Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

jeudi, 29 avril 2021 15:03

Hòa giải và hòa hợp đãi môi

Ngày 30/4 năm thứ 46 sau 1975 đặt ra câu hỏi : Còn bao nhiêu năm nữa thì người Việt Nam ở hai đầu chiến tuyến trong chiên tranh mới "hòa giải, hòa hợp" được với nhau để thành "Một Người Việt Nam" ?

Hỏi chơi vậy thôi chứ cứ như tình hình bây giờ thì còn mút mùa lệ thủy. Nhưng tại sao ?

Sau đây là những lý do.

hoagiai1

Giấy ra trại của nữ Thiếu tá Trưởng đoàn đặc nhiệm Cảnh sát Đô thành, bị bắt ngày 15/06/1975 và được trả tự do về Sài Gòn ngày 15/02/1988, sau 13 năm bị giam trong các trại học tập cải tạo - Ảnh minh họa

Bên thắng không có lý do gì để hòa giải với bên thua

Thứ nhất, đảng cộng sản cầm quyền độc tài tại Việt Nam không hề quan tâm đến vấn đề "hòa giải" thật sự mà chỉ đặt mục tiêu vào "hòa hợp". Họ quan niệm rằng, "bên thắng" không có lý do gì để hòa giải với bên thua. Do đó, nếu bên thua muốn góp sức chung tay xây dựng đất nước thì chỉ có cách là "hòa hợp" vào với Chế độ, dưới sự lãnh đạo duy nhất và tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam.

Bằng chứng như phát biểu của cố luật sư Nguyễn Trần Bạt (mất ngày 15/12/2020) : "Vấn đề hòa giải nên xem lại, bởi vì bài toán xung đột của chiến tranh đã được giải xong rồi, người thắng kẻ thua cũng rõ rồi. Hòa giải là phải có hai bên, vì thế tôi nghĩ bây giờ không có cơ sở nào để đặt ra vấn đề hòa giải. Hòa giải là kết quả của sự thương lượng chính trị của các phe chính thống giai đoạn trước 30/4/1975. Còn hòa hợp là công việc mà Đảng cộng sản Việt Nam đã làm từ năm 1946 đến giờ, là một trong những thành tựu chính trị quan trọng nhất của Đảng cộng sản Việt Nam" (Quân đội nhân dân, 28/4/2020).

Phía cộng sản Việt Nam còn lập luận rằng việc chính quyền mới khi vào Sài Gòn ngày 30/4/1975 mà không "trả thù" những thành phần có "nợ máu với nhân dân", hay đã "nhân đạo" đưa họ đi học tập cải tạo rồi trả lại quyền công dân là hành động nhân văn.

hoagiai2

hoagiai3

Quân đội (trên) và công chức (dưới) miền Nam bị đưa vào trại tập trung để sau đó chuyển đi những trại cải tạo - Ảnh minh họa

Đây cũng là lối biện giải của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng với báo chí trong nước dịp 30/4/2020. Ông nói : "Bảo là không có kẻ thắng người thua là không đúng. Thắng rồi nhưng tôi không có trả thù. Thắng rồi tôi khoan dung. Thắng rồi tôi tạo điều kiện cho anh quay trở lại cuộc sống bình thường. Đó là tấm lòng nhân ái của đảng và nhà nước mình" (RFA, 30/4/2020).

Ngay cả nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình cũng rêu rao : "Chúng ta giành thắng lợi hoàn toàn ngày 30/4 với kết quả một thành phố Sài Gòn nguyên vẹn và sau giải phóng Miền Nam, không hề có "tắm máu" chính là nhờ chính sách hòa hợp dân tộc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Hòa giải, hòa hợp dân tộc xuất phát từ truyền thống khoan dung, nghĩa tình của dân tộc ta từ xưa".

Nói vây mà đâu phải vậy. Bởi vì, chuyện bị tra tấn, biệt giam khổ hình, chết trong lao tù và lao động đầu tắt mặt tối lâu năm, thay vì chỉ ít ngày như đã hứa, của hàng trăm ngàn tù "cải tạo" sau ngày 30/4/1975 không bao giờ cộng sản Việt Nam có thể phủ nhận là bằng chứng "tắm máu" khác sau ngay 30/4/1975.

Rồi hậu quả tan nát của những gia đình người miền Nam bị đuổi khỏi các thành phố đi lao đông ở "vùng kinh tế mới", tư sản bị đánh sập, tự do bị tước bỏ, tín ngưỡng bị hạn chế, văn hóa bị chà đạp, hủy hoại và hàng chục ngàn người đã bỏ mình trên Biển Đông trên đường tìm tự do là tội ác của ai, nếu không là trách nhiệm riêng của Đảng cộng sản Việt Nam ? Nỗi kinh hoàng này vẫn luôn đeo đuổi người miền Nam trong suốt 46 năm qua.

Mặt trái của hai nghị quyết

Thứ hai, để vận động người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Chính trị cộng sản Việt Nam đã đưa ra Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 29/11/1993 và Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/03/2004, trong đó đề cao quan điểm : "người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam". Đồng thời "chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả với những người còn có định kiến, mặc cảm với Nhà nước và chế độ ta".

hoagiai4

Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW ngày 19/5/2015 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 36-Ct/TW của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới - Ảnh minh họa

Nhưng, đến bây giờ đã 46 năm rồi mà chưa thấy Nhà nước có hành động chứng minh thật lòng đoàn kết dân tộc và xóa bỏ hận thù. Chưa thấy có bất cứ văn kiện chính thức nào đưa ra kêu gọi ngưởi Việt ở nước ngoài về nước được độc lập và bảo đảm có tự do tham gia vào các sinh hoạt chính trị, xã hội, tôn giáo, văn hóa và văn nghệ. Chỉ thấy đó đây nhan nhản lời mồi chài Việt kiều đem tiền về nước đầu tư hay gửi tiền về giúp đỡ thân nhân.

Mỗi năm, trung bình tổng số kiều hối gửi về Việt Nam từ 12 đến 26 tỷ USD, nhưng Nhà nước đã "hòa giải’ được gì với nhân dân Việt Nam Cộng Hòa ?

Bên cạnh đó, chuyến thăm Hoa Kỳ (từ ngày 10-22/10/2012) của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (thời đó) đã hoàn toàn thất bại. Ông Sơn có gặp một số "Việt kiều" để thảo luận hợp tác, nhưng những người này không đại diện cho ai và vị tẩy chay.

Trong khi đó, Ban Tuyên giáo đảng, Tổng cục chính trị quân đội và công an đã tập trung các bài viết đề cao chính sách "đoàn kết dân tộc" để xây dựng đất nước dưới quyền cai trị độc tôn của Đảng cộng sản. Đồng thời cũng lên án và vu khống cho những đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền, quyền ra báo, quyền hội họp, quyền được lập hội, và quyền biểu tình của dân trong nước là âm mưu của các thế lực thù địch muốn gây bất ổn định, muốn thành lập đảng đối lập để xóa vai trò lãnh đạo của Đảng.

Bằng chứng như Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, một chuyên gia về đối ngoại quốc phòng nói : "Trong lịch sử, chế độ đa nguyên, đa đảng đã sớm xuất hiện từ lâu. Chủ nghĩa đa nguyên phủ định tính thống nhất của thế giới, cường điệu cái riêng ; phủ nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp ; chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên tắc đa lực lượng, đa đảng phái và các tổ chức đảng phái này quan hệ với nhau theo nguyên tắc hiệp thương. Nếu áp dụng quan điểm này vào chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của Đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân thành một tổ chức tầm thường và nguy cơ phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản".

Ông tướng này còn nói : "Ở Việt Nam không cần sự tồn tại của chủ nghĩa đa nguyên - một thứ cơ sở lý luận cho việc thực hiện chế độ đa đảng. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử ; là ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh, chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam chứ không cần thêm bất cứ một tổ chức, đảng phái chính trị nào khác lãnh đạo cách mạng Việt Nam" (Quân đội nhân dân, 28/04/2020).

Nhưng sự thật là đảng đã tự phong rồi tự chiếm lấy quyền cai trị không qua sự lựa chọn bầu phiếu dân chủ và tự do nào của nhân dân. Vì vậy, chẳng làm gì có chuyện "là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân Việt Nam"

Cũng "tát nước theo mưa", khi cường điệu tự khoe : "Chế độ một đảng mà làm tốt công tác chống dịch Covid-19 hơn hẳn các nước đa đảng, để toàn thế giới khâm phục, ca ngợi nước ta rất nhân văn, khi họ nhìn rõ Đảng, Nhà nước ta chống dịch rất hiệu quả, là bởi tạo sức mạnh đồng thuận toàn dân tộc. Tốt đẹp như thế thì vội vã thay đổi theo một số người, liệu có đưa xã hội tử tế hơn hiện thời không, hay lại tan nát, thậm chí loạn lạc, chiến tranh như ở Đông Âu hay Trung Đông đấy thôi ?" (Nhà văn Nguyễn Văn Thọ, Quân đội nhân dân, 27/04/2020).

Chuyện ông Thọ lo loạn lạc, chiến tranh chẳng qua là ông đã tưởng tượng ra đấy thôi. Hãy lấy nước Đức, nơi ông Thọ đang sống, mà soi gương xem họ đã thống nhât đất nước năm 1990 và xóa bỏ hận thù thế nào để bây giờ là một cường quốc kinh tế của thế giới ?

Ngoài ra còn có luận cứ "ăn cây nào rào cây ấy" của Phó giao sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tú, Đại tá, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng.

Ông Tú viết trên Tạp chí Tuyên giáo : "Dựa trên cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn, cho phép chúng ta khẳng định dứt khoát rằng : Ở Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng !".

Theo ông Tú : "Nếu áp dụng quan điểm này (đa nguyên, đa đảng) vào chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của Đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân thành một tổ chức tầm thường và nguy cơ phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản".

Như vậy có phải Đảng cộng sản Việt Nam đã sợ phải đấu tranh với những tổ chức chính trị không cộng sản nên ông Tú mới lý luận cù nhầy rằng : "Chủ nghĩa đa nguyên là sản phẩm của giai cấp tư sản với thế giới quan phi khoa học, trái với chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong khi đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ vẫn mãi xác định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Chính điều đó đã, đang và sẽ mãi bảo đảm cho Đảng cộng sản Việt Nam - đảng chính trị duy nhất tồn tại, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Do vậy, ở Việt Nam không cần sự tồn tại của chủ nghĩa đa nguyên - một thứ cơ sở lý luận cho việc thực hiện chế độ đa đảng" (Tạp chí Tuyên giáo số tháng 7/2018).

Nguyễn Phú Trọng

Cũng tự mãn như ông Giáo sư Nguyễn Xuân Tú, vào ngày 27/02/2010, ông Nguyễn Phú Trọng thăm Ân Độ trong tư cách Chủ tịch quốc hội cũng nói rằng : "Thực tiễn các bạn thấy đất nước chúng tôi là chính trị xã hội ổn định, nhân dân được làm chủ trên thực tế, Quốc hội hoạt động ngày càng dân chủ, các đoàn thể cũng có tiếng nói và đang làm nhiệm vụ phản biện, giám sát xã hội". Ông chỉ rõ : "Việt Nam đang phát triển, đang đi lên, từ thực tế hoàn cảnh cụ thể của đất nước, chúng tôi thấy thực hiện một đảng vẫn là có hiệu quả nhất".

Trong cuộc phỏng vấn của báo Indian Express, ông Trọng nói thêm : "Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, hai đảng thì ít dân chủ hơn và một đảng thì ít dân chủ nữa, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, điều quan trọng là xã hội có phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát triển đi lên không? Đó là tiêu chí quan trọng nhất. Và cũng không nhất thiết cứ kinh tế thị trường thì phải đa đảng và ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ" (Thông tấn xã Việt Nam, 27/02/2010).

Sự thật thì nhân dân chưa hề bao giờ được làm chủ đất nước, nếu không được đảng cho phép. Bằng chứng như đất đai thuộc về toàn dân nhưng lại do nhà nước quản lý.

Đảng cũng chỉ thị công an phải ngăn chặn không cho thành lập tổ chức chính trị đối lập. Người dân cũng không được quyền ra báo, lập đài phát thanh, đài truyền hình.

Theo tin chính thức, tính đến ngày 31/12/2020, Việt Nam có 779 cơ quan báo chí, trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập ; 72 cơ quan có giấy phép hoạt động phát thanh-truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình. Nhưng tất cả đều là của các cơ quan, tổ chức đảng. Số người phục vụ cho báo, đài có trên 10 ngàn người nhưng chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là tuyên truyền cho chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước.

Như vậy thì "đoàn kết nhân dân" để làm gì, nếu không phải là làm tay sai cho đảng cầm quyền ?

Thực tế phũ phàng này do Đảng tạo ra và nuôi dưỡng đã ăn sâu, bám rễ trong tư duy kỳ thị vùng miền, kẻ thắng, người thua trong chiến tranh. Đảng kêu gọi : "Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân ; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội" (Nghị quyết Đảng XIII, ngày 26/02/2021), nhưng Đảng chưa hề cho dân được quyền tự quyết định tương lai chính trị của mình. Chia rẽ dân tộc, hận thù trong tương quan hàng ngày giữa "kẻ thắng" và "người thua" vẫn đang hiển hiện ở khắp Sài Gòn, nơi có hàng ngàn thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa bị hắt hủi và ruồng bỏ bởi chính quyền mới, ngay từ sau ngày 30/4/1975.

Bầu Quốc hội cho ai ?

Ngay cả chuyện bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026 diễn ra ngày 23/05/2021 cũng vẫn lả chuyện "đảng cử dân bầu". Không có bất cứ người nào của chế độ cũ Sài Gòn dám ra ứng cử thì đủ thấy tính phản dân chủ và chống hòa giải dân tộc của Nhà nước cộng sản Việt Nam rõ ràng như thế nào.

Với chủ trương "ăn hết, vét sạch", kỳ này đã có
17/18 ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII ứng cử Đại biểu quốc hội khóa XV, trong đó, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lần thứ 5 liên tiếp ứng cử tại Hà Nội.

Ông Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh được chỉ định ứng cử ở Sài Gòn. Trong khi Thủ tướng Phạm Minh Chính được đưa về Cần Thơ , và Chủ tịch quốc hội Vương Đình Huệ lại xếp cho ứng cử ở Hải Phòng.

Tổng số ứng cử viên Quốc hội khóa XV là 1.093 người, trong đó Trung ương chiếm 205 người (có 100 người tái cử), địa phương là 888 ứng viên và 75 người tự ứng cử.

Giáo sư Nguyễn Đình Cống, 84 tuổi, một khuôn mặt đấu tranh dân chủ nổi tiếng ở Hà Nội đã bị loại ngay vòng đầu ngày 8/4/2021 vớ lý do "quá già", sợ không đủ sức khỏe để phục vụ.

Giáo sư Cống nói với đài RFA rằng : "Theo Hiến pháp và Luật Bầu cử Quốc hội Việt Nam, việc ông tự ứng cử là hoàn toàn phù hợp căn cứ vào điều khoản không phân biệt tuổi tác".

Theo RFA : "Vừa qua có hai người tự ứng cử đại biểu quốc hội ở phía Bắc là ông Trần Quốc Khánh và Lê Trọng Hùng bị bắt giam. Cả hai bị cáo buộc ‘Làm, tàng trữ, phát tán tài liệu chống Nhà nước’ theo Điều 117 Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 2015".

Một chế độ độc tài cai trị, độc quyền tổ chức bầu cử và một mình sắp đặt đơn vị cho ứng cử viên để cử tri bỏ phiếu "bầy hàng" như thế thì có xứng đáng nói chuyện hòa giải và hòa hợp dân tộc không ?

Phạm Trần

(29/04/2021)

Additional Info

  • Author Phạm Trần
Published in Diễn đàn

Vấn đề hòa giải, hòa hợp 'vẫn còn nhức nhối' sau Cuộc chiến Việt Nam

Tina Hà Giang, BBC, 30/04/2020

Vấn đề hòa giải, hòa hợp vẫn còn nhức nhối giữa những người Việt thuộc hai phe, Giáo sư Carl Thayer nói với BBC News tiếng Việt.

hoahop1

Giáo sư Carl Thayer : Vết thương vẫn chưa lành sau 45 năm Cuộc chiến Việt Nam

Đây là khía cạnh của cuộc chiến mà, theo nhà nghiên cứu chính trị Việt Nam và bang giao quốc tế từ Canberra, Úc, có lẽ dân tộc Việt Nam sẽ cần đến 50 năm nữa mới có thể chữa lành.

Trả lời phỏng vấn của Tina Hà Giang, BBC News Tiếng Việt, ông nói về thái độ đối xử của những người chiến thắng đối với những người bị coi là bại trận sau ngày 30/4/1975.

Carl Thayer : Hiệp định Hòa bình Paris hướng tới việc tổ chức bầu cử tại Việt Nam và thành lập Hội đồng Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc.

Trong cuộc xung đột ở Campuchia, ông Bùi Tín là người cùng toán quân đầu tiên của quân đội cộng sản Việt Nam tiến vào Phnom-penh [hồi năm 1979].

Khi viết cuốn Hoa Xuyên Tuyết, ông nói một trong những lý do khiến ông rời bỏ chính thể là bởi ông thấy thay vì hòa giải, họ đã đối xử rất tàn nhẫn với cựu thù.

Từng là người cộng sản, phụ trách tờ báo cộng sản [báo Nhân dân], nhưng ông Bùi Tín đã bỏ đi. Lời kể của ông ấy có sự chân thực.

Tôi từng nói chuyện với những người phải đi trại cải tạo. Họ nghĩ là sẽ đi một thời gian ngắn, nhưng hoá ra là đi rất lâu. Nhiều người không được đối xử tử tế.

'Không chấp nhận' và 'không được tin cậy'

Cho nên dù đã 45 năm trôi qua, vẫn có khía cạnh của Cuộc chiến Việt Nam chưa bao giờ được hòa giải.

Cộng đồng người Việt tị nạn chưa bao giờ chấp nhận chế độ hiện thời ở Việt Nam. Họ tiếp tục gặp nhau, mặc những bộ quân phục của mình, và có lẽ là tự hào - tôi chắc chắn là họ thấy tự hào - nhớ về quá khứ.

Nhưng họ chỉ là thiểu số, giống như bản thân tôi vậy, sẽ dần dần biến mất.

BBC : Đó là ông nói tới cộng đồng người Việt đi tị nạn. Còn những người ở lại sau 1975 thì sao, thưa ông?

Carl Thayer : Tôi tin là trong một tài liệu của Việt Nam có phân chia, phân chia theo nguồn gốc gia đình.

Điều gì đã xảy ra với con trai, con gái họ, với thế hệ thứ ba của những người Việt có liên hệ với bất kỳ ai bị coi là phản động, cho dù đó là nhân viên chính phủ Việt Nam Cộng hoà, thành viên của một trong nhiều đảng phái chính trị khi đó, hay là người trong quân lực Việt Nam Cộng hoà?

Với những người Việt trẻ tuổi không bỏ nước ra đi, họ ở lại đó, và thấy bị chặn mọi ngả.

Đại tá Bùi Tín nói đến kẻ thù, nhưng mà đó là con cái, thế hệ con cái đang phải trả giá. Họ không được tin cậy do lý lịch,vì bị coi là con nhà phản động.

Vấn đề là thế này: quý vị có thể nói là họ đã chiến đấu quyết liệt để bảo vệ Việt Nam Cộng hoà. Nhưng cũng có nhiều người bị mắc kẹt trong cuộc chiến, mà đa số người Việt là thế.

Họ phải làm việc để kiếm sống. Họ là những nông dân được hưởng lợi từ chương trình cải cách ruộng đất kiểu Mỹ, theo đó cho người nông dân quyền kiểm soát đất ruộng.

Họ là những người sống nơi đô thị, những người do cuộc chiến mà buộc phải ly tán. Quý vị có thể nhìn thấy họ lang thang trên đường phố trong thời thập niên 1960.

Đột nhiên hệ thống chính trị thay đổi. Khi người cộng sản vào chiếm quyền, miền Nam trở thành kẻ thù.

Đã 45 năm trôi qua, Việt Nam vẫn cần nửa thế kỷ nữa những vết thương này mới lành được.

Tôi nghĩ tới ý tưởng ban đầu, đó là cần phải có một Hội đồng Hòa hợp, Hòa giải Dân tộc, và hai bên phải bằng cách nào đó thành lập ra một hệ thống chính trị có khả năng đưa mọi người xích lại bên nhau.

'Bắc thắng trận Nam thắng kinh tế'

Carl Thayer : Với chiến thắng bất ngờ, những người Cộng sản giành chiến thắng.

Những người thua cuộc hay những người bị kẹt trong cuộc chiến có xu hướng bị phân biệt đối xử trong những năm đầu.

Tôi có thể nói là điều đó diễn ra cho đến năm 1986 khi bắt đầu quá trình Đổi Mới.

Từ đó thì ta có 'Bắc thắng trận Nam thắng kinh tế'- đó là cách diễn tả mà tôi nghe được. Sức mạnh mới của miền Nam, kinh tế thị trường, đã có hiệu quả.

Và đúng là một khi các hạn chế được dỡ bỏ, Việt Nam trở thành một nhà xuất khẩu gạo đáng gờm, xuất gạo ra thế giới. Nhưng tôi cũng nói rằng còn có cả chuyện xuất khẩu gạo từ miền Nam ra miền Bắc nữa, bởi mô hình hợp tác xã nông nghiệp hoạt động không hiệu quả.

'Việt Nam mới đã biết cảm thông hơn so với thời Việt Nam 1975'

BBC : Nhìn lại 45 năm qua, theo ông thì nay mỗi bên của cuộc chiến có thể làm gì để hòa giải, hòa hợp dân tộc thực sự ?

Carl Thayer : Tôi đã nói về một phía của câu chuyện, và tôi đã nói mạnh mẽ.

Nhưng phải thấy là tuy người Cộng sản nắm quyền năm 1975 và người Cộng sản ngày nay vẫn cùng có hệ thống chính trị độc đảng, vẫn đàn áp, nhất là với những ai muốn cổ suý nhân quyền và tự do tôn giáo, nhưng Việt Nam đã trở nên đa nguyên hơn, nhiều cảm thông hơn.

Rất nhiều ý tưởng đã có thể được bày tỏ.

Tôi nghĩ về sự chia rẽ Bắc - Trung - Nam. Đảng cộng sản cố tình chọn người lãnh đạo, tổng bí thư đảng có lẽ luôn là người miền Bắc, nhưng người miền Nam đã giữ các vị trí chủ tịch nước, thủ tướng..., như ông Nguyễn Tấn Dũng chẳng hạn, hay ông Trương Tấn Sang.

Và bởi vì Việt Nam chuyển mình, cho nên đã có phong trào, tuy không phải luôn thế, lúc ban đầu là người miền Bắc, các viên chức hành chính miền Bắc, chuyển vào Nam, và nay thì cả các công việc khác, giáo dục, kinh tế tư nhân... mọi người dịch chuyển và nhiều hơn nhiều.

Nhưng trong nước Việt Nam mới này, mọi người vẫn muốn có thêm tự do, nhất là muốn nói trên Facebook về các vấn đề gây tranh cãi, về vụ Formosa gây ô nhiễm môi trường...

Họ muốn bày tỏ quan điểm về những chuyện đó và việc này không liên quan gì tới giai đoạn 1975 hết. Nó là chuyện của Việt Nam ngày nay.

Tuy vẫn chưa được chính thức nêu ra ở Việt Nam nhưng nhiều khía cạnh đã được thực hiện.

Điểm chung ở đây là quý vị có thể là người từng đi cải tạo, là đảng viên Cộng sản, là người chống Cộng, nhưng quý vị đều có thể trở về kỷ niệm các vị vua, các vị Chúa Nguyễn, những chương trong lịch sử Việt Nam, những phong tục, tập quán, những ca khúc cả hai bên có chung với nhau.

Tôi nghĩ là chế độ hiện nay đang thúc đẩy mặt trận văn hoá để bản sắc văn hoá Việt Nam mà cả hai bên có chung với nhau không bị chìm nghỉm, bị thất lạc tại Mỹ, Pháp hay Đức, khi người Việt hòa nhập vào những môi trường đó.

Tina Hà Giang thực hiện

Nguồn : BBC, 30/04/2020

********************

Việt Nam : Thảo luận về triển vọng đa đảng trong tương lai

Quốc Phương, BBC News Tiếng Việt

Trong phần hai trao đổi với BBC News tiếng Việt về 45 năm ngày 30/4/1975, giới nghiên cứu tiếp tục thảo luận về cuộc chiến tranh tại Việt Nam và hướng tới tương lai của Việt Nam với Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Luật sư Lê Công Định, Giáo sư Vũ Tường, Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng, Giáo sư Vladimir Kolotov.

hoahop2

Việt Nam hiện nay nói chỉ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng

Nguyễn Mạnh Hùng : Đây là sự đã rồi (fait accompli), đặt ra chỉ tiếp tục gây tranh cãi, không thực tiễn và không có lợi cho dân tộc. Nhưng cũng có nhiều người nghĩ khác và họ có quyền nghĩ như vậy.

Trước đây cũng có người đề nghị triệu tập lại Hội nghị Paris để buộc chính quyền Hà Nội phải thi hành những điều khoản mà họ đã cam kết. Theo hiểu biết giới hạn của tôi, việc áp đặt với bên chiến bại thì có, áp đặt với bên thắng cuộc thì chưa có trong lịch sử.

Lê Công Định : Trong cuộc nội chiến từ 1955 đến 1975, Bắc Việt là kẻ xâm lược và gây nên cuộc chiến nồi da nấu thịt đẫm máu, dưới chiêu bài "chống đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước".

Chiêu bài đó có thể lừa được nhiều người tâm trí thấp, nhưng không thể lừa tất cả.

Cuộc xâm lược đó không những vi phạm Hiệp định Paris 1973, mà còn ngược thời gian về trước vi phạm cả Hiệp định Geneva 1954, tức là vi phạm luật pháp quốc tế và cam kết quốc tế.

Điều đó miễn bàn. Mặt khác, qua đó chúng ta có thể thấy rõ rằng người cộng sản chỉ giả vờ hòa giải bằng các thoả thuận và hiệp định, nhưng ngay từ đầu chưa bao giờ họ có ý định đàm phán hòa bình thật sự, mà muốn dùng bản hiệp định để chuẩn bị lực lượng và loại bỏ bớt đối thủ mạnh trên chiến trường, từ đó dùng quân sự để xâm chiếm.

Vũ Tường : Hành động chiến tranh là bất hợp pháp vào lúc đó, đó chính là lý do tại sao miền Bắc phải núp bóng dưới danh nghĩa Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam là một tổ chức mang danh độc lập nhưng do Hà nội kiểm soát.

Do sự sùng bái chủ nghĩa dân tộc trên thế giới vào thời đó, do sự vận dụng tinh thần dân tộc trong một chừng mực nào đó của Đảng Cộng sản, nên việc sử dụng bạo lực bất hợp pháp trên có phần nào tính chính danh đối với nhiều người. Dĩ nhiên câu nói từ xưa "được làm vua, thua làm giặc" cũng áp dụng trong trường hợp này, sau năm 1975.

Để có thể tái lập công lý, cần có một chính quyền khác không hẳn là chống cộng sản.

Chính quyền mới có thể sửa chữa những bất công trong quá khứ bằng cách bãi bỏ hoàn toàn những chính sách phân biệt đối xử cũng như đền bồi danh dự (và có thể một phần vật chất) không chỉ cho những nạn nhân của chính sách trả thù sau năm 1975 đối với miền Nam mà còn cho hàng triệu nạn nhân của một thời "chuyên chính vô sản" và "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội".

Công lý không đồng nghĩa với trả thù những người cộng sản hôm nay vì chính sách sai lầm của những người cộng sản đi trước, và chính quyền cộng sản hiện nay cũng có thể tái lập công lý mặc dù việc này khó xảy ra vì giới lãnh đạo đặt quyền lợi phe đảng của họ trên quyền lợi của dân tộc.

Nghiêm Thúy Hằng : Ai đọc lịch sử văn minh Phương Đông thì sẽ hiểu toàn vẹn lãnh thổ là giá trị cốt lõi, căn bản và thiêng liêng của tất cả các dân tộc.

Đằng sau giá trị này là loại hình văn hóa cộng đồng bản vị. Xâm phạm đến toàn vẹn lãnh thổ cũng giống như xâm phạm đến thần linh, đến quê cha đất tổ, mồ mả tổ tiên và chia cắt các gia đình, những điều cấm kỵ trong văn hóa bản địa.

Ai đọc lịch sử Việt Nam cũng đều thấm thía độc lập, tự chủ, ổn định và hòa hiếu là những giá trị cốt lõi xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của Việt Nam.

Đã gọi là giá trị cốt lõi thì nó có thể còn cao hơn cả mạng sống. người ta có xu thế cố sống cố chết hy sinh để giữ cho bằng được. Hành động chiến tranh là xấu xa, chiến tranh ủy nhiệm trong con mắt của những thế hệ hậu chiến như chúng tôi còn xấu xa, đáng lên án và phỉ nhổ hơn nữa. Tuy nhiên, khi cân nhắc đến những giá trị cốt lõi như đã nói ở trên thì chúng tôi hoàn toàn có thể lý giải, thông cảm và hiểu được.

Tôi không quan trọng ai là "bên thắng cuộc", một khi đã xảy ra nội chiến, xảy ra " chiến tranh ủy nhiệm", huynh đệ tương tàn, gà cùng một mẹ đá nhau, thậm chí giết nhau thì cả dân tộc cùng thua, cùng đau thương mất mát như nhau, không có bên nào thắng cả.

Thực tế lịch sử đã chỉ ra Miền Nam có Mặt trận dân tộc giải phóng,

Miền Bắc tuy có giúp đỡ chi viện nhưng về cơ bản những phong trào đấu tranh vẫn do người miền Nam làm chủ chốt, không ai thay thế được.

Những dáng đứng Bến Tre, những chị Út Tịch, Nguyễn Văn Trỗi, Võ Thị Thắng, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình vẫn là những minh chứng cho một bộ phận khát vọng thống nhất của chính người dân Miền Nam.

Điều làm nên thắng lợi chung cuộc của cả dân tộc là sự bền bỉ trong ý chí và quyết tâm, là tính chính nghĩa trong sự lựa chọn và bảo vệ giá trị toàn vẹn lãnh thổ cốt lõi của cả dân tộc, là thắng lợi trên mặt trận đấu tranh ngoại giao khiến Mỹ cuối cùng phải buông tay, không can thiệp, cắt viện trợ, đưa hệ thống chính quyền do Mỹ hỗ trợ vào nguy cơ sụp đổ.

Quan trọng hơn nữa, trong con mắt của thế hệ sau như chúng tôi, thắng lợi đó là nhờ sự thức tỉnh lương tâm lương tri của các lãnh đạo người Việt, đặc biệt là các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Hương, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu… đã biết đặt toàn vẹn lãnh thổ, mạng sống của đồng loại, quyền lợi của dân tộc lên trên danh dự cá nhân, danh dự quân nhân, chuyển giao chính quyền một cách hòa bình cho Mặt trận lâm thời giải phòng Miền Nam Việt Nam, sau đó là cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau một cuộc hiệp thương chính trị.

Tôi cho rằng đây là một cuộc chuyển giao hòa bình và hoàn toàn hợp pháp, là hồng phúc lớn của dân tộc Việt Nam. Những đứa con của cùng một mẹ Việt Nam cuối cùng cũng đã bỏ súng xuống, giảng hòa với nhau, đây là một kết cục tốt đẹp và hoàn toàn phù hợp với công pháp quốc tế.

Công lý, công bằng ?

BBC : Có những vấn đề gì về công lý, công bằng lịch sử có thể cần đặt ra ?

Lê Công Định : Công lý có một quy luật bất biến là bản thân nó phải được thực thi. "Justice soit faite !"

Không ai gây tội ác mà không bị trả giá, trừ phi kẻ thủ ác thực sự hồi tâm và hoàn lương.

Nguyễn Mạnh Hùng : Có nhiều vấn đề cần phải xét, và cũng có nhiều phương thức, nhưng phải xét với tinh thần bao dung và tôn trọng sự thật. Ủy ban Tìm kiếm Sự thật và Hòa giải Dân tộc (Truth and Reconciliation Commission) ở Nam Phi là một thí dụ. Ủy Ban này chủ yếu do bên thắng cuộc thiết lập.

Vladimir Kolotov : Về việc thực hiện chính sách hòa giải thì tôi nhớ câu chuyện của một cựu chiến binh Việt Nam kể.

Ngay sau khi giải phóng Sài Gòn, ông gặp một sỹ quan chế độ cũ và hỏi họ : Giả sử nếu các anh chiến thắng, thì tôi có được cư xử như thế này hay không ? Họ trả lời là chắc chắn bộ đội miền Bắc Việt Nam sẽ không được đối xử tử tế như thế.

Vũ Tường : Để có thể tái lập công lý, cần có một chính quyền khác không hẳn là chống cộng sản.

Chính quyền mới có thể sửa chữa những bất công trong quá khứ bằng cách bãi bỏ hoàn toàn những chính sách phân biệt đối xử cũng như đền bồi danh dự (và có thể một phần vật chất) không chỉ cho những nạn nhân của chính sách trả thù sau năm 1975 đối với miền Nam mà còn cho hàng triệu nạn nhân của một thời "chuyên chính vô sản" và "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa Xã hội".

Công lý không đồng nghĩa với trả thù những người cộng sản hôm nay vì chính sách sai lầm của những người cộng sản đi trước, và chính quyền cộng sản hiện nay cũng có thể tái lập công lý mặc dù việc này khó xảy ra vì giới lãnh đạo đặt quyền lợi phe đảng của họ trên quyền lợi của dân tộc.

Nghiêm Thúy Hằng : Là thế hệ hậu chiến, tôi phản đối và bất bình với cách thức bên thắng cuộc đã hành xử với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và với người dân. Giá như hai bên thương yêu, bao dung và tôn trọng nhau trên tinh thần thượng võ và nhân bản như những gì các lãnh đạo nước Mỹ đã làm được sau nội chiến (1861-1865) thì đã không có những vết thương chiến tranh hằn sâu đến như vậy trong lòng cả dân tộc.

Tuy nhiên nước Mỹ không phải trải qua chiến tranh ý thức hệ và chiến tranh ủy nhiệm tàn khốc như Việt Nam, việc hòa giải cũng dễ dàng tự nhiên hơn.

Máu không thể rửa bằng máu, hận thù không thể xóa tan thù hận, chỉ có những dòng nước nhân bản trong trẻo ngọt lành theo thời gian mới có thể hóa giải được hận thù.

Nuôi hận thù chẳng khác gì nuôi rắn độc trong tim và trong óc, tôi hy vọng thế hệ chúng tôi và thế hệ sau này sẽ tỉnh táo, có sự lựa chọn phù hợp để có cuộc sống hạnh phúc.

Công lý, công bằng của người Việt được thực thi theo đúng luật nhân quả, nó vẫn đang diễn ra theo đúng dòng chảy tự nhiên và sẽ làm tốt vai trò của nó.

Triển vọng, tương lai ?

BBC : Các ông nghĩ thế nào về xu thế đòi hỏi có đa đảng ở Việt Nam. Trong những năm tới, liệu đòi hỏi này có mạnh mẽ hơn ?

Lê Công Định : Sự thay đổi đó là nhu cầu từ rất lâu rồi, không chờ đến lúc này.

Thể chế độc tài toàn trị chưa bao giờ giúp một quốc gia phát triển.

Muốn dân tộc Việt Nam phục hưng và có tương lai tươi sáng dứt khoát phải từ bỏ chủ nghĩa cộng sản và thể chế nhà nước/pháp luật cộng sản.

Xây dựng một chế độ dân chủ hậu thuẫn bởi nền tảng đa đảng chính trị đối lập và đa nguyên tư tưởng là điều kiện cần để Việt Nam văn minh và cường thịnh. Điều đó cũng miễn bàn.

Vladimir Kolotov : Đây là câu hỏi có tính ý thức hệ.

Nếu nhìn vào tham số kinh tế, thì phải công nhận là từ đầu thập niên 90 đến nay, mức tăng trưởng GDP ở Việt Nam bình quân là 7% một năm.

Điều đó chứng minh là chính phủ Việt Nam có tính hiệu quả quản lý cao.

Một bằng chứng hiển nhiên nữa là hiện nay Việt Nam đang chiến thắng đại dịch Covid-19 nhờ có chính sách đúng đắn của Đảng và chính phủ, cùng tinh thần đoàn kết, ủng hộ của người dân.

Vị thế của Việt Nam đang có uy tín cao trên chính trường thế giới : Việt Nam là Chủ tịch Asean, đồng thời là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc với số phiếu tán thành kỷ lục.

Nguyễn Mạnh Hùng : Tư do, dân chủ là những giá trị phổ quát mà người dân bất cứ ở đâu cũng muốn có.

Phương châm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước đây và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Viêt Nam ngày nay vẫn là "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc." Người dân Việt Nam muốn có tự do. Những người bất đồng chính kiến đòi dân chủ.

Nhà cầm quyền Việt Nam cũng nói dân chủ là hướng phải đi tới.

Chừng nào mà mục tiêu chung này chưa được thực hiện thì sức ép vẫn còn cho đến khi nó được thực hiện.

Vũ Tường : Như tôi đã nói ở trên, thể chế đa nguyên đa đảng là cần thiết và tất yếu nếu Việt nam còn tiếp tục phát triển.

Nghiêm Thúy Hằng : Đây là một câu hỏi rất nhạy cảm trong bối cảnh chính trị xã hội hiện thời của Việt Nam, tuy nhiên tôi vẫn sẽ trả lời một cách thẳng thắn.

Đa nguyên tư tưởng là một thực tế khách quan của con người, không một thế lực nào, không một thể chế nào cấm đoán nổi dòng chảy tự nhiên của đa nguyên tư tưởng và sự khác biệt vốn có của các cá nhân con người và các cộng đồng dân tộc.

Tuy nhiên, thể chế và chế độ chính trị cũng chỉ là một phần trong kết cấu văn hóa của mỗi dân tộc, ngang bằng với các nhân tố hình thái ý thức tinh thần, hình thái vật chất, với văn hóa hành vi của một dân tộc.

Đã gọi là văn hóa thì sẽ không có đúng/sai, cao/thấp, tốt/xấu, đơn giản chỉ là sự sàng lọc, gạn đục khơi trong và sự lựa chọn tự nhiên của số đông, của những thế lực tiên phong dẫn dắt các tiến bộ xã hội trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Đã gọi là văn hóa và lựa chọn thể chế thì cũng sẽ luôn có mặt mạnh mặt yếu như hai mặt của một tờ giấy hay nhiều mặt của một khối đa diện, đòi hỏi cả dân tộc phải sáng suốt.

Thực tế phân hóa tư tưởng, phân hóa xã hội trong lòng các thể chế đa nguyên đa đảng như Mỹ hay Châu Âu khiến tôi có những băn khoăn nhất định.

Ngoài ưu thế rõ ràng về sự thay đổi và sáng tạo, tạo ra nhiều của cải vật chất, mô hình các đảng đối lập cạnh tranh để thực hiện mong muốn nguyện vọng của số đông người dân như vậy đã thực sự là mô hình lý tưởng nhất hay chưa, hay sẽ tạo nên nguy cơ của xu thế "mị dân", "nhân văn giả tạo", làm suy yếu khả năng bảo vệ sức khỏe tính mạng người dân, không tốt cho sự ổn định phát triển của xã hội như thực tế đang bộc lộ và diễn ra gần đây ?

Tôi xin nhắc lại, độc lập tự chủ, hòa hiếu và ổn định vẫn luôn là các giá trị cốt lõi của Việt Nam, hy sinh giá trị ổn định để xây dựng mô hình đa nguyên đa đảng như phương Tây có phù hợp không, có đáng không, có hiện thực không, có được cả dân tộc cùng lựa chọn hay không là một câu hỏi hoàn toàn không dễ để trả lời.

Tôi tin không nhiều người Việt muốn hy sinh sự ổn định, muốn có chiến tranh và chịu chấp nhận cái giá phải trả cho chiến tranh. Không có ổn định, hòa bình cũng không thể phát triển được, đấu đá nhau thì nước mất, nước mất thì nhà tan.

Theo tôi những thay đổi về thể chế tại Việt Nam không đứng đơn độc và phần nào phụ thuộc vào mô hình thể chế của cả hệ thống lớn, khi Liên Xô tan rã thì mô hình thể chế của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi về căn bản.

Mô hình thể chế của Việt Nam hiện tại chỉ có khả năng thay đổi lớn khi mô hình thể chế quản lý xã hội của Trung Quốc có những thay đổi cơ bản.

Trước mắt, khi những thay đổi long trời lở đất như vậy tạm thời chưa xảy ra thì Việt Nam nên lành mạnh bộ máy, nhất là thận trọng trong lựa chọn thế hệ lãnh đạo mới, tìm những con người thực sự mang trong mình tinh hoa của dân tộc, trung thành với các giá trị cốt lõi, thực sự tử tế và nhất là phải "của dân, do dân, vì dân".

Có những cá nhân tài giỏi, tử tế sẽ có một chính quyền tài giỏi, tử tế. Có chính quyền thực sự tử tế "của dân, do dân, vì dân" sẽ có tất cả, thực tế diễn ra tại nước Mỹ mấy trăm năm qua đã chứng tỏ điều này, họ chính là một chế độ chính trị như vậy, chỉ khác là họ chọn giá trị "tự do" còn người Việt Nam chúng ta thường chọn giá trị "hòa hiếu", hòa cả làng làm giá trị cốt lõi nhất , đã là giá trị cốt lõi thì không dễ gì thay đổi.

Quốc Phương

Nguồn : BBC, 02/05/2020

Additional Info

  • Author Tina Hà Giang, Quốc Phương
Published in Diễn đàn

Liệu Hà Nội có dám nhìn nhận những sai lầm trong quá khứ để hòa giải dân tộc để viết lại lịch sử dạy cho con cháu không ?

hoagiai1

Tháng 2 năm 1979, xe tăng Type 62 của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã ào ạt xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam.

Trên vietnamnet.vn, Giáo sư Sử học Phạm Hồng Tung, Trường Đại Học Khoa học Xã hội và Nhân văn, cho biết Việt Nam lâu nay đã "gạt quá khứ" sang một bên nên sách giáo khoa Lịch sử gói gọn 4 câu, 11 dòng ở lớp 12, báo chí lại ít nhắc đến Chiến tranh biên giới Việt – Trung. 

Trung Quốc thì vẫn tiếp tục tuyên truyền "chiến tranh phản kích chống Việt Nam để tự vệ" và trừng phạt "tiểu bá" Việt Nam vong ân bội nghĩa, tay sai của Liên Xô.

Sự khác biệt về nhận thức và cách trình bày lịch sử tạo ra những định kiến mang nặng tính chất kỳ thị và thù địch, nếu gặp những điều kiện thuận lợi, sẽ bùng phát thành hận thù và xung đột. 

Nếu không hòa giải được nhận thức và cách trình bày về lịch sử thì đó là một liều thuốc độc mà tiền nhân để lại cho thế hệ sau, và để "giải độc" lịch sử Giáo sư Tung đề nghị :

"Bây giờ chính là lúc giới sử học của hai nước Trung – Việt nên ngồi lại, thảo luận những nguyên tắc cơ bản để dạy về những vấn đề liên quan đến lịch sử hai nước".

Giáo sư Tung tin rằng nhiều quốc gia cựu thù đã thành công trên con đường hòa giải lịch sử, cho nên người Việt Nam và người Trung Hoa cũng sẽ phải làm được điều này. 

hoagiai2

Dân quân Việt Nam gài chông tre ngăn chặn quân Trung Quốc tiến vào làng - Ảnh minh họa

Giáo sư Phạm Hồng Tung hiện là Chủ biên chương trình Lịch sử giáo dục phổ thông tổng thể đang sửa soạn ra bộ sách giáo khoa Lịch sử nên đề nghị của ông cần được xem xét cẩn thận.

Trường hợp hai nước Pháp và Đức

Giáo sư Tung cho biết Đức và Pháp trong lịch sử cũng đã có những cuộc chiến tranh đẫm máu như Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lần thứ hai, Chiến tranh Pháp - Phổ năm 1870… các nhà sử học, các nhà giáo dục hai nước đã tổ chức nhiều diễn đàn gặp gỡ nhau trước khi cùng nhau soạn một bộ sách giáo khoa Lịch sử chung. 

Giáo sư Tung quên rằng Pháp và Đức là hai quốc gia tự do, các sử gia đều độc lập với hệ thống chính trị. Nên ngay thời Chiến Tranh Pháp - Việt vẫn có những sử gia Pháp công khai ủng hộ Việt Nam.

Báo chí Pháp và Đức được tự do thu nhặt và loan tin, nên thông tin đều đa chiều và dễ dàng đối chiếu. 

Các cuộc phỏng vấn chứng nhân lịch sử được thường xuyên thực hiện. Các hồi ký được tự do phổ biến. 

Các tài liệu lịch sử, các văn kiện và số liệu sau một thời gian đều được giải mật để mọi người có thể tìm hiểu.

Mỗi sử gia có cách nhìn riêng về lịch sử, chính môi trường học thuật tự do giúp họ nhìn nhận các sự kiện, nguyên nhân, diễn biến và hậu quả một cách khách quan hơn, trung thực hơn, gần với sự thật lịch sử hơn.

Các sử gia và các nhà giáo dục Pháp và Đức lại luôn có cơ hội tự do trình bày quan điểm và phát hiện mới trên các diễn đàn quốc tế, nên việc họ xuất bản sách giáo khoa chung, các công trình nghiên cứu chung, các sách tài liệu tham khảo chung là một việc hết sức bình thường.

Môi trường tự do và học thuật tự do hoàn toàn không có tại Việt Nam và Trung Quốc.

hoagiai3

Bia tưởng niệm vụ thảm sát Tong Chup : quân đội Trung Quốc đã sát hại 43 phụ nữ và trẻ em Việt Nam rời ném xác xuống giếng tại làng Tổng Chúp

Việt Nam là nước nhỏ lại luôn bị Trung Quốc xâm lược. Chỉ trong vòng 14 năm, 1974-1988, Trung Quốc đã 4 lần đánh chiếm lãnh thổ Việt Nam : Hoàng Sa (1974), Biên giới phía Bắc (1979), Vị Xuyên Hà Giang (1984), Gác Ma (1988) và từ năm 1988 liên tục lấn chiếm Trường Sa và gây chiến ở Biển Đông. 

Bởi thế việc so sánh với Chiến tranh Pháp và Đức là điều không thể chấp nhận được.

Giáo dục tự do

Giáo sư Phạm Hồng Tung còn cho biết vào năm 2003, Cộng đồng Châu Âu cho thành lập những Nghị viện gồm các thanh niên đóng vai những nghị sĩ, cùng hội họp và bàn thảo đề tài "Nếu là nghị sĩ chúng ta sẽ quyết định những gì cho tương lai của đất nước".

Nghị viện thanh niên của Pháp và Đức đều ra Nghị quyết phải hòa giải lịch sử và phải soạn một sách giáo khoa Lịch sử chung cho cả hai nước, Nghị quyết được Tổng thống Pháp và Thủ tướng Đức ủng hộ.

Đến năm 2006, cuốn sách Lịch sử chung đầu tiên của Pháp và Đức đã ra đời. Những nội dung về chiến tranh đều được cả hai nước chấp nhận vì đó là sự thực trong quá khứ và bây giờ không nên sống với thù hận.

Ông Tung quên rằng tại Đức và Pháp, giáo viên dạy sử chỉ giữ vai trò hướng dẫn học sinh thu thập, phê bình tài liệu lịch sử, phân tích làm rõ nguyên nhân, bản chất, ý nghĩa của các sự kiện và của diễn biến lịch sử.

Ngay từ trong học đường, học sinh được đào tạo tư tưởng độc lập và tự do trong học thuật. 

Ngoài xã hội, ý kiến của người trẻ được lắng nghe, được tôn trọng, được áp dụng nếu ý kiến thực tế, khả thi và hữu ích.

Giáo dục để đào tạo học sinh thành người độc lập, tự do chưa có tại cả Việt Nam lẫn Trung Quốc. 

Chính trị bao trùm…

Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia cộng sản nên mọi thông tin đưa ra dù trên truyền thông, báo chí, sách đọc, sách giáo khoa đều được xem như các thông tin chính thức.

hoagiai4

Quân Trung Quốc phá hủy đường sắt Lạng Sơn trước khi rút lui về nước (02/1979)

Các hình ảnh, lối trình bày mang tính gây hấn, biểu cảm, miệt thị, hay các ngôn từ biểu cảm, miệt thị, như "chúng", "quân địch", "giặc", "dã man", "tàn bạo", "khát máu" được xem là dấu hiệu chính thống, dấu hiệu kích động của nhà cầm quyền cộng sản. 

Chả thế ngay khi báo chí trong nước đưa tin về "cuộc chiến bảo vệ biên giới chống xâm lăng" và cho đăng lại các bài báo cũ trong thời chiến tranh, dư luận ngay tức thì cho là báo chí được "bật đèn xanh" và Hà Nội đang xét lại quan hệ với Trung Quốc.

Chính trị hiện vẫn bao trùm mọi sinh hoạt ngay cả việc soạn sử hay soạn sách giáo khoa đều được định hướng bởi nhà cầm quyền cộng sản.

Hòa hợp hay hòa giải ?

Nên việc giới sử học hai nước Trung – Việt có ngồi lại, thảo luận những nguyên tắc cơ bản để dạy về những vấn đề liên quan đến lịch sử thì tư duy "núi liền núi sông liền sông", "anh em một nhà xã hội chủ nghĩa"… vẫn còn rất nặng.

Hậu quả là Việt Nam sẽ lấy sách sử Trung Quốc mà dạy, một cách "hòa hợp" lịch sử.

Hòa giải lịch sử là mọi sự thật lịch sử của cả 2 nước được trình bày một cách minh bạch nhất, trung thật nhất, đúng đắn nhất. 

Có hòa giải thì mới có thể tiến tới hòa hợp để giải độc lịch sử chiến tranh.

Người dân Việt nghĩ gì ?

Ngày 17/02/1979, tôi vừa tròn 20 tuổi đời, tôi nhớ thông tin về chiến tranh biên giới đến với tôi rất sớm, bạn bè, gia đình, bà con lối xóm loan báo nhau : "cộng sản đánh nhau rồi".

Khi đó người miền Nam chúng tôi, gia đình nào hầu như cũng có người bị bắt đi cải tạo, nhiều người mất cơ nghiệp, bị bắt đi vùng kinh tế mới, bị truy đuổi, bị phân biệt đối xử… nên xem chiến tranh biên giới chỉ là "cộng sản đánh nhau" là một điều dễ hiểu.

Cuộc chiến giữa nội bộ các đảng cộng sản : Đảng cộng sản Việt Nam theo Liên Xô, phản bội Trung Quốc, xâm lăng Campuchia, nên bị Trung Quốc đánh. 

Bộ đội và bà con vùng biên giới bị Trung Quốc giết hại là nạn nhân của hai đảng cộng sản Việt - Trung.

Nhà cầm quyền Việt Nam biết rõ sẽ bị tấn công nhưng không di tản dân khỏi vùng biên giới để Trung Quốc tấn công giết hại sẽ phải chịu thêm phần trách nhiệm trước lịch sử.

Chiến tranh Nam Bắc vừa chấm dứt, người dân lại phải gồng mình thiếu ăn, thiếu mặc hy sinh phục vụ chiến tranh. Thế hệ chúng tôi bị mang ra mặt trận và nhiều người bỏ xác ở Campuchia.

Đến nay, người dân vẫn chưa biết được vùng đất nào Việt Nam đã mất vào tay quân Trung Quốc. 

Trong trận Vị Xuyên, Cao Điểm 1509 thuộc Núi Đất, Hà Giang cho đến chiều ngày 28/04/1984 vẫn thuộc Việt Nam, nhưng đến năm 1999 Hà Nội chính thức ký Hiệp định Biên giới, Núi Đất đã thuộc về Trung Quốc.

Cho đến nay vẫn chưa ai chịu tìm hiểu cặn kẽ xem người dân Việt, người bộ đội năm xưa thực sự nghĩ gì về các cuộc chiến tranh.

Liệu Hà Nội có dám nhìn nhận những sai lầm trong quá khứ để hòa giải dân tộc để viết lại lịch sử dạy cho con cháu không ?

Thực tế đang xảy ra…

Tại Hà Nội ngày 17/02/2019, lực lượng an ninh, công an dày đặc khu vực tượng đài Lý Thái Tổ, nơi bà con đến thắp nhang cầu nguyện vào 17/02 hàng năm. Một số bà con đến đặt vòng hoa tưởng niệm ở đài chiến sĩ vô danh Bắc Sơn đã bị bắt về đồn công an. 

Ở Sài Gòn lực lượng an ninh, thanh niên xung phong, công an chìm nổi dày đặc, xe rác, xe tải, bao cát, thùng rác… che kín tượng đài Trần Hưng Đạo, lư hương bị cẩu bỏ chỗ khác. Các thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng và bà con không thể đến thắp nén nhang tưởng niệm. 

Ít hôm trước ngày 14/02/2019, Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết và bà con đã bị nhân viên an ninh quấy nhiễu khi đang đốt nhang tại nghĩa trang Vị Xuyên nơi những anh hùng tử sĩ nằm xuống để bảo vệ giang sơn bờ cõi.

Hòa giải với người dân chưa được thực hiện thì nói gì đến chuyện hòa giải lịch sử.

Lịch sử không còn nằm trong tay giới cầm quyền

Chính Giáo sư Phạm Hồng Tung phải nhìn nhận thế hệ trẻ ngày nay khi muốn tìm hiểu lịch sử liên quan đến chiến tranh Việt Nam và quan hệ Việt - Trung lại tìm đọc những công trình bằng tiếng Anh, tiếng Pháp do người Pháp, người Mỹ, người Đức hay người Úc viết. 

Nhiều tài liệu còn được dịch ra tiếng Việt và được phổ biến rộng rãi trên không gian mạng.

Thế hệ trẻ không bị định kiến che lấp, trong khi trình độ nhận thức và phê bình càng ngày càng nâng cao.

Không có gì còn có thể giấu giếm hay che đậy, không còn tình trạng độc quyền thông tin và lịch sử không còn nằm trong tay giới cầm quyền.

Bởi vậy, theo tôi, việc đầu tiên và quan trọng nhất là Đảng cộng sản cần thực tâm hòa giải dân tộc bằng cách công bố mọi sự thực lịch sử và nhận lãnh mọi trách nhiệm về các cuộc chiến.

Nhà cầm quyền cần chấm dứt quy kết những đảng viên cộng sản nhìn dám nhận sự thực lịch sử là tự diễn biến, tự chuyển hóa và quy kết người dân là "thế lực thù địch".

Nhà cầm quyền cần trả lại mọi quyền tự do cho dân, tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến, soạn ra Hiến pháp mới, xây dựng một thể chế mới thực sự do dân, vì dân và của dân.

Đó chính là việc "giải độc" lịch sử, Đảng cộng sản hòa giải cùng dân tộc và như thế dân mới giầu, nước mới mạnh, mới bảo vệ được bờ cõi do ông cha để lại.

Nguyễn Quang Duy

(19/02/2019)

* Xin xem bài trên vietnamnet.vn, Thúy Nga và Thanh Hùng phỏng vấn Giáo sư Sử học Phạm Hồng Tung : "Chiến tranh biên giới 1979 được dạy trong chương trình phổ thông mới ra sao ?".

Published in Diễn đàn