Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Đội ngũ lãnh đạo mới của Việt Nam thiếu kinh nghiệm đối ngoại

thanhtrung1

Việt Nam thanh lọc hàng ngũ lãnh đạo sau chiến dịch trấn áp tham nhũng - Ảnh minh họa : Nguyễn Xuân Phúc, Vũ Đức Đam, Phạm Bình Minh và Phạm Minh Chính

Cuộc đàn áp chống tham nhũng gần đây dẫn đến việc Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc phải từ chức có nghĩa là đội ngũ lãnh đạo mới của Việt Nam thiếu kinh nghiệm về chính sách đối ngoại

Hà Nội phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan khi cố gắng hình thành mối quan hệ đối tác ‘chiến lược’ tiềm năng với Hoa Kỳ, trong khi vẫn duy trì quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Hà Nội

Khi Việt Nam thanh lọc hàng ngũ lãnh đạo sau chiến dịch trấn áp tham nhũng, nhiều câu hỏi đã được đặt ra về việc đội ngũ mới thiếu kinh nghiệm về chính sách đối ngoại và điều đó có thể ảnh hưởng như thế nào đến khả năng điều hướng các thách thức ngoại giao trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung.

Tuần trước, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã từ chức sau khi có tin đồn ông sắp bị cách chức trong chiến dịch chống tham nhũng dẫn đến việc một số bộ trưởng bị cách chức.

Truyền thông nhà nước Việt Nam nói ông Phúc "nhận trách nhiệm chính trị với tư cách là người đứng đầu khi để một số cán bộ, trong đó có hai phó thủ tướng và ba bộ trưởng có vi phạm, khuyết điểm gây hậu quả rất nghiêm trọng".

Đầu tháng này, Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam đã bị cách chức phó thủ tướng vì hai vụ tham nhũng liên quan đến việc mua sắm bộ dụng cụ thử nghiệm Covid-19 và các chuyến bay giải cứu công dân Việt Nam bị mắc kẹt ở nước ngoài trong đại dịch.

Phạm Bình Minh là bộ trưởng bộ ngoại giao và Vũ Đức Đam phụ trách xử lý đại dịch. Thay thế họ là Trần Hồng Hà và Trần Lưu Quang. Cả hai đều không có kinh nghiệm chính sách đối ngoại.

Hà Hoàng Hợp, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện ISEAS Yusof-Ishak có trụ sở tại Singapore, cho biết thủ tướng đương nhiệm Phạm Minh Chính đã lãnh đạo ngoại giao của Việt Nam.

"Dưới sự lãnh đạo đối ngoại của ông Chính, quan hệ Việt-Mỹ và hành vi phòng ngừa rủi ro của Việt Nam đối với Trung Quốc [sẽ] không thay đổi," ông nói, đề cập đến mối quan hệ được cải thiện của Hà Nội và Washington trước những lo ngại chung về sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực.

Việc gìn giữ các mối quan hệ hiện tại đặt ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan đối với Việt Nam, vốn đang xem xét khả năng chuyển từ quan hệ đối tác toàn diện sang quan hệ đối tác "chiến lược" với cựu thù Hoa Kỳ đồng thời duy trì quan hệ hữu hảo với Trung Quốc, quốc gia láng giềng của Việt Nam. đối tác thương mại lớn nhất.

Ông Nguyễn Khắc Giang, nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam, cho biết xuất thân của chủ tịch nước tiếp theo sẽ không có tác động đáng kể đến định hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam vì vai trò này "phần lớn mang tính nghi thức".

Ông cho biết chính sách đối ngoại của đất nước đã được Đại hội Đảng năm 2021 quyết định và hướng dẫn chung và khó có thể thay đổi hướng đi.

Vì vậy, mặc dù ông Trần Lưu Quang "không có kinh nghiệm ở cấp chính quyền trung ương, chứ chưa nói đến chính sách đối ngoại", ông Giang cho biết việc bổ nhiệm phó thủ tướng sẽ không làm thay đổi đáng kể chính sách đối ngoại.

Ông Giang nói thêm : "Một phần vì vai trò chỉ giới hạn trong việc "giám sát" các hoạt động của Bộ Ngoại giao hơn là đưa ra các quyết định chính sách do Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương quyết định.

Tuy nhiên theo ông Gianh, việc ra đi của hai ông Nguyễn Xuân Phúc và Phạm Bình Minh, cả hai đều đóng "vai trò quan trọng trong thành công ngoại giao của Hà Nội trong những năm gần đây, có khả năng làm giảm khả năng điều hướng cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc cũng như đối phó với tranh chấp ở Biển Đông của Việt Nam".

Zachary Abuza, giáo sư về an ninh chiến lược tại Đại học Chiến tranh Quốc gia ở Washington xem sự thiếu kinh nghiệm về chính sách đối ngoại của ông Trần Lưu Quang là điều "đáng lo ngại". Ông Zachary Abuza cho biết ngoại trưởng Bùi Thanh Sơn có thể "là người ra đi tiếp theo", do chức bộ trưởng trong vụ bê bối chuyến bay giải cứu.

Nếu Bộ trưởng Công an Tô Lâm trở thành chủ tịch nước thì sẽ có "sự thiếu hụt kinh nghiệm về chính sách đối ngoại thực sự trong giới lãnh đạo cấp cao", Abuza nói.

Như vậy ông Lê Hoài Trung, đương kim Trưởng ban Đối ngoại Trung ương sẽ trở thành "chuyên gia chính sách đối ngoại cao cấp nhất", ông nói.

"Nếu ông Sơn bị đuổi, ông Lê Hoài Trung rất có thể sẽ trở thành Bộ trưởng Bộ Ngoại giao mới," ông nói thêm.

Bill Hayton, cộng tác viên của Chương trình Châu Á-Thái Bình Dương tại Chatham House và theo dõi Việt Nam lâu năm, cho biết các vấn đề đối ngoại là "ưu tiên thấp" đối với Hà Nội trong những năm gần đây.

Hayton nói : "Điều đảng muốn nhất là được yên ổn củng cố quyền lực," đồng thời cho biết thêm rằng bộ ngoại giao đã bị loại khỏi bộ chính trị và bị gạt ra ngoài lề trong chính trị trong nước.

"Việc lựa chọn tân phó Thủ tướng là Trần Lưu Quang chỉ có kinh nghiệm đối ngoại chỉ giới hạn ở một tỉnh giáp biên giới Campuchia, cho thấy sẽ có sự liên tục," Hayton nói thêm.

Ai sẽ là chủ tịch nước kế tiếp ?

Nói về việc Tô Lâm có nhiều khả năng được bổ nhiệm làm chủ tịch nước, Hayton cho biết có "rất nhiều tin đồn rằng ông ấy đã đảm nhận vị trí này".

"Tuy nhiên, việc ông ấy không được bổ nhiệm ngay lập tức cho thấy rằng có một số phản đối trong đảng đối với việc thăng tiến của ông ta," Hayton nói, đồng thời cho biết thêm rằng thủ tướng đương nhiệm và một số thành viên trong ban lãnh đạo xuất thân từ Bộ Công an.

Ông nói, có khả năng là "cánh an ninh của đảng muốn quay trở lại chủ nghĩa Lenin chính thống và nhận tín hiệu từ Trung Quốc".

Lãnh đạo Việt Nam coi Đảng cộng sản Trung Quốc "là một người bạn trong cuộc đấu tranh duy trì quyền kiểm soát Việt Nam", Hayton nói, đồng thời cho biết thêm rằng việc chuyển hướng "hướng tới một Việt Nam ‘Tập Cận Bình-hóa'" có thể sẽ "đối mặt với sự phản kháng ngày càng tăng trong vài năm tới" từ các thành phần khác trong đảng".

Trong những năm gần đây, Trung Quốc dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình không chỉ giải quyết vấn đề tham nhũng mà còn tăng cường kiểm soát và định hướng của nhà nước đối với nền kinh tế cũng như đàn áp xã hội dân sự.

Các ứng cử viên khác cho chức chủ tịch nước, theo ông Hà Hoàng Hợp là ủy viên bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam Võ Văn Thưởng, bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Nên, và Bí thư trung ương đảng Trương Thị Mai.

Maria Siow

Nguyên tác : Will Vietnam’s anti-corruption purge impact its foreign policy amid US-China rivalry ?, South China Morning Post, 24/01/2023

Khánh An dịch

Nguồn : VNTB, 24/01/2023

Published in Diễn đàn

Đại hội lần thứ 13 của Đảng cộng sản Việt Nam đã chọn ra 18 Ủy viên Bộ Chính trị, những lãnh đạo cao nhất trong Đảng. Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Viện Đại học George Mason và Viện CSIS, về một số dự đoán về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tương lai gần. 

doingoai1

Cô gái Việt Nam nhún nhảy giữa liên minh Hoa Kỳ và hữu nghị Trung Quốc – Tranh biếm họa

Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ : Sau khi có kết quả sắp xếp nhân sự lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam sau Đại hội 13, xin Giáo sư cho một số dự đoán về chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Hoa Kỳ những năm sắp tới.

Nguyễn Mạnh Hùng : Chính sách ngoại giao của Việt Nam đối với Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng hai yếu tố tương phản nhau. Về phương diện chiến lược, Việt Nam cần Hoa Kỳ như môt đối trọng với Trung Quốc. Về phương diện kinh tế, Việt Nam cần thị trường của Hoa Kỳ và đầu tư ngoại quốc trong đó có Hoa Kỳ, để phát triển. Tuy nhiên, Việt Nam không tin Hoa Kỳ vì đã từng là nạn nhân của những cuộc mặc cả giữa các nước lớn, cộng thêm với nghi ngờ rằng Hoa Kỳ muốn dùng áp lực nhân quyền để tạo "diễn biến hòa bình", thay đổi thể chế chính trị Việt Nam.

Việt Nam đã tạo được thế lơ lửng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc phù hơp với nhu cấu chiên lược của họ. Quan hệ hai nước từ ngày nối lại bang giao đã tiến triển thuận lợi vê mọi phương diện, cho nên tôi nghĩ là Việt Nam sẽ tiếp tục theo chiều hướng đó, trừ khi có biến động lớn trong khu vực hay trên thế giới.

Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ : Một số nhà quan sát tình hình Biển Đông cho rằng Trung Quốc sẽ còn tiếp tục hung hăng hơn trên Biển Đông. Theo ông, chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc, đặc biệt là vấn đề Biển Đông, sẽ như thế nào trong những năm sắp tới ?

Nguyễn Mạnh Hùng : Hiện nay, Việt Nam là nước kiểm soát được nhiều thực thể nhất ở Biển Đông, khoảng 22 hay 29 thực thể, tùy theo cách tính. Mục đích của Viêt Nam là giữ được chủ quyền và quyền khai thác tài nguyên trên đảo và biển mà mình hiện có. 

Đối với chính sách hung hăng lấn chiếm của Trung Quốc, Việt Nam theo đuổi chính sách vừa cộng tác vừa đấu tranh, nhượng nhịn nếu cần (như trường hợp ngưng hơp đồng khai thác dầu khí trong khu vưc bãi Tư Chính với Repsol năm 2017 và 2018, với Rosneft năm 2020), và tranh đấu nếu phải làm (như trường hợp của dàn khoan Hải Dương 981 năm 2014). Ngoài ra, họ sẽ tiếp tục những biện pháp hiện có. 

Thứ nhất tiếp tục chính sách ngoại giao "ba không" – không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nươc này để chống nước kia, không cho nước ngoải đặt căn cứ quân sự hay sử dụng lãnh thổ để chống nước khác—nhằm trấn an Trung Quốc, nhưng lại cảnh cáo "tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết…".

Thứ hai, chỉnh đốn quân đội và mua vũ khí ngoại quốc để tăng cường khả năng phòng thủ và củng cố lực lượng trên những thực thể trên biển mà mình đang kiểm soát.

Thứ ba, thi hành một chính sách cân bằng quyền lực mềm (soft balancing) bằng cách tăng cường hợp tác quốc phòng-an ninh với Hiêp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các nước lớn có khả năng đối trọng Trung Quốc, đặc biêt là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ.

Thứ tư, khuyến khích các cuộc tuần tra bảo vệ tự do lưu thông hàng hải và khẳng định sức mạnh của Hoa Kỳ, hoặc hành động đơn phương hoặc hợp tác Hoa Kỳ với các cường quốc quan tâm đến Biển Đông như Nhật Bản, Ấn Độ, Anh, và Pháp, hoặc có sự hiện diện của một hay nhiều quốc gia Đông Nam Á.

Thứ năm, tranh thủ sự ủng hộ của thế giới bằng hai cách. Một mặt thì tích cực tham dự và nâng cao vai trò của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế và khu vực ; mặt khác thì phổ biến và giải thích lập trường hợp lý, hợp pháp cùa mình căn cứ trên luât quốc tế, công ước về Luật Biển năm 1982, và phán quyết của của Tòa Trọng tài Quốc tế năm 2016.

Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ : Giáo sư có nhận xét về ông Phạm Minh Chính như một ngôi sao sáng sau Đại hội 13. Ông Chính từng là lãnh đạo Quảng Ninh, một trong những lãnh đạo lực lượng tình báo ngành công an, lãnh đạo tổ chức nhân sự của Đảng cộng sản Việt Nam. Theo ông, ông Chính sẽ theo đuổi chính sách kinh tế đối ngoại như thế nào ? 

Nguyễn Mạnh Hùng : Ông Nguyễn Xuân Phúc đã thành công phần nào trong nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế. Ông Chính sẽ phải cố gắng làm tốt hơn những thành quả ấy, và không thể rời mắt khỏi mục tiêu dài hạn là đến 2045 Việt Nam phải trở thành một nước "phát triển, thu nhập cao". 

Điều này có nghĩa là phải thu hút và quản lý tốt đầu tư ngoại quốc, phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích việc thành lập các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao, và khai thác hội nhập quốc tế. 

Việc trước mắt ông Chính phải làm là chuẩn bị khả năng thi hành các nghĩa vụ và khai thác các quyền lợi qua một loạt những hiệp ước thượng mại tự do mà Việt Nam đã ký kết như Hiệp định thương mại tự do Viêt Nam-EU (EVFTA), Hiệp định đối tác Kinh tế tòan diện khu vục (RCEP), Hiệp đinh Thượng mại tự do Việt-Anh (UKVFTA).

Ngoài ra, khi làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, ông Chính còn là Phó Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia về xây dựng các đơn vị hành chính-kinh tế. Khi lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh, ông Chính đã tỏ ra ủng hộ viêc thành lập các đặc khu kinh tế được tổ chức "tinh gọn và hiêu quả". Viêc dùng đăc khu kinh tế như môt thí điểm đã thành công ở Trung Quốc, là môt việc nên làm, và ông Chính đã có kinh nghiệm liên quan đến vấn đề này.

Tất cả những hoạt động kinh tế thương mại kể trên đều có liên quan đến an ninh quốc gia, không nhiều thi ít. Việc ông ấy có kinh nghiệm trong ngành tình báo, công an, không phải là môt điều dở nếu được áp dụng một cách hiệu quả và sáng suốt.

Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ : Một số nhà quan sát cho rằng Việt Nam muốn giữ được thế cân bằng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong những năm sắp tới. Ông đánh giá như thế nào về chiến lược này ? Theo ông, các lãnh đạo sau Đại hội 13 cần làm những gì, và có thể làm được gì để giữ thế "cân bằng" này ? 

Nguyễn Mạnh Hùng : Đó là chiến lược thông thường trong chính trị quôc tế. Cho tới nay, Việt Nam đã duy trì đươc thế này môt cách tuơng đối. Thế cân bằng này tùy thuộc vào khả năng Việt Nam giữ đươc ổn đinh trong nước, lãnh đạo không chia rẽ, và khả năng quốc phòng của chính mình. Nhưng nó tùy thuộc nhiều hơn vào quan hệ giữa các nước lớn. Nêu họ xung đột với nhau, Việt Nam sẽ bị lôi cuốn vào mối xung đột ấy và sẽ phải chọn bên. Nêu họ hòa hoãn và tương nhượng, Việt Nam có thể là "vật hy sinh" cho sự tương nhượng ấy.

Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ : Năm 2019, Trung Quốc thực hiện một chiến dịch xâm nhập sâu và dài ngày (hơn 3 tháng) vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Malaysia, Philippines. Lực lượng cảnh sát biển Trung Quốc mạnh hơn lực lượng của cả ba nước này cộng lại. Theo ông, ba nước này có thể thành lập lực lượng cảnh sát biển chung của ba nước không ? Một lực lượng chung như vậy có thể đối phó được với Trung Quốc không ? Hoa Kỳ hay Nhật Bản có thể giúp gì để hình thành sự liên kết như vậy hay không ?

Nguyễn Mạnh Hùng : Câu trả lơi là không, không, và không. Một, không có khả năng ba nước thành lập lưc lương cảnh sát biển chung. Hai, lưc lượng ây, nếu có thành lập, cũng không đủ sức đương đầu với Trung Quốc. Ba, Hoa Kỳ và Nhật Bản không có khả năng giúp thành lập lực lượng chung này.

Bất cứ môt sự liên kết nào cũng cần sự chống lưng của Hoa Kỳ, mà hiện nay các nước nhỏ có tranh chấp chủ quyền biển đảo vơi Trung Quốc không tin tưởng vào khả năng và quyết tâm của Hoa Kỳ trước sự lấn lướt của Trung Quốc.

Nếu Hoa Kỳ có quyết tâm thì điều khả dĩ có thể làm là tuần tra chung của hải quân trong "Tứ giác kim cương" gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc cộng thêm với ít nhất hai trong số ba nươc Đông Nam Á kể trên. 

Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ : Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ xin chân thành cảm ơn Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đã dành thời gian trao đổi những vấn đề quan trọng này. 

Nguyễn Mạnh Hùng

Nguồn : Tạp chí nghiên cứu Việt-Mỹ, 15/02/2021

Published in Diễn đàn
mardi, 02 mai 2017 14:33

Nghề làm "…mười phương"

Đảng cộng sản Việt Nam, nói cho đúng và chính xác hơn là Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam - để những cá thể, cũng là đảng viên cộng sản nhưng không hành cùng nghề, khỏi bị xúc phạm - từ lâu, có một chính sách đối ngoại cổ quái gọi là chính sách "làm bạn với tất cả".

lamban1

Chính sách "làm bạn với tất cả" của Đảng cộng sản Viêt Nam là một thứ chính sách gộp tất cả người và ma quỷ vào một rọ

Thế giới là một tập hợp các quốc gia dân tộc có những quyền lợi, triết lý sống và lịch sử, truyền thống và văn hóa khác nhau. Ở đấy có những khái niệm triết học và đạo đức khác nhau. Cùng một sự việc, ở quốc gia này được gắn huân chương nhưng ở quốc gia khác có thể bị xử bắn. Ở nơi này, quyền của người dân là quy tắc làm luật, luật thể chế hóa quyền dân và bảo vệ quyền dân, quyền dân là tối thượng, trong khi ở nơi khác, nhà nước làm ra luật để quy định quyền của người dân, mọi cái đều "do luật định", dụng luật làm công cụ để khống chế và tước đoạt quyền của dân.

Triết lý sống có nguồn gốc lịch sử và văn hóa khác nhau làm ra vũ trụ quan và nhân sinh quan của mỗi quốc gia khác nhau, thậm chí ngược chiều, đối kháng nhau. Lợi ích dân tộc của mỗi quốc gia không giống nhau, vì vậy, mối quan hệ giữa các quốc gia là khác nhau, có thể xung khắc lẫn nhau, thậm chí đối nghịch nhau.

Thế giới qua lịch sử phát triển hàng nghìn năm đã trở thành một mớ hỗn độn những quốc gia tốt xấu, bạn thù khác nhau. Có những kẻ tìm cách giết chính dân của mình. Có những kẻ chỉ lăm le chiếm đoạt của người khác. Tóm lại là thế giới có những người tốt, những con người phục thiện, nhưng cũng luôn tồn tại những tên cướp, những con ma và những con quỷ.

Chính sách "làm bạn với tất cả" của Đảng cộng sản Viêt Nam là một thứ chính sách gộp tất cả người và ma quỷ vào một rọ, và Bộ chính trị làm bạn với tất cả, đi đêm, chung chạ chăn gối với tất cả !?

Ngày xưa, ở cái thời mà cuộc đấu tranh giữa "hai phe" là cuộc đấu tranh "một mất một còn", cái việc lẫn lộn bạn thù là tội "mất lập trường giai cấp", nhẹ là tội "phản bội cách mạng", nặng thì thành "phản quốc". Còn bây giờ, như ông Phạm Bình Minh, gặp ai cũng cười, gặp cả người lẫn quỷ đều toe toét, hồ hởi tay bắt mặt mừng, thì vượt cả chính người thân sinh ra ông, không chỉ Ủy viên bộ chính trị, mà còn leo lên Phó thủ tướng. Còn như ông Nguyễn Phú Trọng, đối diện cả hai đối tượng không đội chung trời với nhau như Thủ tướng Nhật và Chủ tịch Trung Quốc đều "chưa bao giờ tốt đẹp như bây giờ", thì vẫn ung dung Tổng bí thư, có khi cả hai nhiệm kỳ.

Trung Quốc nổi tiếng "rởm". Thế giới gọi Trung Quốc là "Vương quốc đồ đểu", "đểu từ túi ví Louis Vuilton tới luận án tiến sĩ", "hàng hóa rởm mà chính trị cũng đểu". Đến nỗi bây giờ, "đểu như Chai" (Chine) là câu thành ngữ phổ biến trên 34 thứ tiếng khác khau, từ Châu Phi tới Mỹ La-tinh, từ Châu Âu sang Châu Á, chỗ nào thấy Tàu, người ta cũng chạy, cũng tránh. Một quốc gia lớn, một nền văn hóa đồ sộ, nhưng là quốc gia duy nhất trên trái đất chỉ có kẻ thù công khai và kẻ thù giấu mặt, không có bạn.

Nhưng có "tình anh em" với ông Trọng và "thắm thiết, như môi răng" với Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam.

Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với Ma mặc áo giấy. Đừng nói anh "chỉ lợi dụng". Trong khi anh lợi dụng nó một, thì nó lợi dụng anh mười. Anh nhỏ yếu hơn nó, và anh không đủ "đểu" bằng nó.

Trong một lần trả lời phỏng vấn, ngày 12/11/2016, khi ký giả hỏi về vấn đề Việt Nam, tân tổng thống Mỹ Donald Trump nói thế này:

"Đảng Cộng sản Việt Nam ư ?!

Tôi nói thật, Bao năm qua họ chỉ lợi dụng Mỹ, họ chơi trò nước đôi đi hai dây giữa Chúng ta và Trung Quốc !...

Họ kêu gọi Mỹ và các nước khác ủng hộ họ trong vấn đề Biển Đông và các vấn đề xung đột liên quan đến Trung Quốc ; nhưng chính họ lại phục tùng, vâng lời Trung Quốc như một sứ giả chư hầu thời phong kiến.
Tôi là người ngay thẳng và không ưa những kẻ "hai lưỡi" ; những tay lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thậm chí còn có 3-4 lưỡi...

Không có TPP gì cả, không có tạo điều kiện hay viện trợ gì cả, và không có cho nhập khẩu hưởng lợi từ Mỹ nữa ... Và nếu họ còn chơi trò "lợi dụng" nữa thì Chúng ta nên rút quân khỏi Biển Đông... để cho "Anh Em chúng nó xé xác nhau".

Đến lúc nào đó người dân Việt Nam thật sự muốn từ bỏ cái đám tham nhũng vơ vét ấy thì Chúng ta mới suy nghĩ về chính sách tốt hơn... cho đất nước Việt Nam, và tôi luôn lên tiếng bảo vệ tiếng nói của toàn dân Việt nam dám nói về Đảng Cộng sản Việt Nam...".

Người ta cứ bảo Tổng thống Trump là con buôn bất động sản, chả có kinh nghiệm gì về chính trị, nhưng trên giới, chưa một lãnh đạo quốc gia nào, với chỉ một vài lời, lại nói đúng bản chất của ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam hơn vậy. Không một từ nào thừa, không một từ nào sai. Mặc dù, trên thực tế, không phải chỉ có hai, ba hay bốn, mà là 150 lưỡi. Hiện tại Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 150 quốc gia, Việt Nam làm bạn với tất cả 150 quốc gia đó, mặc dù các quốc gia này nói tiếng khác nhau, có lợi ích khác nhau và có quan điểm bạn thù khác nhau.

Trong chuyến đi thăm đang được chuẩn bị của ông Nguyễn Xuân Phúc tới Mỹ, một mục tiêu có thể rất quan trọng là, hoặc Mỹ quay lại TPP, hoặc Mỹ chấp nhận một hiệp định tự do song phương với Việt Nam.

Và ông Phúc biết chắc rằng điều kiện duy nhất để Mỹ chấp nhận đàm phán thương lượng, một là Việt Nam phải từ bỏ chính sách đu dây lươn lẹo, hai là chấp nhận cải cách dân chủ đích thực. Muốn tăng trưởng chỉ để nuôi béo bọn quan lại cộng sản tham nhũng thì ông Trump đã dứt khoát rồi.

Chín năm liên tục suy thoái, và quý I chỉ đạt 5,1%, vốn đầu tư FDI dừng không tăng, doanh nghiệp nước ngoài hoặc rút ra, hoặc nghe ngóng, không chịu bổ sung vốn mở rộng sản xuất. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới đón đầu TPP, bây giờ rút vốn, đóng cửa hàng loạt. Hiệp định tự do thương mại với Châu Âu (EVFTA), cứu cánh nếu TPP thất bại, không khai triển được vì nhân quyền. Bộ trưởng Trần Quốc Tuấn tự an ủi : không có TPP Việt Nam vẫn còn 16 hiệp định thương mại khác", nhưng ông Tuấn cũng biết rằng cả 16 hiệp định này, chua có chỗ nào có giá trị thực tiễn.

Kết quả là xuất khẩu năm 2017 không có lối thoát, ngân sách không đủ tiền chi thường xuyên, lấy gì cho đầu tư, đánh vỉa hè có thể làm giảm 13% đóng góp của thị trường nội địa, nợ công sẽ khiến nền tài chính sụp đổ nếu không có tăng trưởng.

Khi bắt buộc phải nói "khả năng tăng trưởng vẫn còn tốt lắm" là ông Trọng chỉ tự an ủi. Ông thừa biết khủng hoảng là không tránh khỏi. 15 cái hiệp định mà ông ký hồi tháng 1/2017 với Trung Quốc, nếu không nhằm bán nước thì là nằm trong cái kế và cái thế đó.

Nếu từ bỏ lập trường giai cấp vô sản của chủ nghĩa Mác Lê, nghĩa là thế giới vốn không có đối kháng vô sản và tư sản, thì thế giới vẫn còn khác biệt giữa Dân chủ và phản Dân chủ. Hiện tại Trung Quốc chưa có dân chủ thì Trung quốc là đối kháng với phần còn lại của thế giới.

Nói tóm lại là thế này : Những điều ông Trump nói là nói hộ các chính tị gia khác của các quốc gia khác. Có nghĩa là không ai trên thế giới không biết cái trò lươn lẹo của các vị trong Bộ chính trị cộng sản Việt Nam. Hãy bỏ cái trò gặp ai cũng cười, cả với những người đang muốn nhổ nước bọt, cũng toét miệng ra cười. Hãy bỏ cái trò đi với cả người lẫn quỷ. Làm gì có thứ màu vừa trắng vừa đen. Làm gì có thứ bạn hữu với tất cả.

Ngược lại, thì cứ "mặc xác nó", để cho "anh em nó xé xác nhau».

Người Việt ghét nhất nghề chung chạ, xó xỉnh nào cũng nằm, chăn chiếu nào cũng đắp, cho nên ngay trong chính giới "bán hoa" cũng lưu truyền bao đời câu châm ngôn "đánh đĩ mừơi phương, cũng để một phương lấy chồng". Đây có thể là lời khuyên thật lòng đối với ông Phạm Bình Minh và ông Nguyễn Phú Trọng.

Paris, 02/05/2017

Bùi Quang Vơm

Published in Quan điểm

Vài suy nghĩ khi đọc bài "Chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạn mới" của tác giả Nguyễn Quang Dy

Tôi không biết có phải tác giả, ông Nguyễn Quang Dy là người đã từng học tập và nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Úc (ANU, 1976-1979), Đại học Harvard (Nieman Fellow, 1992-1993), công tác tại Bộ Ngoại giao (1971-2005). Chuyên gia về nghiên cứu quốc tế, truyền thông báo chí, và đào tạo ; cố vấn cấp cao cho một số tổ chức/chương trình đào tạo ; hiện nay là nhà báo tự do và nghiên cứu/tư vấn độc lập.

vn0

Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn mới - Nguồn : http://vnhsts.blogspot.fr

Ông Nguyễn Quang Dy vừa có một bài viết mới "Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn mới". Đây là một bài viết công phu, có tính tổng hợp cao. Tác giả đã phân tích rõ ràng và chi tiết tình hình chính trị của Việt Nam và thế giới sau "cơn địa chấn chính trị Mỹ" với tân tổng thống Donald Trump.

Thế giới đang đứng trước một bước ngoặc mới, trật tự thế giới được thiết lập sau chiến tranh thế giới thứ Hai có thể bị đảo lộn hoàn toàn bởi ê-kíp của ông Trump.

Năm 1972, với "đạo diễn" Kissinger, Mỹ quyết định "bỏ rơi" đồng minh Việt Nam Cộng Hòa để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, bắt tay và làm ăn với Trung Quốc để chống Liên Xô thì nay ông Trump (có vẻ) đang làm ngược lại : hòa hoãn với Nga để chống Trung Quốc. (Tôi thì nghi ngờ ông Trump không thật lòng chống Trung Quốc vì ông đã rút khỏi hiệp ước TPP, một công cụ để kìm hãm Trung Quốc). Mỹ có lý do để làm như vậy vì Trung Quốc đã "trỗi dậy không hòa bình". Trung Quốc vừa hưởng lợi nhờ giao thương với Mỹ vừa thách thức vai trò bá chủ thế giới của Mỹ. Mỹ đã mất kiên nhẫn trước một Trung Quốc lớn mạnh và luôn "được đằng chân lân đằng đầu". Trong cuộc so găng này Mỹ "đánh" và Trung Quốc chỉ "đỡ" chứ không thể "đánh lại" và cuộc chiến này chỉ dừng ở chổ Mỹ sẽ cô lập Trung Quốc và giảm sự thâm thủng ngoại thương với Trung Quốc.

Theo ông Nguyễn Quang Dy thì đã đến lúc "Việt Nam phải xoay trục". Chính sách "đu dây" giữa Mỹ và Trung Quốc của Việt Nam hết thời. "Đã đến lúc phải "kiểm toán" chính sách đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ "Hậu Thành Đô" (1990-2016), trên cơ sở thành công hay thất bại. Qua mấy thập kỷ, Việt Nam đã bị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, cả về kinh tế, chính trị, và đối ngoại, vì mắc phải cái vòng "kim cô". Muốn khắc phục những hệ lụy to lớn và lâu dài đó, Việt Nam phải đổi mới thể chế toàn diện, cả về kinh tế lẫn chính trị, cả về đối nội lẫn đối ngoại."

"Chính sách đối ngoại giai đoạn mới phải giúp Việt Nam thoát khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc, để quan hệ dựa trên "tái cân bằng tích cực" (active rebalance). Tái cân bằng tích cực không phải là "đu dây", và "thoát Trung" không có nghĩa là quay lưng lại với Trung Quốc".

Trung Quốc ngày càng bị cô lập và các nguy cơ khiến Trung Quốc sụp đổ liên quan đến môi trường, kinh tế, chính trị càng bị khoét sâu và bùng phát. Việt Nam muốn dựa vào Trung Quốc cũng không được vì Trung Quốc lo cho mình còn không được thì làm sao lo cho Việt Nam.

Ông Nguyễn Quang Dy cho rằng chuyến thăm Mỹ của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tháng 7/2015 là một bước ngoặc trong quan hệ Việt-Mỹ để hai nước có thể trở thành "đối tác toàn diện". Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội này trong 8 năm cầm quyền của Obama với những chính trị gia Mỹ thân Việt Nam như John McCain, John Kerry…

Tác giả đưa ra ba tiêu chí cơ bản cho chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn mới :

- Một chính sách đối ngoại "độc lập trưởng thành" phải nhất quán về tư duy chiến lược, lấy lợi ích dân tộc làm mục tiêu tối hậu, không lệ thuộc vào ý thức hệ đã lỗi thời. Đã đến lúc người Việt phải đổi mới tư duy triệt để, không thể tiếp tục "đu dây" cả về đối nội và đối ngoại tại ngã ba đường, như mấy thập kỷ qua.

- Một chính sách đối ngoại "tái cân bằng tích cực" phải dựa trên sự cân đối và tương hỗ giữa đối nội và đối ngoại, giữa lợi ích quốc gia và hội nhập quốc tế, giữa cải cách thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị, để phát triển bền vững và dân chủ hóa.

- Một chính sách đối ngoại "hội nhập tích cực" phải giúp các doanh nghiệp có điều kiện và cơ hội để hội nhập quốc tế, tham gia chuỗi giá trị và cung ứng toàn cầu…

Ông Nguyễn Quang Dy kết luận :

Khi môi trường quốc tế và khu vực có nhiều biến động khó lường, và tình hình kinh tế, chính trị trong nước có nhiều bất ổn, đòi hỏi phải cải cách thể chế toàn diện (cả kinh tế và chính trị), thì chính sách đối ngoại cũng phải đổi mới theo tương ứng (cf. bài đính kèm).

Điều này thì ai cũng rõ và chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ông. Tuy nhiên việc "cải cách thể chế toàn diện, cả kinh tế và chính trị" bằng cách nào ? Ai, lực lượng nào có thể làm được việc đó ?

Tôi có thể cảm nhận được sự giằng xé và mâu thuẫn trong tâm hồn ông. Là một cựu quan chức của chế độ nhưng ông không hề nhắc đến vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam hay chính quyền Việt Nam một câu nào trong suốt bài viết và kết luận của mình. Có lẽ ông cũng hiểu được rằng Đảng Cộng sản Việt Nam không thể nào thay đổi để (có thể) tìm kiếm bất cứ một giải pháp cho đất nước. Tôi đồng ý với ông điểm này. Nếu thay đổi được thì họ (Đảng Cộng sản Việt Nam) đã thay đổi. Họ đã cầm quyền 72 năm nay chứ không phải mới đây. Tôi nghĩ là họ cũng muốn thay đổi nhưng không thể được vì cơ chế độc tài toàn trị không cho phép họ làm việc đó. Bất cứ một ý kiến hay quan điểm khác biệt đều bị bộ máy đảng đào thải ngay tức khắc. Từ cựu ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đến Trần Xuân Bách đều chung một số phận.

Ngay cả "nỗ lực phi thường" của ông Nguyễn Phú Trọng khi gác sang một bên mớ lý luận giáo điều và lỗi thời để xích lại gần Mỹ qua cuộc thăm viếng hồi tháng 7 năm 2015 cũng đã không dẫn đến đâu. Các thế lực bảo thủ trong đảng sẽ phá hoại mọi nỗ lực thay đổi và cải cách dù là nhỏ nhất. Trước thềm năm mới Đinh Dậu 2017, ông Hà Đăng, cựu Trưởng ban Tư tưởng và Văn hóa Trung ương (Ban Tuyên giáo) đã viết trên tờ Quân Đội Nhân Dân rằng "Việt Nam sẽ giữ vững định hướng Xã hội chủ nghĩa, đổi mới nhưng không đổi màu…". Quyền lợi của đảng luôn được đặt lên trên quyền lợi của đất nước. Việt Nam "chơi" với Mỹ chỉ để câu giờ chứ không thật lòng (1).

Dù biết thế nhưng ông Nguyễn Quang Dy vẫn tự mâu thuẫn khi viết " "Báo cáo Việt Nam 2035" chính là đề cương đổi mới, làm cơ sở xây dựng chính sách đối ngoại thời kỳ mới. Muốn thay đổi, phải gắn kết được trên với dưới, trong với ngoài, để huy động tối đa nguồn lực của dân tộc, nhằm kiến tạo một quốc gia giàu mạnh và văn minh. Đến lúc người Việt phải chứng minh Việt Nam không phải là một quốc gia hèn kém và lệ thuộc, quen dựa vào viện trợ nước ngoài, rằng người Việt Nam có thể hòa giải dân tộc, đứng dậy từ đổ nát và li tán, để tái tạo một quốc gia độc lập và dân chủ. Chỉ có độc lập và dân chủ mới thu phục được nhân tâm để kiến tạo một quốc gia giàu mạnh và văn minh".

Tôi tìm hiểu và được biết nội dung của "Báo cáo Việt Nam 2035" là : "Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ" do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ngân hàng Thế giới (World Bank) thực hiện (công bố ngày 23/02/2016). Báo cáo gồm 7 chương, nghiên cứu sâu về 3 trụ cột phát triển với 6 chuyển đổi lớn, phác thảo các chiến lược phát triển thích hợp với xuất phát điểm của một nước thu nhập trung bình thấp trong bối cảnh thế giới đầy biến động, nhằm đưa Việt Nam trở thành nước thu nhập cao hoặc cận trên của thu nhập trung bình cao đến năm 2035. Ba trụ cột chính của Báo cáo gồm : Thịnh vượng về kinh tế đi đôi với bền vững về môi trường ; Thúc đẩy công bằng và hòa nhập xã hội ; Tăng cường năng lực và trách nhiệm giải trình của nhà nước.

Bản báo cáo này cũng như bao "báo cáo" và đề nghị khác, đều chủ quan và không thể thực hiện được trong một thể chế độc tài toàn trị. Tác giả nghiên cứu và viết nhiều về Trung Quốc nên cũng rõ, ngay cả mô hình của Trung Quốc cũng đang gặp vấn đề lớn huống gì Việt Nam, một bản sao nhỏ và mờ nhạt của Trung Quốc ?

Điều mỉa mai và bi hài nhất trong bản báo cáo 2035 là mục tiêu chính : "Thịnh vượng về kinh tế đi đôi với bền vững về môi trường" đã bị phá sản ngay lập tức. Tháng 2/2016 bản báo cáo ra đời thì 2 tháng sau (4/2016) xảy ra thảm họa Formosa. Chính quyền Việt Nam không những không giải quyết được thảm họa này mà còn cấp phép cho một dự án "Formosa 2" khác là dự án Thép Cà Ná-Ninh Thuận…

Tôi cho rằng mỗi người mỗi quan điểm và suy nghĩ nhưng theo quan điểm chúng tôi thì giải pháp cho Việt Nam chỉ có thể đến từ bên ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Tức là từ một liên minh chính trị dân chủ không cộng sản. Có thể tác giả và nhiều người sẽ hỏi : Ai, Đâu ? Tổ chức nào có thể làm giải pháp thay thế cho "giải pháp cộng sản" ? Nếu trí thức Việt Nam còn hỏi câu đó thì chứng tỏ rằng trí thức Việt Nam vẫn chưa vượt qua được cái di sản nặng nề của văn hóa Khổng giáo. Chính tầng lớp trí thức Việt Nam phải đứng dậy và nhận lãnh trách nhiệm tham gia, xây dựng một tổ chức chính trị dân chủ hùng mạnh và có tầm vóc để làm giải pháp cho đất nước. Nếu trí thức Việt Nam không làm thì ai sẽ làm việc đó ?

Những "trí thức cộng sản" trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam cần nhìn rõ thời cuộc để lấy quyết định thoát khỏi con tàu sắp đắm. Nhanh chóng rời bỏ đảng để thành lập một lực lượng chính trị mới sau đó liên minh với các tổ chức dân chủ đối lập để cùng nhau kiến tạo lại đất nước, cùng nhau mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam.

Việt Hoàng (11/02/2017)

(1)http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-38650446

**********************

Chính sách Đối ngoại Viêt Nam Giai đoạn Mới

Nguyễn Quang Dy, Vietstudies, 03/02/2017

Trước cơn địa chấn chính trị với hệ quả khôn lường đang diễn ra tại Mỹ và toàn cầu, trước đám mây đen và sóng dữ tại Biển Đông, con tàu Việt Nam phải làm thế nào để thoát hiểm và vượt ra biển lớn ? Đây là thách thức to lớn và cơ hội mong manh đối với Việt Nam, tại bước ngoặt lịch sử khi thế giới đang bước sang một giai đoạn mới. 

Bước ngoặt lịch sử

Tuy đã hơn bẩy thập kỷ sau ngày độc lập (2/9/1945) và hơn bốn thập kỷ sau ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam (30/4/1975), nhưng đất nước dường như vẫn còn luẩn quẩn tại ngã ba đường của lịch sử. Việt Nam có quyết tâm đổi mới thể chế toàn diện hay không ? Có thực sự đi theo con đường kinh tế thị trường và dân chủ hóa hay không ? Liệu tranh luận về "hai con đường" đã đến lúc ngã ngũ, hay Việt Nam vẫn tiếp tục "đu dây" ? 

Một yếu tố mới xuất hiện, như một cơn địa chấn chính trị đang xô đẩy Việt Nam phải chọn một con đường. Ngày 8/11/2016 là "ngày định mệnh" đối với nước Mỹ (cũng như nhiều nước khác), khi Donald Trump bất ngờ thắng cử, trở thành tổng thống thứ 45 của Mỹ. Đó là một chính biến làm thay đổi cuộc chơi (game changer), khiến nước Mỹ (và phần lớn thế giới) ngỡ ngàng, bối rối và lo sợ. Đó không phải chỉ là sự kiện thay đổi tổng thống Mỹ như "đến hẹn lại lên", mà là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một giai đoạn mới bất định. Khủng hoảng chính trị Mỹ có thể làm đảo lộn trật tự thế giới, "như khi Liên Xô sụp đổ" năm 1991 ("America : the Failed State", Francis Fukuyama, Prospect, December 13, 2016).

Cơn địa chấn chính trị bất ngờ và bất định này đang làm nước Mỹ chia rẽ sâu sắc, đe dọa trật tự thế giới cũ và quan hệ quốc tế. Trong cuốn sách mới xuất bản, Richard Haass (Chủ tịch Council on Foreign Relations) nhận xét rằng từ đầu năm 2017, chúng ta đang chứng kiến "sự đảo lộn có tính hệ thống" (systemic disorder) và "mất phương hướng chiến lược" (strategic disorientation). ("A World in Disarray : American foreign Policy and the Crisis of the Old Order", Richard Haass, Penguin Press, January 2017).

Nếu Donald Trump chơi lá bài Nga để chống Tàu (khác với Nixon-Kissinger chơi lá bài Tàu để chống Nga trước đây) thì ông ta có thể làm đảo lộn bàn cờ chiến lược Biển Đông, cũng như chính sách đối ngoại của các nước Đông Á và ASEAN (trong đó có Việt Nam). Học thuyết Kissinger về tam giác chiến lược Mỹ-Nga-Trung có thể bị đảo ngược ("Reverse Kissinger", Blake Franko, American Conservative, January 10, 2017).

Nghịch lý Donald Trump là một hiện tượng lạ, nhưng đã có tiền lệ trong lịch sử. Thời xưa tại Trung Quốc, Lã Bất Vi ngộ ra rằng "buôn vua" lãi hơn tất cả, nên đã bỏ kinh doanh đi "buôn vua" và dựng lên Tần Thủy Hoàng. Lã Bất Vi còn đúc kết kinh nghiệm viết "Lã Thị Xuân Thu". Nay tại Mỹ, Donald Trump cũng bỏ kinh doanh bất động sản, nhưng không "buôn vua" mà làm vua luôn. Donald Trump là Lã Bất Vi của nước Mỹ !

Trump vốn là con người thất thường, nên chính sách của Trump cũng bất thường. Đặc điểm chính sách của Trump là hành động ngay (không cần nghĩ trước), vì vậy mọi chính sách của chính quyền Trump có thể là "lâm thời" (ad hoc). Chính vì Trump thiếu nhất quán nên làm thiên hạ khó đoán. Lệnh cấm nhập cảnh (travel ban) đối với 7 nước Hồi giáo là một ví dụ, đang gây tranh cãi và phản ứng làm náo loạn cả nước Mỹ.

Trong khi Trump quyết định rút khỏi TPP (bỏ ngỏ khu vực này cho Trung Quốc thao túng) thì ông ấy lại bổ nhiệm những nhân vật "diều hâu" chống Trung Quốc (như Peter Navarro và Rex Tillerson) vào những vị trí then chốt. Trước đây, Nixon-Kissinger đã "vô tình" tạo ra con quái vật Frankenstein và dung dưỡng nó lớn mạnh bằng kế sách "Constructive Engagement", nay Trump lại "vô ý" rút khỏi TPP vì "America First", mà hệ quả là bỏ rơi khu vực này để nó tha hồ lũng đoạn. Trung Quốc có thể thay thế TPP (do Mỹ đứng đầu) bằng RCEP (do Trung Quốc cầm lái), phân hóa và làm đảo lộn trật tự của Mỹ tại khu vực này.

Sắp xếp nhân sự

Sắp xếp nhân sự chủ chốt của Trump chính là dấu hiệu về đường lối chính sách (đối nội cũng như đối ngoại). Không chờ nhậm chức (20/1/2017) Trump đã bất ngờ ra tay trước bằng mấy nước cờ táo bạo, làm đảo lộn bàn cờ quốc gia lẫn quốc tế, đe dọa xóa sổ di sản của Tổng thống Obama và các đời tổng thống trước đó. Theo Newt Gingrich, "khoảng 60 hoặc 70% sắc lệnh của Obama sẽ bị Trump hủy bỏ" (Fox News, 26/12/2016).

Thứ nhất, Trump không đợi Trung Quốc nắn gân mà đã phá lệ, thách thức Trung Quốc trước bằng cuộc điện đàm với tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn (2/12/2016). Sự kiện đó không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả chuẩn bị nhiều tuần trước đó, giữa các quan chức hàng đầu hai bên (Bob Dole, Reince Priebus, Edwin Feulner). Bằng 10 phút điện đàm, Trump đe dọa làm sụp đổ chính sách "Một Trung Quốc" đã tồn tại hơn 4 thập kỷ. Tiếp theo điện đàm, Trump còn khẳng định, "Tôi quá hiểu chính sách ‘Một Trung Quốc’, nhưng tôi không hiểu tại sao chúng ta bị ràng buộc bởi chính sách đó" (Fox News, 11/12/2016).

Thứ hai, Trump bổ nhiệm Peter Navarro đứng đầu Hội đồng Thương mại Quốc gia, có văn phòng ngay trong Nhà Trắng, có nhiệm vụ phối hợp chính sách kinh tế để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Navarro là nhân vật chống Tàu, tác giả cuốn sách (và bộ phim) "Chết Bởi Trung Quốc", nay trở thành nhà kinh tế quyền lực nhất. Bắc Kinh bị sốc trước quyết định bổ nhiệm Peter Navarro, cũng như Wilbur Ross (Bộ trưởng Thương mại), Robert Lighthier (Đại diện Thương mại). Sau cuộc điện đàm với Thái Anh Văn, việc bổ nhiệm ba nhân vật "diều hâu" chống Tàu là tín hiệu rõ ràng về ưu tiên của Trump. Chiến tranh thương mại và chạy đua vũ trang với Trung Quốc chỉ là vấn đề thời gian. Có nhiều lý do để Trung quốc lo ngại vì kinh tế đang xuống dốc và chính trị bất ổn. ("Peter Navarro is about to become one of the world’s most powerful economists", Economist, Jan 21, 2017).

Thứ ba, Trump bổ nhiệm Rex Tillerson làm Ngoại trưởng, một quyết định gây tranh cãi, không phải chỉ vì Tillerson là CEO của Exxon-Mobil, mà còn là nhân vật thân với Putin. Phát biểu của Tillerson trong buổi điều trần tại Thượng Viện (12/1/2017) càng làm lãnh đạo Trung Quốc bị sốc. Tillerson đã nói thẳng thừng rằng chiến dịch Trung Quốc xây đảo nhân tạo trị giá hàng tỷ đô-la tại Biển Đông (với tài nguyên dầu khí) là "bất hợp pháp và giống Nga chiếm Crimea…" và "Chúng ta sẽ nói rõ với Trung Quốc rằng trước hết, họ phải chấm dứt xây dựng đảo và thứ hai, chúng ta sẽ không cho phép họ tiếp cận các đảo này…".

Đó là một tín hiệu thay đổi lớn trong quan điểm của Mỹ về Biển Đông, với hàm ý là Mỹ sẽ dùng sức mạnh quân sự để ngăn chặn Trung Quốc bành trướng. Phát biểu của Tillerson đã làm chính giới và dư luận Trung Quốc bất ngờ và tức giận. Thực ra, Tillerson từ lâu đã lo ngại về Trung Quốc và thấy phải chống lại ý đồ quân sự hóa và bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông, sau vụ Exxon-Mobil (và các công ty khác) bị Trung Quốc ngăn cấm hợp tác dầu khí với Việt Nam. ("Rex Tillerson’s South China Sea Remarks Foreshadow Possible Foreign Policy Crisis", Michael Forsythe, New York Times, Jan 12, 2017).

Stephen Bannon (chiến lược gia của Trump tại Nhà Trắng) cũng quan tâm đến chiến lược Châu Á và cho rằng chủ trương "xoay trục" sang Châu Á của Obama thất bại vì thiếu ngân sách quốc phòng nên yếu thế. Trump cũng bổ nhiệm nhiều tướng "diều hâu" và chuyên gia về Trung Quốc vào các vị trí chủ chốt như Bộ trưởng Quốc phòng (James Mattis), Cố vấn An ninh Quốc gia (Michael Flynn), Bộ trưởng Hải Quân (Randy Forbes), Giám đốc Châu Á tại Hội đồng An ninh Quốc gia (Matt Pottinger), Trợ lý Bộ trưởng về Châu Á tại Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng (Randall Schiver và Victor Cha). Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc là Terry Branstad, tại Nhật là William Hagerty, tại Ấn Độ là Ashley Tellis. ("Trump could make Obama’s pivot to Asia a reality", Josh Rogin, Washington Post, Jan 8, 2017).

Bối cảnh quốc tế

Có thể nói, chính sách đối ngoại của chính quyền mới hình thành ngay trong giai đoạn chuyển giao quyền lực, trước khi Donald Trump nhậm chức. Diễn văn nhậm chức của Trump sặc mùi dân túy, chẳng khác diễn văn tranh cử trước đó, khẳng định quan điểm đối ngoại cứng rắn của Trump, và phủ nhận gần hết các di sản của Obama. Nó không chỉ làm người Mỹ chia rẽ mà còn làm thế giới hoang mang lo ngại, nhất là Trung Quốc.

Một số nhà phân tích cho rằng Trump sẽ chơi trò "ngoại giao tay ba" (Triangular Diplomacy) với Nga và Trung Quốc, nhưng "tinh tế hơn" (Alexander Vuving). Thay vì dùng lá bài Trung Quốc để chống Nga (thời Nixon-Kissinger), Trump sẽ dùng lá bài Nga để chống Trung Quốc. Lãnh đạo Trung Quốc tỏ ra lúng túng và bị động (như bị "phục kích"), chưa biết nên phản ứng và đối phó thế nào. Họ chưa gặp một Tổng thống Mỹ nào lại ăn nói và hành xử như vậy. Đối với một người không biết sợ như Trump, Trung Quốc rất khó nắn gân và hù dọa. Khó đoán được ý đồ thực của Trump là một thách thức lớn đối với Trung Quốc ("Trump Tweets China Retreats", Gordon Chang, National Interest, Jan 6, 2017).

Trong khi Trung Quốc trỗi dậy "không hòa bình", bắt nạt các nước khu vực và thách thức vai trò của Mỹ, thì Mỹ vẫn "chiều" họ bằng chính sách "Một Trung Quốc" (như chiều "Frankenstein"). Tuy Nixon đã qua đời, nhưng Kissinger, là tác giả của chính sách "Một Trung Quốc" (theo Shanghai Communique), vẫn còn nhiều ảnh hưởng như một cây cổ thụ về chính sách đối ngoại từ thập niên 1970 (dù nay đã 93 tuổi). Tính đến nay, Kissinger đã đến thăm Trung Quốc tới 80 lần, và quen biết hầu hết lãnh đạo nước này.

Gần đây nhất, sau khi Trump đắc cử, Kissinger đã đến Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn (1/12/2016), trong khi Trump điện đàm với Thái Anh Văn (3/12/2016). Không biết là Kissinger đã nói gì với Trump khi họ gặp nhau bàn về Trung Quốc, nhưng sau đó khi được hỏi ông nghĩ gì về cựu ngoại trưởng Kissinger, Trump đã Twitted, "Một cây cổ thụ đã mục ruỗng, thì không nên tưới bón làm gì, chỉ tốn thời gian".

Không phải Kissinger chỉ quan hệ chặt chẽ với Bắc Kinh, mà còn quan hệ chặt chẽ với Nga. Gần đây nhất, Kissinger đã đến Moscow đàm phán (bí mật) với Putin (3/2/2016). Ông cho rằng Mỹ sai lầm lớn nếu để Nga và Trung Quốc hình thành một liên minh kinh tế và chính trị. Vì vậy, Mỹ phải hợp tác với Nga để "cân bằng lực lượng toàn cầu". Nhưng tại sao Trump lại thân thiện với Nga mà không thân thiện với Trung Quốc, trong khi cả Nga và Trung Quốc đều tìm cách thách thức lợi ích và vai trò toàn cầu của Mỹ ? 

Theo các cơ quan tình báo Mỹ (CIA và FBI), Nga đã can thiệp vào chính trị Mỹ bằng hacking (qua tin đồn giả) không phải chỉ làm Hillary Clinton thất cử, mà còn làm Donald Trump đắc cử, nhưng trở thành tổng thống "vịt què", vì có tin đồn là Trump đã quan hệ với gái điếm Nga tại Moscow. Nói cách khác Trump đã từng bị tình báo Nga theo dõi và khống chế. Việc rò rỉ tin xấu vào đúng lúc Trump sắp nhậm chức có thể là đòn gió của Putin, muốn tác động vào sắp xếp nhân sự và chính sách của Trump (đối với Nga).

Dưới chính quyền Obama, chủ trương xoay trục sang Châu Á là một tầm nhìn đúng, nhưng thực hiện lại yếu vì Obama thiếu quyết đoán. Nay dưới chính quyền Trump, triển vọng có thể ngược lại, vì Trump là một tổng thống "con buôn" (dealer). Theo John Hudak (Brookings), có nhiều khả năng Trump sẽ điều hành Nhà Trắng như CEO của một tập đoàn kinh doanh. Có người còn cho rằng lãnh đạo thực sự của nước Mỹ không phải là Donald Trump mà là Rex Tillerson, vì "nước Mỹ không còn là một chế độ dân chủ, mà là một chế độ tài phiệt". (Jimmy Carter interviewed by Oprah Winfrey, September 27, 2015).

Bối cảnh khu vực

Tuy ASEAN đã trở thành "cộng đồng kinh tế" (AEC), nhưng đoàn kết ASEAN ngày càng yếu, vì bị Trung Quốc thao túng. Không chỉ có Campuchea và Thailand, mà cả Philippines và Malaysia cũng "xoay trục" sang Trung Quốc. Nếu không sớm cải tổ cơ chế thì ASEAN có thể mất vai trò và "Đoàn kết ASEAN" chỉ còn là khẩu hiệu.

Nếu vai trò lãnh đạo của Mỹ về kinh tế và an ninh khu vực giảm đi, với tương lai bất định của TPP và chính sách "xoay trục" dưới chính quyền mới, thì vai trò kinh tế và an ninh của Nhật tại khu vực phải mạnh lên tương ứng. Bất ổn trong "tam giác Mỹ-Trung-Việt" cần được hóa giải bằng "tứ giác Nhật-Úc-Ấn-Việt" trên cơ sở đối tác chiến lược toàn diện, với vai trò đầu tàu của Nhật, thay thế một phần vai trò lãnh đạo của Mỹ. 

Quan điểm cứng rắn của Rex Tillerson về Biển Đông là một dấu hiệu đáng mừng, xuất phát từ kinh nghiệm của ông ấy tại khu vực này, khi Exxon-Mobil có quan hệ hợp tác tốt về dầu khí với PetroVietnam (năm 2009) để khoan thăm dò hai vị trí tại Biển Đông. Khi bị Trung Quốc phản đối, các công ty khác buộc phải rút, nhưng Exxon-Mobil không bỏ cuộc, mà vẫn lặng lẽ theo đuổi dự án khai thác dầu khí tại Biển Đông. Vai trò của Exxon-Mobil (như một cường quốc) không chỉ có hợp tác dầu khí, mà còn vì địa chính trị.

Đáng chú ý là quan điểm cứng rắn của Rex Tillerson lại trùng hợp với quan điểm cứng rắn của Thượng nghị sĩ John McCain (và một số người khác). McCain cho rằng không quốc gia nào ủng hộ cho sự thành công của Trung Quốc nhiều hơn là Mỹ… nhưng Trung Quốc lại chọn cách sử dụng sức mạnh và vị thế đang lớn lên của họ để phá vỡ trật tự đó. Trung Quốc đã từng bước triển khai chính sách dọa dẫm và cưỡng bức để hỗ trợ cho mục tiêu bành trướng, một tiến trình được tăng tốc quyết liệt dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình.

McCain còn cho rằng Mỹ và Việt Nam chia sẻ một loạt những quyền lợi kinh tế và chiến lược, và tin rằng đã đến lúc hai quốc gia cần triển khai "Sáng kiến Hàng hải Việt-Mỹ" (US-Vietnam Maritime Initiative). Sáng kiến này có thể bao gồm việc mở rộng các cuộc tập trận hỗn hợp trên biển. McCain hoan nghênh Việt Nam tham gia cuộc tập trận "Pacific Rim" và cho rằng Hải quân Hoa Kỳ cần tăng cường thăm Việt Nam…

Hai Thượng nghị sĩ John Mccain và Jack Reed đã cộng tác để bảo trợ "Sáng kiến An ninh Hàng hải" (Maritime Security Initiative), với kinh phí 1/2 tỉ USD, cho phép Bộ Quốc phòng Mỹ nâng cao năng lực hàng hải cho các đối tác của Mỹ tại Đông Nam Á… Năm nay, Ủy ban hành động lưỡng đảng sẽ nâng cấp sáng kiến này và cung cấp thêm nhiều nguồn lực mới. McCain cũng ủng hộ TPP, và cho rằng "Nếu TPP thất bại thì sự lãnh đạo của Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương có thể thất bại theo…" ("The Need for Renewed American Leadership in Asia-Pacific", John McCain, The Herritage Foundation, December 29, 2016). 

Bối cảnh Việt Nam

Trong giai đoạn mới, ngoại giao Việt Nam lại đứng trước ngã ba đường. Việt Nam phải định hướng lại mục tiêu chiến lược (vì lợi ích dân tộc) và điều chỉnh chính sách kịp thời. Chính sách "đu dây" của Việt Nam nhằm giữ thăng bằng với hai nước lớn (Trung Quốc và Mỹ) là một đặc thù lâu nay gây nhiều tranh cãi. Đây là một dịp tốt để lý giải nhằm làm rõ và điều chỉnh chính sách "đu dây" này trong bối cảnh quốc tế mới.

Trong lịch sử, Việt Nam đã từng phải "đu dây" giữa hai cường quốc cộng sản "thân hữu" nhưng "đồng sàng dị mộng" là Liên Xô và Trung Quốc. Muốn hay không, đó là định mệnh (hay nghịch lý) đối với Việt Nam, một nước nhỏ phải dựa vào hai nước lớn "thân hữu" để "chống Mỹ cứu nước". Thật trớ trêu, Việt Nam nay lại phải "đu dây" giữa Mỹ và Trung Quốc, như sự kế thừa và tiếp nối một định mệnh (hay một nghịch lý).

Trong khi Trung Quốc là nước láng giềng khổng lồ mà Việt Nam không được lựa chọn nhưng phải chung sống suốt đời, thì Liên Xô và Mỹ (cũng như Pháp) là những đế quốc "ngoại bang" mà Trung Quốc luôn ôm mối hận để phục thù. Điều đó lý giải tại sao Việt Nam phải "đu dây". Vấn đề không phải chỉ là hành động "đu dây" mà là lý do "đu dây", và cách thức "đu dây", liên quan đến bối cảnh lịch sử, lợi ích dân tộc, ràng buộc ý thức hệ, có thể làm người ta lẫn lộn về thái độ chính trị và ngộ nhận về bạn/thù. Đừng quên rằng, "không có đồng minh và kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích dân tộc vĩnh viễn" (Palmerston). 

Chủ nghĩa "tiệm tiến" (gradualism) và quan niệm "đặc thù" (exceptionalism) trong chính sách của Việt Nam, phản ánh tư tưởng bảo thủ (vì ý thức hệ), tư duy truyền thống (theo quy trình), và tâm trạng lo sợ hoặc nghi ngại (do tâm lý). Tâm trạng này có thể trở thành rào cản đối với tư duy đổi mới sáng tạo trong một cục diện mới. Theo Alexander Vuving, "Việt Nam tiếp tục tách xa dần (nhưng không quá xa) Trung Quốc, và tiếp tục xích lại gần (nhưng không quá gần) Mỹ, sợ làm Trung Quốc tức giận". ("Cops, Robbers and the South China Sea’s New Normal", Alexander Vuving, National Interest, Dec 23, 2016). 

Đến lúc phải xoay trục

Đã đến lúc phải "kiểm toán" chính sách đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ "Hậu Thành Đô" (1990-2016), trên cơ sở thành công hay thất bại. Qua mấy thập kỷ, Việt Nam đã bị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, cả về kinh tế, chính trị, và đối ngoại, vì mắc phải cái vòng "kim cô". Muốn khắc phục những hệ lụy to lớn và lâu dài đó, Việt Nam phải đổi mới thể chế toàn diện, cả về kinh tế lẫn chính trị, cả về đối nội lẫn đối ngoại.

Quan hệ "4 tốt" và "16 chữ vàng" chính là cái vòng "kim cô" để Trung Quốc thực hiện tham vọng bành trướng bá quyền ở Biển Đông (như "Đường 9 đoạn"). Nó làm Việt Nam tụt hậu, bất ổn, và mất dần chủ quyền lãnh thổ. Sau khi Việt Nam mất Hoàng Sa (1974) và một phần Trường Sa (1988), sự kiện dàn khoan HD-981 tại Biển Đông là một bước ngoặt bộc lộ bộ mặt thật của Trung Quốc, làm lãnh đạo Việt Nam giật mình tỉnh ngộ.

Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn trước dựa trên bốn trụ cột : (1) độc lập tự chủ (trong đó có chính sách "3 không"), (2) đa phương đa dạng hóa (trong đó có chủ trương "thêm bạn bớt thù"), (3) vừa hợp tác vừa đấu tranh (trong đó có "đối tác hợp tác" và "đối tượng đấu tranh"), (4) chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (để trở thành "đối tác tin cậy" của cộng đồng quốc tế). Các trụ cột đó về cơ bản là đúng (như khẩu hiệu), nhưng không ổn (về thực chất) vì sự bất cập giữa tuyên bố chính sách (declared policy) và thực tiễn (reality), do thể chế lỗi thời và cái "vòng kim cô" làm lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc.

Chính sách đối ngoại giai đoạn mới phải giúp Việt Nam thoát khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc, để quan hệ dựa trên "tái cân bằng tích cực" (active rebalance). Tái cân bằng tích cực không phải là "đu dây", và "thoát Trung" không có nghĩa là quay lưng lại với Trung Quốc. Sau sự kiện dàn khoan HD-981 và chiến dịch quân sự hóa các đảo mà Trung Quốc chiếm giữ tại Biển Đông, Việt Nam đã xích lại gần Mỹ. Chuyến thăm Mỹ chính thức của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (7/2013) và Tổng bí thư Nguyễn Phú trọng (7/2015) là một bước ngoặt cho "đối tác toàn diện" và tầm nhìn chung Mỹ-Việt về an ninh quốc phòng, làm tam giác Mỹ-Trung-Việt thay đổi, nhưng vẫn chưa đủ trở thành "đối tác chiến lược" (vì cái "vòng kim cô"). 

Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama (23/5/2016) với tuyên bố bỏ cấm vận vũ khí, đã kết thúc quá trình bình thường hóa hơn 2 thập kỷ. Nhưng đáng tiếc, Việt Nam đã "đu dây" quá lâu (suốt 8 năm) không tranh thủ được cơ hội "xoay trục" của Mỹ dưới thời Obama để nâng cấp quan hệ thành "đối tác chiến lược" (như với 10 nước khác). Cơ hội đó đã bị tuột mất vì dưới chính quyền Donald Trump, TPP đã bị gác lại, chủ trương "xoay trục" cũng bị xem xét lại, và di sản của Tổng thống Obama có thể bị xóa sổ.

Những giá trị cốt lõi

Thực chất quan hệ Trung-Việt (thời kỳ "Hậu Thành Đô") là bất bình đẳng và lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Đã đến lúc Việt Nam phải "xoay trục" để thoát khỏi tình trạng "cân bằng tiêu cực", thể hiện qua chính sách "3 không" và "đu dây" với các nước lớn để tồn tại. Chính sách đối ngoại trong giai đoạn mới (đổi mới vòng 2) cần dựa trên ba tiêu chí cơ bản, như giá trị cốt lõi : (1) độc lập trưởng thành (mature independence), (2) tái cân bằng tích cực (active rebalance), và (3) hội nhập tích cực (proactive integration).

Một chính sách đối ngoại "độc lập trưởng thành" phải nhất quán về tư duy chiến lược, lấy lợi ích dân tộc làm mục tiêu tối hậu, không lệ thuộc vào ý thức hệ đã lỗi thời. Đã đến lúc người Việt phải đổi mới tư duy triệt để, không thể tiếp tục "đu dây" cả về đối nội và đối ngoại tại ngã ba đường, như mấy thập kỷ qua. Cái giá phải trả về lợi ích lâu dài (do sự trì trệ) lớn hơn nhiều so với cái lợi trước mắt (vì "hoàng hôn nhiệm kỳ").

Một chính sách đối ngoại "tái cân bằng tích cực" phải dựa trên sự cân đối và tương hỗ giữa đối nội và đối ngoại, giữa lợi ích quốc gia và hội nhập quốc tế, giữa cải cách thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị, để phát triển bền vững và dân chủ hóa. Để khai phóng năng lượng sáng tạo của người dân, phải xóa bỏ cơ chế lỗi thời về quyền sở hữu ruộng đất và độc quyền cho doanh nghiệp nhà nước theo "định hướng xã hội chủ nghĩa".

Một chính sách đối ngoại "hội nhập tích cực" phải giúp các doanh nghiệp có điều kiện và cơ hội để hội nhập quốc tế, tham gia chuỗi giá trị và cung ứng toàn cầu. Dù tương lai TPP ra sao, thì Việt Nam vẫn phải sẵn sàng tham gia các thể chế tự do mậu dịch quốc tế (thế hệ mới). Việt Nam đã đi được một quãng đường dài từ WTO đến TPP, nhưng nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa quen với sân chơi toàn cầu hóa. Cần giúp họ phát huy các lợi thế tương đối của mình, để tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Trong bối cảnh Tổng thống đắc cử Donald Trump điện đàm với bà Thái Anh Văn, bổ nhiệm Peter Navarro làm chủ tịch Hội đồng Thương mại Quốc gia, và cử Rex Tillerson làm Ngoại trưởng (với những phát biểu cứng rắn chống Trung Quốc), thì Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lại vội vàng sang thăm Trung Quốc (từ 12/1/2017). Ngay hôm sau, ngoại trưởng Mỹ John Kerry tới thăm Việt Nam lần cuối (13/1/2017). Thời điểm hai chuyến thăm bộc lộ sự bất cập chứng tỏ Việt Nam vẫn đang "đu dây" (vì sức ép của Trung Quốc).

Trong khi đó, PetroVietnam và Exxon-Mobil ký hai hợp đồng về khí tại mỏ "Cá voi xanh" (Blue Whale). Điều đáng lưu ý là thời điểm ký kết trùng với chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và ngoại trưởng John Kerry, điều trần tại Thượng Viện của Rex Tillerson (ngoại trưởng mới được đề cử) với những phát biểu cứng rắn chống Trung Quốc. Trong bối cảnh Trump quyết định rút khỏi TPP, thì hợp đồng hợp tác dầu khí với Exxon-Mobil tại Biển Đông không chỉ quan trọng về kinh tế, mà còn có ý nghĩa lớn về địa chiến lược.

Ngay sau đó, thủ tướng Nhật Shinzo Abe đã đến thăm Việt Nam (16/1/2017) nhằm tăng cường hợp tác tại Biển Đông. Nhật muốn cải thiện năng lực tuần duyên của Việt Nam, nên đã quyết định viện trợ cho Việt Nam thêm 6 tầu tuần duyên mới. Một quan chức Bộ Ngoại giao Việt Nam phát biểu "hy vọng Nhật có vai trò lớn hơn về hợp tác an ninh quốc phòng". Quan hệ Nhật-Việt cần phát triển theo hướng xây dựng nền tảng cho một tứ giác chiến lược mới do Nhật làm đầu tầu ("Japan-Australia-India-Vietnam Partnership").

Thay lời kết

Khi môi trường quốc tế và khu vực có nhiều biến động khó lường, và tình hình kinh tế, chính trị trong nước có nhiều bất ổn, đòi hỏi phải cải cách thể chế toàn diện (cả kinh tế và cính trị), thì chính sách đối ngoại cũng phải đổi mới theo tương ứng. Chính sách đối ngoại tuy là cánh tay kéo dài của chính sách đối nội, nhưng có nhiệm vụ làm đòn bẩy, hỗ trợ quá trình "đổi mới vòng 2" để phát triển bền vững. Đề cương đổi mới chính sách đối ngoại cần dựa trên đề cương đổi mới toàn diện của chiến lược phát triển quốc gia.

"Báo cáo Việt Nam 2035" chính là đề cương đổi mới, làm cơ sở xây dựng chính sách đối ngoại thời kỳ mới. Muốn thay đổi, phải gắn kết được trên với dưới, trong với ngoài, để huy động tối đa nguồn lực của dân tộc, nhằm kiến tạo một quốc gia giàu mạnh và văn minh. Đến lúc người Việt phải chứng minh Việt Nam không phải là một quốc gia hèn kém và lệ thuộc, quen dựa vào viện trợ nước ngoài, rằng người Việt Nam có thể hòa giải dân tộc, đứng dậy từ đổ nát và li tán, để tái tạo một quốc gia độc lập và dân chủ. Chỉ có độc lập và dân chủ mới thu phục được nhân tâm để kiến tạo một quốc gia giàu mạnh và văn minh.

Nguyễn Quang Dy

1/2/2017 (5 Tết Đinh Dậu) 

Nguồn : :viet-studies ngày 01/02/2017

Published in Quan điểm