập cụ thể tới tình trạng giằng co thương mại hiện tại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Hôm 29/10, ông Trump tái khẳng định Trung Quốc "chưa sẵn sàng" để đạt một thỏa thuận nhằm chấm dứt vụ tranh chấp tốn kém này.
Trong khi Tổng thống Trump và chính quyền của ông tung ra những lập luận chống Trung Quốc trong những tuần gần đây, kể cả tố cáo nước này can thiệp vào bầu cử Mỹ và đánh cắp thông tin công nghệ nhắm vào các doanh nghiệp Mỹ dưới sự chỉ đạo của chính quyền Trung Quốc, ông Thôi lại đóng vai trò hiếm thấy là công khai bênh vực các chính sách của chính phủ Trung Quốc và tung ra những lời chỉ trích trực tiếp vào hướng tiếp cận của Mỹ đối với mối quan hệ song phương.
Ông Thôi từng là đại diện của Trung Quốc tại Hoa Kỳ từ năm 2013, nói với NPR của Mỹ hồi đầu tháng này rằng một giải pháp để giải quyết cuộc chiến thương mại đang bị cản trở bởi lập trường bất nhất, luôn thay đổi của các nhà thương thuyết Mỹ.
"Chúng tôi không thực sự biết Mỹ muốn nhắm vào những ưu tiên nào", ông Thôi nói với đài NPR, ông nói thêm rằng trong một số trường hợp, các thỏa thuận sơ khởi giữa hai bên qua đêm lại bị lật ngược. "Hành vi đó rất khó hiểu, và khiến mọi việc trở nên rất khó khăn".
Ông Thôi lặp lại những nhận định đó trong một cuộc phỏng vấn với Fox News sau đó. Ông nói ông không biết ông Trump đang lắng nghe những tiếng nói bảo thủ hay những tiếng nói ôn hòa khi đàm phán với Trung Quốc.
Thật vậy, các thông điệp bất nhất như thế được lặp đi lặp lại trong cách tiếp cận của chính quyền Tổng thống Trump đối với Trung Quốc trong cuộc chiến thương mại, từ Tổng thống Trump, người đã nhiều lần đưa ra những phát biểu gây nản lòng về triển vọng giải quyết bất đồng thông qua đối thoại, kể cả gồm các cuộc đàm phán được đề xuất theo lời mời của Bộ Tài chính Hoa Kỳ.
Ông Trump nhiều lần đe dọa sẽ áp thuế nặng lên toàn bộ hàng hóa Trung Quốc nhập vào Mỹ nếu Bắc Kinh trả đũa các biện pháp mới nhất của Washington, là đánh thuế trên hàng hóa Trung Quốc trị giá 200 tỷ USD. Bắc Kinh đã trả đũa theo trông đợi, nhưng chính quyền Mỹ chưa thực hiện những lời đe dọa của tổng thống Trump.
Những lời đe dọa đó lại nổi lên trong tuần này khi ba nguồn tin giấu tên được Bloomberg trích dẫn xác nhận chính quyền Tổng thống Trump sẽ áp thuế lên hàng hóa Trung Quốc nhập vào Mỹ trị giá 260 tỷ USD, nếu các cuộc đàm phán sắp tới giữa lãnh đạo hai nước không đạt kết quả.
Một nguồn tin ngoại giao cấp cao Trung Quốc cho biết hôm 30/10 rằng hai nhà lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc đã "đồng ý gặp nhau" bên lề hội nghị G20 ở Buenos Aires, nhưng nguồn tin này không cho biết chi tiết về chương trình nghị sự của cuộc gặp gỡ đó.
******************
Úc cảnh báo về căng thẳng Mỹ-Trung (RFI, 01/11/2018)
Thủ tướng Úc Scott Morrison hôm nay 01/11/2018 cảnh báo, sự trỗi dậy của Trung Quốc và "ảnh hưởng chưa từng thấy từ trước đến nay" của Bắc Kinh tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương sẽ thách thức lợi ích của Mỹ ; tuy nhiên Hoa Kỳ và Trung Quốc không nên đối đầu. Ông Morrison cũng loan báo việc phát triển một quân cảng tại Papua New Guinea, để đối phó với Bắc Kinh ở Nam Thái Bình Dương.
Tân thủ tướng Úc Scott Morrison trả lời họp báo hôm 24/8/2018 ở Canberra. Reuters/David Gray
Trong bài diễn văn quan trọng đầu tiên về chính sách đối ngoại đọc tại Sydney, thủ tướng Úc nhận định Trung Quốc đang có ảnh hưởng lớn nhất từ trước đến nay tại Ấn Độ - Thái Bình Dương. Theo ông, Trung Quốc là "quốc gia gây thay đổi nhiều nhất trong cán cân quyền lực, đôi khi thách thức các lợi ích lớn của Hoa Kỳ".
Thủ tướng Morrison cho rằng "trong thời gian sắp tới, cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ còn tăng lên. Tuy nhiên điều quan trọng là quan hệ Mỹ-Trung không nên trở thành đối đầu". Tuyên bố của thủ tướng Úc được đưa ra trong bối cảnh Washington và Bắc Kinh thi nhau ăn miếng trả miếng trong chiến tranh thương mại.
Nước Úc - thành viên của "Five Eyes" (liên minh tình báo gồm 5 quốc gia Úc, Canada, New Zealand, Anh và Mỹ) và có quan hệ quốc phòng chặt chẽ, lâu dài với Hoa Kỳ - bị lọt vào một trong những điểm nóng địa chính trị của thế kỷ 21. Một cuộc chiến thầm lặng đang diễn ra tại Nam Thái Bình Dương : Bắc Kinh và Washington đều tranh giành ảnh hưởng tại tuyến đường hàng hải quan trọng này.
Sau quyết định cấm các tập đoàn quốc doanh Trung Quốc khai thác mạng 5G trên đất Úc vì lý do an ninh quốc gia, thủ tướng Scott Morrison tìm cách xoa dịu khi tuyên bố quan hệ Úc – Trung Quốc là "đặc biệt quan trọng", nêu ra các trao đổi thương mại, du lịch và giáo dục giữa đôi bên đều tăng lên ở mức kỷ lục.
Tuy nhiên song song đó, thủ tướng Úc hôm nay cùng với đồng nhiệm Papua New Guinea loan báo việc cùng đầu tư nâng cấp quân cảng Lombrum ở đảo Manus. Thỏa thuận này giúp tăng cường khả năng tương tác với quân đội các nước láng giềng, và các chiến hạm Úc có thể qua lại thường xuyên hơn.
Hồi tháng Năm, người tiền nhiệm Malcolm Turnbull từng bày tỏ quan ngại trước việc Bắc Kinh đổ hàng tỉ đô la vào các đảo quốc tí hon ở Thái Bình Dương. Đặc biệt là nguy cơ Trung Quốc hiện diện quân sự thường trực tại đảo quốc Vanuatu, cựu thuộc địa của Anh-Pháp, với 280.000 dân.
Thụy My
*****************
Lo Mỹ trừng phạt, Nga ưu tiên ‘tiết kiệm’ trước ‘tăng trưởng’ (VOA, 01/11/2018)
Nga đang nỗ lực lấp đầy kho bạc nhà nước để có một khoản đệm lên tới 200 tỷ đôla chống các mối đe dọa như lệnh trừng phạt mới của Hoa Kỳ. Reuters dẫn lời các nhà phân tích nói đây là bước thận trọng, nhưng cái giá phải trả là hy sinh tăng trưởng kinh tế.
Tổng thống Nga Vladimir Putin.
Với giá dầu cao, Nga đang đều đặn trích doanh thu từ ngành xuất khẩu chính của mình để gầy dựng Quỹ Thịnh vượng Quốc gia (NWF). Nước này cũng tăng thuế đánh vào ngành công nghiệp dầu mỏ, tăng thuế giá trị gia tăng, và nâng cao tuổi được hưởng lương hưu, một động thái được xem là gây tổn hại cho mức ủng hộ dành cho Tổng thống Vladimir Putin.
Bộ Tài chính cho rằng những thay đổi này sẽ giúp tăng quy mô Quỹ Thịnh vượng Quốc gia lên gần gấp bốn lần, đến 14,2 nghìn tỷ rúp (216,1 tỷ đôla), tương đương với 12% GDP vào năm 2021. Con số này gần với mức 16,9% GDP mà chính phủ Nga dự định chi tiêu trong năm 2021.
Reuters cho biết theo "nguyên tắc tài chính", bất kỳ khoản lợi nhuận nào do giá dầu tăng cao hơn 40 đôla/thùng đều được đưa vào Quỹ NWF, là một phần của kho dự trữ ngoại hối và vàng của Nga, do ngân hàng trung ương nắm giữ.
Các nhà phân tích nói chiến lược tiết kiệm đó, được đặt ra trong kế hoạch ngân sách năm 2019-2021, là cực kỳ thận trọng.
Nhưng họ cũng cảnh báo rằng khi ưu tiên ổn định hơn thay vì phát triển, Nga sẽ không đạt được mục tiêu do ông Putin đặt ra là gia nhập nhóm 5 nền kinh tế hàng đầu thế giới vào năm 2024. Sự chọn lựa này cũng thể hiện sự lo lắng của Điện Kremlin về các biện pháp trừng phạt trong thời gian tới.
"Điều này tốt cho ngân sách và từ quan điểm ổn định tài chính, nhưng xấu từ quan điểm phát triển kinh tế", Reuters dẫn lời ông Vladimir Tikhomirov, kinh tế gia trưởng tại BCS cho biết.
Chính phủ Nga cho biết họ có kế hoạch vay tiền để tài trợ cho các dự án phát triển thay vì trích tiền ra từ quỹ NWF, điều này cho thấy tiền đầu tư sẽ rất hạn chế.
Đây là một chính sách thắt lưng buộc bụng khắc nghiệt, nhà kinh tế Alexandra Suslina của nhóm Chuyên gia Kinh tế Nga cho biết. "Không có du di gì ở đây, và không có cảm giác là tương lai tươi sáng đang chờ đợi chúng ta, ngoại trừ trong dự báo kinh tế vĩ mô".
Các quan chức Nga trong thời gian qua vẫn tuyên bố công khai về mong muốn tích trữ tiền mặt trong trường hợp nền kinh tế bị sốc do tác động từ bên ngoài như các biện pháp chế tài, hoặc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Hoa Kỳ sẽ sớm quyết định liệu có áp đặt một đợt cấm vận thứ nhì vì vụ đầu độc điệp viên Nga Sergei Skripal và con gái ông ở Anh, một tội ác mà Nga phủ nhận.
Ngoài ra, các nhà lập pháp Mỹ còn đang đưa ra một dự luật đặt tên là "dự luật từ địa ngục", mà nếu được thực thi, sẽ trừng phạt Moscow gắt gao hơn nữa về những cáo buộc rằng Nga đã can thiệp vào các vấn đề chính trị tại Hoa Kỳ, và các hoạt động của Mỹ ở Syria và Ukraine.
*******************
Chế tài của Mỹ và EU lên Nga ảnh hưởng đến các dự án năng lượng Việt-Nga (VOA 31/10/2018)
Lên tiếng trong cuộc họp Ủy ban liên chính phủ Việt-Nga tại Moscow hôm 29/10, Phó Thủ tướng Việt Nam Trịnh Đình Dũng nói các lệnh trừng phạt mà Mỹ và Châu Âu áp đặt lên Nga đang cản trở các dự án chung giữa hai nước trong lĩnh vực năng lượng, theo hãng thông tấn Nga TASS.
Nhân viên công ty Rosneft chi nhánh Việt Nam làm việc ở mỏ Lan Tây trên Biển Đông.
Phát biểu của Phó Thủ tướng Việt Nam được đưa ra chỉ vài ngày sau khi các quan chức dầu khí Việt Nam lên tiếng cảnh báo sản lượng khai thác dầu của Việt Nam sẽ giảm đều đặn 10% mỗi năm, tương đương với hơn 2 triệu tấn.
"Chúng tôi muốn lưu ý rằng các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ và các nước phương Tây đối với Nga gây ra những khó khăn lớn cho chúng tôi, cản trở việc thực hiện các dự án năng lượng", TASS dẫn lời ông Dũng nói trong cuộc họp liên chính phủ về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học-kỹ thuật.
Theo bản tin của hãng thông tấn Nga, Phó Thủ tướng Việt Nam không cho biết chi tiết những tác động của chế tài trên Nga lên các dự án khai thác chung, hoặc những dự án cụ thể nào bị ảnh hưởng. Nhưng theo nhận định của một chuyên gia nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, những dự án năng lượng chung có thể bị ảnh hưởng là các dự án nằm trong lãnh thổ của Nga.
Ông nói với VOA : "Việt Nam có mua một số mỏ dầu và có liên doanh với một số công ty dầu của Nga khai thác trên đất của Nga và các khu vực thuộc Nga thì cái đấy bắt đầu gặp khó khăn".
Tạp chí Năng Lượng Việt Nam hôm 29/10 cho biết Liên doanh Rusvietpetro của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Công ty Dầu khí Zarubezhneft, một trong những dự án năng lượng nổi bật giữa Việt Nam và Nga, được đánh giá là liên doanh hiệu quả nhất của PVN ở nước ngoài.
Rusvietpetro có sản lượng khai thác đạt gần 16 triệu tấn dầu sau 8 năm hoạt động, đạt doanh thu lũy kế ước tính 7 tỷ đôla. Các mỏ mà liên doanh này đang khai thác đóng góp 15% sản lượng hàng năm của PVN và "đóng góp nhiều cho ngân sách nhà nước".
Tuy nhiên, ngoài Rusvietpetro, các liên doanh khác của Việt Nam ở Nga đều hoạt động không hiệu quả.
Đề nghị giải pháp cho vấn đề này, bản tin của tạp chí thuộc Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nói các cấp lãnh đạo Trung ương và Chính phủ Việt Nam nên xem các liên doanh này là "những hoạt động kinh tế đơn thuần" mà thôi.
"Đảng và Chính phủ nên tôn trọng quyền tài phán của PSC (Hợp đồng chia sản phẩm) và Luật Dầu khí nước sở tại, cũng như trọng tài quốc tế giám sát", tờ tạp chí được Thủ tướng Việt Nam giao nhiệm vụ "phản biện" nói.
Theo tạp chí này, việc Đảng, Chính phủ "không can thiệp sâu" vào hoạt động điều hành, kinh doanh sẽ "giảm thiểu những tác động gây chồng lấn về quản lý nhà nước" và "giúp các lãnh đạo PVN tự tin hơn khi thực thi nhiệm vụ theo nguyên tắc kinh tế thị trường".
Thông tin về những "quan ngại" của Phó Thủ tướng trong lĩnh vực vực hợp tác khai thác dầu khí được đưa ra giữa lúc các quan chức cảnh báo sản lượng khai thác dầu của Việt Nam đang sụt giảm đến mức "đáng ngại", ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của ngành dầu khí.
Báo cáo của các lãnh đạo PVN vào tuần trước cho biết sản lượng khai thác quy dầu của PVN là 25 triệu tấn vào năm ngoái, nhưng tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng chỉ được 4 triệu tấn. Nếu tình trạng mất cân đối này tiếp diễn, thì chỉ vài năm nữa, sản lượng khai thác dầu khí của toàn ngành sẽ chỉ còn khoảng 1/3 sản lượng hiện nay.
Trước tình trạng nguồn dầu khí tự nhiên của Việt Nam bị thu hẹp, Giáo sư Ngô Vĩnh Long của Đại học Maine, Hoa Kỳ, nhắc lại với VOA lời cảnh báo mà ông từng đưa ra trước đây.
Ông nói : "Phát triển đất nước mà dựa vào [khai thác] dầu thì rất nguy hiểm. Bởi vì khi hết dầu rồi, mà chính phủ lại không đủ tiền cho ngân sách, thì lúc đó chính phủ sẽ tìm mọi cớ để lấy thuế của dân".
Hiện Quốc hội Mỹ đang xem xét hai gói trừng phạt chống lại Nga. Trong trường hợp phát hiện được những nỗ lực can thiệp của Nga vào bầu cử tại Hoa Kỳ, Nhà Trắng tuyên bố sẽ chặn các nguồn lực của các ngân hàng lớn của Nga như Sberbank, VTB và Vnesheconombank, và các công ty năng lượng, trong đó có Gazprom, Rosneft và Lukoil.
Gazprom và Rosneft đều đang có các dự án liên doanh khai thác dầu khí với Việt Nam, trong khi Lukoil đã rút khỏi hợp đồng khai thác dầu khí với Việt Nam vào năm 2014.
Theo tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, các biện pháp trừng phạt lên Nga cũng có thể gây cản trở cho Việt Nam trong việc chuyển tiền giữa Nga và Việt Nam, vì hiện Việt Nam vẫn phải thông qua một nước thứ ba để chuyển tiền sang Nga và ngược lại.
Khánh An
Kết quả bầu cử Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 11 năm 2016 đã gây sốc không những cho người Mỹ mà toàn thế giới. Không lâu sau đó, giới lãnh đạo chính trị Úc nhìn thấy nhu cầu cấp bách trong việc hoạch định lại chính sách ngoại giao, dưới thời Trump và xa hơn. Từ tháng 12 năm 2016 đến tháng 5 năm 2017, Đặc vụ Bạch thư Chính sách Ngoại giao Úc đã tổ chức được 24 thảo luận bàn tròn trên khắp nước Úc, gặp mặt trao đổi với hơn 60 chuyên gia hàng đầu của Úc về chuyên đề này, và nhận hơn chín ngàn hai trăm đệ trình [1].
Sự thách thức của Trump cho nền trật tự cấp tiến là rất nguy hiểm vì nó coi thường các quy tắc và giá trị của nền dân chủ cấp tiến
Đặc vụ này cũng đã tiếp xúc với đủ mọi thành phần trong xã hội Úc, từ sinh viên, nông gia, lãnh đạo doanh nghiệp, giới khoa bảng cho đến đại diện của bao nhiêu tổ chức xã hội dân sự trên khắp Úc để tìm hiểu nguyện vọng và quan điểm của họ. Tháng 3 năm 2017, Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc (DFAT) triệu tập tất cả các đại sứ, ủy viên cao cấp và tổng lãnh sự từ khắp nơi trên thế giới về thủ đô Canberra để bàn về các mục tiêu ngoại giao, thương mại và chính sách phát triển trong bối cảnh chính trị toàn cầu bất định hiện nay [2].
Giới lãnh đạo chính trị Úc nhận định rất rõ tầm quan trọng của việc hoạch định một chiến lược ngoại giao có tầm nhìn năm đến mười năm để giúp lèo lái quốc gia trong bối cảnh chính trị mới. Đó là sức mạnh của Hoa Kỳ đã gia giảm mà lãnh đạo hiện nay lại có vẻ không muốn tiếp tục nhiệm vụ của mình, trong khi sự trổi dậy của Trung Quốc tuy góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của Úc trong những thập niên qua nhưng đã gia tăng những quan ngại về an ninh quốc phòng và xâm nhập tình báo mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc rõ ràng đứng phía sau.
Một năm sau, với bao nhiêu tham khảo và tranh luận sôi nổi và bao nỗ lực lớn lao trong việc vận dụng trí tuệ và chuyên môn hàng đầu của quốc dân, đứng đầu là Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc DFAT, chính quyền Úc đã công bố Bạch thư này vào ngày 23 tháng 11 năm 2017 [3]. Trong Bạch thư này, Úc ghi nhận là không riêng gì Úc mà hầu như toàn cầu đang ở trong giai đoạn thử thách đối với những luật lệ và nguyên tắc mà trước nay đã là nền tảng vững chắc cho sự hợp tác quốc tế. Xu hướng chống lại toàn cầu hóa, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, sự thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu, và sự cạnh tranh địa chính trị đang trắc nghiệm trật tự quốc tế. Úc ghi nhận sau Thế Chiến II, nền an ninh và thịnh vượng của Úc đã được trợ giúp bởi lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ, nền kinh tế toàn cầu ngày càng rộng mở và sự phát triển của các định chế và luật lệ quốc tế. Các nguyên tắc như thị trường mở, tầm quan trọng của luật lệ và quy tắc để hướng dẫn sự hợp tác quốc tế, sự công khai ghi nhận các quyền và tự do phổ quát, và nhu cầu để các nhà nước phối hợp chặt chẽ với nhau đối với các thử thách toàn cầu, đã giúp cho Úc đạt được các quyền lợi và giá trị của mình. Đặc biệt Úc ghi nhận tầm quan trọng của vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ để bảo đảm nền an ninh toàn cầu, kể cả xuyên qua các mạng lưới đồng minh của Hoa Kỳ và sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Á châu và Âu châu.
Nói tóm lại, Úc đề cao giá trị của trật tự quốc tế do Hoa Kỳ hình thành và lãnh đạo, cho Úc cũng như sự thịnh vượng toàn cầu, kể từ hậu Thế Chiến II đến nay.
Vài hàng về chữ nghĩa
Trước khi đi vào chi tiết, tôi xin dành vài hàng để nói về chữ nghĩa. Tiếng Anh, chữ liberty có nghĩa là tự do. Theo tự điển Oxford thì liberty là trạng thái được tự do trong xã hội từ các ràng buộc mang tính cưỡng chế áp đặt bởi uy quyền (hay chính quyền) lên cách hành xử hay quan điểm chính trị của một người. Chữ Liberal thì nhiều người Việt dịch là tự do, như Liberal Party là Đảng Tự do, là không chính xác. Liberal, cũng theo tự điển Oxford, có nghĩa là sẵn sàng tôn trọng hoặc chấp nhận cách hành xử hoặc ý kiến khác với cái của mình ; cởi mở với các ý tưởng mới ; tôn trọng các quyền và tự do cá nhân v.v… Nói cách khác, liberal nên hiểu là phóng khoáng hay cấp tiến. Liberalism (hay liberals, tức những người theo chủ nghĩa này), là một triết học chính trị ảnh hưởng nhất đối với Tây phương, điển hình là các triết gia Rene Descartes từ thế kỷ 17, John Locke thế kỷ 17/18, John Stuart Mill thế kỷ 19 và John Rawls thế kỷ 20. Chủ nghĩa này cũng có bao nhiêu nhánh khác nhau, nhưng tựu chung đề cao hai giá trị chính : tự do (liberty) và bình đẳng (equality). Phần lớn những người theo xu hướng này đề cao giá trị tự do hơn bình đẳng. Ngoài ra, xu hướng này đề cao sự tiến bộ không ngừng của xã hội, đặt nặng vai trò của lý luận và của khoa học kỹ thuật. Do đó chủ nghĩa/người cấp tiến là thích hợp nhất cho liberalism/liberal.
Trở lại Bạch thư này, cụm từ trật tự quốc tế dựa trên quy luật (rules-based international order), trật tự quốc tế (international order), hay trật tự dựa trên quy luật (rules-based order) được sử dụng nhiều lần. Trước, trong và sau khi Bạch thư này được công bố, các chuyên gia và các nhà khoa bảng cũng tranh luận rất nhiều về các chữ nghĩa hay định nghĩa này. Một tên khác phổ biến hơn từ nhiều thập niên qua là trật tự quốc tế cấp tiến (liberal international order) nhưng cuối cùng Bạch thư chọn rules-based international order có lẽ vì hai lý do chính. Một, để trung hòa hơn, vì chính quyền hiện nay là thuộc liên Đảng Cấp tiến (Liberal Party) và Đảng Quốc gia (National Party) trong khi đây là chính sách cho toàn quốc gia. Hai, để đề cao yếu tố quy luật trong trật tự này. Hoa Kỳ, phần lớn, tôn trọng luật quốc tế và hành xử đúng mực, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Khi cần Hoa Kỳ vẫn cho mình là ngoại lệ hoặc/và ngoại hạng. Với cung cách hành xử của Trump cùng với những thách thức lớn lao lên nền trật tự hiện nay, đặc biệt từ Trung Quốc tại Biển Đông và mộng bá quyền của họ, các nhà chính trị và ngoại giao Úc vì thế mà quyết định cần phải nhấn mạnh đến trật tự quốc tế dựa trên quy luật.
Trật tự qua lăng kính của chủ nghĩa cấp tiến
Tại Hoa Kỳ, tức cái nôi của trật tự này, cuộc tranh luận về nguồn gốc, động cơ và tiến trình của trật tự này cũng tốn bao nhiêu bút mực và giấy in. Gần đây nhất là các bài viết trên các số mới nhất của tạp chí Foreign Affairs, tạp chí hàng đầu của Hoa Kỳ về các vấn đề ngoại giao. Cụm từ liberal international order được sử dụng nhiều nhất, nhưng thỉnh thoảng các chữ trật tự thế giới hay trật tự toàn cầu (world order or global order) cũng được dùng.
Liền sau khi Trump thắng cử cuối năm 2016, nhà khoa học chính trị nổi tiếng Joseph S. Nye Jr, tác giả của "quyền lực mềm", đã bày tỏ quan ngại đối với tương lai của trật tự [4]. Theo Nye thì trật tự quốc tế cấp tiến xuất hiện sau năm 1945 là sự bố trí lỏng lẻo của các định chế đa phương trong đó Hoa Kỳ cung cấp các mặt hàng công cộng toàn cầu như chế độ thương mại tự do hơn và tự do của biển cả, và các quốc gia yếu hơn được sự bảo vệ từ sức mạnh của Hoa Kỳ.
Theo Nye thì Hoa Kỳ đã cho Anh vây khoản tiền lớn, ủng hộ các chính phủ tại Hy Lạp và Thổ Nhỉ Kỳ theo xu hướng Tây phương năm 1947, đầu tư rất lớn vào việc tái kiến thiết Âu Châu qua Kế hoạch Marshall năm 1948, lãnh đạo liên minh bảo vệ sự xâm chiếm Nam Hàn năm 1950, và ký hiệp định an ninh mới với Nhật năm 1960. Các hành động này cũng như những việc khác đã tăng cường sức mạnh của trật tự và kiềm chế quyền lực của Sô Viết. Tuy ghi nhận nhiều vấn đề và giới hạn của nó, Nye biện luận rằng sự thành công quá rõ của trật tự này trong việc bảo đảm và ổn định thế giới trong hơn bảy thập niên qua đã đưa đến sự đồng thuận mạnh mẽ rằng bảo vệ, tăng cường và mở rộng hệ thống này là nhiệm vụ trọng yếu của chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Nye kết luận rằng người Mỹ và dân tộc khác có thể không để ý đến an ninh và thịnh vượng mà trật tự này đã cung cấp cho đến khi không còn nữa, và tới lúc đó thì đã quá trễ.
Một trong các học giả hàng đầu về chủ nghĩa cấp tiến quốc tế hiện nay là G. John Ikenberry, giáo sư chính trị và bang giao quốc tế tại Đại học Princeton có cùng quan điểm này. Ikenberry biện luận rằng nếu Trump thực hiện các lời hứa bầu cử của mình về thương mại, liên minh, luật quốc tế, đa phương, bảo vệ môi trường, tra tấn và vấn đề nhân quyền, thì nó sẽ kết thúc vai trò của Hoa Kỳ như là người bảo đảm cho trật tự thế giới cấp tiến (liberal world order) [5]. Khi Trump tuyên bố "Kể từ nay trở đi, Hoa Kỳ sẽ là trên hết", thì Trump đã đặt vấn đề với những thành tựu mang lại do nền trật tự Hoa Kỳ thiết lập trước đây. Đối với người cấp tiến, bảy thập niên qua tuy không hoàn hảo nhưng Hoa Kỳ cũng như trật tự này đã đem lại những thành tựu lớn lao. Ikenberry nhận định trong suốt thời gian này Hoa Kỳ đã vận dụng được quyền lực nhất trên sân khấu chính trị, vậy mà Trump lại cho đây là thời đại mà quốc gia mất mát và suy sụp. Sự thách thức của Trump cho nền trật tự cấp tiến là rất nguy hiểm vì nó coi thường các quy tắc và giá trị của nền dân chủ cấp tiến. Tổng thống lại đi đặt vấn đề về tính chính đáng của các thẩm phán liên bang, tấn công vào truyền thông, và không tỏ vẻ tôn trọng Hiến pháp hay nền pháp trị. Các sự thật, bằng chứng, kiến thức khoa học, sự cần mẫn và cẩn trọng trong công việc, đàm thoại lý luận – các yếu tố cần thiết trong đời sống chính trị dân chủ - bị phỉ báng hàng ngày. Do đó Ikenberry nhận định từ xưa đến nay, trật tự được thiết kế bởi các cường quốc đến rồi đi, nhưng họ thường kết thúc bằng bị ám sát, không phải bằng tự sát. Thế mà Hoa Kỳ, một cường quốc hàng đầu thế giới, lại bắt đầu tự phá hủy lấy trật tự mình xây dựng nên !
Năm sau, cũng trên tạp chí Foreign Affairs, số mới nhất tháng Bảy/Tám, Ikenberry tỏ vẻ lạc quan hơn về sự tồn tại của trật tự này. Có lẽ một phần là do sự thay đổi đáng kể trong thái độ và chính sách mà chính phủ Trump đã thực hiện trong gần một năm qua. Cùng viết với Daniel Deudney, hai vị giáo sư này nhận định rằng rằng Trung Quốc và Nga đã làm tiêu tan mọi hy vọng chuyển hóa sang dân chủ, trong khi Hoa Kỳ và Anh, hai nước bảo hộ của trật tự quốc tế cấp tiến, lại tự chọn thái độ tự hủy [6]. Tuy nhiên hai ông tin rằng chủ nghĩa cấp tiến (liberalism) trong đó nền dân chủ cấp tiến (liberal democracy) như là một hệ thống chính quyền, và nền trật tự cấp tiến (liberal order) như là một khung sườn định hình chính trị quốc tế, sẽ tiếp tục ngự trị. Lý do, theo hai ông, vì tính cách tương thuộc (interdependence). Khi sự tương thuộc về kinh tế, an ninh và môi trường càng gia tăng, thì người dân và chính phủ khắp nơi sẽ phải làm việc với nhau để giải quyết vấn đề, nếu không sẽ bị tổn hại nghiêm trọng trên bình diện toàn cầu.
Trung Quốc và Nga đã làm tiêu tan mọi hy vọng chuyển hóa sang dân chủ, trong khi Hoa Kỳ và Anh, hai nước bảo hộ của trật tự quốc tế cấp tiến, lại tự chọn thái độ tự hủy
Hai giáo sư nhận định sau Thế Chiến II, các nền dân chủ cấp tiến đã hợp tác để tạo ra một trật tự mà phản ảnh quyền lợi chung của họ. Sau hơn bảy thập niên, mặt dầu có những điểm bất toàn của nó, nó đã bám rễ quá sâu, trong đó hàng trăm triệu người, nếu không phải là tỷ người, đã có những hoạt động và mong đợi nhắm vào các định chế và khuyến khích của trật tự này, cho nên không dễ gì thay đổi nó. Nếu nghĩ rằng một vài năm theo xu hướng mị dân mà quốc gia sẽ đột ngột thay đổi chủ nghĩa cấp tiến là điều không tưởng. Các xã hội tư bản dân chủ cấp tiến đã phát đạt và mở mang vì nó rất giỏi trong việc kích thích và vận dụng sáng tạo nhưng đồng thời giải quyết các ảnh hưởng quá đà của chính nó hay các yếu tố tiêu cực ngoại cuộc.
Các tranh luận về trật tự
Tuy áp đảo, biện luận này đã bị phê bình từ nhiều học giả và khuynh hướng khác nhau. Phản biện lại cái nhìn của Ikenberry là giáo sư chính trị học Graham Allison, người đã đặt tên "bẫy Thucydides" [7]. Allison biện luận rằng xu hướng đang ngự trị hiện nay (tức cấp tiến) đưa ra ba luận điểm chính [8]. Một, trật tự cấp tiến đã là nguyên nhân chính của nền hòa bình lâu dài giữa các cường quốc trong bảy thập niên qua. Hai, thiết kế nền trật tự này là động lực chính của khế ước Hoa Kỳ đối với thế giới trong giai đoạn đó. Ba, tổng thống Hoa Kỳ hiện nay Donald Trump là mối đe dọa chính của nền trật tự này, và qua đó nền hòa bình thế giới.
Allison phê bình các luận điểm của Ikenberry, Nye và luôn cả lời kêu gọi của cựu phó tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden trong những ngày cuối của chính quyền Obama "hãy hành động khẩn cấp để bảo vệ nền trật tự quốc tế cấp tiến". Allison cho rằng tuy tất cả các mệnh đề trên đều chứa đựng một số tự thật, mỗi cái có nhiều phần sai hơn đúng. Nền hòa bình lâu dài không phải là kết quả của trật tự cấp tiến mà là phó sản của sự cân bằng quyền lực nguy hiểm giữa Sô Viết và Hoa Kỳ trong bốn thập niên rưỡi của Chiến tranh Lạnh, rồi một giai đoạn ngắn thống trị của Hoa Kỳ. Khế ước Hoa Kỳ đối với thế giới không được định hình bởi lòng ham muốn được phát huy chủ nghĩa cấp tiến ở ngoài nước hoặc để xây dựng một trật tự quốc tế mà là nhu cầu phải làm những gì cần thiết để duy trì nền dân chủ cấp tiến ở trong nước. Và mặc dầu Trump đang phá hoại các yếu tố căn bản của nền trật tự hiện tại, ông không hề là mối đe dọa lớn nhất đối với nền ổn định toàn cầu.
Tóm lại, Allison biện luận thay vì đi tìm trở lại một quá khứ tưởng tượng cho rằng Hoa Kỳ đã uốn nắn hình thành thế giới như thế trong sự hình dung của mình, Hoa Thịnh Đốn nên giới hạn các nỗ lực của mình để bảo đảm một trật tự bên ngoài vừa đủ để tập trung vào việc tái xây dựng nền dân chủ cấp tiến sống động hơn tại nước mình.
Allison phân tích các lập luận của mình như sau. Trước hết sự thiết kế của Liên Hiệp Quốc cũng đã có vài vấn đề không bình đẳng hay công bằng. Chẳng hạn như Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc được năm cường quốc (Anh, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga và Pháp) có ghế ngồi thường trực và có quyền phủ quyết, do đó cho họ cái quyền ngoại lệ, khi nào phù hợp với mục đích của mình thì ủng hộ, nói chung là tuỳ tiện. Còn việc hình thành các định chế quốc tế khác và cả NATO chủ yếu là để kiềm chế và ngăn chặn Liên Sô. Allison cũng phê bình các chính sách đơn phương của Hoa Kỳ sử dụng vũ lực để tấn công các quốc gia khác, từ việc ném bom Belgrade, Serbia đến xâm chiếm Iraq và Afghanistan v.v…
Allison nhận định trong các đe dọa mang tính cách sinh tử đối với nền trật tự toàn cầu, Trump là một nhưng không phải là cái hệ trọng nhất. Hành động Trump rút ra khỏi các nỗ lực mà các chính quyền trước tìm cách hạn chế khí thải nhà kính hay cổ võ thương mại gây nhiều lo lắng, và sự hiểu lầm của Trump về sức mạnh cần phải có sự đoàn kết với đồng minh, thì thật quấy rối. Nhưng sự trổi dậy của Trung Quốc, sự hồi phục của Nga, và sự suy thoái quyền lực toàn cầu của Hoa Kỳ, đã là những thử thách lớn hơn Trump nhiều. Allison kể rằng trong chuyến đi sang Trung Quốc gần đây, một trong các viên chức cao cấp trong chính quyền đã đặt câu hỏi thật khó trả lời cho ông. Đó là phần lớn giới ưu tú Hoa Kỳ nhận định tính cách và kinh nghiệm của Trump không thích hợp để làm lãnh đạo của một quốc gia vĩ đại. Vậy thì đổ lỗi cho ai ? Trump, cơ hội chủ nghĩa giành lấy thắng lợi, hay hệ thống chính trị đã cho phép ông đạt được điều đó ?
Trước thời Trump, giai cấp chính trị đã mang lại các cuộc chiến chưa chấm dứt và không thành công như ở Afghanistan, Iraq và Libya, cộng với sự khủng hoảng tài chánh và đại suy thoái, đã làm mất uy tín của chính mình. Những thảm hoạ này đã làm suy yếu sự tự tin trong nền tự trị cấp tiến hơn những gì Trump có thể gây nên. Thử thách quan trọng nhất đối với những người Mỹ tin vào nền quản trị dân chủ là việc tái xây dựng nền dân chủ hữu hiệu ngay tại nước mình. Allision cho rằng để làm được điều đó, Hoa Kỳ không cần phải cải hóa người Trung Quốc, người Nga hay bất cứ một ai khác sang niềm tin của người Mỹ về giá trị tự do. Và nó cũng không nhất thiết phải thay đổi các chế độ khác trở thành dân chủ. Allison trích phần phát biểu của cố tổng thống John F Kennedy năm 1963 rằng chỉ cần làm sao duy trì nền trật tự thế giới "an toàn cho đa nguyên", tức bao gồm các quốc gia dân chủ lẫn phi dân chủ, là cũng đủ rồi.
Những người theo chủ nghĩa hiện thực (realism) cũng mạnh mẽ phản biện quan điểm của xu hướng cấp tiến về trật tự này. Giáo sư lịch sử và bang giao quốc tế Stephen Kotkin không nhìn nhận những định chế đa phương và các tiến trình của hệ thống hậu chiến là "trật tự quốc tế cấp tiến", cái mà ông cho là cái nhìn ảo huyền của một số người, thật ra nó là cơ chế để tổ chức và phát triển vòng ảnh hưởng lớn lao của Hoa Kỳ [9]. Nhưng không giống như các nước Âu châu và Nhật Bản, Hoa Kỳ dành rất ít thời gian để áp đặt nền cai trị thuộc địa trực tiếp đối với các nước khác từ cuối thế kỷ 19 đến thế kỷ 20. Thay vào đó, Hoa Kỳ chọn phát huy quyền lợi của mình với các đồng minh tự nguyện, các định chế đa phương và tự do thương mại. Sự lựa chọn đó đến từ ý thức tư lợi (enlightened self-interest) hơn là lòng vị tha, và được yểm trợ bởi sức mạnh quân sự áp đảo.
Trong cuộc thảo luận bàn tròn với các chuyên gia trong ngành khoa học chính trị tại Hoa Kỳ, giáo sư chính trị học thuộc ngành bang giao quốc tế tại Đại học Harvard Stephen Walt, một blogger nổi tiếng trên tạp chí Foreign Policy, cũng phê bình quan điểm của giáo sư Ikenberry, về tác phẩm Liberal Leviathan của ông [10]. Các luận điểm chính của Walt là như sau. Một, mặc dầu hệ thống trật tự này có quy luật thật, cái mà các nhà cấp tiến gọi là dựa trên quy luật (rules-based), nhưng ông không thấy nó có nghĩa lý gì khi mà các cường quốc áp dụng một cách tuỳ tiện. Thay vào đó, người hiện thực thấy hệ thống này được định nghĩa chủ yếu bởi quyền lực và quyền lợi, mà phần lớn quyền lợi lại được định hình nặng nề bởi quyền lực. Các cường quốc sử dụng quy luật để tiến đạt quyền lợi của mình nhưng lại bỏ nó một bên nếu nó không phục vụ quyền lợi của mình. Hai, những điều nằm trong lý thuyết của cuốn sách của Ikenberry không mang tính tích cực hay giải thích, bởi quá nhiều cách mà các cường quốc (nhất là Hoa Kỳ) đi xa từ các biện luận chính của sách này. Thay vào đó, nó mang tính cách tiêu chuẩn hay quy định hơn, tức các nhà nước nên hành xử như thế nào để gặt hái nhiều lợi ích khác nhau. Tuy thế, Walt cũng cho rằng thật là mỉa mai vì phần lớn ông cũng đồng ý với các quy định cụ thể trong cuốn sách này, và thế giới sẽ trở nên tốt hơn nếu các nhà nước hành xử như Ikenberry đề nghị. Nói chung Walt, hay xu hướng hiện thực, phê bình Ikenberry hay xu hướng cấp tiến là họ quá lạc quan. Walt nhận định rằng trên thực tế giới làm chính sách Hoa Kỳ lắm khi nói cho xướng cái miệng về luật và quy định và quy tắc và đa phương, nhưng khi đụng phải chuyện, cái thường xảy ra, thì họ cứ làm theo cách riêng của họ thôi.
Giữa trường phái cấp tiến và với các nhà nghiên cứu sử học thì cũng có lắm bất đồng. Đó là cuộc tranh luận sôi nổi giữa học giả và người điều hợp chương trình trên kênh CNN Fareed Zakaria với nhà sử học nổi tiếng hiện nay Niall Ferguson trong loạt tranh luận có tên the Munk Debate Series. Ferguson thì cho rằng cái gọi là trật tự quốc tế cấp tiến thật ra không có trật tự, không phải quốc tế, và cũng chẳng cấp tiến chút nào [11]. Trong khi đó, theo Fareed Zakaria thì khoảng một năm sau biến cố Pearl Harbor, tổng thống Hoa Kỳ Frank Roosevelt gặp Thủ tướng Canada Mackenzie King (người nắm giữ chức vụ này lâu đời nhất tại Canada, trên 21 năm) tại văn phòng bầu dục. Lần gặp mặt này, tuy Hoa Kỳ chỉ mới chính thức tham chiến và viễn ảnh chiến tranh chấm dứt vẫn còn khá xa vời, Roosevelt hoàn toàn tin tưởng vào thế tất thắng của phe đồng minh. Nhưng điều Roosevelt quan tâm hơn là viễn ảnh tương lai : làm thế nào để xây dựng một thế giới hợp tác và cạnh tranh chứ không phải đối đầu và chiến tranh nữa. Nên nhớ lịch sử thế giới cho đến thời điểm đó phần lớn mang đậm nét chiến tranh, xung đột, đế quốc thực dân, chủ nghĩa thương mại bảo hộ/quốc gia và chế độ bóc lột.
Zakaria biện luận rằng Roosevelt không thể tiếp tục ủng hộ một thế giới trật tự như thế nữa. Viễn kiến của Roosevelt là : một, phải làm cho Trục Quyền (Axis powers, gồm Đức Ý Nhật) đầu hàng hoàn toàn vô điều kiện ; hai, phải yêu cầu Anh quốc và Pháp quốc không tái xây dựng đế quốc của họ khắp nơi như trước đây. Theo Roosevelt thì cần phải xây dựng một thế giới mà tự do và quyền tự quyết có tác dụng bao quát hơn ; ba, Roosevelt mong muốn một thế giới có tự do mậu dịch, thương mại, nhưng cũng cần dựa trên luật lệ rõ ràng và cơ cấu hẳn hoi để qua đó các bất đồng hay tranh chấp chính trị có thể được giải quyết một cách ôn hòa (như Liên Hiệp Quốc). Roosevelt không sống để nhìn thấy viễn kiến của ông được thực hiện ra sao sau Thế Chiến II, nhưng trong suốt thời gian tại vì, ông nỗ lực không ngừng để thực hiện viễn kiến đó. Cho đến nay, nhìn lại thì trật từ này tất nhiên không hoàn hảo, không bắt đầu suông sẻ, nhưng không thể phủ nhận vai trò và kết quả nó đã đóng góp để duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng chung của nhân loại sau Thế Chiến II cho đến nay.
Bài mới nhất của giáo sư chính trị học Michael J. Mazarr thuộc RAND Corporation trên tạp chí Foreign Affairs phản biện lại bài viết của Allison, trình bày ở trên [12]. Mazarr nhận định rằng 70 năm qua phần lớn giới bình luận Mỹ ủng hộ ý tưởng một trật tự quốc tế dựa trên quy luật do Hoa Kỳ lãnh đạo. Vậy mà gần đây có nhiều học giả, chuyên gia, kể cả Graham Allison, đã bác bỏ nó và cho nó là một "huyền thoại". Mazarr ghi nhận bài viết của Allison có nhiều điểm quan trọng nhưng đã đi sai theo ba hướng quan hệ với nhau : nó đọc sai lịch sử của trật tự hậu chiến, thổi phồng các mục tiêu của trật tự, và lầm lẫn các hoạt động toàn cầu quá hạn của Hoa Kỳ với các hoạt động của chính trật tự này.
Thứ nhất, về lịch sử, Allison biện luận trật tự này là hệ quả không lường của Chiến tranh Lạnh, nghĩa là một tai nạn lịch sử. Nó diễn ra vì sự lo sợ và chủ trương cân bằng quyền lực, chứ không phải ý đồ định hình nền chính trị thế giới. Vì thế, Allison ngụ ý, nó luôn là quyền lực chính trị thực tiễn được đội lốt để có thể phổ biến các giá trị cấp tiến. Theo Mazarra thì cái nhìn đó, tốt nhất, chỉ là một chiều của một lịch sử phức tạp. Mỗi viên chức nhìn vấn đề khác nhau về trật tự này khi họ bắt tay thực hiện nó, nhưng nói một cách tổng quát, vào đầu thập niên 1940 Hoa Kỳ đã đầu tư vào Liên Hiệp Quốc, chế độ thương mại quốc tế, và các định chế toàn cầu để ổn định kinh tế để qua đó cấu tạo một thế giới giới có trật tự hơn mà khó trở thành nạn nhân của các thảm nạn của thập niên 1930. Các khái niệm này đã có trước khi các nhà ngoại giao Hoa Kỳ nhận ra rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Sô chắc chắn sẽ trở nên tồi tệ. Tổng thống Franklin Roosevelt đã có những cuộc đàm thoại sâu sắc với thủ tướng Anh Winston Churchill và những người khác (như thủ tướng Canada Mackenzie King, mà Zakaria đã trình bày ở trên) về các vấn đề này đầu thập niên 1940. Tóm lại, theo nhận định của Mazarr thì Hoa Kỳ không hề có ý định chơi trò quyền lực chính trị hay ngăn chặn Sô Viết sau Thế Chiến II khi lập nền trật tự này, mà chủ yếu là xây dựng nền tảng cho nền chính trị thế giới hợp tác nhau hơn dựa trên các quy luật chung. Các định chế và các quy luật chung này nhắm đến sự ổn định kinh tế và địa chính trị chứ không phải để truyền bá các giá trị của Hoa Kỳ.
Thứ hai, về thổi phồng các mục tiêu của trật tự, như "nó là nguyên nhân của yếu tố nền hòa bình lâu dài giữa các cường quốc trong bảy thập niên qua", thì Mazarr cho rằng ông không biết có quan điểm cực đoan về tầm quan trọng của trật tự vậy không. Tâm thức của giới lãnh đạo Hoa Kỳ khi giải thích và thuyết phục công chúng về sự cần thiết hình thành Liên Hiệp Quốc là rằng "một tổ chức quốc tế mới là một sự cần thiết nghiêm trọng, ngay cả khi nó không thể giải quyết được hết các vấn đề của thế giới". Các định chế nói trên, cùng với các quy luật và quy ước ràng buộc, đã trở thành một hệ thống mà các viên chức Hoa Kỳ đã ý thức rõ ràng khi tiến hành thực hiện nó kể từ giữa thập niên 1940. Đây là một trật tự mà đã miêu tả một cách nổi bật trong tất cả các Chiến lược An ninh Quốc gia Hoa Kỳ kể từ thập niên 1950. Nó cũng là một trật tự mà hàng tá quốc gia khác đã đặt trọng tâm trong khái niệm của họ về an ninh và thịnh vượng, như Úc, Anh, Pháp, Đức, Ấn Độ, Nhật, Tân Tây Lan, Nam Hàn và bao quốc gia khác. Mazarr cùng cơ quan RAND Corporation đã bỏ ra hai năm tìm hiểu và đánh giá trật tự này. Họ kết luận các quốc gia này đều nhìn nhận rằng trật tự này là có thật và lo ngại một cách sâu sắc nếu nó qua đời [13].
70 năm nhìn lại để nhận thức, một số hy vọng của các kiến trúc sư của trật tự này đã rõ ràng đạt được phần nào. Các tiến trình đa phương mà các kiến trúc sư này tạo ra đã giúp ổn định nền kinh tế toàn cầu và ngăn chặn sự hung hăn. Bằng cách sắp xếp ba phần tư nền kinh tế thế giới chung quanh bộ quy định rộng (broad set of norms), nó đã tạo ra một lực hút mạnh về trọng tâm ổn định của nền chính trị thế giới. Các quốc gia đều biết muốn duy trì khả năng cạnh tranh, họ không thể chống lại một trật tự đang thắng thế như thế.
Thứ ba, về lầm lẫn các hoạt động toàn cầu quá hạn của Hoa Kỳ với các hoạt động của chính trật tự này, thì Allison biện luận các hành động quân sự đơn phương của Hoa Kỳ kể từ năm 2001 mang tính phá hoại trật tự này đã tự dẫn chứng (speak for itself). Mazarr phản biện rằng hiếm khi các hành xử quốc tế có thể tự dẫn chứng. Các hành xử thường được các quốc gia khác diễn dịch trong bối cảnh hiểu biết rộng hơn về quyền lực và mục đích. Hoa Kỳ đã tự đặt quyền lực của mình trong dự án đa phương này, đã giúp chính nghĩa hóa vai trò của mình trên thế giới, và chiếm được sự nhẫn nại (của các quốc gia khác) vào những khi Hoa Kỳ thất bại với sự cam kết các lý tưởng của mình. Do đó giải pháp là phục hồi, không phải từ bỏ, chủ nghĩa đa phương mà đã từng thuyết phục được sự đối kháng đối với quyền lực của Hoa Kỳ.
Mazarr kết luận rằng những nhà sáng tạo nên trật tự thời hậu chiến đã đặt ra mục tiêu vừa giới hạn vừa cách mạng. Họ thực hiện nó trong các ràng buộc của quyền lợi quốc gia và cân bằng quyền lực quốc tế để xây dựng định chế và quy trình mà có thể định hình đặc tính của nền chính trị thế giới. Hệ thống này đã đạt một số thành quả đáng kể, trong đó có hòa bình và thịnh vượng. Khi mà thế giới đang bước vào một thời kỳ cạnh tranh gây gắt hơn, các nhà làm chính sách Hoa Kỳ cẩn trọng không nên coi thường tầm quan trọng của trật tự thời hậu chiến này. Trật tự này không hề là một huyền thoại ; nó là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của Hoa Kỳ hiện nay.
Dù thiết kế với cái nhìn hiện thực, hay cấp tiến, hay cả hai, của giới lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ đầu thập niên 1940, kết quả, như chúng ta cũng biết, là sự ra đời của các định chế quốc tế và toàn cầu, ngay cả trước khi Thế Chiến II chấm dứt, bao gồm : Liên Hiệp Quốc năm 1945 (United Nations) ; Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại năm 1947 (General Agreement on Tariffs and Trade/GATT), tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organisation/WTO) ; Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund/IMF) và Ngân hàng Tái Xây dựng và Phát triển Quốc tế (the International Bank for Reconstruction and Development/IBRD, sau này là Ngân hàng Thế giới/World Bank) thành lập năm 1944, hoạt động năm 1946. Điều không thể phủ nhận là thế giới đã thay đổi lớn lao và toàn diện nhờ sự hợp tác và tương thuộc qua các định chế quốc tế này.
Vài kết luận
Sự trổi dậy không mang tính hòa bình như reo rao mà ngược lại đầy tính gây hấn, trên Biển Đông cũng như trong các chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với các quốc gia láng giềng và khắp nơi, đã làm bao người quan ngại đối với nền trật tự hiện nay và nền hòa bình tương lai. Trung Quốc có tham vọng bá quyền và có khả năng qua mặt Hoa Kỳ về kinh tế trong một thập niên rưỡi, tuy về mặt quân sự và khoa học kỹ thuật thì còn xa mới bắt kịp, ít nhất là ba thập niên nữa.
Vấn đề nằm ở hai mặt trận chính : chiến lược đường dài, và lãnh đạo.
Theo nhà bình luận chính trị người Mỹ và cũng là một blogger Kevin Drum, thì nếu không có cuộc cách mạng công nghệ, đầu tiên là động cơ hơi nước, lý thuyết vi trùng, điện và xe lửa, thì lịch sử thế giới đã hoàn toàn khác ; sẽ không có cuộc cách mạng dân chủ như đã diễn ra trong thế kỷ 18, 19, 20 như đã thấy [14]. Cuộc cách mạng công nghệ tới đây sẽ quyết định vận mệnh trật tự thế giới. Drum nhận định rằng vấn đề là liệu Trung Quốc, trong vòng 20 năm tới, đạt được kỹ nghệ trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence/AI) tốt nhất không ? Nếu được, họ có thể trở thành bá quyền, nếu họ muốn ; nếu không thể thì chẳng gì phải quan tâm cả.
Cuối cùng thì tương lai của trật tự thế giới chủ yếu tùy thuộc vào tài năng lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Tuy Hoa Kỳ là nước dẫn đầu về trí tuệ nhân tạo AI hiện nay, lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc không hề dấu tham vọng muốn qua mặt Hoa Kỳ trong mặt trận này vào năm 2030 [15]. Trong khi ngân sách cho Nền tảng Khoa học Quốc gia của Hoa Kỳ bị cắt giảm 10 phần trăm xuống còn 175 triệu đô la thì ngân sách dự chi của Trung Quốc vào năm 2030 cho AI là 100 tỷ đô la. Sự chênh lệch về ngân sách đầu tư cho nền khoa học kỹ thuật quốc gia như thế hiển nhiên sẽ dẫn đến kết quả khác nhau vào năm 2030.
Ngoài khoa học kỹ thuật, Trung Quốc đã chuẩn bị nhiều mặt trận khác. Nhà chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc Michael Pillsbury đã nghiên cứu kỹ lưỡng các chiến lược, chiến thuật của giới diều hâu Trung Quốc hơn bốn thập niên qua, và đã đề nghị các biện pháp cần thiết để vận dụng chính các khái niệm từng được họ sử dụng trong thời Chiến Quốc và bốn thập niên qua để đánh bại chính họ [16]. Pillsbury trình bày chi tiết đề nghị này trong 12 bước. Tựu chung là cần nhận diện được những trí trá của Trung Cộng, lưu trữ tất cả các hồ sơ tài liệu này một cách hệ thống, hoạch định các chiến lược cạnh tranh, tìm đồng thuận chung để phối hợp hành động cho hiệu quả, hỗ trợ cho các nhà đối kháng và xu hướng cải cách tại Trung Quốc, đánh vào các điểm yếu của chế độ, có biện pháp cứng rắn với sự gian lận ăn cắp tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ v.v…
Trên đây là các đề nghị của Pillsbury, nhưng chính quyền Hoa Kỳ hiện nay và tương lai có tán thành và sẽ thực hiện bao nhiêu điều trong này thì chưa rõ. Các chiến lược đường dài của Hoa Kỳ vẫn chưa rõ ràng và thống nhất. Hiện tại Trump đã công khai tuyên chuyến với Trung Quốc trên mặt trận thương mại, nhắm đến hàng hóa nhập cảng trị giá 505 tỷ Mỹ kim. Nhiều người chưa gì đã vội tung hô Trump và tin chắc Trung Quốc sẽ thua cuộc. Thuế nhập cảng có thể là phần quan trọng trong cuộc chiến thương mại này, nhưng không đủ để quyết định và tác động để buộc Trung Quốc phải đổi chiều. Như Abigale Grace nhận định trên tạp chí Foreign Policy, các nhà hoạch định sách lược tại Hoa Kỳ cần chuẩn bị cuộc cạnh tranh trên nhiều mặt trận bắt nguồn từ tư thế chính trị, mặt trận tuyên truyền trong nước, và các chính sách kinh tế cưỡng ép các công ty Mỹ đang hoạt động tại Trung Quốc [17]. Grace cho rằng Trung Quốc biết đây là ưu tiên hàng đầu của Trump nên đã chuẩn bị người dân của họ cho cuộc chiến dài và xấu này, và họ có khá nhiều dụng cụ/vũ khí để trả đũa. Lãnh đạo Trung Quốc muốn đạt mục tiêu chiến lược lớn hơn cuộc chiến thương mại với Hoa Kỳ hiện nay, đó là họ không muốn chơi theo các luật lệ thế giới. Nói cách khác mục đích cao nhất của họ là muốn thay đổi nền trật tự hiện nay, như Pillsbury đã nghiên cứu tỉ mỉ trong sách ông.
Về mặt quân sự thì quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua ngân sách quốc phòng khổng lồ cho năm tài chánh 2019, 716 tỷ đô la Mỹ, vào ngày 22 tháng 7 năm 2018 [18]. Phải chăng Hoa Kỳ muốn đầu tư mạnh mẽ vào quốc phòng để Trung Quốc không thể nào bắt kịp, sức mạnh quân sự Hoa Kỳ sẽ áp đảo, như thế Trung Quốc phải biết sợ, dù là một chút thôi, để không dám thách thức Hoa Kỳ trong tương lai !
Ngoài ngân sách quốc phòng và chiến tranh mậu dịch nói trên, chính phủ Trump vẫn chưa trình bày rõ ràng các chiến lược lâu dài khác của Hoa Kỳ là gì trong việc đối đầu với Trung Quốc, và chiến lược ngoại giao của mình. Trump tỏ vẻ muốn kéo Nga về phía Hoa Kỳ, nếu không là đồng minh thì cũng không là đối thủ gây thêm khó khăn cho Hoa Kỳ để Trump có thể dồn nỗ lực kiềm chế Trung Quốc trong thời gian tới. Trump có đạt được mục tiêu kéo Nga về phía mình hay không thì nó hoàn toàn không đơn giản chút nào.
Về mặt lãnh đạo thì nền dân chủ như Hoa Kỳ và nền độc tài như Trung Quốc có những ưu và khuyết khác nhau.
Nền tảng sức mạnh của các chế độ dân chủ, tự bản chất, là từ mỗi người dân. Từ mỗi cá nhân, các doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức do người dân thành lập trong xã hội đó. Nếu so sánh năng xuất (productivity) giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc thì khoảng cách vẫn còn là một trời một vực. Nhưng Trung Quốc đông dân gấp bốn lần Hoa Kỳ. Ngoài ra, sức mạnh của một quốc gia không chỉ là tập hợp năng xuất mỗi cá nhân trong quốc gia đó là còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, trong đó lãnh đạo chính trị của quốc gia đó đóng vai trò chiến lược then chốt. Nó mang tính đường dài và đòn bẫy cho mọi chính sách phát triển của quốc gia đó.
Hoa Kỳ, mỗi hai năm thay thế một phần lập pháp, và mỗi bốn năm thay thế lãnh đạo hành pháp. Cho dù giới lãnh đạo hành pháp tài giỏi xuất chúng bao nhiêu, họ cũng phải khôn khéo thương lượng và thuyết phục quốc hội để thông qua các ngân sách, nhân sự, dự luật mới cũng như các tu chính với bộ luật cũ vv… Hành pháp cũng bị ràng buộc bởi các diễn nghĩa của tư pháp, nhất là Tối cao Pháp viện, đặc biệt khi đưa ra các Lệnh Hành pháp (Executive Order). Nhiệm kỳ là bốn năm, tối đa là hai nhiệm kỳ, trong đó có sự thay đổi nhân sự thường xuyên trong vai trò điều hành và lãnh đạo ở các cấp bậc cao nhất. Ngoài ra còn bao nhiêu sự ràng buộc của hiến pháp và pháp luật, cũng như sự đấu tranh liên tục giữa các ngành tư pháp, hành pháp, lập pháp, truyền thông cũng như sự vận động không ngừng nghỉ của giới doanh nhân và các tổ chức xã hội dân sự.
Do đó dù có tầm nhìn chiến lược lâu dài và tối ưu đi chăng nữa, giới lãnh đạo chính trị tại Hoa Kỳ nói riêng và các nền dân chủ cấp tiến nói chung khó thể nào thi hành các chiến lược quốc gia của mình nếu không giỏi thương thuyết và thỏa hiệp. Nó cũng rất khó khăn thuyết phục quốc hội/dân đầu tư ngân sách đầy đủ và ủng hộ các chính sách dài hạn, ngoài tầm của một nhiệm kỳ bốn năm. Tuy vậy, trong nền dân chủ, sự chuyển tiếp lãnh đạo từ người này sang người khác hoặc chính quyền này sang chính quyền khác luôn ổn định, qua các thủ tục rõ ràng, và với hàng trăm năm kinh nghiệm, luôn diễn ra hiệu quả và tốt đẹp. Tất nhiên mọi lần chuyển tiếp lãnh đạo đều mất thời gian để được quốc hội thông qua, và để người kế nhiệm nắm rõ các vấn đề chuyên môn và các thủ tục cần thiết để điều hành hiệu quả.
Trong khi đó, Trung Quốc là độc đảng, khống chế mọi ngành khác, một cách toàn diện và tuyệt đối, nên các chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa v.v… đều dễ dàng được thông qua và thi hành. Bảy người trong Ủy ban Thường vụ Trung ương Đảng cũng như 25 người trong Bộ Chính trị hầu như nắm mọi quyền lực trong tay. Mục tiêu lâu dài của giới lãnh đạo Trung Quốc là tiếp tục tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, gia tăng tiềm năng quốc phòng, tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên và nhất là đầu tư tối đa vào cuộc cách mạng công nghệ tới, đặc biệt về trí tuệ nhân tạo, để phát huy ưu thế chiến lược, nhất là so với Hoa Kỳ. Tuy cũng đấu đá khủng khiếp với nhau để tranh giành quyền lực, nó hiếm khi công khai minh bạch mà thường mà kín đáo và xảo quyệt. Sau Mao Trạch Đông, các vụ đấu đá thanh trừng trong đảng cũng long trời lở đất. Đặng Tiểu Bình hiểu được điều này hơn ai hết cho nên muốn đặt giới hạn hai nhiệm kỳ để hy vọng có sự chuyển tiếp suông sẻ. Tuy nhiên, mục tiêu này đã được thay thế bởi mục tiêu chiến lược quan trọng hơn : cuộc chạy đua bá quyền với Hoa Kỳ. Đó là lý do vì sao Tập Cận Bình (Xi Jinping), được mệnh danh là Chủ Tịch của Mọi Thứ (Đảng, Nhà Nước và Quân Đội), không còn bị giới hạn hai nhiệm kỳ trong vai trò chủ tịch nước nữa vào ngày 17 tháng Ba năm 2018. Giới diều hâu Trung Quốc ủng hộ Tập để bảo đảm sự liên tục trong việc lèo lái và thực hiện giấc mộng bá quyền của họ.
Mặc dầu đây là sức mạnh của Trung Quốc, đó cũng chính là điểm yếu của họ. Chế độ độc tài nào cũng có vô số giới hạn và rủi ro của nó. Bởi để tập trung quyền lực như thế vào tay mình, Tập và nhóm diều hâu đã loại trừ bao nhiêu thành phần trong đảng không đứng về phía mình, do đó họ cũng có lắm kẻ thù. Đó là chưa kể chính sách vô cùng thô bạo và cung cách tàn bạo mà họ đã đối xử với người dân, đặc biệt là các nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Ngoài ra người Hoa đã kinh nghiệm bao nhiêu tai họa trong thời Mao, với chủ nghĩa tôn sùng cá nhân, nên dù giới trẻ có thể không nắm rõ vì sử liệu giáo dục bị bóp méo trầm trọng, những người từng sống thời đó chắc hẳn còn nhớ rõ và hiểu sâu. Người Hoa Đài Loan và Hồng Kông hiển nhiên rất quan ngại về cánh tay nối dài của Bắc Kinh, nhất là khi Tập đã lập lại nhiều lần cảnh cáo đối với mọi nỗ lực độc lập tách rời khỏi Trung Quốc. Vào ngày 14 tháng 8 vừa qua, Andy Chan, 27 tuổi, lãnh đạo của Đảng Quốc gia Hồng Kông, với chủ trương độc lập từ Trung Quốc, đã hùng hồn phát biểu tại Câu Lạc bộ Phóng viên Ngoại quốc rằng "Trung Quốc là mối đe dọa đối với mọi người tự do trên toàn thế giới" [19]. Mọi chế độ chính trị đều quan ngại sức mạnh của truyền thông, nhưng chế độ độc tài thì không chỉ quan ngại mà là thật sự lo sợ, vì truyền thông có khả năng phơi bày sự thật về mình. Nhưng cái mà chế độ độc tài lo sợ nhất là người dân có tư duy độc lập và suy nghĩ phê phán. Như thế, mọi tuyên truyền của họ đều vô hiệu quả, và họ không thể kiểm soát tư tưởng và ngày càng mất dần ảnh hưởng đối với người dân.
Kinh tế Trung Quốc hiện đang chậm lại, và còn gặp khó khăn trong cuộc chiến thương mại hiện nay nên thành phần bất mãn hoặc đối trọng với Tập có thể khai dụng cơ hội đặt vấn đề về hiệu quả của việc tập trung quá nhiều quyền lực vào một cá nhân [20]. Bốn năm tới, và xa hơn nữa, các thử thách đối với Trung Quốc không hề nhỏ mà ngày càng gia tăng. Nền kinh tế sẽ không tiếp tục tăng trưởng như trước. Khi người dân càng có nhiều thì càng mong đợi nhiều, và khi mong đợi không được đáp ứng thì, cho dù bộ máy tuyên truyền đồ sộ và tốn kém khủng khiếp bao nhiêu, nó cũng sẽ không thoả mãn được nhu cầu mong đợi khổng lồ từ một tỷ bốn trăm triệu người dân của họ hiện nay.
Cuối cùng thì tương lai của trật tự thế giới chủ yếu tuỳ thuộc vào tài năng lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ và Trung Quốc, và hiệu năng của cơ chế vận hành quốc gia, tức guồng máy đẩy quốc gia đó về phía trước. Dù chưa thể tiên đoán được kết quả tương lai ra sao, chúng ta có thể lạc quan rằng những gì được xây dựng dựa trên chân thiện mỹ thì vẫn vững ổn hơn giả ác xấu.
Úc Châu, 28/08/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 29/08/2018
Tài liệu tham khảo :
1. "Public consultations " by Department of Foreign Affairs and Trade (DFAT), accessed on 11/08/2018.
2. Phạm Phú Khải, "Nước Úc trước tương lai bất định ", Nghiên Cứu, Quốc Tế, 02/04/2017.
3. "2017 Foreign Policy White Paper " by Australian Government, accessed on 11/08/2018. Có thể tìm hiểu thêm bài viết của giáo sư Martin Parkinson, Thư ký của Bộ Thủ Tướng và Nội các Chính phủ Úc, "2017 Foreign Policy White Paper : advancing Australia’s interests ". Xem trang v, 6 và 21.
4. Joseph S. Nye Jr, "Will the Liberal Order Survive ?", Foreign Affairs, Volume 96, Number 1, January/February 2017 ; trang 10-16.
5. G. John Ikenberry, "The Plot Against American Foreign Policy", Foreign Affairs, Volume 96, Number 3, May/June 2017 ; trang 2-3.
6. Daniel Dauney and G. John Ikenbery, "Liberal World", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; trang 16-24.
7. Allison là người nghiên cứu về cái bẫy chết người mà nhà sử học Hy Lạp Thucydides đã nhận diện và lý giải. Đó là sử trổi dậy của Athen và mối lo sợ lên Sparta đã làm cho chiến tranh hai bên không thể tránh được. Xin đọc Graham Allison, "The Thucydides Trap", Foreign Policy, 9 June 2017. Allison nghiên cứu lịch sử 500 năm qua và kết luận rằng trong 16 trường hợp tương tự như thế thì có đến 12 trường hợp dẫn đến chiến tranh. Liệu chiến tranh có xảy ra giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ không ? Nếu thích thì tìm hiểu thêm tác phẩm của ông "Destined for war", Houghtin Mifflin Harcourt, 2017.
8. Graham Allison, "The Myth of the Liberal Order", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; trang 124-133.
9. Stephen Kotkin, "Realist World", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; trang 10-15.
10. Stephen M Walt, "What I told my APSA panel", Foreign Policy, 3 September 2011.
11. Cuộc tranh luận giữa Fareed Zakaria Niall Ferguson, "Trật tự cấp tiến quốc tế đã qua rồi ? ", (The Munk Debate Series : Is the Liberal International Order Over ?), trên Youtube, 28 April 2017. Muốn nghiên cứu thêm về thủ tướng Mackenzie King có thể vào Thư viện Quốc gia của Canada nơi lưu trữ tất cả những nhật ký của ông "Diaries of William Lyon Mackenzie King ", từ năm 1893 đến 1950, gồm khoảng 50 ngàn trang viết, và nếu chất chồng lên nhau thì cao hơn 7 mét.
12. Michael J. Mazarr, "The Real History of the Liberal Order ", Foreign Affairs, 7 August 2018.
13. Michael J. Mazarr, "Building a Sustainable International Order ", RAND Corporation, accessed on 16 August 2018.
14. Kevin Drum, "Tech World", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; trang 43-48.
15. Elsa B. Kania, "Artificial Intelligence and Chinese Power ", Foreign Affairs, 5 December 2017.
16. Michael Pillsbury, "The Hundred Year Marathon", Henry Holt and Company, February 2015.
17. Abigail Grace, "China Doesn’t Want to Play by the World’s Rules", Foreign Policy, 8 August 2018.
18. US Senate Committe on Armed Services, "John S. McCain National Defense Authorization Act for Fiscal Year 2019 ", 22 July 2018.
19. Stuart Lau, "China takes on Hong Kong’s press club ", The Interpreter, Lowy Institute, 16 July 2018.
20. Richard McGregor, "Has China's leader Xi Jinping now passed his peak ? ", The Interpreter, Lowy Institute, 27 July 2018.
Không phải là tư tưởng chính trị đã xuống cấp, những ý kiến soi đường vẫn được nêu ra tại Mỹ cũng như tại Tây Âu và trên khắp thế giới, nhưng chúng không còn gây được sự chú ý trong một thế giới do giới tài chính và ngân hàng thao túng.
Tân Tổng thống Pháp, Emmanuel Macron, 39 tuổi
Nước Pháp vừa có một tổng thống mới. Cuộc bầu cử vòng đầu ngày 23/4 đã chọn hai ứng cử viên cho vòng chung kết. Ngày chủ nhật 7/5 vừa qua cử tri Pháp được chọn giữa Marine Le Pen và Emmanuel Macron. Họ đã chọn Macron với đa số áp đảo 66% - 34%.
Macron là một thanh niên 39 tuổi, đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, trưởng thành trong giới ngân hàng, chưa từng giữ một chức vụ dân cử nào, dù đã từng là bộ trưởng kinh tế trong hai năm với một thành tích mà chính ông cũng không muốn nhắc lại. Vì không có đảng - trước đây có ghi tên vào Đảng Xã Hội trong ba năm nhưng rồi không tham gia nữa - Macron đã cấp tốc thành lập một "phong trào" có tên là "Đi tới !" (En marche !) để hy vọng giành được đa số trong quốc hội sau khi đắc cử tổng thống. Hy vọng này khá mong manh và Macron có thể sẽ phải làm việc với một quốc hội mà ông không kiểm soát được. Cộng thêm với kinh nghiệm ít ỏi của ông, sự thiếu phối hợp giữa chính phủ và quốc hội sẽ đặt nước Pháp trước một tương lai khó khăn đầy bất trắc.
Tuy vậy đa số người Pháp đã thấy phải ủng hộ Macron bởi vì nếu Marine Le Pen đắc cử thì sẽ là một tai họa lớn cho cả nước Pháp lẫn Châu Âu. Bà Le Pen đứng đầu đảng cực hữu Mặt Trận Quốc Gia (Front National) do cha bà, ông Jean-Marie Le Pen, xây dựng lên. Tổ chức này rập khuôn một cách công khai theo Phong Trào Xã Hội Ý (Movimente Sociale Italiano - MSI), một tổ chức tiếp nối Đảng Quốc Gia Phát Xít (Partito Nazionale Fascista) do Moussolini lập ra và vị cấm sau Thế Chiến II.
Đảng Quốc Gia Phát Xít (Partito Nazionale Fascista) do Moussolini thành lập năm 1921
Mặt Trận Quốc Gia của Le Pen không có dự án chính trị, nó chỉ có những chủ trương dân túy, kỳ thị và phản dân chủ như dành ưu tiên công việc làm cho người Pháp, không tiếp nhận di dân, chỉ săn sóc sức khỏe miễn phí cho người Pháp, mạnh tay hơn với Hồi Giáo, bắt tay với chế độ mafia của Putin tại Nga và chế độ hung bạo Al Assad tại Syria, nhất là ra khỏi khối tiền tệ chung Euro và Liên Hiệp Châu Âu v.v. Nói chung là một chủ trương tệ hại và nguy hiểm cho hòa bình, kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa và đạo đức.
Cuộc tranh luận giữa Le Pen và Macron hôm 3/5 đã hạ cấp ngoài mọi dự đoán. Nó giống như một cuộc cãi lộn giữa chợ trời. Macron đã thắng cử nhưng Le Pen cũng đã được 34% số phiếu và đó sẽ là một vết nhơ trên mặt nước Pháp. Quốc gia thường tự hào là quê hương của dân chủ và nhân quyền, là đất dung thân, terre d'asile, của những nạn nhân của áp bức giờ đây có trên một phần ba dân số ủng hộ một đảng phát xít.
Đảo ngược các giá trị ?
Pháp không phải là một trường hợp đặc biệt. Tại Áo vài tháng trước đây ứng cử viên của đảng cực hữu FPO suýt nữa đắc cử tổng thống, chỉ thua suýt soát ứng cử viên Đảng Xanh. Cũng như tại Pháp hai đảng truyền thống thay nhau cầm quyền từ sau Thế Chiến II đều bị loại với nguy cơ sẽ bị xóa bỏ luôn. Hai tháng trước đây tại Hà Lan, nước được coi như một mẫu mực của dân chủ và bao dung, đảng cực hữu "Tự Do" PVV cũng đã về hạng nhì trong cuộc bầu cử quốc hội (Tự do ở đây phải được hiểu là bất chấp đạo đức chính trị). Tại Đức Liên Minh Dân Chủ Thiên Chúa Giáo CDU/CSU đang cầm quyền dù rất thành công về kinh tế và xã hội cũng đang bị nao núng ; Đảng 'Giải Pháp Thay Đổi Cho Nước Đức" (Alternative fur Deutschland AfD) vừa mới thành lập được bốn năm với chủ trương dân túy có thể sẽ giành được 12% số phiếu trong cuộc bầu cử quốc hội sắp tới theo nhiều thăm dò dư luận. Taị Anh phe bảo thủ chống hội nhập với Âu Lục đã giành được thắng lợi, giáng cho Liên Hiệp Châu Âu một đòn choáng váng với biến cố BreXít. Tại Ý khuynh hướng dân túy cực hữu xuất phát từ MSI rối loạn không phải vì bị mất quần chúng mà vì chia rẽ. Ngoạn mục nhất vẫn là tại Mỹ, tổng hành dinh của nền dân chủ thế giới. Donald Trump, một nhân vật lỗ mãng với văn hóa chính trị sơ đẳng, hoàn toàn không có một ưu tư nhân bản nào đã đắc cử tổng thống với khẩu hiệu "Nước Mỹ trước hết" (America first !).
Bản đồ hiện diện của những đảng cực hữu ở Châu Âu
Huy hiệu của những đảng cực hữu Châu Âu
Nói chung khuynh hướng dân túy cực hữu đã phát triển mạnh mẽ tại các nước tiên tiến - Mỹ và Tây Âu - cho tới nay vẫn được coi là thành trì của các giá trị tự do, dân chủ và nhân quyền.
Tất cả các lực lượng này, ở những mức độ khác nhau đều có chung một số đặc tính là triệt thoái về bên trong biên giới quốc gia và khai thác tinh thần dân tộc hẹp hòi, chống lại phong trào toàn cầu hóa, chống lại các khối hợp tác quốc tế, không tiếp nhận những người di dân dù là để tránh bạo lực và chiến tranh, không quan tâm đến các vi phạm nhân quyền trên thế giới và nhìn quan hệ giữa các quốc gia trước hết như một tương quan lực lượng. Tất cả cũng hầu như không quan tâm đến môi trường. Dầu vậy chúng đã lôi kéo được cả những người có học vị và kiến thức cao : Đảng Giải Pháp Thay Thế tại Đức qui tụ nhiều giáo sư đại học, Mặt Trận Quốc Gia tại Pháp cũng thu hút được nhiều người tốt nghiệp những trường danh tiếng. Những gì đang diễn ra tại Mỹ và Châu Âu có tầm vóc của một khuynh hướng đảo ngược các giá trị.
Sau khi bức tường Berlin sụp đổ rất nhiều người đã lạc quan cho rằng các giá trị dân chủ và văn minh từ nay đã trở thành phổ cập, nhiều người nói tới một "bổn phận phải can thiệp" khi an ninh và phẩm giá con người bị đe dọa, mặc nhiên coi biên giới quốc gia không thể là tường thành qui định một vùng lộng hành an toàn cho các tập đoàn độc tài hung bạo. Có người còn cho là lịch sử đã chấm dứt bởi vì từ nay, khi dân chủ đã toàn thắng không còn gì quan trọng nữa. Nhưng rồi người ta đã chứng kiến cuộc phản công dữ dội của các khuynh hướng tưởng đâu đã thuộc hẳn về quá khứ. Điều đáng ngạc nhiên là các lực lượng cực hữu này tuy cùng chủ trương chống lại các kết hợp quốc tế nhưng lại hỗ trợ nhau – Trump, Le Pen, Putin - trong một thứ "quốc tế chống hợp tác". Trật tự thế giới đang bị đe dọa. Một thân hữu hỏi tôi : "phải chăng làn sóng dân chủ thứ tư mà các anh nói tới trong dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai đang bị đảo ngược ?" (1).
Trật tự thế giới nào ?
Nhưng nếu chúng ta nhìn lại một cách bình tĩnh thì sự thực không phải như vậy.
Trước hết, trật tự thế giới nào đang bị đe dọa ? Có thể là chúng ta đã vừa lạc quan vừa thiếu cảnh giác. Dưới mắt đại bộ phận những người có thiện chí trật tự thế giới hiện nay là trật tự dân chủ đặt nền tảng trên các giá trị hòa bình, tự do, dân chủ, nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp tác và liên đới. Nhưng đó là một dự đoán lạc quan, dù rất có cơ sở, về hướng đi tất yếu của thế giới chứ chưa hẳn là sự thực.
Sự thực là cái trật tự lý tưởng đó đã bị vi phạm từ lâu rồi. Khi Bill Clinton đắc cử tổng thống Mỹ với khẩu hiệu "chỉ làm kinh tế" (economy, stupid !) ông đã bày tỏ sự ràng buộc nào với trật tự dân chủ ? Mấy ai đã ngạc nhiên và lo lắng vì sự hạ thấp chính trị để đồng hóa nó với kinh tế ? Phần lớn các trí thức cánh tả còn hoan nghênh và gần đây còn ủng hộ Hillary Clinton dù quan điểm chính trị của bà không khác gì chồng. Barack Obama có coi dân chủ và nhân quyền là các giá trị phổ cập không khi trong bài diễn văn nhậm chức, rồi tại Cairo, ông long trọng tuyên bố sẵn sàng bắt tay với các chế độ độc tài vì không một quốc gia nào có quyền quyết định thế nào là một chế độ chính trị tốt cho một quốc gia khác ? Tôi đã phản ứng bằng một bài cảnh giác đối với Obama nhưng chưa hề thấy một ai, Việt Nam hay người nước ngoài, chia sẻ sự lo âu này (2). Sau đó ít lâu Obama được giải Nobel Hòa Bình ! Cũng đừng quên là tổng thống Pháp Jacques Chirac trước và trong khi cầm quyền đã nhiều lần tuyên bố rằng dân chủ là một xa xỉ phẩm đối với các nước chưa phát triển.
Sự xuống cấp của tư tưởng chính trị tại Hoa Kỳ và Châu Âu đã diễn ra từ lâu rồi và nó ngày càng khuyến khích sự hình thành của một trật tự thế giới mới : trật tự tài chính, nghĩa sự thống trị của đồng tiền. Chính trong bối cảnh này là những người giầu có và được sự ủng hộ của giới tài phiệt như Donald Trump và Emmanuel Macron đã giành được thắng lợi. Các đảng quốc gia dân túy cực hữu không hẳn là sự phản bác trật tự dân chủ, chúng chỉ là hậu quả tự nhiên của sự lơ là vốn đã có nhưng không được cảnh giác từ gần ba thập niên qua với đạo đức chính trị và các giá trị dân chủ
Một cuộc khủng hoảng ngắn và giới hạn trong không gian
Câu hỏi kế tiếp là tình trạng này nghiêm trọng tới mức nào và có thể đảo ngược làn sóng dân chủ thứ tư vừa xuất hiện từ Mùa Xuân Ả Rập không ?
Câu trả lời dứt khoát là không. Thực ra hiện tượng trỗi dậy của các lực lượng cực hữu với tinh thần dân tộc hẹp hòi chỉ xuất hiện ở Hoa Kỳ và Tây Âu, nghĩa là những nước dân chủ giầu mạnh, vì một lý do mà chúng ta sẽ thảo luận trong phần sau. Trong phần còn lại của thế giới, nghĩa là gần chín phần mười thế giới, cuộc đấu tranh vì dân chủ vẫn tiếp tục mạnh lên. Venezuela, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Trung Quốc, Việt Nam là những thí dụ điển hình. Điều thực sự đã thay đổi và cần được nhận diện là tự do không còn là ngọn đuốc do Mỹ và các nước Châu Âu đem đến để soi sáng thế giới nữa mà đã trở thành ngọn đuốc chung của cả nhân loại. Điều này cũng không mới. Từ nhiều năm nay các nước dân chủ tiên tiến đã chỉ bày tỏ một quan tâm tối thiểu đối với những vi phạm nhân quyền. Việc chính quyền cộng sản Việt Nam đàn áp hung bạo những người dân chủ đã không hề ngăn cản Obama đến thăm Việt Nam, thân thiện bắt tay Nguyễn Phú Trọng và Trần Đại Quang, rồi tươi cười đi ăn bún chả và uống bia, không khác Bill Clinton và George W. Bush trước đó. Không có lý gì để hốt hoảng.
Cuộc trỗi dậy này, nếu nhìn một cách bình tĩnh, cũng chỉ là ngọn lửa rơm không thể tiếp tục lâu. Thắng lợi của Trump tại Mỹ cũng như sự thành công tương đối của Marine Le Pen tại Pháp và các đảng dân túy khác tại Châu Âu là do một sự gặp gỡ rất ô hợp của những thành phần rất khác nhau, với những động cơ khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn với nhau. Có những người phẫn nộ trước một thế giới do giới tài phiệt thao túng, có những người cảm thấy bị gạt ra ngoài lề một thế giới thay đổi quá nhanh, có những người đòi xét lại một phong trào toàn cầu hóa quá xô bồ và những kết hợp khu vực mà họ không hiểu rõ lý do, có người gắn bó với căn cước dân tộc và chưa thể thích nghi với một khái niệm quốc gia mới, có những người chưa hiểu vì sao phải quá lo âu cho môi trường đến nỗi phải hy sinh một số hoạt động công nghiệp khiến một số người lâm vào cảnh thất nghiệp. Sau cùng cũng có những người quá thất vọng với một giai cấp chính trị đã mất phẩm chất và không ngang tầm với đòi hỏi của tình huống mới. Một tập hợp như vậy không thể kéo dài. Nó chỉ thể hiện một cuộc khủng hoảng tinh thần nhất thời tại Mỹ và Tây Âu.
Khi thực tại thay đổi nhanh hơn tư tưởng
Sau cùng đâu là lý do của cuộc khủng hoảng niềm tin và định hướng này ?
Một điều rất không bình thường từ gần ba mươi năm nay là sự thiếu hụt tư tưởng trong một thế giới thay đổi hàng ngày, hàng giờ. Cho tới nay, trong lịch sử thế giới, mọi cuộc cách mạng lớn đều đã được một phong trào tư tưởng đi trước, báo trước, soi đường và hướng dẫn để con người có thể hiểu và chuẩn bị chờ đợi những gì sắp đến, để đừng bỡ ngỡ, hốt hoảng. Từ ba thập niên qua, không những bức tường Berlin và chủ nghĩa cộng sản sụp đổ mà, quan trọng hơn, còn diễn ra cuộc cách mạng tri thức và truyền thông khiến thế giới nhỏ lại như một ngôi làng nhỏ, mỗi người đều có thể biết tức khắc những gì vừa xẩy ra trên khắp trái đất. Thay đổi quá lớn và quá nhanh nhưng chúng ta đã không có một phong trào tư tưởng tương xứng. Hành động đã đi trước tư tưởng.
Các công dân của các quốc gia không được giải thích để chấp nhận những gì sẽ xẩy ra và chuẩn bị cho tương lai.
Một thí dụ là câu hỏi khái niệm quốc gia sẽ phải được hiểu như thế nào sau khi nó không còn có thể được hiểu như trước đây, nghĩa là một lãnh thổ, một biên giới, một ngôn ngữ, một văn hóa, một chính quyền và một chủ quyền riêng biệt ? Nhân dân các nước tiên tiến - thỏa mãn và tự hào với quốc gia của họ - không được chuẩn bị tinh thần để chấp nhận rằng từ nay phải hiểu quốc gia theo một nghĩa mới, nghĩa là như một tình cảm, một không gian liên đới và một dự án tương lai chung (3). Không ngạc nhiên nếu họ lo âu và phẫn nộ.
Một thí dụ khác là phong trào toàn cầu hóa và những hợp tác khu vực dĩ nhiên phải giúp các dân tộc nghèo và chậm tiến dân dần bắt kịp các dân tộc giầu mạnh và tiên tiến. Các nước chưa phát triển dĩ nhiên phải tăng trưởng kinh tế nhanh hơn các nước đã phát triển nếu chúng ta tin, như mọi người đều đồng ý, rằng chỉ có một giống người với những khả năng bẩm sinh ngang nhau và tất cả nhân loại phải là anh em trong một thế giới thân thiện. Nhưng nhân dân các nước tiên tiến đã không được giải thích để hiểu rằng đó là điều đáng mong ước dù chắc chắn phải tạo ra một vài đảo lộn, và nhiều người cảm thấy bị thiệt thòi.
Một thí dụ cụ thể và hùng hơn nữa là Liên Hiệp Châu Âu. Đây là công trình lớn nhất và đẹp nhất trong lịch sử thế giới. Một thực thể văn hóa, chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật lớn nhất thế giới đã hình thành mà không cần một tiếng súng. Trong một thời gian kỷ lục Liên Hiệp Châu Âu đã qui tụ 28 quốc gia, trong đó một khu vực không biên giới với một đồng tiền chung đã được thành lập và ngày càng mở rộng thêm. Tuy vậy, thế giới và người Châu Âu vẫn chưa biết dứt khoát là Liên Hiệp Châu Âu sẽ là một liên bang hay một kết hợp của các quốc gia tự chủ. Đã thế Liên Hiệp Châu Âu còn là cái lưng tiện lợi để các chính quyền trút lên những yếu kém của chính mình, cái gì không làm được là do những bó buộc của Liên Hiệp Châu Âu. Cuối cùng Liên Hiệp Châu Âu trở thành đáng ghét dưới mắt nhiều người và trở thành một chủ đề để các tổ chức dân túy cực hữu khai thác.
Không phải là tư tưởng chính trị đã xuống cấp, những ý kiến soi đường vẫn được nêu ra tại Mỹ cũng như tại Tây Âu và trên khắp thế giới, nhưng chúng không còn gây được sự chú ý trong một thế giới do giới tài chính và ngân hàng thao túng. Còn các chính trị gia ? Họ né tránh những câu hỏi nhức nhối và nấp sau một ngôn ngữ "chính trị phải đạo", politically correct. Kết quả là người dân các nước giầu mạnh cảm thấy bị thua thiệt, nhất là nếu bị mất việc làm vì nhiều hoạt động công nghiệp sản xuất được di chuyển qua những nước đang phát triển. Phong trào toàn cầu hóa và cuộc cách mạng dân chủ cần được giải thích, nhưng sự giải thích đã không có. Các đảng truyền thống và các chính trị gia của hệ thống đang trả giá xứng đáng cho sự từ nhiệm hổ nhục của họ. Như vậy, nếu nhìn môt cách tự tin thì sự trỗi dậy của các lực lượng dân túy cực hữu tại Mỹ và Tây Âu là một cảnh giác cần thiết.
Hiểu để không hốt hoảng
Sau 100 ngày cầm quyền, Donald Trump đã thú nhận là làm tổng thống Mỹ khó hơn ông tưởng. Sau một năm ông sẽ thấy nó còn khó hơn rất nhiều, và rồi cả người Mỹ lẫn ông sẽ đều đồng ý rằng ông không xứng đáng để làm tổng thống Mỹ. Sau một thời gian tranh cãi, và lần này tranh cãi thẳng thắn, các nước Châu Âu cũng sẽ nhận ra rằng Liên Hiệp Châu Âu là cần thiết cho hòa bình và phồn vinh của chính họ. Thế giới cũng sẽ nhận ra rằng trật tự dân chủ là cần thiết và phải được tôn trọng. Cơn bão dân túy và cực đoan đã đạt tới cao điểm của nó và từ nay chỉ có thể dịu dần.
Làn sóng dân chủ thứ tư vẫn tràn tới và sẽ còn mạnh hơn sau thử thách này.
Nguyễn Gia Kiểng
(10/05/2017)
(1) Khai Sáng Kỷ Nguyên thứ Hai, chương II.
(2) Obama tại Cairo, dân chủ ở mức độ zero ? (cf. Đọc thêm)
(3) Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, chương IV.
Đọc thêm :
Obama tại Cairo, dân chủ ở mức độ zero ?
Nguyễn Gia Kiểng, TL237, 07/2009
Obama nói chuyện tại Cairo ngày 4/6/2009
Không ai có thể phủ nhận rằng những gì mà một tổng thống Mỹ và bộ tham mưu của ông biết và nghĩ về những vấn đề lớn của thế giới có tầm quan trọng đặc biệt đối với mọi dân tộc.
Tôi chỉ biết George W. Bush qua tiểu sử chính thức, báo chí, những bài diễn văn và những bài phỏng vấn của ông nhưng tôi vẫn có cảm tưởng ông là một con người thực tiễn và giản dị, quyết định mọi vấn đề một cách nhanh chóng dựa trên đề nghị của bộ tham mưu thân cận, không hề biết tới kinh Koran và có thể nghĩ Khổng Tử là một bộ trưởng Nhật, núi Kilimanjaro ở Nam Mỹ. Obama, trái lại, tỏ ra biết nhiều và nghĩ nhiều về những vấn đề lớn của thế giới. Bài diễn văn ngày 4/6 (2009) vừa qua tại Cairo của ông là một thí dụ.
Về văn phong và hình thức đó là một mẫu mực về soạn thảo thông điệp chính trị. Bằng những câu và chữ thật giản dị Obama đã đề cập tới các vấn đề rất lớn một cách thuyết phục và truyền cảm. Bài viết đã hay, cách nói của Obama lại tuyệt vời, ông nói một cách tự nhiên, không cần giấy trong vòng gần một tiếng đồng hồ và nói một cách hùng hồn, thu hút. Ông đã thành công mỹ mãn, diễn văn của ông bị cắt ngang hơn 40 lần vì những tràng pháo tay nồng nhiệt của trí thức và sinh viên Ai Cập. Lý do thành công của Obama là ông đã chinh phục được cảm tình của cử tọa, ông tỏ ra hiểu họ và quý trọng họ - chào họ bằng tiếng Ả Rập assalamu alaikum, trích dẫn nhiều lần kinh Koran. Từ đó tất cả những gì ông nói đều dễ lọt tai.
Về nội dung Obama đã đề cập tới bẩy vấn đề của thế giới, đặc biệt là của thế giới Hồi Giáo và vùng Trung Đông, trong đó Hoa Kỳ có vai trò chiến lược : cuộc chiến chống khủng bố, quan hệ Do Thái – Palestine, Iran và vũ khí nguyên tử, dân chủ, tự do tôn giáo, quyền phụ nữ, phát triển kinh tế. Tất cả đều là những vấn đề nền tảng và dài hạn. Người ta có thể lưu ý là Obama hoàn toàn không nói tới cuộc khủng hoảng kinh tế lớn đang làm điêu đứng cả thế giới. Trên tất cả những chủ đề này Obama đã đưa ra những nhận định, đôi khi kèm theo những biện pháp cụ thể đáng được hoan nghênh, hoặc không có gì để gây bất bình, ít nhất trong thời điểm này. Tuy vậy trong chiều sâu và trong lâu dài, nếu văn cũng là người, bài diễn văn này có thể khiến người ta lo ngại về "nhận thức Obama".
Hãy bắt đầu bằng những điểm đúng : Obama khẳng định quyết tâm của Hoa Kỳ đương đầu với các lực lượng quá khích hung bạo, ông hoàn toàn có lý khi coi chúng chỉ thuần túy là những lực lượng khủng bố theo đuổi những mục tiêu đen tối bằng cách giết hại những thường dân vô tội. Ông càng có lý khi nhìn nhận rằng Hoa Kỳ trong cơn chấn động sau ngày 11-9-2001 đã sử dụng những biện pháp sai trái ; người ta chỉ có thể đồng ý với ông, một mục tiêu trong sáng phải được bảo vệ bằng phương tiện xứng đáng ; người ta cũng chỉ có thể hoan nghênh quyết định cấm tra tấn và đóng cửa nhà tù Guantanamo, những tuyên bố như vậy chinh phục cảm tình của thế giới đối với Hoa Kỳ trong cuộc chiến tại Afganistan. Obama cũng đã nói rất khéo về Iraq : "Trái với Afganistan, Iraq là cuộc chiến có chọn lựa. Mặc dù tôi tin rằng nhân dân Iraq sau cùng đã thoải mái hơn sau khi không còn chế độ bạo ngược của Saddam Hussein, tôi cũng tin rằng những gì đã xẩy ra tại Iraq đã nhắc nhở Hoa Kỳ rằng, mỗi khi có thể được, phải sử dụng ngoại giao và tạo đồng thuận quốc tế để giải quyết các vấn đề". George W. Bush cũng không thể phiền lòng. Obama đã rất thuyết thuyết phục khi viện dẫn lịch sử lập quốc của Hoa Kỳ để khẳng định Hoa Kỳ hoàn toàn không có tham vọng đế quốc và không hề nhòm ngó lãnh thổ và tài nguyên của một nước nào và sẽ triệt thoái quân đội khỏi Iraq và Afganistan ngay khi tình hình cho phép. Việc nhắc lại lịch trình rút quân khỏi Iraq cũng rất khôn ngoan, đúng nơi và đúng lúc. Trên vấn đề nhức nhối nhất tại Trung Đông, cuộc xung đột Do Thái – Palestine, Obama đã tỏ ra sáng suốt và can đảm, ông đã có thái độ phải có là nhắc lại một cách mạnh mẽ và dứt khoát lập trường của Hoa Kỳ là người Palestine có quyền và phải được có một quốc gia đúng nghĩa của riêng họ. Đây là điều đáng hoan nghênh nhất trong bài diễn văn này. Hoa Kỳ phải nói thẳng thắn như thế đối với người Do Thái vào lúc họ vừa bầu ra một chính quyền cực hữu với chủ trương bành trướng rõ rệt. Cuộc xung đột Do Thái – Palestine bế tắc không phải vì nó không có giải đáp mà vì nó có giải đáp hiển nhiên mà những người trong cuộc, kể cả hai dân tộc Do Thái và Palestine, không chịu chấp nhận, đó là hai nhà nước riêng biệt nhìn nhận quyền hiện hữu của nhau và sống chung hòa bình với nhau. Điều này Hoa Kỳ cần khẳng định một cách thật rõ rệt và quả quyết một lần cho tất cả để vô hiệu hóa khuynh hướng cực hữu Do Thái và đồng thời cắt cỏ dưới chân các lực lượng khủng bố sống nhờ lòng thù hận của người Palestine, và Ả Rập nói chung, đối với Do Thái. Chỉ Hoa Kỳ có thể làm được điều này bởi vì Do Thái chỉ tồn tại được nhờ sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Do Thái gần như một tiểu bang của Hoa Kỳ ; như Obama nói sự ràng buộc giữa Hoa Kỳ và Do Thái không thể cắt dứt được. Khuynh hướng quốc gia cực đoan tại Do Thái chỉ tồn tại vì thái độ của Hoa Kỳ chưa đủ rõ rệt.
Điều thực sự mới trong chính sách Trung Đông của Hoa Kỳ là đối với Iran và sự kiện nước này phát triển kỹ thuật nguyên tử. Obama đã phát biểu một lập trường mà đáng lẽ Hoa Kỳ đã phải có từ lâu. Từ ba thập niên qua hình ảnh khuôn mẫu, stereotype, của Iran trong đầu óc người Mỹ là một nước Iran cuồng tín, hiếu chiến, chống Phương Tây và Hoa Kỳ một cách hung hăng. Trong hơn mười năm tôi có một cộng sự viên người Iran, Houshang, tiến sĩ vật lý nguyên tử và rất thông thạo tình hình Iran. Houshang không phải chỉ là một nhà khoa học mà còn là một nhà hoạt động chính trị. Houshang là một trong những cấp lãnh đạo của phong trào chống đối chế độ quân chủ Pahlevi mà biểu tượng là Ayatolla Khomeini. Sau khi chế độ quân chủ bị lật đổ Houshang trở thành bộ trưởng khoa học kỹ thuật rồi thất vọng và bỏ ra nước ngoài, hiện là một trong những lãnh tụ đối lập dân chủ lưu vong hàng đầu. Tôi đã thảo luận rất nhiều với Houshang về Iran và Houshang cũng giới thiệu cho tôi nhiều trí thức Iran khác. Tất cả đều cùng nói một điều : người Iran không hề chống Phương Tây và Hoa Kỳ, cũng không hề cuồng tín, trái lại đa số thích lối sống dân chủ Phương Tây, thành phần Hồi Giáo Shia quá khích chỉ vào khoảng 5%. Ngay trong giới lãnh đạo hiện nay đa số cũng chỉ quá khích ngoài mặt. Chính Houshang đã đứng đầu chương trình nguyên tử của Iran để có thể khẳng định rằng việc chế tạo bom nguyên tử của Iran chỉ là một đòn tháu cáy. Hình ảnh của nước Iran mà họ mô tả cho tôi hoàn toàn khác với hình ảnh mà chính giới Hoa Kỳ có. Chỉ tới cách đây hai tuần tờ Newsweek, trong một số đặc biệt về Iran mới trình bày nước này giống như hình ảnh mà các bạn tôi mô tả. Tít lớn ngoài bìa của số báo này là "All we know about Iran is wrong" (Tất cả những gì chúng ta biết về Iran đều sai). Nhiều khi tôi tự hỏi với những phương tiện và nhân lực hùng hậu như vậy tại sao chính giới Hoa Kỳ có thể hiểu sai về một quốc gia quan trong như vậy trong một thời gian dài như vậy.
Tóm lại đó là một bài diễn văn rất hay. Tuy vậy tôi không thể xua đuổi cảm tưởng là Obama đã có những ngộ nhận lớn trên một số vấn đề cơ bản.
***
Vấn đề giữa Phương Tây và thế giới Hồi Giáo có thực sự là mâu thuẫn tôn giáo như Obama trình bày hay không ? Đó là điều mà các tổ chức khủng bố như Al Qaeda, Hamas, Hezbollah v.v. muốn người ta nghĩ, nhưng cách nhìn này không đúng. Không hề có một nước Phương Tây nào chống Hồi Giáo cả, trái lại các chính quyền Phương Tây, kể cả chính quyền Bush nổi tiếng là thô vụng về ngoại giao, còn hết sức cố gắng tránh mọi mâu thuẫn với Hồi Giáo. Cũng không hề có xung đột giữa Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo, các giáo hoàng Công Giáo La Mã từ hàng thế kỷ nay luôn luôn bày tỏ sự tương kính đối với các tôn giáo khác kể cả Hồi Giáo, họ còn nhìn nhận những cuộc thập tự chinh trong quá khứ là sai lầm, xin lỗi và hòa giải với Do Thái Giáo. Người ta cũng không bao giờ thấy một thái độ bài xích nào từ các hệ phái Tin Lành. Và nếu muốn thẳng thắn nói công khai sự thực -thay vì chỉ nói trong phòng khép kín như chính Obama kêu gọi trong bài diễn văn này- thì phải nói rằng những hành động và cử chỉ quá khích gần đây đã chủ yếu đến từ một số phần tử Hồi Giáo. Vả lại Phương Tây có còn theo Thiên Chúa Giáo hay không là cả một câu hỏi. Tại Mỹ có thể còn sấp xỉ 50% dân chúng còn đức tin Thiên Chúa Giáo nhưng tại Tây Âu con số này chưa tới 10% và đang tiếp tục giảm đi, Thiên Chúa Giáo chủ yếu chỉ còn là một di sản văn hóa. Hơn nữa nếu coi những khó khăn trong quan hệ của Trung Đông và đa số các nước Hồi Giáo nói chung với phần còn lại của thế giới như là một xung đột tôn giáo thì không có giải pháp ổn thỏa nào cả. Đặc tính của mọi tôn giáo là đặt nền tảng trên đức tin và các đức tin không thể chứng minh và thảo luận.
Vậy vấn đề thực sự là gì ? Đó là sự thích nghi bắt buộc của Hồi Giáo với thời đại mới, nghĩa là triệt thoái khỏi chính trị để trở về vị trí của một tôn giáo bình thường như các tôn giáo khác. Vấn đề theo đạo và sống đạo phải được coi như một chọn lựa cá nhân. Không nên tránh né một sự thực là mọi tôn giáo khởi thủy đều mang tính nhất nguyên, một tôn giáo không là một tôn giáo nếu chấp nhận rằng điều ngược lại với đức tin của nó cũng có thể đúng. Do đó dân chủ, mà triết lý nền tảng là chủ nghĩa cá nhân tự do, đã chỉ thành hình với sự phủ nhận quyền lực của các tôn giáo. Nền dân chủ Hoa Kỳ đã được thành lập bởi những người ra đi tìm một quê hương mới để phản đối độc quyền tôn giáo. Trường hợp Hòa Lan cũng không khác. Cuộc cách mạng Pháp 1789 là cuộc cách mạng vừa chống chế độ quân chủ vừa chống giáo hội Công Giáo. Tước bỏ quyền lực chính trị của các tôn giáo là điều kiện tiên quyết của dân chủ. Thiên Chúa Giáo đã phải trải qua Thế Kỷ Ánh Sáng, le Siècle de Lumière, (thế kỷ 18) trong đó các tín điều bị chất vấn rồi sau đó chính giáo hội trở thành nạn nhân của cuộc cách mạng. Khổng Giáo, giữ vai trò một tôn giáo về mặt chính trị và xã hội, cũng phải bị đẩy lùi tại Đông Á trong cuộc gặp gỡ với Phương Tây để dọn đường cho các chế độ dân chủ. Đến lượt nó Hồi Giáo cũng sẽ phải trải qua một cuộc xét lại rất lớn. Đó là điều kiện bắt buộc để các quốc gia Hồi Giáo có thể trở thành bình thường trong một thế giới toàn cầu hóa.
Cuộc xét lại này sẽ rất khó khăn và đau nhức vì những lý do xuất phát từ chính bản chất của Hồi Giáo. Trái với các tôn giáo khác Hồi Giáo trên nguyên tắc không thể chấp nhận xét lại. Phật là một người giác ngộ nhưng cũng vẫn là một người, do đó kinh Phật không có giá trị tuyệt đối. Thánh kinh Thiên Chúa Giáo do những tiên tri và những tông đồ của Jesus chép lại và cũng có thể không hoàn toàn chính xác. Đó không phải là trường hợp của kinh Koran. Koran là lời của chính Thượng Đế nhập vào Muhammad để nói ra vì thế không thể thay đổi. Xét lại kinh Koran là mặc nhiên nhìn nhận hoặc Allah có thể sai (và như thế không thể là Allah akbar), hoặc Allah đã không nhập vào Muhammad ; trong cả hai trường hợp Hồi Giáo chỉ là một sự hiểu lầm. Đoạn 69 của kinh Koran qui định những kẻ thêm bớt kinh Koran sẽ bị chặt tay.
Nhưng Hồi Giáo bắt buộc phải xét lại vì không thể tồn tại với kinh điển hiện nay. Nó can thiệp trực tiếp vào quyền lực và chứa đựng quá nhiều điều không phù hợp với thế giới văn minh. Các tôn giáo lớn nói chung đều ra đời vì lý do chính trị như một phản ứng với một trật tự xã hội sẵn có và sau đó trở thành nền tảng cho một quyền lực chính trị mới, nhưng với những quan điểm khác nhau về tương quan giữa tôn giáo và chính trị, hay giữa Thượng Đế và Vua. Tựu chung có ba mô hình : trong quan điểm Thiên Chúa Giáo thượng đế và vua khác nhau và phân biệt với nhau (Jesus : hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, hãy trả cho Caesar những gì thuộc về Caesar) ; trong các xã hội Khổng và Phật Giáo vua là thượng đế ; trong các xã hội Hồi Giáo thượng đế là vua. Đối với Hồi Giáo chính thống tôn giáo là chính quyền và luật pháp, Sharia, chỉ là sự áp dụng trực tiếp của kinh Koran vào đời sống. Sự xét lại đã khiến Thiên Chúa Giáo mất rất nhiều ảnh hưởng, nhưng nó sẽ còn đau nhức hơn rất nhiều đối với Hồi Giáo.
Obama hoặc đã hời hợt hoặc đã mỵ dân khi đề cao Hồi Giáo như là một tôn giáo bao dung đã góp phần quan trọng cho nền văn minh của thế giới. Đúng là Hồi Giáo đã có đóng góp lớn, nhưng không lớn như ông đã nói. Còn bao dung thì chắc chắn là không, ngay chính những đoạn kinh Koran mà ông cắt để trích dẫn nếu đọc tiếp cũng thấy ngay những hình phạt ghê gớm dành cho kẻ bị coi là chống Hồi Giáo. Những câu Obama trích ra (ai giết một người vô tội cũng như giết cả nhân loại, ai cứu một người cũng như đã cứu cả nhân loại) cũng cần được tương đối hóa : chúng chỉ áp dụng cho người Hồi Giáo, những người không theo Hồi Giáo không vô tội, họ là những kẻ phản bội. Vô tình hay cố ý Obama cũng đã giải thích sai ý nghĩa của sự kiện nhiều phụ nữ đã được bầu vào địa vị lãnh đạo cao nhất tại những nước Hồi Giáo lớn như Turkey, Indonesia, Pakistan, Bangladesh. Điều đó hoàn toàn không chứng minh Hồi Giáo tôn trọng phụ nữ, cả kinh Koran lẫn luật Sharia đều không coi phụ nữ ra gì cả, những cuộc bầu cử đó đã chỉ chứng minh rằng quần chúng Hồi Giáo muốn thay đổi. Các lực lượng Hồi Giáo toàn nguyên biết như vậy và đã hành động hung bạo vì tuyệt vọng. Một tôn giáo có bao dung hay không không phải ở chỗ kinh sách có nói những điều nhân hậu, mà ở chỗ kinh sách không nói những điều nghiệt ngã, và cả Koran lẫn Sharia đều chứa đụng rất nhiều điều khắc nghiệt. Cũng không nên quên rằng bạo lực và thánh chiến nằm ngay trong bản chất của Hồi Giáo, trong bốn giáo chủ kế tiếp Muhammad ba người đã bị giết bởi chính những phe phái Hồi Giáo. Obama đã quá cường điệu khi tuyên bố : "trách nhiệm của tôi trong cương vị tổng thống Mỹ là chống lại những hình ảnh đúc khuôn về Hồi Giáo ở bất cứ nơi nào mà chúng xuất hiện". Đó là công việc của các nhà báo và các nhà nghiên cứu, tổng thống Mỹ có những trách nhiệm cần thiết và cấp bách hơn.
Nói như thế không phải là để chống Hồi Giáo. Hồi Giáo đã đem đến một tinh thần quan trọng, đó là sự liên đới giữa các tín đồ vào một lúc mà trên cả thế giới các xã hội được phân chia thành chủ và tớ, Thiên Chúa Giáo đã biến chất để trở thành một dụng cụ cai trị của các vua chúa. Đó đã là sức mạnh của Hồi Giáo khiến nó phát triển một cách mạnh mẽ và nhanh chóng như chưa bao giờ thấy trong lịch sử nhân loại. Mọi tôn giáo đều ra đời như một tiến bộ rồi dần dần không thích nghi với chính tiến bộ mà chúng tạo ra và trở thành một dụng cụ thống trị và một trở ngại cho tiến bộ. Hồi Giáo cũng không phải là một ngoại lệ. Cũng như Thiên Chúa Giáo và Khổng Giáo, Hồi Giáo sẽ phải trải qua một cuộc xét lại lớn, nhiều lần đau nhức hơn Thiên Chúa Giáo. Trong thế kỳ 21 rất có thể Hồi Giáo sẽ phải chịu chung số phận của Khổng Giáo tại Đông Á, nghĩa là mờ nhạt dần đi. Đó là điều đang xẩy ra tại Turkey ; tại những thành phố lớn, ngay cả tại các công viên, vào giờ trưa khi tiếng gọi cầu nguyện vang lên inh tai nhức óc từ các tháp chuông không còn ai cầu nguyện, người ta vẫn đi lại, trò chuyện, hút thuốc, uống cà phê như thường lệ, vào các mosque thì chỉ thấy lác đác vài chục người. Một trong những chuyển hóa quan trọng nhất của thế kỷ 21 sẽ là sự hoàn tất một tiến trình đã được khởi đầu và đẩy khá xa trong thế kỷ 20 : bình thường hóa chỗ đứng của Hồi Giáo trong xã hội.
Vấn đề thực sự của thế giới Hồi Giáo không phải là mâu thuẫn với Phương Tây, càng không phải là đụng độ với Thiên Chúa Giáo mà là vấn đề của Hồi Giáo với chính mình, nghĩa là hòa giải và thích nghi với dân chủ. Đó là sự thích nghi bắt buộc.
***
Dân chủ là một trong những vấn đề lớn mà Obama đề cập tới trong bài diễn văn Cairo. Đó cũng là đoạn mà ông nói ngắn nhất và khiến tôi thất vọng nhất. Ông là người sang trọng và quyền lực nhất thế giới, tôi chỉ là một người lưu vong, không có cả quyền đặt chân lên chính quê hương mình nhưng trong chừng mực mà một kẻ tầm thường cũng có thể có lý tôi phải nói rằng Obama đã sai. Obama nói rằng không một nước nào có quyền áp đặt một hệ thống chính trị lên một nước khác. Đúng, nhưng chỉ đúng một phần. Không phải hệ thống chính trị nào cũng chấp nhận được, có những giá trị mà mọi quốc gia phải tôn trọng và thể hiện. Và cộng đồng quốc tế phải áp đặt những giá trị này. Cũng như trong một nước không ai được quyền áp đặt một nhân sinh quan lên một cá nhân khác nhưng vẫn phải có luật pháp để bảo đảm một số giá trị chung được mọi người tuân thủ. Chúng ta không còn ở trong một thế giới man rợ. Obama định nghĩa dân chủ như nguyên tắc theo đó chính quyền phải phản ánh nguyện vọng của dân chúng, và mỗi chính quyền thể hiện nguyên tắc này theo cách riêng của mình, tùy theo truyền thống của mỗi dân tộc. Thật đáng buồn, đây đúng là ngôn ngữ của các chế độ độc tài bạo ngược. Theo Obama, những nguyện vọng của người dân là được nói những điều mình nghĩ, được có tiếng nói trong cách quản trị đất nước, được có một chính quyền không ăn cướp của dân và được sống theo cách mà mình chọn lựa. Cũng đúng, nhưng đây chỉ là dân chủ ở mức độ trừu tượng và mơ hồ, mức độ zero về mặt chính trị. Các chế độ độc tài cũng luôn luôn vỗ ngực tự xưng là phản ánh những nguyện vọng này của người dân. Chúng còn trâng tráo gọi bộ máy đàn áp là chính quyền nhân dân, uỷ ban nhân dân, tòa án nhân dân. Nhân loại, sau nhiều đấu tranh cam go và những hy sinh lớn, đã vượt qua được mức độ lãng mạn và nguyên tắc, mức độ zero, để đạt tới một định nghĩa tương đối rõ ràng cho một chế độ dân chủ : đó là một chế độ ít nhất bảo đảm tự do ngôn luận và báo chí, tự do thành lập và tham gia các tổ chức kể cả các chính đảng, tự do bầu cử và ứng cử. Đó là định nghĩa của dân chủ đã được quy định trong bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thành phần của hiến chương Liên Hiệp Quốc. Dân chủ với định nghĩa trên đây nằm trong công pháp quốc tế mà Liên Hiệp Quốc và mọi quốc gia có nhiệm vụ bảo đảm sự tuân thủ. Các chế độ độc tài bạo ngược vi phạm công ước quốc tế, thái độ đúng và hợp với công pháp quốc tế là đánh đổ chúng trừ khi cái giá phải trả quá cao, trong trường hợp này cũng phải gây sức ép tối đa.
Đây không phải là lần đầu tiên Obama nói về dân chủ và tự do một cách hời hợt. Trong bài diễn văn nhận chức Obama đã nói : "Đối với các chính quyền bịt miệng những người đối lập, chúng tôi nói các vị đi sai chiều lịch sử, nhưng nếu các vị chìa bàn tay thân thiện chúng tôi cũng sẽ nắm lấy". Tôi ngạc nhiên khi đọc những bài bình luận của một số người Việt hân hoan vì Obama đã lên án các chế độ bịt miệng đối lập. Các chế độ độc tài, trong đó có chế độ cộng sản Việt Nam, không mong gì hơn là được "lên án" như vậy.
***
Tuy vậy tôi vẫn hoan nghênh việc Obama đắc cử tổng thống Mỹ. Sau hai nhiệm kỳ của George W. Bush nó đã hòa giải thế giới với Hoa Kỳ, vừa đánh dấu một bước tiến ngoạn mục trong cuộc đấu tranh đẩy lùi tệ kỳ thị mầu da vừa tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc chiến đấu chống khủng bố. Tôi cũng không lo ngại lắm về nhận thức mà tôi nghĩ là thiếu hụt của ông. Xã hội dân sự Hoa Kỳ có tiếng nói quyết định và các tổ chức bảo vệ nhân quyền Mỹ vẫn rất mạnh, họ còn có ảnh hưởng lớn hơn với một chính quyền thuộc đảng Dân chủ. Vả lại chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ không thay đổi bao nhiêu dù là dưới một tổng thống Dân Chủ hay Cộng Hòa. Hoa Kỳ vẫn là một yểm trợ vững mạnh cho cuộc vận động dân chủ. Chính Obama phải thận trọng.
Mùa hè năm ngoái vào giữa lúc cuộc tranh cử tổng thống Mỹ đang sôi nổi, một người bạn thuộc đảng Dân Chủ hoan hỉ khoe với tôi rằng Obama có một ban viết diễn văn rất trẻ. Sự tươi mát của tuổi trẻ quả nhiên thể hiện trong văn phong những bài diễn văn của ông. Chính Obama cũng rất trẻ. Nhưng tuổi trẻ không phải bao giờ cũng là một ưu thế, đôi khi tuổi trẻ cũng là khoảng đời mà người ta chưa đủ thời giờ nghiên cứu và rà soát để gạt bỏ những ngộ nhận và bổ túc những thiếu sót. Tôi cũng nhận xét là trong bộ tham mưu của Obama không có một nhà tư tưởng chính trị nào dù đó là điều rất cần thiết ; tư tưởng khiến hoạt động chính trị có ý nghĩa lâu dài và cho phép người ta có thể uyển chuyển mà không mất định hướng. Obama trong cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng bằng những bài diễn văn dễ lọt tai nhưng đôi khi hụt hẫng về nhận thức có thể gây thất vọng cho những người thực sự hiểu biết và có tầm nhìn, những người cuối cùng cũng vẫn có vai trò lãnh đạo tinh thần và tạo ra dư luận.
Nguyễn Gia Kiểng
Nguồn : TL237, 07/2009