"Dân chủ không bao giờ tự có. Dân chủ luôn là giá trị mà một quốc gia cần phải làm để có" - Archibald MacLeish
Bài viết này chỉ nói về 2 cách nêu trên mà không đề cập các cách tiếp cận khác nằm giữa hai cực này.
Cách tiếp cận tối giản để đánh giá một quốc gia có dân chủ hay không tập trung vào khía cạnh cơ bản. Dahl (1973), sự cạnh tranh và sự tham gia chính trường.
Sự tự do cạnh tranh giữa các chính trị gia các chức vụ được bầu vào chính quyền biểu hiện mức độ dân chủ của chính quyền đó. Điều này dễ thấy trong quốc gia đa đảng. Hệ thống chính trị không có sự cạnh tranh như Libya dưới thời Gaddafi hay Iraq dưới thời Saddam Hussein được coi là phi dân chủ.
Việt Nam, quốc gia chỉ có một đảng giữ quyền cai trị đất nước, các chức vụ trong chính quyền từ chủ tịch nước cho đến chủ tịch xã đều được đảng cộng sản chỉ định. Bên cạnh các tổ chức chính quyền, các nhân sự trong Ủy ban nhân dân tỉnh, quận, phường xã, do đảng chỉ định phải thi hành đường lối của đảng trong việc cai trị, điều hành các hoạt động hành chính, an ninh, xã hội… còn có một tổ chức đảng cao hơn, uy lực hơn gọi là Ban Bí Thư ngay sát sườn để theo dõi, ‘uốn nắn’ Ủy ban nhân dân.
Thí dụ chủ tịch, phó chủ tịch tỉnh được chỉ định bởi Bộ Chính Trị để điều hành các hoạt động hành chính, an ninh, xã hội… trong tỉnh. Bên cạnh lại có ban Bí Thư tỉnh kiểm soát. Chức vụ bí thư, phó bí thư trong ban bí thư này cũng do đảng chỉ định.
Ở các quốc gia dân chủ như Pháp, Mỹ, Đức, Nhật chẳng hạn, các chức vụ lãnh đạo chính quyền từ quốc gia đến tiểu bang, thành phố đều được dân bầu lên theo định kỳ hiến định. Ở Mỹ, Tổng thống và phó Tổng thống được bầu gián tiếp của Đại Cử tri đoàn. Các Thống đốc tiểu bang, Thị trưởng được bầu trực tiếp.
Anh, Nhật, Thụy Điển…, các quốc gia được xem là dân chủ vì quyền điều hành đất nước là Thủ tướng được dân bầu gián tiếp qua đảng thắng cử bởi một cuộc bầu cử đa đảng. Quốc vương chỉ có tư cách đại diện quốc gia.
Quyền tham gia chính trị của người dân qua tự do ứng cử và bầu cử đo lường mức độ dân chủ của một quốc gia. Tại các nước tự do dân chủ, bất cứ công dân nào đến tuổi và hội đủ tiêu chuẩn hiến định đều có quyền ứng cử, bầu cử. Tại các quốc gia không dân chủ, các quyền này bị hạn chế hay tước đoạt cách này, cách khác, thậm chí ngay cả bởi Hiến pháp.
Người lãnh đạo Bắc Hàn theo truyền thống là người kế thừa bởi Chủ tịch Kim Nhật Thành. Các lãnh đạo địa phương, ‘dân biểu’ quốc hội cũng được chỉ định không khác Việt Nam.
Ở Việt Nam người dân không có quyền tự do ứng cử, người ứng cử vào các chức vụ hành chính đã đành, các ứng viên dân biểu quốc hội chẳng hạn phải hoặc do Đảng cộng sản Việt Nam chỉ định, và Mặt Trận Tổ Quốc các cấp sàng lọc. Không ai có thể có tên trên bảng danh sách ứng viên nếu không qua được đèn xanh của hai cơ quan đảng và Mặt Trận này.
Hơn thế nữa với hệ thống bầu cử giả tạo người của chính quyền như tổ trưởng dân phố có thể đi bầu thay cho cả tổ, một người có thể bỏ phiếu cho cả gia đình v v. Ngược lại, một người không đi bầu có thể phải chịu rắc rối với chính quyền về tội chống bầu cử.
Chính vì vậy, người ta không ngạc nhiên khi con số người đi bầu luôn gần 100% Việt Nam vẫn bị coi là chính quyền không dân chủ. Và dù số người đi bầu luôn gần đạt mức 100% người dân Việt Nam, kể cả các đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam, thực sự bị tước quyền bầu cử, ứng cử.
Các quốc gia, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Anh, Pháp. Úc… được coi là dân chủ, mọi công dân có quyền, theo hiến định, ứng cử vào các chức vụ trong nhà nước và quyền bầu cử hay không đi bầu. Mọi vi phạm quyền tự do bầu cử, gian lận đều bị trừng phạt.
Phương pháp tối đa bổ sung nhiều thuộc tính hơn cho Phương pháp tối giản. Trong số đó có tính bình đẳng, tính đại diện, tính thảo luận và sự tham gia.
Bình đẳng có thể hiểu là sự không phân biệt về sự giàu có, thu nhập hoặc địa vị, v.v của ứng viên (Coppedge 2012, 12-13). Nhà nước trợ cấp tiền, hay các ứng viên được phép toàn quyền quyên góp cho ngân quỹ vận động bầu cử của mình.
Hệ thống bầu cử khu vực thành viên đơn, winner takes all của Hoa Kỳ, chỉ một người hay liên danh được số phiếu tương đối cao nhất nhận tất cả phiếu đại cử tri đoàn của tiểu bang, được coi là ít tính đại diện hơn, tuy nhiên điều này lại làm cho các tiểu bang dù lớn hay nhỏ hơn, có số phiếu đại cử tri đoàn rất chênh lệch, trở nên có quyền ngang nhau. Hệ thống bầu cử lãnh đạo tiểu bang, các thành phố không theo cách này. Người hay liên danh nhận được đa số tương đối phiếu bầu sẽ thắng cử.
Hệ thống đồng thuận được coi là có tính cân nhắc trong hệ thống theo đa số. Có những thảo luận giữa các nhóm khác nhau như chính phủ, các nhóm tư bản, và lao động, đảng phái trước các cuộc bầu cử, và người chiến thắng trong cuộc bầu cử sau này được tự do điều hành xã hội trong các điều khoản đã thỏa thuận trước với các nhóm khác.
Hệ thống đồng thuận cung cấp cho công dân nhiều cơ hội hơn để tham gia hầu như trực tiếp hoạt động chính quyền. Tiếng nói của các tầng lớp nhân dân được nghe thường xuyên giữa các cuộc bầu cử, người dân có thể bày tỏ ý kiến của họ ở mức độ khác nhau trong các thảo luận nhóm của họ (Lijphart 2012).
Hệ thống ứng cử vào quốc hội ở VN qua những buổi hiệp thương, ở đó Mặt Trận Tổ Quốc và một số đoàn thể và chính quyền cùng ngồi lại để tìm ra người được phép ứng cử. Hình thức này không thể so sánh với hệ thống đồng thuận giữa các nhóm xã hội hoàn toàn có những lợi ích khác nhau.
Xem thế, rõ ràng là một số nền dân chủ không giống hơn những nền dân chủ khác. Mặc dù chính khái niệm dân chủ bao hàm sự công bằng, mỗi xã hội dân chủ có giá trị công bằng khác nhau. Chúng có thể khác nhau về thuộc tính như công bằng, đại diện, tính thảo luận… (Lijphart 2012).
Tuy nhiên, cách tiếp cận theo chủ nghĩa tối đa có một số nhược điểm. Người Ả Rập coi trọng dân chủ về quyền công dân và tự do chính trị, nhưng họ coi nó như một công cụ để giải quyết các vấn đề như thất nghiệp và nghèo đói (Braizat 2010).
Phương pháp tối giản để đánh giá sự dân chủ của một chế độ có nhiều lợi thế hơn, dữ liệu dồi dào hơn, dễ dàng thu thập dữ liệu ở các quốc gia phi dân chủ hơn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, nó không thể phân biệt được một số chất lượng dân chủ giữa các nền dân chủ tiên tiến (Coppedge 2012, 21).
Vì vậy, theo tôi phương pháp tối giản có thể phù hợp hơn, thuận lợi hơn trong việc nghiên cứu quá trình tự do hóa và quá trình chuyển đổi từ chế độ độc tài sang dân chủ trong khi phương pháp tối đa lại phù hợp hơn để nghiên cứu các yếu tố quyết định chất lượng dân chủ trong các hệ thống dân chủ khác nhau.
Tóm lại, khi có thể nên làm dày thêm khái niệm dân chủ để việc nghiên cứu về dân chủ hóa và các yếu tố quyết định chất lượng dân chủ được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, các khái niệm càng dày thì càng ít dữ liệu có sẵn, đặc biệt là đối với nghiên cứu về dân chủ hóa vì chúng liên quan đến việc thu thập dữ liệu đáng tin cậy, đặc biệt là trong các chế độ độc tài. Hơn nữa, dữ liệu lịch sử có thể không có sẵn bây giờ cho một số lượng lớn các trường hợp cho các khái niệm rất dày về dân chủ.
Ngô Thái Văn
Nguồn : VNTB, 20/08/2020
Tài liệu tham khảo :
Braizat, Fares, "What Arabs Think", in Journal of Democracy, Volume 21, Number 4, October 2010, pp. 131-138
Coppedge, Michael. 2012. Democracy and Research Methods. Cambridge University Press.
ISBN-10 : 0521537274
Dahl, R. A. (1973). Polyarchy : Participation and opposition. Yale University Press.
Lijphart, A. (2012). Patterns of democracy : Government forms and performance in thirty-six countries. Yale University Press.
Có quan niệm cho rằng chính trị và đạo đức là hai phạm trù khó có sự dung hợp, "chính trị đi vào thì đạo đức đi ra". Vì nói đến chính trị là người ta hay nghĩ đến các thủ đoạn, âm mưu giành chính quyền để thực hiện những chủ trương chính sách cai trị ; người hay đảng cầm quyền có thể vận dụng mọi phương cách dù gian trá, bất chính, vô nhân đạo, phản đạo đức, vô luân để đạt mục tiêu cá nhân hay tập thể.
Lễ khai mạc Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12, 21/1/2016. (Ảnh tư liệu)
Quan niệm này có thể phản ánh phần nào sinh hoạt chính trị thực tế, nhưng chỉ đúng về mặt tiêu cực của chính trị, mà không đúng về mặt tích cực và chính mặt tích cực này của chính trị mới phản ánh trung thực nội dung và ý nghĩa cao đẹp của chính trị, phù hợp với nhân đạo, đạo đức xã hội. Theo đó từ ngữ chính trị bao gồm hai cơ cấu tổ chức và nhân sự điều hành chính quyền để thực hiện chủ trương, chính sách cai trị sao cho có hiệu quả thực tế là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi tầng lớp nhân dân được sống trong độc lập, tự do, công bình, ấm no và hạnh phúc.
Một chính đảng, muốn nắm được chính quyền theo vương đạo, phải chứng tỏ trước nhân dân là một đảng chân chính, vững mạnh về tổ chức, đưa ra được các chủ trương, chính sách ích quốc, lợi dân có tính thuyết phục và khả thi. Người làm chính trị chuyên nghiệp, muốn nắm được chính quyền, trước hết phải chứng tỏ tài năng và đạo đức cá nhân trước chính đảng của mình (nếu muốn nắm chính quyền thông qua chính đảng), hay trước nhân dân (nếu muốn nắm chính quyền với tư cách cá nhân). Như vậy, chính trị và đạo đức dù ở hai phạm trù vẫn có sự dung hợp và là một sự kết hợp phải có theo ý nghĩa chính danh, cao đẹp của từ ngữ chính trị. Chẳng qua, quan niệm cho rằng giữa chính trị và đạo đức không thể dung hợp, xuất phát từ những biểu hiện tiêu cực của các hoạt động chính trị thực tiễn của các chính đảng và các chính trị gia bất chính, bất lương, làm chính trị theo trường phái bá đạo, chỉ vì lợi ích cá nhân hay chính đảng của mình. Thế nhưng, thực tế với các biểu hiện tích cực của các chính đảng và các chính trị gia chân chính, lương hảo, đã xác tín nội dung và ý nghĩa cao đẹp của từ chính trị. Đồng thời cũng chính thực tế thể hiện mặt tiêu cực của các chính đảng và các chính trị gia bất chính, bất lương, đã làm mất niềm tin của nhân dân, khiến chính trị có bản chất trái đạo đức, vô nhân đạo.
Vì vậy, dưới mắt quần chúng và công luận xã hội, đạo đức chính trị đã là chuẩn mực xét định, tín nhiệm, tuyển chọn, đánh giá các chính đảng và các chính trị gia chuyên nghiệp. Trên thực tế, quần chúng và công luận luôn giữ vững các chuẩn mực này và không bỏ qua những vi phạm chuẩn mực đạo đức đối với các chính đảng hay các chính trị gia tham chính.
Trên thực thế cho thấy ý nghĩa tích cực, cao đẹp của chính trị thường thể hiện mức độ cao trong các chế độ chính trị "dân chủ pháp trị" ; còn ý nghĩa tiêu cực xấu xa của chính trị hầu như chỉ thể hiện trong các "chế độ độc tài" các kiểu (quân chủ chuyên chế, tôn giáo chuyên chế, độc tài quân phiệt, cộng sản chuyên chính hay cộng sản độc tài toàn trị…). Thực tế ai cũng có thể thấy rõ sự khác biệt vế ý nghĩa chính trị tốt hay xấu nơi các nước theo chế độ dân chủ và các nước theo chế độ độc tài.
Tại Hoa Kỳ, như quý độc giả quan tâm đều biết qua các cuộc tranh cử vào các chức vụ dân cử hay công cử, tiêu chuẩn đạo đức cá nhân chính trị gia là một tiêu chuẩn hàng đầu gắn liền với tài năng các ứng viên độc lập cũng như do chính đảng đưa ra. Trong các cuộc bầu cử vào các chức vụ dân cử các cấp liên bang hay tiểu bang và địa phương nói chung, một số ứng viên đã phải bỏ cuộc sau khi công bố ý định ra tranh cử hay mới bước vào tranh cử một thời gian, do bị cử tri hay truyền thông báo chí đưa ra trước công luận những vi phạm đạo đức cá nhân. Thông thường, các ứng viên biết tự trọng phải bỏ cuộc, vì những vi phạm pháp luật liên quan đến ái tình bất chính (vi phạm luật hôn nhân gia đình) hay trốn thuế, thể hiện một phẩm chất thiếu trung thực, bất xứng với nhân cách một người đại diện làm việc cho dân cho nước. Vì vậy, trong cuộc bầu cử vừa qua những người chống ứng cử viên Tổng thống Donald Trump đã cố đưa ra những quan hệ bừa bãi trong đời thường của ông Trump với phụ nữ và cố buộc ông phải công khai hồ sơ khai thuế. Nhưng rốt cuộc ứng cử viên Trump đã không hề hấn gì, có lẽ ông đã không vi luật (hôn nhân gia đình và thuế vụ) mà vợ con của ông và sở thuế đã biết rõ thực chất các vụ tố cáo này chăng ? Do đó, trong các cuộc bầu cử tranh cử tự do ở Hoa Kỳ, mọi người đều có quyền bóc trần đời tư cá nhân của một ứng viên mà không sợ bị kết tội vi phạm đời tư cá nhân là như vậy.
Đối với các chức vụ công cử cũng vậy, ngoài tài năng, phẩm chất đạo đức của các ứng viên cũng được xét đến. Vì vậy những người sau khi được tân Tổng thống Donald Trump (cũng như các vị tiền nhiệm) mời tham gia nội các còn phải được sự chuẩn thuận của Quốc hội để được xét nhiều mặt trong đó có phẩm chất đạo đức cá nhân. Một điển hình dưới thời Tổng thống Barrack Obama nhiệm kỳ đầu, đã có ba nhân vật được ông đề cử vào các chức vụ công quyền, nhưng hai trong ba vị này đã phải từ chối sự đề cử sau khi bị phanh phui thiếu thuế. Đó là cựu Thượng Nghị sĩ Tom Dashle, từng là lãnh tụ đảng Dân Chủ tại Thượng Viện, tuyên bố không nhận chức Bộ trưởng Y tế đặc trách chương tình cải tổ y tế đầy tham vọng của Tổng thống Obama, vì đã quên trả tiền thuế 130.000 USD. Khi loan báo quyết định rút lui, ông Dashle nói rằng ông không thể nào thi hành công vụ với niềm tin không trọn vẹn của Quốc hội và người dân Mỹ". Từ chối của ông Dashle được đưa ra chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi bà Nancy Killefer, người được Tổng thống Obama để cử làm người quản trị ngân sách Tòa Bạch Ốc, một chức vụ mới nhằm theo dõi sự chi tiêu tránh lãng phí của chính phủ, phải từ nhiệm cũng vì vướng mắc với tiền thiếu thuế trong quá khứ. Riêng ông Tim Geithner được đề cử giữ chức Bộ trưởng Tài chánh thì khỏi phải từ nhiệm, vì đã kịp sửa sai sự thiếu thuế. Trong cuộc phỏng vấn của đài truyền hình NBC, Tổng thống Obama nói ông rất buồn, hối tiếc và có lỗi trong việc giải quyết vụ việc này. Ông nói : "Tôi nhìn nhận mình đã sơ suất, lầm lỗi này quan trọng cho cả nội các, vì chúng ta muốn gửi đi thông điệp rằng nước Mỹ không có hai bộ luật riêng rẽ, một dành cho người có chức quyền, và một dành cho dân nghèo".
Trong khi đó, chế độ độc tài toàn trị cộng sản tại Việt Nam, chẳng cần nói ra thì nhân dân Việt Nam ai cũng biết chính trị không có đạo đức và không cần đạo đức. Vì vậy khác với chế độc dân chủ, các chức vụ công cử đều do sự chọn lựa duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiêu chuẩn hàng đầu để được lựa chọn không phải là nhân cách, tác phong và đời sống đạo đức mà là lòng trung thành được thể hiện trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách. Tiêu chuẩn tài năng cũng cần, nhưng chỉ là để làm tốt nhiệm vụ đảng giao phó, vì lợi ích của đảng chứ không phải lợi ích của dân. Trong các cuộc bầu cử, Đảng Cộng sản Việt Nam chọn ứng cử viên để dân bầu. Các cử tri cũng được quyền phê phán có mức độ, nhưng nghiêm cấm bới móc đời tư cá nhân ảnh hưởng không tốt cho đảng. Truyền thông, báo chí thì nhà nước nắm độc quyền nên lý lịch các ứng cử viên đảng cho biết đến đâu thì dân biết đến đó. Tội trốn thuế chỉ áp dụng cho nhân dân, cũng như quan hệ bất chính dù vi phạm luật hôn nhân gia đình là không có hay có cũng không được áp dụng với các ứng cử viên được đảng chọn và các quan chức nhà nước cao cấp. Đó là thực trạng phổ biến dưới chế độ "Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam" hiện nay.
Như vậy có thể nói, chính trị phải có đạo đức, sự vi phạm đạo đức chính trị là do các hành vi của các chính đảng và những người làm chính trị. Có khác chăng là cách xử lý các vi phạm đạo đức chính trị trong chế độ dân chủ có khác chế độ độc tài. Sự khác biệt này được thể hiện qua cách xử lý của Tổng thống Obama và sự tự giác, tự xử những vi phạm đạo đức chính trị của những người được đề cử vào các chức vụ công quyền ở Hoa Kỳ. Trong khi đó, dưới chế độ cộng sản Việt Nam, những ứng cử viên được đảng chọn không tự giác từ chối sự đề cử của đảng khi thấy mình bất xứng về đạo đức đã đành, mà chính Đảng Cộng sản Việt Nam còn coi nhẹ tiêu chuẩn đạo đức và tìm cách bao che những vi phạm pháp luật của các viên chức cầm quyền vì lợi ích cao nhất của đảng.
Tựu trung, trong chế độ độc tài toàn trị như ở Việt Nam hiện nay, có hai thứ luật pháp, một cho nhân dân và một cho những kẻ cầm quyền. Như thế, nó tiêu biểu cho mặt tiêu cực của chính trị, làm mất ý nghĩa cao đẹp của chính trị, khiến nhiều người lầm tưởng hai phạm trù chính trị và đạo đức không thể dung hợp, trong khi thực chất và thực tế chính trị và đạo đức có tính chất song hợp, góp phần chủ yếu vào sự ổn định, phát triển và thăng hoa xã hội lòai người. Vì chính trị mà không có đạo đức, không chỉ phá hủy niềm tin con người mà còn phá hủy cả sự tiến bộ và nền đạo đức xã hội.
Thiện Ý
Nguồn