Về chủ quyền lãnh thổ miền Nam Việt Nam (đọc thêm) :
Sự hình thành các vùng biên giới miền Nam, Thông Luận, 09/1999
Người Hoa tại Việt Nam, Thông Luận, 01/03/1993
*****************************
Chủ quyền đối với miền Nam Việt Nam theo công pháp quốc tế
Hoàng Việt, RFA, 12/06/2024
Tối ngày 9/6/2024, một cuộc mít-tinh được Chính quyền Phnom Penh cho phép tổ chức tại thủ đô của Campuchia để kỷ niệm một sự kiện được cho là Pháp đã "nhượng lại" vùng Khmer Krom (bao gồm phần lớn miền Nam Việt Nam ngày nay) từ năm 1949. RFA phỏng vấn nhà nghiên cứu Hoàng Việt ở Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, một chuyên gia về công pháp quốc tế về tranh chấp chủ quyền và lãnh thổ, về vấn đề chủ quyền đối với miền Nam Việt Nam (hay "Khmer Krom" trong cách gọi của Campuchia) theo công pháp quốc tế.
Bản đồ xứ Gia Định, Việt Nam khoảng cuối thế kỷ 18.
RFA : Xét về mặt công pháp quốc tế, có hay không sự tranh chấp chủ quyền đối với vùng đất Nam Bộ Việt Nam mà một số người Campuchia gọi là vùng đất Khmer Krom ? Có đúng là vùng đất Nam Bộ chỉ trở thành đất Việt Nam từ sau năm 1949 với Hiệp định Élysée ?
Hoàng Việt : Năm 1689 Chúa Nguyễn Phúc Chu cử thống suất Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Gia Định để quản lý vùng phía Nam. Tuy nhiên, thời điểm đó chưa quản lý đầy đủ. Lịch sử mở rộng lãnh thổ của Việt Nam đã phải diễn ra rất nhiều chặng đường khác nhau.
Lúc đó, các quy định trong luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ chưa được xác lập rõ ràng như sau này. Phải đến thế kỷ 20, nhất là sau vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Hoa Kỳ và Hà Lan năm 1928 thì mới hình thành một hệ thống pháp lý quốc tế về lãnh thổ quốc gia.
Chưa cần nói đến lịch sử xa hơn, chỉ cần nói đến sự kiện năm 1802, vua Gia Long thống nhất Việt Nam, xác lập một lãnh thổ từ bắc đến nam, bao gồm Đồng bằng sông Cửu Long.
Trên thế giới, trong lịch sử có nhiều cuộc chiến tranh giành lãnh thổ giữa các quốc gia. Lịch sử trước thời kỳ hiện đại là như vậy. Lúc đó thế giới chưa có quy định về thụ đắc lãnh thổ, mà lãnh thổ được quyết định bằng cách bên nào mạnh hơn thì bên đó giữ lãnh thổ.
Ngoài ra, lịch sử ghi lại thì cách Việt Nam mở rộng lãnh thổ chủ yếu là phương pháp di dân, tức là người Việt được đưa tới ở, người Khmer lấy người Việt tới thì lui dần. Cuộc mở rộng lãnh thổ đó của nhà Nguyễn không có những cuộc tàn sát để chiếm lãnh thổ.
Thực tế hiện giờ cộng đồng bản địa Khmer vẫn còn nguyên vẹn với 1,3 triệu người cùng các di sản văn hóa của họ.
Tức là đến 1802 thì Nhà Nguyễn đã xác lập lãnh thổ gần giống như bây giờ.
Đến 1858 thì người Pháp tấn công Việt Nam. Đến 1884 thì chiếm toàn bộ Việt Nam. Pháp chia Việt Nam làm ba kỳ là Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Trong đó, Nam Kỳ thuộc Pháp, còn Bắc Kỳ và Trung Kỳ thuộc Nhà Nguyễn, do Pháp bảo hộ.
Nam Kỳ theo Hiệp ươc Patenôtre giữa Nhà Nguyễn và thực dân Pháp là xứ thuộc Pháp, do Pháp quản lý. Vậy thì làm sao có thể nói đất Nam Kỳ thuộc một nhà nước nào khác như nhà nước Khmer Krom ? Chưa từng tồn tại một nhà nước như vậy của người Khmer Krom.
Trước khi người Pháp tới thì lãnh thổ đó thuộc quyền quản lý của Nhà Nguyễn. Khi Pháp tới thì lãnh thổ đó thuộc quyền quản lý của Pháp chứ không phải của một nhà nước nào khác.
Thêm nữa, vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo công pháp quốc tế, phải là vấn đề do các quốc gia xử lý với các quốc gia. Tức đây là công việc của nhà nước, chứ một vài nhóm người Khmer Krom đòi hỏi chủ quyền thì điều đó không có ý nghĩa gì về luật pháp quốc tế.
Vì vậy, xét về mặt công pháp quốc tế thì không có tranh chấp lãnh thổ nào đối với vùng đất Nam Bộ này.
RFA : Triều Nguyễn của Việt Nam đã xác lập chủ quyền của toàn bộ Việt Nam thống nhất từ bắc đến nam từ năm 1802. Vậy về mặt công pháp quốc tế, thì những vùng đất đã được xác lập chủ quyền trước thời kỳ hiện đại, khi luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ còn chưa ra đời, như ông nói, chủ yếu là sau tranh chấp đảo Palmas năm 1928, thì có khả năng hồi tố hay không ?
Hoàng Việt : Việc đòi hay không đòi là việc của Campuchia. Nếu Campuchia thích thì đòi ; nhưng vấn đề là dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế thì bằng chứng ở đâu.
Trong vụ tranh chấp Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, Tòa án Công lý Quốc tế đã tuyên bố rằng ngay cả với giả định là Malaysia đã tới Pedra Branca trước, nhưng sau đó Malaysia không quản lý nó mà Singapore sau đó đã quản lý nó trên thực tế cho đến tận thời điểm tranh chấp. Singapore đã chiếm hữu và quản lý lâu dài mà không có tranh chấp. Do đó, mặc dù Malaysia là bên chiếm hữu danh nghĩa đầu tiên, tức là đến đó đầu tiên, nhưng Singapore lại là bên chiếm hữu và quản lý trên thực tế, lâu dài và biện pháp hòa bình. Cho nên Tòa đã trao quyền cho Singapore.
Cái quốc gia mà các bạn Khmer Krom nói tới đã là một quốc gia được công nhận về mặt luật pháp quốc tế chưa ? Nước Campuchia ngày nay có thể tuyên bố kế thừa hay không ?
Thời điểm năm 1802 khi nước Việt Nam thống nhất cả nam bắc được thành lập thì còn chưa có luật pháp quốc tế về vấn đề thụ đắc lãnh thổ. Nếu có nước nào muốn kiện thì phải áp dụng luật thời đó chứ không thể áp dụng những bộ luật ra đời trong thời kỳ hiện đại.
Trong luật quốc tế, có một nguyên tắc là không chấp nhận hồi tố mà phải xét luật theo thời điểm, tức là xét vấn đề theo luật của thời điểm xảy ra vấn đề đó, thuật ngữ luật học tiếng Anh là "intertemporal law".
Dựa trên tất cả các điều khoản luật pháp quốc tế như vậy thì không có cách gì một vụ kiện như vậy của Campuchia, nếu xảy ra, có thể thắng được cả về pháp lý lẫn thực tế.
Hiện vùng đất đó đã trở thành "máu của máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam" thì không thể đòi lại bằng luật pháp quốc tế.
Tranh gốm sứ tại khu di tích Rạch Gầm - Xoài Mút
RFA : Các hoạt động kỷ niệm việc "mất Khmer Krom" ở Campuchia bắt đầu diễn ra khoảng mười năm trở lại đây. Ông không chỉ là nhà nghiên cứu về công pháp quốc tế mà còn là nhà quan sát về quan hệ quốc tế trong khu vực. Theo ông, liệu có hay không tác động của bối cảnh chính trị quốc tế gần đây không ?
Hoàng Việt : Như đã nói là không có cơ sở pháp lý nào để Campuchia đòi vùng đất đó cả.
Phải nói thêm là sau này người Pháp là đại diện cho Triều Nguyễn đã đại diện cho Triều Nguyễn để ký hiệp định phân giới biên giới giữa Nam Kỳ với Campuchia (RFA chú thích : Đó là hai công ước ngày 9/7/1870 và 15/7/1873, giữa Pháp và Campuchia, xác định cơ bản đường biên giới hiện nay giữa Campuchia và Việt Nam). Người Pháp sau khi xác lập chế độ bảo hộ đã đại diện Triều Nguyễn ký một loạt hiệp ước phân định biên giới, trong đó có nhà Thanh, Campuchia và Lào. Campuchia cũng đã ký hiệp định biên giới đó rồi, cắm mốc biên giới rồi. Bây giờ không có lý do gì để đòi lại cả.
Còn tại sao Campuchia hiện nay cho nhóm đó tổ chức mít-ting về sự kiện đó thì đây là vấn đề chính trị.
Gần đây, quan hệ Campuchia và Việt nam có vẻ hơi xấu đi, đặc biệt do sự kiện kênh đào Techo Funan. Giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng có căng thẳng về Biển Đông. Ông Hun Sen phê phán phía Việt Nam có nhiều người dân chửi bới ông ấy trên mạng vì làm kênh đào Funan, nhưng về mặt nhà nước thì Chính phủ Việt Nam chưa bao giờ phản đối Campuchia làm dự án đó cả.
Có lẽ đây cũng là một con bài chính trị mà các nhà chính trị sử dụng để kích bác lẫn nhau.
Ông Sam Rainsy đối lập của Hun Sen trước đây phê phán Hun Sen bán đất cho Việt Nam khi hai bên cắm mốc phân định biên giới lãnh thổ. Sau này ông Hun Sen đã chứng minh rằng ông không nhượng bộ Việt Nam một mét đất nào hết.
Nhưng rồi, bây giờ chính ông Sam Rainsy, đối lập của ông Hun Sen, lại viết nhiều bài phê phán dự án kênh đào Techo Funan. Ông Sam Rainsy cho rằng dự án này chỉ đem lại lợi ích cho Trung Quốc mà thôi. Như vậy, ông ấy đã đổi giọng.
Điều đấy cho chúng ta thấy đó là các con bài chính trị để các nhà chính trị sử dụng với nhau.
Trong bối cảnh có vẻ hai nước đang không được hòa hợp cho lắm về kênh đào Techo Funan nên tôi phỏng đoán đây có lẽ là một phản ứng của phía Campuchia với Việt Nam chăng.
RFA : RFA xin cảm ơn nhà nghiên cứu Hoàng Việt đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Nguồn : RFA, 12/06/2024
***************************
Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam bộ
Vũ Minh Giang, nghiên Cứu Lịch Sử, 19/02/2013
Từ lâu Nam Bộ đã là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Vịêt Nam, nhưng do tính chất phức tạp của lịch sử nên cho đến nay vấn đề chủ quyền lãnh thổ (territorial sovereignty) vẫn còn có những nhận thức chưa thật đầy đủ. Trên cơ sở trình bày một cách hệ thống diễn biến lịch sử và phân tích những yếu tố khẳng định tính chất chính đáng, phù hợp với thông lệ quốc tế của quá trình thụ đắc lãnh thổ phía nam của dân tộc ta, bài viết này hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học và nâng cao thêm hiểu biết về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ.
Mặc dù những vướng mắc về biên giới giữa Việt Nam và Campuchia nhiều khi là những vấn đề cụ thể liên quan tới đường biên giới hiện tại, nhưng cội nguồn của những vướng mắc đó lại nảy sinh từ lịch sử, trong đó cơ bản nhất, sâu xa nhất là vấn đề lãnh thổ vùng Nam Bộ. Có một quan niệm cho rằng vùng đất Nam Bộ từ xưa vốn là lãnh thổ của Campuchia. Lập luận chủ yếu (mà không chứng minh) của quan niệm này là đồng nhất nước Phù Nam ở trung tâm của vung hạ lưu sông Mê Kông với nhà nước đầu tiên của người Khmer [1]. Trong một hội thảo về Bảo tồn di sản văn hóa tổ chức năm 1993 tại thành phố Nara (Nhật Bản), báo cáo chính thức của Campuchia do ông Vann Molivann, Bộ trưởng Quốc vụ khanh trình bày trước hội nghị cũng xếp văn minh Phù Nam vào nhóm "dạng thức đặc biệt của nhóm Khmer" [2]. Để giải quyết thỏa đáng vấn đề này không thể không trở lại xem xét cụ thể nguồn gốc và diễn biến chủ quyền lãnh thổ đối với vùng đất này. Hiển nhiên, việc xem xét lịch sử chủ quyền phải bắt đầu từ nhà nước Phù Nam.
1. Vấn đề nước Phù Nam
Căn cứ vào những ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Quốc thì Phù Nam là một quốc gia nằm ở phía nam của Lâm Ấp (Champa) nghĩa là tương đương với đất Nam Bộ ngày nay [3]. Cũng dựa vào các thư tịch cổ, các nhà khoa học đã thống nhất nhận định rằng nước Phù Nam xuất hiện vào khoảng đầu Công nguyên và biến mất vào khoảng thế kỷ thứ VII [4]. Mùa xuân năm 1944 nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret đã tiến hành một cuộc khai quật có ý nghiã lịch sử ở khu vực gần núi Ba Thê (nay thuộc địa phận xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang). Từ sau cuộc khai quật này bắt đầu xuất hiện khái niệm văn hóa Ốc Eo và một cách tự nhiên các nhà khoa học đã dễ dàng đi tới nhận định rằng vấn đề Phù Nam không thể tách rời vấn đề Ốc Eo. Hay nói cách khác, hoàn toàn có cơ sở khoa học nếu đồng nhất những di vật thuộc văn hóa Ốc Eo là di tích văn hóa vật thể của nước Phù Nam. Vấn đề này đã được khắng định trong nhiều tác phẩm và hội thảo khoa học, đặc biệt là hội thảo về Văn hóa Ốc Eo – Phù Nam do Bộ Khoa học và công nghệ tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004, nhân kỷ niệm 60 năm sự kiện phát hiện văn hóa ốc Eo. Các học giả cũng đã khẳng định Ốc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, ít ra là từ thời đại kim khí và trong thời kỳ cường thịnh nhất, Phù Nam đã phát triển thành một đế chế rộng lớn bao gồm toàn bộ phần phía nam bán đảo Đông Dương (Nam Bộ của Việt Nam hiện nay, nước Campuchia, một phần nam Lào), một phần Thái Lan và bán đảo Malaca, nhưng trung tâm vẫn là vùng đất Nam Bộ.
Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng là xác định chủ nhân của văn hóa Ốc Eo. Trước đây, người ta thường nói mà không chứng minh rằng chủ nhân nền văn hóa này là tổ tiên của người Khmer. Nhưng dưới ánh sáng của những nghiên cứu mới thì vấn đề không phải như vậy. Trước hết, tất cả những di tích thuộc văn hóa Ốc Eo có thể dễ dàng nhận thấy là khác biệt với văn hóa Khmer. Những dấu vết của Chân Lạp trên đất Nam Bộ không thể hiện là sự phát triển liên tục của văn hóa Phù Nam [5]. Về phong tục tập quán, sử liệu Trung Quốc cũng cho biết rằng tang lễ và hôn nhân của Phù Nam gần giống với Lâm ấp (tức Champa).
Về mặt lịch sử, các tư liệu trong thư tịch cổ Trung Quốc cũng phân biệt rất rõ Phù Nam với Chân Lạp (quốc gia của người Khmer). Sử ký của nhà Tùy chép rằng nước Chân Lạp ở về phía tây nam Lâm ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam [6]. Sử ký nhà Đường cũng chép : "Trong nước [Phù Nam] bấy giờ có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về miền nam, trú ở thị trấn Na Phất Na"[7]. Những sự kiện được chép trên đây diễn ra vào đầu thế kỷ VII. Căn cứ vào sự kiện 627 Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường lần cuối cùng, các học giả cho rằng đó có thể coi đó là năm sớm nhất nước Phù Nam bị tiêu diệt [8].
Như vậy Chân Lạp là một quốc gia xuất hiện ở vùng trung lưu sông Mê Kông, khu vực gần Biển Hồ, lấy nông nghiệp là nghề sống chính. Còn Phù Nam là một quốc gia ven biển có truyền thống hàng hải và thương nghiệp khá phát triển. Trong thời kỳ Phù Nam cường thịnh đã có nhiều nước nhỏ thần phục với tư cách là những thuộc quốc hoặc chư hầu, trong đó có Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ VII, nhân lúc Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã tấn công và chiếm lấy. Lãnh thổ Phù Nam về tay Chân Lạp do kết quả của những cuộc chiến tranh.
2. Vùng đất Nam Bộ dưới thời Chân Lạp
Sau khi chiếm được Phù Nam, vùng đất này được gọi là Thuỷ Chân Lạp [9]. Việc cai quản vùng lãnh thổ mới đối với Chân Lạp hết sức khó khăn. Trước hết đây là một vùng đồng bằng mới bồi lấp còn ngập nước và sình lầy, người Khmer với dân số ít ỏi chưa thể tổ chức khai thác trên quy mô lớn. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Châu Lạp cũng còn đang đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Vào nửa sau thế kỉ thứ VIII quân đội Srivijaya của người Java đã liên tục tiến công vào các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Kết cục là Thuỷ Chân Lạp bị quân Java chiếm. Cả vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi đến năm 802 mới kết thúc. Tuy nhiên người Khmer lúc này muốn dồn sức phát triển các vùng trung tâm truyền thống của họ ở khu vực Biển Hồ, trung lưu sông Mê Kông và hướng nỗ lực bành trướng sang phía tây, vùng lưu vực sông Chao Phaya. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp trở thành một quốc gia cường thịnh, tạo dựng nên nền văn minh Angkor rực rỡ, đồng thời mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và trùm lên cả lưu vực sông Chao Phaya. Trong khi đó qua các di tích khảo cổ học, dấu tích của văn hóa Khmer và văn minh Angkor ở vùng Đồng Nai – Gia Định hết sức mờ nhạt [10].
Do chiến tranh và phải tập trung công sức phát triển các trung tâm ở vùng lục địa, sau mấy thế kỷ thuộc Chân Lạp, đến thế kỷ XIII theo Chu Đạt Quan, vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một vùng đất hoang vu với những "bụi rậm của khu rừng thấp… tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi… những cánh đồng bị bỏ hoang phế, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm hàng ngàn con trâu rừng tụ họp thành từng bầy trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm…" [11].
Bắt đầu từ thế kỷ XIV Chân Lạp phải đối phó với sự bành trướng của các vương triều Thái từ phía tây, đặc biệt là từ sau khi vương quốc Ayuthaya hình thành. Trong gần một thế kỷ Chân Lạp liên tiếp phải đối phó với những cuộc tiến công từ phía người Thái, có lúc kinh thành Angkor đã bị quân đội Ayuthaya chiếm đóng.
3. Công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ
Từ thế kỉ XVI, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và dần bước vào thời kì suy vong, hầu như không có điều kiện quan tâm đến vùng đất còn ngập nước ở phía đông và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh đó nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang lập làng sinh sống.
Năm 1620 vua Chân Lạp Chey Chetta II đã cưới con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên làm vợ. Đối với Chân Lạp, việc kết thân với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang rất mạnh nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm. Với chúa Nguyễn, quan hệ hữu hảo này tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt, vốn đã có mặt từ trước, được tự do khai khẩn đất hoang và làm ăn sinh sống trên đất Thuỷ Chân Lạp và tăng cường ảnh hưởng của họ Nguyễn với triều đình Oudong.
Năm 1623 chúa Nguyễn chính tức yêu cầu triều đình Chân Lạp để cho dân Việt mở rộng địa bàn khai phá trên những vùng đất thưa dân và để quản lý, chúa Nguyễn lập ở Pray Kor (vùng Sài Gòn ngày nay) một trạm thu thuế. Vua Chân Lạp đã chấp thuận đề nghị này [12]. Vào thời điểm đó cư dân Việt đã có mặt ở hầu khắp miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn.
Sau cái chết của Chey Chetta II vào năm 1628 nội bộ giới cầm quyền Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc. Nhiều cuộc chiến giữa các phe phái đã diễn ra với sự trợ giúp quân sự của một bên là quân Xiêm, một bên là quân Nguyễn. Những cuộc chiến ấy chẳng những không ảnh hưởng đến việc người Việt tiến hành khai phá những vùng đất hoang hóa ở đồng bằng sông Cửu Long, mà trái lại, còn tạo điều kiện thuận lợi cho chúa Nguyễn thiết lập quyền kiểm soát chính thức của mình trên những vùng đất cư dân Việt đã dựng nghiệp. Trong thời kỳ này sự thần phục của các nhóm di thần nhà Minh góp phần đã đẩy nhanh quá trình xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên lãnh thổ Nam Bộ. Từ năm 1679 chúa Nguyễn Phúc Tần đã tạo điều kiện để nhóm Dương Ngạn Địch cùng nha môn, quân sĩ vùng Quảng Tây tổ chức việc khai phá và phát triển kinh tế vùng lưu vực sông Tiền Giang (Mỹ Tho), cho nhóm Trần Thượng Xuyên và những đồng hương Quảng Đông của ông chiêu dân tiếp tục mở mang vùng Biên Hòa – Đồng Nai. Trong vòng gần 20 năm, một vùng đất trải dài từ Bà Rịa đến sông Tiền Giang, vốn đã được cư dân Việt đến sinh cư lập nghiệp từ trước, nhanh chóng trở thành những trung tâm kinh tế quan trọng với nhiều làng mạc trù phú, phố phường sầm uất, hải cảng nhộn nhịp có thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Dương, Bồ Bà (Java) tới buôn bán.
Trên cơ sở những đơn vị tụ cư đã trù mật những trung tâm kinh tế đã phát triển, năm 1698, chúa Nguyễn đã cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất này và cho lập ra ở đây một đơn vị hành chính lớn là phủ Gia Định. Như vậy vào cuối thế kỷ XVII chúa Nguyễn đã xác lập được quyền lực của mình tại vùng trung tâm của Nam Bộ, khẳng định chủ quyền của người Việt trên vùng đất mà trên thực tế, chính quyền Chân Lạp chưa khi nào thực thi một cách đầy đủ chủ quyền của mình.
Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là vào năm 1708 Mạc Cửu ở Hà Tiên xin quy phục chúa Nguyễn. Là một thương nhân Hoa kiều ở Lôi Châu, thường xuyên tới buôn bán ở vùng biển Đông Nam Á, Mạc Cửu đã sớm nhận ra vị trí địa lý thuận lợi của vùng đất Mang Khảm (sau đổi là Hà Tiên) nên đã lưu ngụ lại, chiêu mộ dân sửa sang bến thuyền, mở mang chợ búa, khai phá đất đai, biến một vùng đất còn hoang vu thành một nơi buôn bán sầm uất. Lúc đầu (vào khoảng năm 1680) Mạc Cửu đã từng xây dựng quan hệ thần phục với vua Chân Lạp, nhưng sau này thế lực Chân Lạp suy giảm, không đủ sức bảo vệ cho công việc làm ăn của cư dân vùng đất này khỏi sự tiến công cướp bóc của người Xiêm nên đã tìm đến chúa Nguyễn xin nội thuộc vào năm 1708. Năm 1757 khi đất Tầm Phong Long (tương đương với vùng tứ giác Long Xuyên) được vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và giành lại ngôi vua, quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ của người Việt trên đất Nam Bộ về cơ bản đã hoàn thành.
Từ quá trình lịch sử trên đây, không thể quan niệm một cách đơn giản rằng chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ là do chiếm của Chân Lạp. Chứng cứ lịch sử cho thấy quốc gia đầu tiên trên đất này là Phù Nam mà cư dân chủ yếu là người protomalais, đến đầu thế kỷ thứ VII mới bị Chân Lạp tiến công tiêu diệt. Tuy nhiên, Chân Lạp đã không có điều kiện để quản lý và khai thác vùng đất này. Sự sầm uất, trù phú của Nam Bộ là công lao khai phá của các nhóm cư dân chủ yếu là người Việt từ thế kỷ XVII. Chúa Nguyễn là người bảo hộ cho quá trình khai phá này và việc khẳng định quyền quản lý lãnh thổ là một hệ quả tự nhiên.
Quá trình thụ đắc vùng đất Nam Bộ của chúa Nguyễn chủ yếu thông qua khai phá hoà bình kết hợp với đàm phán ngoại giao để khẳng định chủ quyền. Đó là phương thức được thừa nhận là phù hợp với thông lệ lịch sử và các văn bản quốc tế hiện hành.
4. Thực thi và bảo vệ chủ quyền
Cùng với quá trình khai thác những vùng đất còn hoang vu ở Nam Bộ của cộng đồng cư dân, các chính quyền của người Việt đã liên tục thực hiện các chính sách quản lý lãnh thổ với tư cách là chủ nhân vùng đất này. Từ thế kỷ XVII để thực thi chủ quyền, các chúa Nguyễn đã tổ chức các đơn vị hành chính, sắp đặt quan cai trị, lập sổ sách quản lý dân đinh, ruộng đất và định ra các loại thuế. Phủ Gia Định thành lập năm 1698 gồm hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định) quản lý hơn 4 vạn hộ. Sau năm 1774 vùng đất từ nam Hoành Sơn đến mũi Cà Mau được chia làm 12 dinh, trong đó vùng đất Nam Bộ chia thành 4 dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ và Hà Tiên). Trừ Hà Tiên lúc đầu còn là một dinh phụ thuộc, mỗi dinh quản hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng hay xã. Từ đó, về cơ bản tổ chức hành chính trên vùng đất Nam Bộ đã được kiện toàn.
Triều Nguyễn thành lập vào năm 1802 tiếp tục sự nghiệp của các chúa Nguyễn đã hoàn thiện hệ thống hành chính và thống nhất quản lý trên quy mô cả nước. Năm 1836 vua Minh Mạng cho lập sổ địa bạ toàn bộ Lục tỉnh Nam Kỳ. Bên cạnh chính sách chính trị, quân sự, triều đình khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội, mở mang phát triển các dinh điền, đồn điền, xây dựng các công trình thuỷ lợi, phát triển giao thông thuỷ bộ. Năm 1817 vua Gia Long cho đào kênh Thoại Hà. Vào đầu những năm 20, vua Minh Mạng giao cho đào kênh Vĩnh Tế nối Châu Đốc với Hà Tiên dài trên 70km.
Ngay từ khi mới khẳng định quyền quản lý, các chính quyền người Việt đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm đối với chủ quyền lãnh thổ. Chính quyền các chúa Nguyễn đã từng kiên quyết đánh bại các cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ của quân Xiêm vào các năm 1715, 1771… Tiêu biểu cho ý chí bảo vệ chủ quyền là cuộc kháng chiến chống Xiêm với chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút vang dội của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy vào năm 1785. Sang thế kỷ XIX, các Vua Nguyễn đã cho xây dựng hệ thống các trường luỹ và đồn bảo trấn thủ dọc theo biên giới để bảo vệ lãnh thổ. Trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX cùng với xây dựng nước Đại Nam hùng cường, các vua Nguyễn đã bảo vệ vững chắc chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ.
Khi thực dân Pháp tấn công xâm lược, triều Nguyễn đã tổ chức kháng chiến chống lại. Đến khi triều đình tỏ rõ sự bất lực thì nhân dân Việt Nam đã không tiệc máu xương liên tục đứng lên đấu tranh anh dũng bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước của mình. Thắng lợi vẻ vang năm 1975 là đỉnh cao của quá trình chiến đấu hy sinh bền bỉ lâu dài vì lý tưởng cao đẹp đó.
5. Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ thể hiện ngay trong quá trình thụ đắc lãnh thổ bắt đầu từ thế kỷ XVII. Từ giữa thế kỷ XIX, chủ quyền này được chính thức ghi nhận trong văn bản các Hiệp ước quốc tế. Tháng 12 năm 1845 ba nước An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Miên (Cămpuchia) đã ký một Hiệp ước, trong đó thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc Việt Nam. Năm sau, trriều Nguyễn và Xiêm lại ký một Hiệp ước có nhắc lại điều đó. Đây là Hiệp ước mà sau này Cao Miên cũng tham gia [13]. Như vậy muộn nhất là đến năm 1845 các nước láng giềng với Việt Nam, trong đó có cả Cămphuchia đã ký các văn bản pháp lý chính thức công nhận vùng đất Nam Bộ là của Việt Nam.
Pháp tấn công Nam Bộ rồi sau đó lần lượt chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ là các sự kiện thể hiện rõ sự xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ trên vùng đất Nam Bộ, nhưng Cămpuchia không có bất cứ một phản ứng gì. Trái lại, triều Nguyễn đã điều động quân đội tiến hành kháng Pháp và khi kháng chiến thất bại, đã đứng ra ký các Hiệp định nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông (năm 1862) và 3 tỉnh miền Tây (năm 1874). Đây là những chứng cớ và cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất này.
Sau khi lập ra Liên bang Đông Dương, trên cơ sở nghiên cứu lịch sử thực thi chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ, Pháp đã tiến hành hoạch định biên giới giữa Nam Kỳ và Cămpuchia theo luật của nước Pháp. Việc khảo sát, đo đạc trên thực địa được tiến hành bởi các chuyên gia Pháp và Cămpuchia. Năm 1889 giữa Pháp và Cămpuchia đã ký một loạt các văn bản pháp lý về hoạch định, phân giới cắm mốc biên giới giữa Nam Kỳ và Cămpuchia. Tất cả các văn bản pháp lý này đều khẳng định vùng đất Nam Kỳ hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 4 tháng 6 năm1949 tổng thống Vincent Aurol ký Bộ luật số 49 – 733 trả lại Nam Kỳ cho chính quyền Bảo Đại. Trong Bộ luật còn có chữ ký của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp.
Giải thích những thắc mắc của vương quốc Cămpuchia về quyết định này, ngày 8 tháng 6 năm 1949 Chính phủ Pháp đã có thư chính thức gửi quốc vương Sihanouk, trong đó có đoạn nói rõ: "Về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Cămpuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ" vì "Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm1862 và 1874…. chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam… về pháp lý, Pháp có đủ cơ sở để thỏa thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi quy chế chính trị của Nam Kỳ". Trong bức thư đó Chính phủ Pháp còn khẳng định: "thực tế lịch sử ngược lại với luận thuyết cho rằng miền Tây Nam Kỳ vẫn còn phụ thuộc triều đình Khmer lúc Pháp tới " và "Hà Tiên đã được đặt dưới quyền tôn chủ của Hoàng đế An Nam từ năm 1715 và kênh nối Hà Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của các quan An Nam từ nửa thế kỷ trước khi chúng tôi đến" [14].
Vậy là đến năm 1949, vùng đất Nam Bộ vốn từng bị triều Nguyễn "bán" cho Pháp, đã được trả lại bằng một văn bản có giá trị pháp lý. Chính phủ Pháp còn khẳng định những cơ sở lịch sử và luật pháp của văn bản này với vương quốc Cămpuchia. Từ đó về sau chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ liên tục được tất cả các Hiệp định định có giá trị pháp lý quốc tế như Hiệp định Genève (1954), Hiệp định Paris (1973) công nhận.
Như vậy, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ không chỉ được khẳng định bởi tính tính chính đáng trong quá trình thụ đắc lãnh thổ cũng như công lao của Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vùng lãnh thổ đó suốt từ thế kỷ XVII đến nay mà còn phù hợp với nguyên tắc uti possidetis (tôn trọng nguyên trạng), phù hợp thông lệ và các công ước quốc tế hiện hành.
Kết luận
Vùng đất Nam Bộ vốn là một địa bàn giao tiếp và đã từng có nhiều lớp cư dân đến khai phá. Vào khoảng đầu công nguyên, cư dân vùng đất này đã xây dựng nên nhà nước Phù Nam. Trong thời kỳ phát triển nhất vào khoảng thé kỷ V-VI, Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca. Vào đầu thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã, nước Chân Lạp của người Khmer, vốn là một trong những thuộc quốc của Phù Nam ở vùng Tongle Sap đã tấn công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay).
Tuy nhiên, trong suốt thời gian gần 10 thế kỷ vùng đất Nam Bộ không đựơc cai quản chặt chẽ và gần như bị bỏ hoang. Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là từ đầu thế kỷ XVII, dưới sự bảo hộ của các chúa Nguyễn người Việt đã từng bước khai phá vùng đất này. Người Việt đã nhành chóng hoà đồng với các cộng đồng cư dân tại chỗ và những cư dân mới đến (người Hoa) cùng nhau mở mang, phát triển Nam Bộ thành một vùng đất trù phú. Cũng từ đây người Việt là cư dân chủ thể và thực sự quản vùng đất này. Từ đó đến nay chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được khẳng định không chỉ bằng thực tế lịch sử mà còn trên các văn bản có giá trị pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Trong suốt hơn ba thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều thế hệ người Việt Nam (với ý nghĩa cộng đồng cư dân đa dân tộc) đã đổ biết bao công sức để dựng xây và bảo vệ vùng đất Nam Bộ. Mỗi tấc đất nơi đây đều thấm đẫm mồ hôi và máu. Chính vì thế mà đối với mỗi người dân Việt Nam, Nam Bộ không đơn thuần chỉ là vấn đề chủ quyền lãnh thổ mà cao hơn thế, còn là vùng đất của những giá trị thiêng liêng.
Vũ Minh Giang
Nguồn : Nghiên Cứu Lịch Sử, 19/03/2013
Vũ Minh Giang, Giáo sư Tiến sĩ khoa học, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội,Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
Ghi chú :
[1] Bộ ngoại giao Campuchia, Sách đen, Phnom Penh, 1978.
2] Vann Molivann, Plan d’urgence pour la réhabilitation des ressources culturelles, humaines et economiques des sites d’Ankor, trong tập "Conservation of Cultural Heritage and International Assistance in Asian Countries", Nara 1993, tr. 45.
[3] Lịch Đạo Nguyên, Thủy Kinh chú.
[4] Xem Lê Hương, Sử liệu Phù Nam, Sài Gòn 1974.
[5] Ý kiến của các chuyên gia Ramesh, Raman (Ấn Độ) và N. Karashima (Nhật Bản).
[6] Tùy thư.
[7] Tân Đường thư.
[8] Lê Hương, sđd, tr. 93.
[9] Mã Đoan Lâm, Văn Hiến thông khảo.
[10] Võ Sỹ Khải, "Nghiên cứu văn hóa khảo cổ ốc Eo, mười năm nhìn lại", Khảo cổ học, số 4/1985.
[11] Chu Đạt Quan, Chân Lạp phong thổ kí (bản chữ Hán, mục Sơn xuyên)
[12] A. Dauphin Meunier, Le Cambodge, Paris 1965, tr.56.
[13] Raoul Marc Jennar, Les Frontières du Cambodge contemporain, INALCO, Paris 1998, tr. 89
[14] Dẫn theo Raoul Marc Jennar, sđd, tr. 97.