Với tư duy còn nghèo nàn, lạc hậu về nhiều mặt, kém văn minh trong hành xử, như kiểu bộ lạc thời xưa, và với chủ trương khai dụng nó để tiếp tục cầm quyền, thì làm sao có thể xây dựng một xã hội hài hòa, văn minh, tiến bộ...
Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang dâng hương nhân kỷ niệm 133 năm ngày sinh của ông Tôn Đức Thắng ngày 20/8/2021. (Ảnh : Công Mạo/TTXVN)
Nhiều cuộc thử nghiệm khoa học cho thấy đầu óc con người có xu hướng phân biệt ta và địch một cách sâu sắc (us versus them thinking). Nó có khả năng phân biệt một cách tự động và cực nhanh,theo Robert Sapolsky.
Robert Sapolsky là Giáo sư Sinh học, Phẫu thuật Thần kinh, Thần kinh học và Khoa học Thần kinh tại Đại học Stanford, và cũng là tác giả của cuốn sách nổi tiếngBehave : The Biology of Humans at Our Best and Worst. Ví dụ như, khi rọi và chụp hình bộ óc phản ứng ra sao dành cho một người da trắng tiêu biểu (Mỹ) khi cho họ xem nhiều hình ảnh, thì đến khi khuôn mặt một người da màu (đen) hiện ra, nó kích thích liền phần não gọi là amygdala, trung tâm phần não có chức năng điều khiển cảm xúc sợ hãi và hung hăng. Phản ứng nhanh đến độ chỉ dưới 1/10 của một giây. Trong phần lớn trường hợp, bộ não chịu trách nhiệm phần lý trí, có tên gọi là prefrontal cortex (PFC), liền lập tức can thiệp trong vòng một hai giây sau đó và làm dịu lại amygdala. Tuy thế, Sapolsky cho rằng phản ứng ngay từ đầu phần lớn là vì sợ hãi, ngay cả đối với những người hiểu biết hơn bình thường.
Đây chỉ là một ví dụ trong vô số thử nghiệm về con người để cho thấy dù sống trong xã hội văn minh và đa văn hóa, đặc tính/chủ nghĩa bộ lạc (tribalism) vẫn nằm trong bộ óc con người. Từ đó vấn đề phân biệt vùng miền, dân tộc, quốc gia v.v. là vô cùng phổ quát.
Chủ nghĩa bộ lạc, và dân tộc, đang ngày càng gia tăng trong nhiều quốc gia dân chủ cấp tiến, từ Mỹ đến Châu Âu. Micheal Carpenter, từng là Thứ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ năm 2015 – 2017,biện luận rằng chủ nghĩa bộ lạc đang giết chết chủ nghĩa cấp tiến.
Amy Chua, một giáo sư luật tại Trường Luật Yale, từngbiện luận rằng con người có nhu cầu thuộc về nhóm cho nên họ gia nhập câu lạc bộ, đội, và khi trở thành thành viên, họ cảm thấy có sự ràng buộc mạnh mẽ với nó ; và ‘ở nhiều nơi, danh tính quan trọng nhất - những điều mà mọi người sẽ hy sinh mạng sống - không phải là quốc gia mà là dựa trên sắc tộc, khu vực, tôn giáo, giáo phái hoặc thị tộc.’
Những tín đồ của chủ nghĩa độc tài toàn trị, như cộng sản thì sao ?
Trên lý thuyết, chủ nghĩa cộng sản nhắm đến xóa bỏ tất cả những gì mang tính bộ lạc. Tam vô : vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo. Họ đề cao một thế giới đại đồng, vô giai cấp, cho toàn thể mọi người.
Trên thực tế, sau bao nhiêu cuộc đấu tranh giai cấp và nhân danh bao nhiêu điều ảo tưởng, mà hàng trăm triệu người trở thành nạn nhân của cuộc thử nghiệm này, những nước còn đang cộng sản (Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba, Bắc Hàn), lẫn một số quốc gia hậu cộng sản (Nga, Campuchia, v.v.), đang thể hiện tính cách bộ lạc mạnh mẽ nhất.
Con người nói chung ai cũng mang DNA bộ lạc trong mình. Nghĩa là chúng ta thường có xu hướng đánh giá ai bạn ai thù, và chỉtin tưởng những người mà chúng ta coi là vòng quen thuộc, hoặc giống mình. Nhưng chế độ cộng sản và một số hậu cộng sản có đầu óc bộ lạc khá nặng. Vòng tin tưởng của họ giới hạn trong gia đình, giòng họ hay một số cá nhân đặc biệt nào đó. Họ luôn xem sự đối lập, những người không cùng quan điểm hay ý thức hệ với họ, là thế lực thù nghịch, luôn chờ trực để hãm hại mình, cho nên cần phải bị tiêu diệt hay loại trừ. Họ xem những gì quen thuộc, giống họ, như cùng suy nghĩ hay ý thức hệ, thì họ mới tin. Chẳng hạn, trước đây họ đề cao quốc tế cộng sản hay chủ nghĩa đại đồng và xóa bỏ đặc tính quốc gia/dân tộc, và nay thì đề cao chủ nghĩa dân tộc. Nó chủ yếu là một chiêu bài chính trị. Mỗi lần thay đổi như thế, họ tìm cách biện minh, chống chế, và bất cứ ai không ủng hộ đường lối như thế thì bị xem là thù nghịch, k ể cả người dân.
Vladimir Putin, chẳng hạn, coi tất cả thành phần đối lập tại Nga là phải loại trừ ; xem những chính trị gia tại Ukraine hay các nước lân cận nào mà theo Tây phương là thù nghịch ; và đặc biệt xem NATO là mối đe dọa sống còn cho quyền lực và quyền lợi của mình. Sự bất an này đã làm cho Putin nhìn đâu cũng thấy kẻ thù. Nhưng nếu nước Nga không phải là một chế độ độc tài hay tham vọng bá quyền, không có lý do gì để Nga phải lo ngại NATO. Sự thật là NATO được hình thành chính vì mối lo ngại và đe dọa thực tiễn từ thời Liên Xô của Joseph Stalin sau Thế Chiến II. Nếu nước Nga không có những kẻ độc tài với tham vọng bá quyền như Stalin hay Putin thì cũng đã không có Chiến tranh Lạnh hay nhiều cuộc chiến khác, kể cả Ukraine hiện nay.
Cung cách hành xử của Tập Cận Bình tại Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam tại Việt Nam cũng không khác bao nhiêu. Quyền lực nằm gần như tuyệt đối trong tay một đảng, không chia sẻ với bất cứ ai. Nhưng trong đảng đó lại có thêm nhiều vòng quyền lực, mà vòng nhỏ nhất chỉ là thiểu số một hay vài người thôi. Nó cũng không khác nhiều với trưởng bộ lạc thời xưa hay kiểu gia đình trị lâu nay. Họ chủ trương xóa bỏ mọi tôn giáo, suy luận tôn giáo là thuốc phiện, nhưng trên thực tế hành xử có tính giáo phái. Chẳng hạn, giới lãnh đạo vẫn còn tôn thờ ông Hồ Chí Minh, hay trước đây những ông Karl Marx, Lenin, Stalin v.v., như là giáo chủ. Cách đây chỉ vài hôm, một số người thần tượng ông Hồ Chí Minh tỏ vẻ giận dữ và phê phán phía Đại sứ quán Ukraine tại Hà Nội vì cho rằng kênh YouTube "Ukraine 24" và báo mạng "Pravda Ukraine" (Sự thật Ukraine) đã "hạ thấp" ông Hồ Chí Minh.
Không có chủ nghĩa nào thô sơ bằng bộ lạc vì họ luôn chia ra "ta" và "địch". Ai không nhìn giống họ, đánh giá giống họ, tôn thờ giống họ, nhận diện ra nguy hiểm giống họ, v.v. thì bị xem là địch.
Đây là tư duy thô thiển, nguyên thủy nhất của loài người, chứ không có gì là văn minh cả.
Họ chỉ không nhìn ra được rằng trên thực tế mọi xã hội đều đa nguyên và chỉ muốn thể hiện bản chất đa nguyên một cách tự do nhất có thể.
Ngày 8 tháng 3, 22 đại sứ Châu Âu tại Việt Namnhắc nhở giới lãnh đạo Việt Nam rằng Liên Xô "đã tan rã từ lâu và chúng ta đang ở trong một kỷ nguyên mới", với hy vọng đánh thức Việt Nam. Họ đâu ngờ rằng lãnh đạo hàng đầu tại Việt Nam vẫn thức chứ không phải ngủ. Tuy muốn hội nhập với thế giới văn minh, tư duy giới lãnh đạo Việt Nam vẫn còn nặng chủ nghĩa bộ lạc. Lãnh đạo cộng sản không tin tưởng bất cứ nước nào đang theo chủ nghĩa cấp tiến mà có khả năng giúp Việt Nam "tự diễn biến, tự chuyển hóa" thành một nền dân chủ cấp tiến thật sự trong tương lai.
Những kẻ cầm quyền tại Việt Nam, Trung Quốc và Nga có nhiều điểm giống nhau. Giống nhất là cái văn hóa chính trị cộng sản toàn trị, nhưng mang tính bộ lạc, cả một thế kỷ qua, làm cho họ hiểu nhau và gắn bó nhau. Trong thâm tâm, họ vẫn nghi ngờ nhau, sợ nhau, từng gây hấn và đã có chiến tranh với nhau. Nhưng dù sao họ vẫn cảm thấy an toàn để tin tưởng những điểm giống nhau này, hơn là những ý thức hệ chính trị khác mà hoàn toàn không nằm trong tư duy của họ. Cho nên không có gì ngạc nhiên khi một số thành phần tại Hà Nội và Bắc Kinh có xu hướng ủng hộ Moscow trong cuộc chiến Ukraine.
Tất cả những điều họ rêu rao tuyên truyền bấy lâu nay rằng họ luôn vì quốc gia dân tộc, thật ra đều là giả dối hết. Quyền lợi và quyền lực của cá nhân, gia đình, bè phái của họ mới là trên hết. Nó là đặc tính bộ lạc.
Với tư duy còn nghèo nàn, lạc hậu về nhiều mặt, kém văn minh trong hành xử, như kiểu bộ lạc thời xưa, và với chủ trươngkhai dụng nó để tiếp tục cầm quyền, thì làm sao có thể xây dựng một xã hội hài hòa, văn minh, tiến bộ trong đó chấp nhận tính đa nguyên, tôn trọng pháp luật và khai dụng tài năng của toàn xã hội. Khoan nói đến điều ảo tưởng là tiến tới xã hội chủ nghĩa xa vời, hay thế giới cộng sản đại đồng !
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 25/03/2022
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là gặt hái những phần thưởng văn hóa, khoa học, sáng tạo và tập thể sau khi xóa bỏ tư hữu và thị trường tự do, và để không còn cảnh người áp bức người. Dùng mệnh lệnh của nhà nước, chủ nghĩa cộng sản cố gắng tạo ra xã hội xã hội chủ nghĩa này. Song điều thực sự diễn ra chính là sự đoạt lấy quyền lực của một nhóm bạo chúa vô nhân đạo : Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Pol Pot, Castro, Mengistu, Ceausescu, Hoxha, vân vân.
Alan Charles Kors là giáo sư lịch sử ở đại học Pennsylvania, Hoa Kỳ.
Bây giờ chúng ta được mời thảo luận về điều gì xảy ra theo sau những bạo chúa này, và chúng ta học ở họ những bài học gì, và thế giới nào ló hiện ra từ sự mất niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên có một vấn đề : những xác chết. Vô số người vô tội bị sát hại khắp nơi chung quanh chúng ta, và ở mức độ hoàn toàn chưa từng có. Đây không phải là hàng ngàn người bị giết trong thời tôn giáo pháp đình ; đây không phải là hàng ngàn người Mỹ bị đám đông hành hình. Đây không phải là sáu triệu người chết vì bị Quốc Xã tiêu diệt. Công trình nghiên cứu tốt nhất mang tính học thuật đưa ra những con số mà đầu óc ta phải cố gắng hiểu : hàng biết bao nhiêu triệu xác chết.
Quanh ta toàn xác chết. Nếu chúng ta đếm những người chết đói trong các thí nghiệm của cộng sản về mối quan hệ giữa người với người- riêng Trung Quốc thôi hai mươi đến bốn mươi triệu trong ba năm. Bị xử bắn, cố tình để cho bị chết trong rét buốt ; bị chết đói ; bị sát hại trong các trại và nhà tù nghĩa là những nơi con người bị vắt kiệt đến chút sức lao động cuối cùng rồi giết họ. Và vô vàn quanh ta là bao người mất chồng, kẻ mất vợ, con thơ mất cha mẹ.
Trong lịch sử toàn nhân loại chưa từng có sự nghiệp nào đã tạo ra nhiều bạo chúa tàn ác, nhiều người vô tội bị tàn sát, và nhiều trẻ thơ mồ côi cho bằng chủ nghĩa xã hội có quyền lực. Nó vượt qua rất nhanh tất cả những hệ thống sản xuất khác về sản xuất ra những người chết. Xác chết la liệt khắp mọi nơi quanh ta. Nhưng vấn đề là ở đây : Chẳng ai nói về họ. Chẳng ai vinh danh họ. Chẳng ai ăn năn hối lỗi vì họ. Chẳng ai tự tử vì đã từng là người biện hộ cho những kẻ gây ra bao cái chết này cho họ. Chẳng ai trả giá vì họ. Chẳng ai bị truy nã vì đã giết họ. Thật là rất đúng như những gì Solzhenitsyn đã tiên đoán trong Quần đảo Ngục tù : "Không một ai, chẳng một ai sẽ phải chịu trách nhiệm. Chẳng ai sẽ bị điều tra". Không có "hậu cộng sản" cho tới khi điều đó xảy ra.
Phương Tây chấp nhận một tiêu chuẩn kép rất quan trọng, rất bất công, không thể nào tha thứ. Hầu như mỗi ngày chúng ta đều kể lại những tội ác của Quốc Xã, chúng ta dạy con cái những tội ác này là những bài học lịch sử và đạo đức nền tảng, và chúng ta làm chứng cho mỗi nạn nhân. Nhưng với rất ít vài ngoại lệ, chúng ta hầu như im lặng về tội ác của cộng sản. Cho nên xác chết vẫn nằm la liệt quanh ta ở khắp mọi nơi, không ai để ý đến. Chúng ta đòi "giải độc Quốc Xã", và chúng ta chỉ trích kịch liệt những ai coi nhẹ nó nhân danh hiện thực chính trị mới hay đang xuất hiện. Chưa từng bao giờ có và sẽ không bao giờ có sự "giải độc Cộng Sản" tương tự, mặc dù sự tàn sát người vô tội của cộng sản còn lớn hơn gấp bội lần, và mặc dù những kẻ ký các lệnh và quản lý các trại giam vẫn còn sống. Trong trường hợp Quốc Xã, chúng ta truy nã những kẻ chín mươi tuổi vì "xương cốt kêu gào" công lý. Trong trường hợp cộng sản, chúng ta đòi "không được săn lùng phù thủy"- hãy để người chết chôn người sống. Nhưng người chết không thể chôn ai.
Vì vậy người chết nằm la liệt quanh chúng ta, và bất kỳ ai có đôi mắt đạo đức đều thấy họ, nhưng không ai màng đến họ vì họ không hiện diện trong ý thức đạo đức của chúng ta, họ tràn ngập trần truồng trên truyền hình và màn bạc, họ tê liệt vì đau đớn trong các lớp học của chúng ta, họ nằm dài ra đấy, không được chôn cất, trên khắp nền chính trị và văn hóa của chúng ta. Họ ngồi kế bên chúng ta trong các cuộc hội nghị của chúng ta. Có thể đã không có chuyện "hậu Quốc Xã" nếu không có sự thừa nhận, giải thích, công lý, phán xét, và tưởng niệm. Không có "hậu cộng sản" cho tới khi nào ta giải quyết xong vấn đề những người chết dưới tay cộng sản.
Các nghệ sĩ chúng ta ám ảnh đúng đắn với cuộc đại thảm sát nhỏ hơn nhưng vẫn không thể nào đo lường được của Quốc Xã đối với người Do Thái, mà kéo dài vài năm, và khi chúng ta xem Đêm và Sương mù, Shoah, Danh sách của Schindler, và hầu như vô số phim khác, chúng ta khóc, chúng ta xót xa, và chúng ta trân quý trở lại phần linh hồn con người của mình. Cuộc đại thảm sát của cộng sản còn lớn hơn rất nhiều, mà kéo dài suốt từ thập niên này sang thập niên khác- nhà xác khổng lồ trong lịch sử con người- lại không tạo ra nghệ thuật như thế. Bộ phim nhẹ nhàng khiêm tốn về cuộc đại thảm sát của cộng sản, Một Ngày trong Đời Ivan, dựa theo tiểu thuyết của Solzhenitsyn, thì hầu như không được chiếu lại và cũng không thể tìm mua được. Cuộc đại thảm sát của cộng sản lẽ ra nên tạo ra sự thăng hoa nghệ thuật Phương Tây, và nhân chứng, và cảm thông. Đáng lẽ cuộc đại thảm sát của cộng sản phải tạo ra đại dương tràn đầy nước mắt, Ngược lại nó chỉ tạo ra băng hà vô cảm. Thanh niên vào thập niên 1960 treo hình Mao và Che trên các bức tường đại học của họ- về mặt đạo đức giống như treo hình của Hitler, Goebbels, hay Horst Wessel trong ký túc xá của mình- bây giờ dạy dỗ con cái họ về sự ưu việt đạo đức của thế hệ chính trị của họ. Tất cả sách giáo khoa về lịch sử đều bàn không ngớt về tội ác của chủ nghĩa Quốc Xã, đi tìm nguyên nhân cội rễ của chúng, và tuyên bố bài học nào ta nên học. Mọi người đều biết con số "sáu triệu người". Ngược lại chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa Stalin thì luôn luôn được cho là "sai lầm" (thường xuyên sai lầm, sai lầm lặp đi lặp lại không ngừng). Ta hãy hỏi những sinh viên năm thứ nhất có bao nhiêu người chết dưới chế độ của Stalin, và ngay bây giờ họ cũng sẽ trả lời, "Chắc hàng ngàn người ? Chắc hàng vạn người ?"
Hồ sơ cộng sản thật sự rõ ràng. Chủ nghĩa xã hội, bất kỳ ở đâu nó thực sự có phương tiện để kế hoạch hóa xã hội, để theo đuổi thành công viễn cảnh xóa bỏ tư hữu, bất bình đẳng kinh tế, và sự phân phối vốn và hàng hóa bởi thị trường tự do, đều kết thúc bằng việc tiêu diệt tự do về chính trị, hội đoàn, tôn giáo và cá nhân. Chỉ riêng tập thể hóa nông nghiệp của cộng sản đã đưa đến vô vàn đau khổ, thiếu thốn và khinh thường tài sản như thành quả lao động. Cộng sản, lúc hoàng kim nhất, là khả năng, qua khiếp sợ và nô lệ, xây dựng kiểu thành phố Gary, bang Indiana xưa kia, tức chẳng ra gì cả, và thậm chí không có khả năng duy trì nó.
Là những người đạo đức, chúng ta phải thừa nhận đúng đắn những điều khủng khiếp này và làm chứng cho những trách nhiệm của những thời giết người nhiều nhất này. Giống như chủ nghĩa Quốc Xã hay chủ nghĩa Phát xít phải đối chất với các trại tử thần và sự tàn sát những người vô tội, chúng ta sẽ không sống thời "hậu cộng sản" cho tới khi nào chủ nghĩa xã hội phải đối chất với hiện thực như đã thực sự diễn ra của nó, những tội ác lớn nhất trong suốt toàn bộ lịch sử tồn tại của con người.
Điều ấy sẽ không xảy ra. Giới trí thức Phương Tây bệnh hoạn đã phó thác mình cho mối quan hệ thù nghịch với văn hóa- tức thị trường tự do và quyền cá nhân- mà đã giảm bớt đau khổ nhiều nhất ; giải thoát ra khỏi cảnh bần hàn nhiều nhất, ngu muội và mê tín ; và gia tăng thịnh vượng và cơ hội lớn nhất trong suốt toàn bộ lịch sử tồn tại của con người.
Chính sự bệnh hoạn này cho phép trí thức Phương Tây bước vòng qua núi xác chết Everest của những nạn nhân cộng sản mà không có một giọt nước mắt, một chút ăn năn, hối hận, một hành động sám hối, hay đánh giá lại bản thân và tâm hồn.
Hành vi nhận thức của trí thức Phương Tây, một mặt, đối diện với những thành tựu trong xã hội của họ, và mặt khác, đối diện với lý tưởng chủ nghĩa xã hội và rồi hiện thực chủ nghĩa xã hội, khiến ta kinh ngạc. Giữa sự thăng tiến xã hội chưa từng có ở Phương Tây, họ kêu gào "giai cấp". Trong xã hội ngập tràn hàng hóa và dịch vụ, họ kêu gào hoặc "nghèo khổ" hay "chủ nghĩa tiêu thụ". Trong xã hội càng ngày càng giàu sang hơn, muôn màu muôn vẻ hơn, sản xuất ra nhiều của cải hơn, càng định hình về cái tôi hơn và nhiều cuộc đời riêng càng toại nguyện hơn, họ kêu gào "vong thân". Trong xã hội đã giải phóng phụ nữ, những người thiểu số chủng tộc, và những người đồng tính luyến ai nam lẫn nữ tới mức độ cách đây chỉ năm mươi năm không ai dám mơ là có thể xảy ra, họ kêu gào "áp bức". Trong xã hội có vô vàn tấm lòng từ thiện tư nhân, họ kêu gào "tham lam vô độ", Trong xã hội có hàng trăm triệu người ăn bám vào rủi ro, kiến thức, và vốn liếng của người khác, họ tố cáo "bóc lột" những người ăn bám ấy. Trong xã hội, thay mặt giá trị, phá tan xiềng xích tưởng như muôn đời của địa vị lúc sinh ra họ kêu gào "bất công". Nhân danh thế giới huyễn hoặc và hoàn thiện huyền bí, họ nhắm mắt làm ngơ trước phép lạ Phương Tây về quyền tự do cá nhân, trước trách nhiệm cá nhân, trước giá trị và sự hài lòng của con người. Giống như Marx, họ đặt những từ như "tự do" trong ngoặc kép khi những từ này liên quan đến Phương Tây.
Mỉa mai thay, truyền thống chính của cả chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản tất nhiên đều tuyên bố công trạng Mác-xít, và những người Mác-xít chắc chắn có một lý lẽ đúng : xét cho cùng, chúng ta nên phán xét những hệ thống của con người không phải theo lý thuyết và bao trừu tượng lý tưởng, mà theo lịch sử và thực tế thực sự. Với ác ý không thể nào tả xiết, họ đã áp dụng tiêu chuẩn ấy vào tất cả mọi điều ngoại trừ điều được cho là quan trọng nhất đối với họ. Khắp nơi trên thế giới, những trí thức, tuyên truyền viên, giáo sư, và những người biện minh Mác-xít đã không bao giờ so sánh "thế giới chủ nghĩa xã hội" với những xã hội ít nhiều tự do của Tây Âu và Bắc Mỹ. Thay vì thế, họ so sánh xã hội hoàn thiện không tưởng mà không bao giờ tồn tại với xã hội khiếm khuyết đang tồn tại mà đã đạt được những kỳ quan thực sự. Những người Mác-xít thích tố cáo chủ nghĩa phủ nhận hiện thực khách quan là "chủ nghĩa duy tâm triết học" khi họ lên án nó ở những người khác. Tuy nhiên, chính họ là những người tưởng tượng ra thế giới lý tưởng do họ tự thêu dệt ra-nghĩa là, chính họ là những người lúc nào cũng phủ nhận hiện thức khách quan hơn ai hết. Do bằng chứng lịch sử đã tước hết đi mọi thứ của chủ nghĩa Mác cho nên những người thừa kế nó-những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại chống Phương Tây trong giới thiên tả về văn hóa- nên chấp nhận một cách minh bạch rằng chủ nghĩa phủ nhận hiện thực khách quan là lối suy nghĩ do tự họ chọn.
Điều gì đáng lẽ nên diễn ra sau "hậu cộng sản" ?
Bản kê khai vốn dài : bất ngờ nhận thức về chống cộng sản. Liên hoan ăn mừng. Có rất nhiều công trình nghiên cứu mang tính học thuật so sánh giữa ta và họ. Một sự giải thích đầy đủ về hiện thực cộng sản-về chính trị, kinh tế, đạo đức, sinh thái, xã hội, văn hóa vân vân (Điều gì ta không muốn biết ?). Qúy trọng trở lại những nguyên tắc mà là nền tảng-từ phía chúng ta- cho những sự khác biệt. Những cuộc tự nhận lỗi lầm sâu sắc, đau khổ, tự vấn lương tâm giống nhau của tất cả những ai, dù không ác ý, nhưng trước đây đã sai lầm bi thảm. Nhạy cảm rất sâu sắc trước bản chất và chính sách của những chế độ cộng sản vẫn còn sống dai dẳng. Xét lại chương trình giảng dạy. Thừa nhận giá trị không thể nào tả được của một chính quyền thật sự hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp.
Thật vậy, ta phải tuyệt đối tránh hồi sinh những nguyên tắc tự do kinh điển do các thầy giáo, giáo sư, truyền thông thông tin, nhà làm phim của chúng ta không màng đến cuộc điều tra so sánh mà thời gian đòi hỏi rất cấp bách. Thật vậy, vì các bài học về cộng sản sẽ được dạy bởi kiến thức và sự thật cho nên chắc chắn việc xét lại chương trình giảng dạy sẽ không xảy ra. Ít nhất trong một thế hệ, sự coi thường của trí thức về xã hội tự do-như một nền văn minh, tập hợp những thể chế, và nơi quy tụ những lý tưởng- đã là cốt lõi của các môn khoa học nhân văn và khoa học xã hội mềm. Sự coi thường này không thay đổi mà còn tăng nhanh bất chấp sự thật bây giờ không có cái cớ trí thức nào để không màng đến những chân lý nào đấy.
Chúng ta biết rằng sự trao đổi tự nguyện giữa các cá nhân mà chịu trách nhiệm về đạo đức dưới luật lệ của luật pháp đang tạo ra cả sự thịnh vượng lẫn sự đa dạng chưa từng có về những chọn lựa của con người. Mô hình như thế cũng đã và đang là điều kiện tiên quyết cho cá tính và tự do. Ngược lại, các chế độ kế hoạch hóa từ trung ương chỉ tạo ra nghèo khổ và đôi khi tạo ra sự phát triễn đến chủ nghĩa toàn trị không thể nào tránh được và sự lạm dụng quyền lực xấu xa nhất. Những xã hội thị trường tự do năng động, đặt nền tảng trên chủ nghĩa cá nhân dựa trên nhân quyền, đã thay đổi toàn bộ khái niệm của con người về tự do và về nhân phẩm cho những nhóm trước đây bị bỏ rơi bên lề xã hội. Toàn bộ "thí nghiệm chủ nghĩa xã hội", ngược lại, cuối cùng rơi vào cảnh xung đột dân sự ; hận thù sắc tộc ; thậm chí không có những điều kiện tiên quyết tối thiểu cho sự hồi sinh về kinh tế, xã hội và chính trị ; và coi thường rõ ràng cá tính và quyền thiểu số. Con cái chúng ta không biết sự so sánh thật sự này.
Còn về những cuộc tự nhận lỗi, chúng ta vô vọng chờ đợi chúng từ những kẻ tuyên bố họ đã không biết hay từ những kẻ vẫn còn không muốn học. Hãy để cho trí thức Phương Tây lặp lại lời trong "Tưởng niệm", tác phẩm sáng tác dưới thời khủng bố Stalin của Anna Akhmatova, nhà thơ Nga vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi : "Tôi sẽ nhớ họ mãi mãi và ở khắp mọi nơi, dù bất kỳ chuyện gì xảy ra tôi cũng sẽ không bao giờ quên họ". Những xác chết đòi hỏi giải thích, xin lỗi, và sám hối. Không có những điều như thế, sẽ không có "hậu cộng sản".
Alan Charles Kors
Nguyên tác : Can There be an "After Socialism" ?, The Atlas Society, 27/09/2003
Trần Quốc Việt dịch
(04/02/2022)