Theo ông Lê Thân, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, nên để ngỏ khả năng nhà nước ta sẽ kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài quốc tế. Tất nhiên, chúng ta chỉ có thể kiện Trung Quốc về những hành vi chống lại luật pháp quốc tế (LPQT), không tuân thủ các phán quyết trước đây của Tòa trọng tại quốc tế (CPA). Bởi vì Tòa này sẽ không chấp nhận khiếu nại về các tuyên bố liên quan đến chủ quyền trên biển đảo của các quốc gia.
AFP
_________
"Phản đối Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông" là tuyên bố mới nhất phát ra ngày 2/5/2023 của tám Tổ chức Xã hội Dân sự ở trong nước (1). Tuyên bố này xuất hiện trên truyền thông quốc tế rất kịp thời, chỉ một ngày sau khi lệnh cấm đánh cá đơn phương mùa hè năm nay của Trung Quốc được đơn phương cho là có hiệu lực trên Biển Đông, tính từ 1/5/2023. Lệnh cấm đánh bắt cá năm nay sẽ tiếp tục ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế hàng ngàn ngư dân Việt Nam tại vùng biển phía bắc vĩ độ 12 trở lên, từ ngày 01/05/2023 đến 16/08/203. Chưa rõ ở đây có sự phối kết hợp nào không, nhưng giới quan sát quốc tế và Việt Nam phát hiện ra một điều thật đáng hoan nghênh là, Trung Quốc năm nay phải đối mặt cùng lúc với cả hai làn sóng phản đối, từ cả của nhà nước Việt Nam lẫn của các Tổ chức xã hội dân sự (CSO) ở khắp ba miền đất nước. Sức thu hút của Tuyên bố này thể hiện, mới trong một buổi, mà đã có khá đông các cá nhân hưởng ứng, từ người dân cho đến các tầng lớp lao động khác nhau, trong đó có cả cựu Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Nguyễn Đình Bin.
Điểm nổi bật của "Tuyên bố 2/5"
Trong năm nội dung mà các Tổ chức Xã hội Dân sự (CSO) đã tố cáo và lên tiếng đòi Trung Quốc phải tuân thủ, thì nội dung thứ năm là tuyên bố nổi bật nhất. Điều này hoàn toàn không có nghĩa là bốn nội dung trước đó không có tầm quan trọng riêng. "Cực lực phản đối hành vi đơn phương áp đặt chủ quyền bất hợp pháp của Trung Quốc thông qua lệnh cấm biển trước nhân dân trong nước và nhân dân toàn thế giới" đúng là một nội dung nổi bật ! Nổi bật, là vì tuyên bố đã điểm đúng huyệt yếu nhất của Bắc Kinh, đồng thời cũng vạch trần âm mưu thâm độc của nhà cầm quyền Trung Quốc. Huyệt yếu nhất của Bắc Kinh nằm ở đâu ? Đó là, phán quyết của Tòa trọng tài thường trực (PCA) đã bác những yêu sách bất hợp pháp của Trung Quốc về cái gọi là "quyền lịch sử" dù là ở vùng biển trong phạm vi "đường 9 đoạn" (đường lưỡi bò), hay các yêu sách về những nguồn tài nguyên sinh vật hoặc phi sinh vật trong khu vực đó, nói một cách khác là bác bỏ hầu hết các đòi hỏi phi pháp của Bắc Kinh trên Biển Đông. Tòa PCA khẳng định rằng, những yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào. Liên quan đến quy chế của các đảo và đá, phán quyết cũng cho rằng, trong khu vực biển theo đơn kiện của Philippines có những thực thể không thể coi là "đảo" theo luật pháp quốc tế mà chỉ được coi đơn thuần là "đá" (2).
Như vậy thì những đảo đá Trung Quốc cưỡng chiếm từ Việt Nam và một số nước ASEAN từ trước đến nay làm gì có quy chế vùng lãnh hải 12 hải lý hay vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, tính từ đường cơ sở, mà lại ra mặt cấm chỉ các hoạt động đối với tàu cá của các quốc gia khác. Những năm sau phán quyết của Tòa PCA, không đấu lại nổi các cơ sở pháp lý vững chắc nói trên, Bắc Kinh ý thế sức mạnh "cơ bắp", liền áp dụng "chiêu" mới, hàng năm vẫn đơn phương áp đặt cái gọi là "chủ quyển của Trung Quốc" trên Biển Đông. Không những đơn phương tuyên bố – bất chấp mọi phán quyết của CPA – Trung Quốc còn đơn phương áp đặt chủ quyền của mình bằng lệnh cấm đánh bắt cá ! Âm mưu thâm độc ở đây là, nếu Việt Nam và các nước trong khu vực, vì những lý do này khác, không có hành vi phản đối lại các tuyên bố phi pháp của Bắc Kinh, thì đồng nghĩa với việc, coi các tuyên bố ấy là hợp pháp. Vì vậy, cái mới nổi bật nhất trong "Tuyên bố 2/5" là các CSO đã "cực lực phản đối hành vi đơn phương áp đặt chủ quyền bất hợp pháp của Trung Quốc thông qua lệnh cấm biển…" Tỏ rõ lập trường như vậy là cách thức hữu hiệu nhất hiện nay để vạch trần âm mưu "lập lờ đánh lận con đen" của chính quyền Trung Quốc.
Chủ trương cấm đánh cá đơn phương nói trên của Trung Quốc trên thực tế đã đặt Việt Nam và các nước liên quan vào thế tương đối khá gay cấn. Nếu Việt Nam và các nước liên quan phản đối và không tuân theo lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc thì có thể bị rêu rao trước dư luận quốc tế rằng, Việt Nam và các nước này không hợp tác và quan tâm đến việc khai thác bền vững thủy sản, đặt lợi ích quốc gia lên trên tính bền vững của môi trường sinh thái. Vì điều 123 của UNCLOS đòi hỏi các nước ven bờ một biển kín hay nửa kín phải hợp tác với nhau để quản lý nguồn tài nguyên sinh vật biển và bảo vệ môi trường biển. Ngoài ra, với lệnh cấm đánh bắt như vậy, ngư dân Việt Nam và ASEAN cũng bị đặt trong tình trạng luôn luôn có nguy cơ bị lực lượng chấp pháp của Trung Quốc xâm hại, cũng như nguy cơ đối đầu giữa lực lượng chấp pháp của Việt Nam và các nước liên quan với các tàu chấp pháp của Bắc Kinh (3).
Đến hẹn lại lên, năm nay, sau khi có tin Trung Quốc cấm bắt đánh cá, tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao chiều 20/4, trả lời yêu cầu cho biết phản ứng của Việt Nam, phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Đoàn Khắc Việt cho biết, lập trường của Việt Nam "đối với lệnh cấm đánh bắt cá mà Trung Quốc đơn phương ban hành trái phép" là nhất quán và đã được nhiều lần khẳng định rõ trong các năm qua. "Lệnh cấm đánh bắt cá này đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế được xác lập theo UNCLOS 1982", ông Việt nhấn mạnh. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam và không làm phức tạp thêm tình hình, đóng góp vào duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông (4).
Kiện Trung Quốc thì kiện cái gì ?
Khi được hỏi về các nội dung trong "Tuyên bố 2/5" có hàm ý gì đối với vấn đề nay mai Việt Nam sẽ kiện hay không kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế, cựu tù nhân Côn Đảo Lê Thân đã nói với người viết bài này rằng, đây là một khả năng chính quyền Việt Nam nên để ngỏ. Chủ nhiệm một trong những CSO lâu năm là Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, ông Lê Thân cho rằng, nhà nước nên tạo các điều kiện thuận lợi hơn nữa để các CSO có tiếng nói đối với những vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia như vấn đề đấu tranh trên phương diện pháp lý đối với chủ quyền biển đảo. Năm nay ông Thân cũng ghi nhận Nhà nước đã có phản ứng khá kịp thời thông qua người phát ngôn Bộ Ngoại giao, nhưng theo ông, đáng ra chính quyền nên có Tuyên bố chính thức để dư luận rộng rãi trong mọi tầng lớp dân cư, đặc biệt là các cán bộ đảng viên ý thức được quyền lợi và nghĩa vụ của người dân đối với những vấn nạn mất còn của dân tộc.
Điều ông Lê Thân khuyến cáo cũng phù hợp với đề nghị của Hội nghề cá Việt Nam đối với các cơ quan chức năng phải có biện pháp quyết liệt hơn để "bảo vệ an toàn cho ngư dân Việt Nam khi sản xuất trên vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia". Bởi vì trên thực tế, đã xảy ra quá nhiều vụ việc ngư dân cáo buộc lực lượng kiểm ngư Trung Quốc đập phá tàu thuyền và ngư cụ của họ trên biển, tả tơi đẩy về bờ (5). Lệnh cấm đánh bắt cá trên đây của nhà cầm quyền Bắc Kinh "là một ví dụ nữa cho thấy Trung Quốc đang cố bình thường hóa (hay hợp pháp hóa) ý đồ kiểm soát Biển Đông, và điều này đã buộc Việt Nam và Philippines công khai phản đối lệnh cấm này mỗi năm nhằm cho thấy quyết tâm không công nhận sự áp đặt của Trung Quốc", Gregory B. Poling, nhà nghiên cứu cấp cao từ Center for Strategic and International Studies (CSIS) đã nói với truyền thông quốc tế.
Trung Quốc ngày càng nâng cao năng lực hàng hải của mình, điều này tạo nên rủi ro về những hành động trấn áp ngày càng mạnh tay hơn nữa nhằm vào ngư dân Việt Nam trên Biển Đông trong thời gian tới. "Điều đáng lo ngại là trong những năm gần đây, năng lực hàng hải của Trung Quốc được cải thiện đáng kể, khiến họ có khả năng thực thi lệnh cấm này quyết liệt hơn trước rất nhiều. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải nâng cao năng lực hàng hải tương ứng, hỗ trợ và bảo vệ ngư dân đủ khả năng thực hiện hoạt động kinh tế chính đáng của mình trên Biển Đông, qua đó gián tiếp khẳng định chủ quyền của Việt Nam", TS. Nguyễn Khắc Giang cho biết trong phân tích mới đây (6). Do đó, vẫn theo ông Lê Thân, Chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng, nên để ngỏ khả năng nhà nước ta sẽ kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể kiện Trung Quốc về những hành vi chống lại LPQT, không tuân thủ các phán quyết trước đây của CPA. Phải xây dựng hồ sơ công phu về việc Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông. Bởi vì Tòa CPA sẽ không chấp nhận khiếu nại về Tuyên bố liên quan đến chủ quyền trên biển đảo của các quốc gia.
Hải Đăng
Nguồn : RFA, 02/05/2023
Tham khảo :
1. https://baotiengdan.com/2023/04/30/lenh-cam-danh-ca-cua-tau-cong/
3. https://www.bbc.com/vietnamese/articles/ckk43419g39o
4. https://danviet.vn/bo-ngoai-giao-viet-nam-phan-ung-lenh-cam-danh-bat-ca-don-phuong-cua-trung-quoc-2023042016360844.htm
5. https://tongcucthuysan.gov.vn/vi-vn/tin-t%E1%BB%A9c/-tin-v%E1%BA%AFn/doc-tin/019003/2023-04-27/hoi-nghe-ca-viet-nam-phan-doi-trung-quoc-cam-danh-bat-ca-o-bien-dong
Những đòi hỏi của Trung Quốc đối với hầu hết Biển Đông ngày càng bị nhiều nước phương Tây lên án vì trái với Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Điều này cho thấy các nước không chấp nhận việc Trung Quốc ngang nhiên khống chế, gia tăng quân sự hóa vùng biển được coi là tuyến hàng hải quan trọng của thế giới.
Ngoài phản đối của những nước ASEAN có tranh chấp với Trung Quốc, lần đầu tiên Washington chính thức công bố "Lập trường của Hoa Kỳ về các yêu sách tại Biển Đông" vào ngày 13/07/2020. Tiếp theo, Úc vào ngày 23/07 và ba nước châu Âu, Pháp, Đức và Anh vào ngày 16/09, đã gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc xác định những đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông của Bắc Kinh là "không có cơ sở pháp lý" và "không có giá trị" theo phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực năm 2016 chiểu theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).
Bối cảnh hiện nay có thuận lợi cho Việt Nam nếu tính đến việc kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng Tài Thường Trực (PCA) ? Việt Nam sẽ được gì, mất gì nếu kiện ? Hà Nội có sẵn sàng nhân nhượng để lập mặt trận chung với Philippines đối phó Trung Quốc không ? Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon, Pháp, tiếp tục trả lời một số câu hỏi của RFI.
********************
RFI : Chúng ta đã đề cập phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực năm 2016 tác động như thế nào đến đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông. Giả sử Việt Nam kiện những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông ra trước Tòa Trọng Tài Quốc Tế, Việt Nam có thể phản đối những điểm nào ?
Laurent Gédéon : Cần phải nhắc lại một điểm thú vị, đó là dù không trực tiếp cùng Philippines tham gia kiện Trung Quốc lên Tòa Trọng Tài Thường Trực vào năm 2013, nhưng chỉ vài tháng sau, ngày 05/12/2014, Việt Nam đã đệ trình lên Tòa một bản tuyên bố quyền lợi. Trong văn bản rất quan trọng này, Việt Nam yêu cầu Tòa PCA cân nhắc đến lập trường của Việt Nam ở bốn điểm.
Thứ nhất là Hà Nội chấp nhận thẩm quyền của Tòa Trọng Tài Thường Trực trong thủ tục được tiến hành. Thứ hai, Việt Nam yêu cầu các lợi ích và quyền lợi của mình được bảo tồn trong quá trình xét xử vụ kiện. Thứ ba, Việt Nam ghi nhận rằng Philippines không yêu cầu Tòa PCA xem xét những vấn đề không thuộc thẩm quyền phán xét của Tòa, trong đó có vấn đề chủ quyền. Thứ tư, Hà Nội tái khẳng định bác bỏ mọi yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trong "đường 9 đoạn".
Bản tuyên bố quyền lợi này cũng nêu rõ rằng Việt Nam tuyên bố không một thực thể nào mà Philippines nêu trong đơn kiện có thể tạo các quyền hàng hải ở ngoài phạm vi 12 hải lý, nói một cách khác là chỉ liên quan đến vùng lãnh hải (12 hải lý) quanh mỗi thực thể. Cuối cùng, Việt Nam yêu cầu được nhận tất cả mọi bản sao tài liệu được sử dụng trong tiến trình trọng tài.
Chúng ta thấy là năm 2014, Việt Nam đã tự can dự vào phạm vi tranh chấp có thể sẽ được đệ trình bởi vì Hà Nội đã chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa Trọng Tài Thường Trực, tiếp theo là ngầm chấp nhận quyết định là không một thực thể nào hình thành được vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và cho thấy là Tòa PCA không thể ra phán quyết về chủ quyền. Đó là những điểm mà Hà Nội chấp nhận đối với quần đảo Trường Sa, tương tự đối với Hoàng Sa.
Nếu Việt Nam kiện những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông ra Tòa Trọng Tài Thường Trực, theo ý kiến của tôi, Hà Nội có thể kiện ở hai điểm. Thứ nhất là những yêu sách lãnh hải của Trung Quốc nằm trong "đường 9 đoạn", cũng như khả năng yêu cầu Tòa PCA tái khẳng định tính chất bất hợp pháp của "đường 9 đoạn" này. Thứ hai, Hà Nội có thể yêu cầu Tòa lên án những hành động lấn chiếm của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vì bản đồ "đường 9 đoạn" do Bắc Kinh tự vẽ chồng lấn rất lớn với vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
RFI :Giả sử Tòa Trọng Tài Thường Trực đưa ra phán quyết, phán quyết này sẽ tác động như thế nào đến những đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam ?
Laurent Gédéon : Dựa vào những gì chúng ta vừa đề cập, sẽ không có hệ quả trực tiếp do thông thường Tòa Trọng Tài Thường Trực không có thẩm quyền phán quyết về chủ quyền, vì thế chủ đề này sẽ vẫn tạm gác đó trong lúc chờ giải pháp chính trị.
RFI :Ngày 13/07/2020, lần đầu tiên Hoa Kỳ đề cập trực tiếp về những tranh chấp giữa các bên ở Biển Đông. Tuyên bố của ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo là một lợi thế cho Việt Nam, hay ngược lại ?
Laurent Gédéon : Có thể là có lợi nhưng tôi muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Mỹ vì người ta vẫn thấy tính trung lập ban đầu của Mỹ về vấn đề quần đảo Trường Sa, cũng như Hoàng Sa, dần dần bị suy yếu. Cho đến năm 2020, Hoa Kỳ vẫn nói là không tuyên bố về vấn đề chủ quyền mà chỉ tuyên bố về nguyên tắc tự do lưu thông hàng hải.
Thế nhưng, vào ngày 13/07/2020, ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã tuyên bố rằng những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với gần như toàn bộ Biển Đông, cũng như chủ quyền đối với các quần đảo là bất hợp pháp. Ông Pompeo cũng kêu gọi áp dụng phát quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực. Đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ phát biểu về vấn đề chủ quyền.
Nếu thêm những tuyên bố của Úc và Đức về vấn đề Biển Đông, có thể nói là trong bối cảnh mới này, Việt Nam có thể có lợi khi tái kích hoạt khía cạnh pháp lý và viện đến Tòa Trọng Tài Thường Trực Quốc Tế về tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Tuy nhiên, hiện tại, bối cảnh trở nên thuận lợi bởi vì có ít nhất hai lý do, ngoài những yếu tố vừa nêu liên quan đến lập trường của Mỹ. Lý do thứ nhất là hiện giờ vị thế của Bắc Kinh đang suy yếu, cả về kinh tế lẫn hình ảnh.
Về kinh tế, cuộc chiến thương mại gây thiệt hại rất nhiều cho Trung Quốc và tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bị tác động do những biện pháp trừng phạt của Mỹ. Thêm vào đó, phải kể đến các biện pháp của Washington chống tập đoàn công nghệ Hoa Vi (Huawei) : cấm thâm nhập thị trường Mỹ, đặc biệt là Hoa Vi bị cấm tham gia thị trường 5G ở châu Âu, cũng như là nhiều yếu tố khác.
Hình ảnh của Trung Quốc trên thế giới cũng bị xấu đi rõ rệt do các biện pháp trấn áp người biểu tình Hồng Kông, rồi người thiểu số Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương. Thêm vào đó là những nghi ngờ về nguồn gốc của virus corona, cũng như cách xử lý dịch của Trung Quốc bị chỉ trích gay gắt.
Yếu tố thứ hai là trên thế giới, vấn đề chủ quyền hàng hải ngày càng được các nước liên quan chú ý, lấy ví dụ tranh chấp giữa Pháp và Madagascar về quần đảo Eparses ở Ấn Độ Dương, hay tranh chấp giữa Pháp và đảo Maurice về đảo Tromelin. Qua đó, chúng ta thấy là không gian biển và sự phân chia chủ quyền giữa các nước hiện trở thành một mối bận tâm ngày càng lớn vì những thách thức địa chiến lược cũng như lợi ích địa-kinh tế.
Trong bối cảnh chung đó, có lẽ Việt Nam sẽ quan tâm đến việc thể hiện thẳng thắn về vấn đề Biển Đông, đặc biệt là trước cơ chế tài phán liên chính phủ, như Tòa Trọng Tài Thường Trực. Tuy nhiên, theo những điểm được nêu ở trên, trước khi tiến hành, Việt Nam cần cân nhắc rất kỹ các câu hỏi muốn Tòa trả lời, bởi vì chúng ta đã thấy là trong phán quyết năm 2016, Tòa PCA đã trả lời một phần liên quan đến lập trường của Việt Nam khi bác những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc, tương tự với một vài điểm trong lập trường của chính Việt Nam.
RFI :Như vậy, Trung Quốc sẽ phải chịu sức ép lớn hơn về mặt pháp lý nếu có thêm đơn kiện của Việt Nam ?
Laurent Gédéon : Theo tôi, lợi ích của việc viện đến một tòa án như vậy có lẽ là để tái khẳng định phán quyết lên án của Tòa PCA đối với những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc, như vậy gia tăng sức ép đối với Bắc Kinh ở Biển Đông. Trong trường hợp này, Việt Nam cần tiếp tục đối thoại với Philippines và tránh đối đầu với Manila, bởi vì điều này cho phép hình thành một mặt trận ngoại giao, được củng cố hơn, thông qua các quyết định theo luật pháp quốc tế, và làm suy yếu lập trường của Bắc Kinh.
Điều này có nghĩa, theo tôi, dường như rất khó tìm ra được một giải pháp mà không phải đàm phán lâu dài trong bối cảnh Mỹ-Trung hiện rất căng thẳng. Người ta có thể hình dung ra là tình hình này trở nên xấu đi, theo hướng dẫn đến một cuộc xung đột công khai, ít nhiều giới hạn về quy mô, và có thể dẫn đến giả thuyết là Bắc Kinh rút lui, mở đường tiến cho các nước đối lập với Trung Quốc ở Biển Đông.
Dĩ nhiên trường hợp như vậy, được cho là mang lại kết quả tích cực, sẽ buộc Bắc Kinh phải xem lại những yêu sách độc quyền và mở đường cho đối thoại trực tiếp. Nhưng để đạt được điều này, các tác nhân khác cũng phải đánh giá sự cạnh tranh giữa họ với nhau. Vì thế, căn cứ vào vấn đề những lợi ích đang bị đe dọa, vào số lượng phản ứng liên quan, có lẽ là hợp lý khi nghĩ rằng chỉ có thể tìm ra được các giải pháp trên cơ sở đàm phán đa phương và nhân nhượng - một kiểu nhân nhượng có thể thực hiện được, cũng như tính đến việc phân chia các vùng biển ở Biển Đông theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, có nghĩa là những vùng đặc quyền kinh tế của mỗi nước liên quan. Trong trường hợp này, một phần các đảo của nước này có thể sẽ nằm trong các vùng đặc quyền kinh tế của nước khác và quy chế của một số vùng khác cần được đàm phán. Chúng ta cũng có thể hình dung ra biện pháp đồng quản lý một số vùng biển và thực thể.
Nhưng trong mọi trường hợp, thì vẫn có khả năng tìm ra được một giải pháp, dù là trong giả thuyết một cuộc xung đột vũ trang buộc một hoặc nhiều nước phải rút lui, hoặc trong trường hợp tự nguyện thương lượng. Tuy nhiên, giả thuyết thứ hai, về thương lượng, liên quan chặt chẽ đến việc Trung Quốc thay đổi lập trường. Vấn đề đặt ra là Trung Quốc có sẵn sàng, hay có bị buộc phải thay đổi lập trường về Biển Đông hay không.
RFI : Philippines yêu cầu đưa phán quyết 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực vào đàm phán COC. Điểm này tác động thế nào đến lập trường của Việt Nam ?
Laurent Gédéon : Vấn đề Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) khá là tế nhị so với Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biên Đông (DOC năm 2002), Bộ Quy tắc Ứng xử sẽ mang tính ràng buộc đối với tất cả các bên. Có lẽ vì lý do đó mà COC tiêu tốn rất nhiều thời gian đàm phán ở cấp ASEAN và thực sự không có nhiều tiến triển về vấn đề này. Phía Philippines hoàn toàn có lợi nếu phán quyết của Tòa PCA được đưa vào Bộ Quy tắc Ứng xử nhưng hẳn Trung Quốc sẽ phản đối vì không có lợi cho Bắc Kinh.
Về phía Việt Nam, có lẽ Hà Nội sẽ ủng hộ Philippines. Có thể về mặt ngoại giao, Việt Nam có lợi khi dựa nhiều hơn vào Philippines, tương tự như Manila dựa vào Hà Nội để cùng tăng cường lập trường của nhau. Nhưng điều này cũng có nghĩa là Việt Nam, đến lúc đó, có lẽ phải chấp nhận nguyên tắc nhân nhượng. Vì có được một mặt trận chung với Philippines, cũng như nếu Hà Nội chấp nhận đưa phán quyết của Tòa PCA vào đàm phán Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông, có nghĩa là Việt Nam sẽ phải sẵn sàng thương lượng về quần đảo Trường Sa, trong khi lập trường ban đầu của Việt Nam, hiện vẫn được Hà Nội khẳng định, là toàn bộ quần đảo Trường Sa thuộc về Việt Nam. Qua tất cả những yếu tố trên, có thể cho rằng sẽ có khả năng đàm phán và có thể là Việt Nam chấp nhận lùi một bước trong lập trường của mình về vấn đề này.
RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp.
Thu Hằng thực hiện
Nguồn : RFI, 12/10/2020
Biển Đông : Việt Nam chuẩn bị khởi kiện Trung Quốc
Trung Kiên, Thoibao.de, 10/05/2020
Việt Nam được cho là đang chuẩn bị hồ sơ kiện lên tòa trọng tài quốc tế chống lại yêu sách chủ quyền Biển Đông phi lý của Trung Quốc. Thời điểm hiện nay được coi chín muồi cho một vụ kiện lịch sử của Việt Nam khi Trung Quốc ngày càng gia tăng đe dọa và quấy nhiễu trên tuyến đường hàng hải tranh chấp và đặc biệt là sau đại dịch Covid-19 tâm lý chống Trung Quốc dâng cao trên toàn cầu trong khi đó Việt Nam lại hội tụ những thế mạnh chưa từng có.
Niềm vui của đoàn Việt Nam khi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông báo kết quả cuộc bỏ phiếu Việt Nam trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ngày 07/6/2019
Nhiều nguồn tin quốc tế cho hay trong nội bộ chính quyền Việt Nam, ngày càng có nhiều tiếng nói đòi kiện Trung Quốc.
Một nguồn tin ngoại giao giấu tên nói với Asia Times, các cuộc thảo luận tại Hà Nội về một vụ kiện quốc tế nay đang căng thẳng hơn trước. Trong một hội nghị thường niên về Biển Đông do Học viện Ngoại giao Việt Nam tổ chức tháng 11 năm ngoái, thứ trưởng ngoại giao Lê Hoài Trung đã công khai nêu ra vấn đề này. Đây là lần đầu tiên kể từ gần 5 năm qua, một quan chức cao cấp đề cập đến. Ông Trung nói : "Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 đã dự trù đầy đủ các cơ chế để áp dụng biện pháp này".
Giáo sư Alexandre Vuving của Trung tâm nghiên cứu an ninh Daniel K Inouye ở Honolulu, Hawai cho biết từ năm ngoái cho biết "đã có thêm rất nhiều tiếng nói trong giới cầm quyền ở Hà Nội, kêu gọi đưa Trung Quốc ra tòa".
Nhà phân tích Derek Grossman thuộc think tank RAND Corporation ở Washington nói rằng ông không có thông tin nào về việc Hà Nội đang chuẩn bị kiện lên tòa quốc tế, nhưng nghe được từ các nguồn tin chính phủ rằng đề xuất này đang được xem xét một cách nghiêm túc.
Từ đó đến nay Việt Nam ngày càng có thêm động lực để đưa Trung Quốc ra tòa khi ngay cả trong bối cảnh cả thế giới gồng mình chiến đấu với đại dịch Covid-19 khởi phát từ chính Trung Quốc thì Trung Quốc lại càng đẩy mạnh những hành động phi pháp ở Biên Đông, xâm phạm chủ quyền của các nước liên quan.
Chiếc tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất (Haiyang Dizhi) 8 đã dành hầu như cả năm 2019 để quấy rối một liên doanh khai thác năng lượng với Nga tại vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam ở Biển Đông. Việc quấy nhiễu này năm nay lại tiếp tục, bất chấp đại dịch virus corona.
Ngày 03/4, một tàu đánh cá Việt Nam bị một tàu tuần duyên Trung Quốc đánh đắm ở gần quần đảo Hoàng Sa.
Đến ngày 13/4, chiếc tàu Hải Dương Địa Chất 8 lại tái xuất hiện tại EEZ của Việt Nam.
Vài ngày sau, chính quyền Trung Quốc loan báo thành lập hai quận "Tây Sa" và "Nam Sa" tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền.
Ngày 19/4, Bộ Dân chính Trung Quốc thể hiện sự ngang ngược khi tự tiện công bố cái gọi là 'danh xưng tiêu chuẩn' của hàng chục đảo, bãi cạn trên Biển Đông, bao gồm những thực thể nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.
Không chỉ đe dọa Việt Nam, mà tháng trước tàu hải cảnh Trung Quốc còn tuần tra ở khu vực thuộc EEZ của Malaysia trên Biển Đông, kể cả một khu vực đang khai thác dầu khí.
Hồi tháng 2, tàu chiến Trung Quốc đã chĩa radar điều khiển hỏa lực và quay pháo hướng vào tàu tuần tra của Philippines đang làm nhiệm vụ trên Biển Đông.
Hiện nay, Việt Nam có thể cảm thấy rằng thời điểm đã chín muồi cho một động thái pháp lý mới, có thể làm dư luận quốc tế thiên về hướng có lợi cho Việt Nam.
Nếu có khi nào người dân Việt Nam có thể tập hợp xung quanh đảng cầm quyền, còn Bắc Kinh yếu ớt, dễ tổn thương hơn bao giờ hết, thì đó chính là lúc này.
Truyền thông quốc tế cho biết bản thân Trung Quốc những ngày qua đã cảm nhận được sự ghẻ lạnh, hắt hủi của cộng đồng quốc tế sau một loạt những hành động sai trái của nước này để cả thế giới phải hứng chịu cuộc khủng hoảng y tế lịch sử. Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại Trung Quốc (CICIR), một think tank thuộc Bộ An ninh Quốc gia, cơ quan lãnh đạo tình báo cao nhất, trong một báo cáo mới đây đã nhận định "tình cảm chống Trung Quốc trên toàn cầu đang ở mức cao nhất, kể từ sau vụ đàn áp quảng trường Thiên An Môn năm 1989 cho đến nay". Sự bất mãn đối với Trung Quốc trên toàn cầu, chủ yếu do việc xử lý khủng hoảng virus corona và chiến dịch bóp méo thông tin sau đó, chưa bao giờ mạnh mẽ như thế kể từ nhiều thập niên qua.
Đồng thời Đảng Cộng sản Trung Quốc bị yếu đi trong nước, do tăng trưởng kinh tế – mà nhờ đó đảng có được tính chính danh suốt một thời gian dài – bị sụt giảm trong năm 2020, lần đầu tiên kể từ hơn bốn chục năm.
Trong khi đó, Đảng cộng sản Việt Nam lại được trong và ngoài nước khen ngợi vì khả năng và sự minh bạch bất ngờ trong việc xử lý nạn dịch Covid-19. Việt Nam còn có thể được hưởng lợi lớn khi Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Châu Âu tìm cách tách rời khỏi nền kinh tế Trung Quốc và dịch chuyển các chuỗi cung ứng khỏi Hoa lục.
Bên cạnh đó, Hà Nội có thể tận dụng vị thế quốc tế mạnh mẽ hiện nay để tiến hành vụ kiện chống lại Trung Quốc. Năm nay Việt Nam là chủ tịch luân phiên ASEAN, một vị trí có thể tạo nên một mặt trận đoàn kết hơn với các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó có những nước cũng tranh chấp trên biển với Trung Quốc. Việt Nam còn giữ chiếc ghế thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2021-2022, vị thế mà Việt Nam có thể tận dụng để thực hiện công tác truyền thông cho chủ quyền chính đáng của Việt Nam tại Biển Đông đồng thời tố cáo sự hung hăng của Bắc Kinh với các thành viên khác của Hội đồng Bảo an.
Theo các nhà phân tích, việc đưa vấn đề ra tòa án quốc tế có thể mang lại cho Hà Nội một chiến thắng dù chiến thắng có thể chỉ mang tính biểu tượng.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nhận định Việt Nam không có con đường nào khác là phải kiện, bởi nếu cứ để như bây giờ thì Việt Nam chả có quyền gì cả, chỉ ‘nói mồm’. Philippines bây giờ họ ở trên thế khác hẳn Việt Nam. Từ khi có phán quyết thì Trung Quốc không dám làm gì Philippines, chỉ dọa bề ngoài thôi. Việt Nam phải kiện càng sớm càng tốt và khi nộp xong phải báo công khai cho cả thế giới biết. Đừng để quá trễ. Ông dự đoán sau Đại Hội 13 thì Hà Nội sẽ nộp đơn : "Người ta đã có kế hoạch kiện. Bây giờ còn chờ xem là quyết định kiện vào lúc nào. Kèm theo kế hoạch ấy người ta chuẩn bị khá là kỹ là các thủ tục, các luận cứ, các tài liệu. Tất cả đã có hết rồi. Nhân sự cũng đã có. Bậy giờ chỉ còn chờ quyết định của Ban chấp hành trung ương là kiện lúc nào thì họ nộp luôn…"
"Thắng như Philippines là thừa sức bởi nền tảng của Việt Nam y hệt như Philippines. Hơn nữa, Việt Nam có khi còn mạnh hơn Philipines bởi được sự ủng hộ của giới luật gia và chính quyền các nước khác".
"Cuộc điện đàm giữa ngoại trưởng Việt Nam và ngoại trưởng Mỹ gần đây có đặt vấn đề thủ tục pháp lý. Thật ra người Mỹ họ nói rất rõ, rằng nếu Việt Nam có khởi kiện thì họ sẽ ủng hộ bằng nhiều cách, hỗ trợ về mặt pháp lý ; chuyên gia, thủ tục…".
Các nhà phân tích đang theo dõi tình hình tin rằng, Hà Nội có thể nộp đơn kiện – tương tự như Philippines đã tiến hành trước đây, và đã chiến thắng Trung Quốc tại Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye hồi tháng 7/2016. Phán quyết của tòa khẳng định Trung Quốc "không có quyền lịch sử" về đường lưỡi bò 9 đoạn mà Bắc Kinh sử dụng để đòi hỏi chủ quyền gần 90% Biển Đông. Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện và tuyên bố không chấp nhận phán quyết, vốn không có cơ chế buộc phải thực thi.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nhấn mạnh : "Trung Quốc tìm hiểu luật pháp quốc tế rất rõ nên họ không tham gia tranh tụng vụ kiện của Philipines ngay từ đầu, cho nên họ coi phán quyết năm 2016 là độc lập và đơn phương. Họ coi thế nên họ không nhận. Hành xử không công nhận là hợp pháp, tức họ có quyền không công nhận. Nhưng không công nhận không có nghĩa Trung Quốc có thể hành xử ngược lại phán quyết đó. Phán quyết có giá trị vĩnh viễn".
Giáo sư Thayer cũng nhận định nếu Tòa Trọng tài ra phán quyết có lợi cho Việt Nam, sau khi Hà Nội chứng minh được nhiều vấn đề gây tranh cãi về yêu sách lịch sử, thì "Việt Nam sẽ có lợi nhờ được quảng bá trong dịp này, và áp lực chính trị sẽ đè lên Trung Quốc".
Cũng theo giáo sư Thayer, sự kiện này còn mang lại cho Việt Nam "cơ sở để chống lại các hành động của Trung Quốc, và cộng đồng quốc tế có thể căn cứ vào đó để ủng hộ Việt Nam".
Khó thể biết được Việt Nam có bị áp lực của các đồng minh quốc tế hay không, cụ thể là Mỹ, để kiện Trung Quốc lên tòa trọng tài, với hy vọng tạo ra một án lệ thứ hai chống lại tham vọng trên biển của Bắc Kinh. Một bản án như thế, theo các nhà phân tích, sẽ giúp cho Hoa Kỳ thêm cơ sở vững chắc để tăng cường các hoạt động vì tự do hàng hải trên Biển Đông.
Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo nói với các đồng nhiệm ASEAN trong một hội nghị truyền hình vào tháng trước rằng : "Điều quan trọng cần nhấn mạnh là đảng cộng sản Trung Quốc lợi dụng việc cả thế giới tập trung vào đại dịch virus corona để tiếp tục thái độ khiêu khích như thế nào. Hoa Kỳ cực lực phản đối hành động đe dọa của Trung Quốc, chúng tôi hy vọng các quốc gia khác cũng buộc Bắc Kinh phải trả giá".
Lợi ích từ việc kiện Trung Quốc ra tòa là rất lớn nhưng rủi ro mang lại cũng không hề nhỏ.
Các lực lượng của Mỹ tiến hành tuần tra ở Biển Đông nhằm bác bỏ những yêu sách đòi chủ quyền phi pháp của Trung Quốc tháng 4/2020
Nhà phân tích Lê Hồng Hiệp hồi tháng Tám năm ngoái viết rằng các quan chức cao cấp Việt Nam nghi ngại về việc đưa ra tòa trọng tài vì "ngay cả nếu Hà Nội thắng kiện, thì cũng không ngăn cản được Trung Quốc lấn chiếm vùng biển Việt Nam trong tương lai".
Và "Thậm chí lại còn tệ hơn, vì có thể làm Trung Quốc càng thêm hung hăng, gây bất ổn thêm quan hệ Việt – Trung, đe dọa viễn cảnh kinh tế Việt Nam và đẩy đất nước vào một thế chiến lược bấp bênh".
Hơn nữa, việc Việt Nam đưa vấn đề ra tòa án quốc tế có thể làm gia tăng căng thẳng, tiến gần đến xung đột.
Nhà phân tích Grossman năm ngoái khẳng định nếu Bắc Kinh tìm kiếm xung đột, Việt Nam có thể là mục tiêu ưu tiên để khởi động. Qua đó quân đội Trung Quốc sẽ có được kinh nghiệm chiến đấu cần thiết trên không, trên biển mà không sợ bị Hoa Kỳ can thiệp, và trong tình huống có thể chiến thắng.
Giới nghiên cứu nhận định : Việt Nam đang trong tình huống đầy nghịch lý. Những nỗ lực ngoại giao và phản đối công khai đã không thành công trong việc ngăn chận Trung Quốc, mà các trò đe dọa mới đây đã chứng tỏ.
Nhưng quốc tế hóa tình hình có thể đẩy Việt Nam và Trung Quốc – nói rộng ra là Hoa Kỳ và Trung Quốc – tiến gần đến điểm xung đột vũ trang, mà Hà Nội biết rằng không có cơ hội thắng nếu không có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ bên ngoài.
Trung Kiên
Nguồn : Thoibao.de, 10/05/2020
*********************
Hà Nội có thể sớm kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế về vấn đề Biển Đông
Diễm Thi, RFA, 08/05/2020
Tác giả David Hutt trên Asia Times ngày 07/05/2020 có bài phân tích về việc chính phủ Hà Nội đang cân nhắc việc kiện Bắc Kinh trước một tòa án trọng tài quốc tế về vấn đề Biển Đông.
Một chiến sĩ hải quân Việt Nam đang chụp ảnh một tàu bảo vệ bờ biển Trung Quốc gần giàn khoan dầu của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông ngày 14 tháng 5 năm 2014. AFP
Tựa đề bài viết của tác giả David Hutt là "Vietnam may soon sue China on South China Sea", tạm dịch "Việt Nam có thể sớm kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông". Theo đó, Hà Nội được cho là đang chuẩn bị hồ sơ kiện lên tòa trọng tài quốc tế chống lại yêu sách chủ quyền Biển Đông phi lý của Bắc kinh. Đây có thể là phản ứng của Việt Nam trước việc Trung Quốc ngày càng đe dọa và quấy rối trên tuyến đường hàng hải tranh chấp.
Các nhà quan sát tình hình Biển Đông tin rằng Hà Nội có thể nộp đơn kiện giống Philippines đã làm trước đây và đã thắng. Sau 4 năm nộp đơn, tháng 7/2016 Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye đã ra phán quyết khẳng định Trung Quốc không có quyền lịch sử về đường lưỡi bò 9 đoạn mà Bắc Kinh sử dụng để đòi hỏi chủ quyền gần 90% diện tích Biển Đông. Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện và tuyên bố không chấp nhận phán quyết, vốn không có cơ chế buộc phải thực thi.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu Đông Nam Á nói về việc này với RFA tối 8/5/2020 :
"Trung Quốc tìm hiểu luật pháp quốc tế rất rõ nên họ không tham gia tranh tụng vụ kiện của Philipines ngay từ đầu, cho nên họ coi phán quyết năm 2016 là độc lập và đơn phương. Họ coi thế nên họ không nhận. Hành xử không công nhận là hợp pháp, tức họ có quyền không công nhận. Nhưng không công nhận không có nghĩa Trung Quốc có thể hành xử ngược lại phán quyết đó. Phán quyết có giá trị vĩnh viễn."
Không còn lựa chọn
Đường lưỡi bò do Trung Quốc tự vẽ ở Biển Đông. AFP
Theo phân tích của David Hutt thì Việt Nam ngày càng có thêm động lực thúc đẩy để đưa Trung Quốc ra tòa. Cụ thể, tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 hầu như cả năm 2019 đã quấy rối một liên doanh khai thác năng lượng với Nga tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông. Việc quấy nhiễu này năm nay lại tiếp tục, bất chấp đại dịch Covid-19.
Vào đầu tháng tư vừa qua, một tàu đánh cá Việt Nam bị một tàu tuần duyên Trung Quốc đánh đắm ở gần quần đảo Hoàng Sa. Đến ngày 13/04/2020, chiếc Hải Dương Địa Chất 8 lại tái xuất hiện trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Vài ngày sau, Trung Quốc đặt tên đảo, lập quận Tây Sa, Nam Sa tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền.
Dù việc đưa vấn đề ra tòa án quốc tế chỉ có thể mang lại cho Hà Nội một chiến thắng mang tính biểu tượng, bởi khó có khả năng Bắc Kinh tuân thủ bất kỳ một phán quyết nào có lợi cho Việt Nam. Nhưng dường như Việt Nam không có lựa chọn khác.
Tác giả David Hutt dẫn lời nhà phân tích Alexandre Vuving, giáo sư của Trung tâm nghiên cứu an ninh Daniel K Inouye ở Honolulu, Hawaii nhận định với Asia Times rằng Hà Nội có thể suy nghĩ không có chọn lựa nào khác ngoài việc đưa Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cũng cho rằng Việt Nam không có con đường nào khác là phải kiện, bởi nếu cứ để như bây giờ thì Việt Nam chả có quyền gì cả, chỉ ‘nói mồm’. Philippines bây giờ họ ở trên thế khác hẳn Việt Nam. Từ khi có phán quyết thì Trung Quốc không dám làm gì Philippines, chỉ dọa bề ngoài thôi. Việt Nam phải kiện càng sớm càng tốt và khi nộp xong phải báo công khai cho cả thế giới biết. Đừng để quá trễ. Ông dự đoán sau Đại Hội 13 thì Hà Nội sẽ nộp đơn :
"Người ta đã có kế hoạch kiện. Bây giờ còn chờ xem là quyết định kiện vào lúc nào. Kèm theo kế hoạch ấy người ta chuẩn bị khá là kỹ là các thủ tục, các luận cứ, các tài liệu. Tất cả đã có hết rồi. Nhân sự cũng đã có. Bậy giờ chỉ còn chờ quyết định của Ban chấp hành trung ương là kiện lúc nào thì họ nộp luôn.
Thắng như Philippines là thừa sức bởi nền tảng của Việt Nam y hệt như Philippines. Hơn nữa, Việt Nam có khi còn mạnh hơn Philipines bởi được sự ủng hộ của giới luật gia và chính quyền các nước khác.
Cuộc điện đàm giữa ngoại trưởng Việt Nam và ngoại trưởng Mỹ gần đây có đặt vấn đề thủ tục pháp lý. Thật ra người Mỹ họ nói rất rõ, rằng nếu Việt Nam có khởi kiện thì họ sẽ ủng hộ bằng nhiều cách, hỗ trợ về mặt pháp lý ; chuyên gia, thủ tục…"
Lợi thế cho Việt Nam
Theo Reuters, một báo cáo được cho là của Viện Quan hệ quốc tế đương đại Trung Quốc (CICIR) thuộc bộ An ninh Quốc gia, cơ quan lãnh đạo tình báo cao nhất, cảnh báo "tâm lý chống Trung Quốc trên toàn cầu đang ở mức cao nhất, kể từ sau vụ đàn áp quảng trường Thiên An Môn năm 1989."
Đồng thời, đảng cộng sản Trung Quốc bị yếu đi trong nước, do tăng trưởng kinh tế bị sụt giảm trong năm 2020. Thêm vào đó là sự bất mãn đối với Trung Quốc đang xảy ra trên toàn cầu, chủ yếu do việc xử lý khủng hoảng coronavirus và thông tin không trung thực sau đó.
Điều này chưa từng xảy ra trong suốt 4 thập kỷ qua.
Trong khi đó, về phía Việt Nam, tác giả David Hutt viết rằng, đảng cộng sản Việt Nam được trong và ngoài nước khen ngợi vì cách xử lý dịch Covid-19 tốt và minh bạch một cách bất ngờ. Việt Nam còn có thể được hưởng lợi lớn khi Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước châu Âu tìm cách rời khỏi Trung Quốc. Hơn nữa, Việt Nam hiện là chủ tịch luân phiên ASEAN và là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2021-2022.
Ông David Hutt trích dẫn lưu ý của giáo sư Carl Thayer, đại học New South Wales, Úc rằng, vấn đề là Trung Quốc có quyền phủ quyết và Việt Nam vẫn còn mơ hồ về hành động pháp lý sẽ tiến hành và những vấn đề nêu ra. Thay vì khiếu nại ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Việt Nam có thể áp dụng kiểu Philippines đã làm, tức là kiện theo UNCLOS, quy định về chủ quyền ranh giới trên biển.
Nếu vậy, Hà Nội cần phải quyết định sẽ kiện ở Tòa án Quốc tế về Luật Biển, hay Tòa án Công lý Quốc tế, hay Tòa Trọng tài, hay một Tòa Trọng tài đặc biệt.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp đánh giá :
"Luật pháp quốc tế có một điểm không hoàn thiện là không có một tòa nào được phép xử về chủ quyền mà phải nộp qua LHQ. Việt Nam sẽ kiện dễ nhất là theo hướng Trung Quốc không có chủ quyền ở Biển Đông, sau đó dùng các biện pháp khác, các hành xử khác."
Là một trong những người có góp phần vào nghiên cứu vấn đề Biển Đông ; can dự vào cuộc chiến học thuật đối với các học giả cũng như nhà nước Trung Quốc trong cái gọi là chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông, cũng như trên cái gọi là Tây Sa và Nam Sa, ông Đinh Kim Phúc cho rằng muốn kiện Trung Quốc thì phải quốc tế hóa, công khai hóa, phi nhạy cảm hóa và minh bạch hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ sau Hội nghị Genève 1954 cho đến nay.
Nhận xét về việc kiện Trung Quốc vào thời điểm hiện nay với những lợi thế như vừa kể, nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc nêu quan điểm của ông :
"Năm 1979, chính Trung Quốc bạch hóa Công hàm Phạm Văn Đồng 1958. Công hàm Trung Quốc gửi cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của LHQ vào ngày 17/4/2000, Bộ ngoại giao Trung Quốc một lần nữa đã nhắc những vấn đề của công hàm Phạm Văn Đồng.
Quan điểm của tôi, đối với nhà nước Việt Nam hiện nay là chọn vấn đề đại cục trong vấn đề Việt Nam với Trung Quốc, hay chọn vấn đề độc lập thống nhất tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ ?
Câu đó tôi xin nhường cho lãnh đạo của Việt Nam hiện nay !"
Tác giả David Hutt cũng cho rằng không rõ Việt Nam có bị áp lực của các đồng minh quốc tế hay không, cụ thể là Mỹ, trong biện pháp kiện Trung Quốc lên tòa trọng tài, với hy vọng tạo ra một án lệ thứ hai chống lại tham vọng trên biển của Bắc Kinh.
Việt Nam đang trong tình thế lưỡng nan khi những nỗ lực ngoại giao và phản đối công khai đã không thành công trong việc ngăn chận Trung Quốc. Nhưng quốc tế hóa tình hình có thể đẩy Việt Nam và Trung Quốc tiến gần đến điểm xung đột vũ trang, mà Hà Nội biết rằng không có cơ hội thắng nếu không có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ bên ngoài.
Diễm Thi
Vừa qua trên mạng lại xuất hiện một bài phát biểu của Thiếu tướng quân đội Lê Mã Lương gây chú ý lớn. Đến thời điểm tôi viết bài này thì đoạn clip đó đã được chia sẻ hơn 2.800 lần trên mạng xã hội Facebook, và đã được xem hơn 231 ngàn lần, một con số rất ấn tượng. Con số đó cũng nói lên là người dân Việt Nam có một sự chú ý đặc biệt về tình hình cộng sản Trung Quốc đang rắp tâm chiếm bãi Tư Chính.
Thiếu tướng Lê Mã Lương đã nêu ra nhiều vấn đề và ông cũng nhấn mạnh rằng, chuyện ở bãi Tư Chính là chuyện của toàn dân chứ không phải Đảng cộng sản thích thì trả lời cho dân, không thích thì thôi. Tôi cũng là một người dân, đã từng thực hiện nghĩa vụ quân sự để trả nợ non sông, và tôi cũng có quyền bàn chuyện bãi Tư Chính cùng những công dân Việt Nam khác.
Tướng Lê Mã Lương - Ảnh minh họa
Kiện còn không dám thì nói gì tới chiến đấu
Sau đó, tướng Lương lại đặt câu hỏi là nếu cộng sản Trung Quốc chiếm bãi Tư Chính thì sao ? Đảng cộng sản Việt Nam có dám chiến đấu tới cùng để bảo vệ lãnh hải hay không ? Về mặt địa lý thì nếu Việt Nam để mất bãi Tư Chính thì coi như mất hết toàn bộ các đảo còn lại ở Trường Sa vì các tàu từ đất liền không còn đường tiếp tế cho các chiến sĩ và người dân ở các đảo còn lại.
Để tôi trả lời luôn cho tướng Lương câu hỏi này. Đã không dám kiện Đảng cộng sản Trung Quốc ra tòa quốc tế thì Đảng cộng sản Việt Nam làm sao dám đánh nhau với quân đội Cộng sản Trung Quốc để bảo vệ bãi Tư Chính. Biện pháp hòa bình, đúng luật pháp quốc tế, được quốc tế ủng hộ để giành chính nghĩa về phía Việt Nam mà còn không dám làm thì đấm đá làm sao nổi.
Trước đây cũng một ông tướng khác bên công an là Trương Giang Long cũng từng tiết lộ là hàng trăm điệp viên cộng sản Trung Quốc đã được cài cắm vào bộ máy Đảng cộng sản, nhà nước Việt Nam.
Có kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế hay không ?
Câu hỏi đầu tiên mà tướng Lê Mã Lương nêu ra là có kiện Trung Quốc ra tòa hay không ? Ở đây tôi lưu ý tướng Lương là chúng ta cần chỉ đích danh kẻ thù xâm lược của nhân dân Việt Nam là Chế độ cộng sản Trung Quốc, là Đảng cộng sản Trung Quốc.
Nếu tướng Lương chỉ dùng danh từ "Trung Quốc" sẽ gây hiểu lầm là ông kích động hận thù với nhân dân Trung Quốc, và ông có thể bị tòa án xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam kết án tù như hai chị tiểu thương Vũ Thị Dung và Nguyễn Thị Ngọc Sương ở Đồng Nai.
Phần đầu tướng Lương nêu ra câu hỏi như vậy nhưng phần cuối bài phát biểu ông cho biết Bộ Ngoại giao nói rằng, sẽ không kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế, tuy nhiên Bộ Ngoại giao đã chuẩn bị đầy đủ hồ sơ. Tướng Lương cũng thắc mắc là đã không kiện thì bày đặt chuẩn bị hồ sơ làm gì ?
Cho nên tướng Lương nên xác định là nếu hải quân cộng sản Trung Quốc chiếm đóng bãi Tư Chính thì Bộ Ngoại giao Việt Nam sẽ tiếp tục "quan ngại sâu sắc" mà thôi. Ông đừng mơ mộng gì chuyện Đảng cộng sản Việt Nam sẽ chỉ đạo hải quân Việt Nam chiến đấu chống giặc.
Trách nhiệm để mất bãi Tư Chính thuộc về ai ?
Tướng Lê Mã Lương cũng tuyên bố rằng, nếu để mất bãi Tư Chính thì ông sẽ dẫn các cựu chiến binh thời chống Mỹ đi gặp Bộ Ngoại giao. Tướng Lương cũng quy trách nhiệm việc để mất bãi Tư Chính, nếu xảy ra, sẽ thuộc về Bộ Ngoại giao, Ban đối ngoại trung ương của Đảng cộng sản, Ban đối ngoại quốc phòng của Bộ Quốc phòng. Có lẽ ý ông là do các bộ phận phụ trách ngoại giao của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam không dám kiện nên mới bị mất lãnh hải.
Thật sự tôi không nghĩ tướng Lương hồ đồ như thế vì thực ra các cơ quan ngoại giao ông nêu tên không phải chịu trách nhiệm nếu lãnh hải quốc gia bị mất. Tất cả các cơ quan đó đều phải phục tùng sự lãnh đạo "trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện" của giới lãnh đạo cộng sản. Trong khi đó người đứng đầu Đảng cộng sản là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng giờ này mới chỉ đạo ở Hội nghị Trung ương là "đề nghị phân tích, dự báo tình hình biển Đông". Tức là giới lãnh đạo cộng sản hoàn toàn chưa có bất kỳ đối sách gì ở biển Đông thì làm sao các cơ quan ngoại giao có thể hành động gì.
Trách nhiệm để mất lãnh hải là ở Nguyễn Phú Trọng và toàn thể đảng viên cộng sản
Cần chỉ rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể nếu để mất bãi Tư Chính. Về mặt cá nhân thì ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phải chịu trách nhiệm cao nhất. Về mặt tập thể là Bộ Chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam, Chính phủ Việt Nam, Quốc hội Việt Nam, Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Điều 4 khoản 2 Hiến pháp 2013 do các lãnh đạo cộng sản ban hành ghi rõ :
"Đảng Cộng Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình".
Do đó, toàn thể các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân Việt Nam về việc để mất lãnh hải, lãnh thổ quốc gia. Cần nhắc lại cho các đảng viên cộng sản nhớ là dưới sự lãnh đạo "sáng suốt, tài tình" của Đảng cộng sản Việt Nam, Việt Nam đã để mất đảo Gạc Ma vào tay cộng sản Trung Quốc vào ngày 14/3/1988. Chuyện này chắc chắn tướng Lê Mã Lương rất rành vì chính ông cũng kể lại là bộ đội Việt Nam "không được nổ súng" và chính một "đồng chí lãnh đạo cấp cao" đã hạ lệnh như vậy.
Do đó, các đảng viên cộng sản nào cảm thấy không thể gánh nổi trách nhiệm để mất lãnh hải trước nhân dân, thì các vị nên chủ động và tự nguyện rời bỏ Đảng cộng sản Việt Nam. Để mất lãnh hải là mang trọng tội với nhân dân Việt Nam và với các anh hùng dân tộc đã đổ máu để giữ gìn đất nước từ ngàn xưa đến nay. Hình phạt dành cho tội tày trời này là gì thì các vị tự trả lời.
Dân Việt Nam đã "hiểu biết" hơn ?
Cũng theo lời kể của tướng Lê Mã Lương, Bộ Ngoại giao báo cáo là năm 2019 này, trước sự xâm lược ngang ngược của cộng sản Trung Quốc tại bãi Tư Chính, dân Việt Nam đã "hiểu biết" hơn và không còn "gây rối" như khi cộng sản Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD981 năm 2017.
Tôi xin thưa với tướng Lương là người dân chúng tôi không xuống đường trước việc tàu khảo sát Hải Dương 8 xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ba tháng nay vì người dân chúng tôi đã bị Đảng cộng sản, Nhà nước Việt Nam đàn áp khốc liệt bằng đánh đập, tù tội khi chúng tôi xuống đường phản đối hành vi xâm lược ngang ngược của cộng sản Trung Quốc. Tức là người dân Việt Nam bây giờ cũng căm ghét Đảng cộng sản Việt Nam như Đảng cộng sản Trung Quốc.
Tình cảm của người dân Việt Nam đối với Đảng cộng sản Việt Nam bây giờ là có sợ hãi sự đàn áp tàn bạo của Đảng cộng sản, nhưng thật ra phần căm ghét nhiều hơn rất nhiều, thậm chí có thể dùng từ "căm thù". Không phải ngẫu nhiên mà nhân dân đã "phong tặng" cho Đảng cộng sản Việt Nam "sáu chữ vàng" là "hèn với giặc, ác với dân".
Người dân không xuống đường là vì chúng tôi muốn chống mắt ra để xem câu nói cửa miệng của an ninh cộng sản khi đánh đập người dân biểu tình là "để đảng và nhà nước lo" hiệu nghiệm đến đâu. Và kết cục bây giờ là ông Nguyễn Phú Trọng chỉ mới "đề nghị phân tích, dự báo" chứ không hề "lo", không có đối sách.
Chỉ có chính phủ dân cử mới có thể đoàn kếtquốc gia
Khi sự bất lực, đầu hàng của Đảng cộng sản Việt Nam trước kẻ thù xâm lược là Cộng sản Trung Quốc đã rõ ràng thì người dân chúng tôi sẽ phải tự bầu lên chính phủ dân chủ để đoàn kết toàn dân chống xâm lược. Chính tướng Lê Mã Lương có nói ở phần cuối là các chuyên gia Mỹ, Trung Quốc rất sợ Việt Nam khi người dân Việt Nam đoàn kết chống ngoại xâm. Và người dân Việt Nam hiểu rằng, chỉ có một chính phủ dân chủ do dân bầu ra một cách thực chất mới có thể làm được công việc đoàn kết toàn dân đó.
Việc người dân không thèm xuống đường phản đối hành vi xâm lược của cộng sản Trung Quốc ở bãi Tư Chính là chỉ dấu rất rõ người dân Việt Nam không đoàn kết, không tin vào sách lược chống Cộng sản Trung Quốc xâm lược của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tướngkhôngbiết đọcbản đồmà đòichốnggiặc
Tiết lộ chấn động nhất của tướng Lê Mã Lương có thể nói là việc các đại tướng chỉ huy cao nhất trong quân đội nhân dân Việt Nam không biết đọc… bản đồ thực địa. Cả hai ông đại tướng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lương Cường đều chỉ là những sĩ quan nhờ tụng niệm Mác Lê mà thăng quan tiến chức.
Cả hai ông đại tướng chỉ huy cao nhất trong quân đội nhân dân Việt Nam : Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, và Lương Cường, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, không biết đọc… bản đồ thực địa.
Các anh em chiến sĩ đang tại ngũ nên… khóc là vừa. Thanh niên Việt Nam khi bị tổng động viên chống giặc cũng nên… khóc, vì trình độ đại tướng như thế thì làm sao các anh em có thể tin tưởng vào sự chỉ huy của các tướng tá cộng sản. Họ chỉ có thể đưa các anh em bộ đội vào chỗ chết mà thôi, như họ đã từng làm với các chiến sĩ hải quân ở thảm sát Gạc Ma 1988.
Có lẽ giải pháp tốt nhất cho Việt Nam lúc này là mời ngay các vị tướng Hoa Kỳ gốc Việt như Lương Xuân Việt, Lapthe Chau Flora, Nguyễn Từ Huấn… lấy lại quốc tịch Việt Nam và nắm quyền chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bên cạnh đó, nhanh chóng mời các cố vấn quân sự Hoa Kỳ đến tư vấn và huấn luyện lại kỹ năng chiến đấu cho các sĩ quan và quân nhân trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tất nhiên cũng phải trích ngân sách quốc gia để mua các khí tài quân sự hiện đại, đủ sức răn đe cộng sản Trung Quốc.
Kết luận
Có thể nói chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại bị uy hiếp nặng nề như thế vì kẻ thù xâm lược là cộng sản Trung Quốc đang tỏ ra rất hung hăng trong khi Đảng cộng sản cầm quyền thì tỏ ra khiếp nhược, bất lực.
Trước sau gì thì dân tộc Việt Nam sẽ phải tiến đến việc bầu cử tự do và công bằng để chính phủ dân chủ mới đứng ra đoàn kết dân tộc chống giặc ngoại xâm. Có thể suy luận sự xâm lược Việt Nam từ "bạn vàng" của Đảng cộng sản Việt Nam, và việc cả thế giới tẩy chay, tuyên chiến với cộng sản Trung Quốc sẽ là thời cơ để chính trị Việt Nam dân chủ hóa. Từng người dân Việt Nam cần chuẩn bị ngay từ bây giờ cho sự kiện vĩ đại này.
Trung Nguyễn
Nguồn : Tiếng Dân, 10/10/2019
Lúc nào là thời điểm thích hợp để Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế ?
Phạm Ngọc Minh Trang, RFA, 28/09/2019
Ngày 28/9/2019, Bộ trưởng Ngoại giao – Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh sẽ có bài phát biểu trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York. Đã có những mong đợi là ông sẽ đưa vấn đề căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc ra UN lần này để có thể đạt được một nghị quyết lên án Trung Quốc, làm cơ sở cho những vụ kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế. Nhân dịp này, Đài Châu Á Tự Do phỏng vấn bà Phạm Ngọc Minh Trang – Giảng viên khoa Quan hệ Quốc tế trường Đại học khoa học xã hội nhân văn thành phố Hồ Chí Minh thuộc Đại học Quốc gia Việt Nam, hiện giờ là học giả theo chương trình Fulbright tại trường Luật thuộc Đại Học New York. Bà Phạm Ngọc Minh Trang vừa có bài viết trên trang Sáng kiến minh bạch hàng hải (thuộc CSIS), phân tích khả năng Việt Nam đưa Trung Quốc ra Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Hình minh họa. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc hôm 27/9/2018 AFP
RFA : Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh sắp có bài phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Trong bài viết mới đây của chị đăng trên CSIS, chị có nói vấn đề đưa căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc ở Biển Đông lên Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, chị có thể giải thích nguyên nhân tại sao chị đưa ra lập luận như vậy ?
Phạm Ngọc Minh Trang : Một phần theo quan sát và nghiên cứu của chính mình, về vấn đề Biển Đông thì Trung Quốc có bộ phận tuyên truyền vừa đối với người dân trong nước vừa với bên ngoài và các học giả Trung Quốc viết rất nhiều sách, đăng trên rất nhiều tạp chí nghiên cứu chuyên ngành về vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên vấn đề Biển Đông do chính phủ Việt Nam hoặc học giả Việt Nam nói ra ngoài thế giới thì chưa có nhiều. Cộng thêm trao đổi của mình với một số giáo sư về luật quốc tế ở trường đại học và Liên Hiệp Quốc thì họ nói là họ chưa nghe nhiều về Việt Nam nói về Biển Đông, họ có nghe Philippines, Indonesia, Malaysia nhưng Việt Nam thì rất ít. Mình nghĩ là Việt Nam cần phải để thế giới nghe nhiều hơn ý kiến của Việt Nam về vấn đề Biển Đông và đặc biệt là Bãi Tư Chính gần đây, nạn nhân trực tiếp là Việt Nam. Mình tìm hiểu thêm thì biết là quyền của mỗi quốc gia thành viên UN là có quyền nêu ý kiến của mình và nêu các vấn đề liên quan đến hòa bình và an ninh của thế giới ra Đại hội đồng UN, mà đại hội đồng phải có nghĩa vụ phải lắng nghe và trả lời cho vấn đề này như thế nào.
RFA : Chị có nói khi Việt Nam đưa vấn đề này ra đại hội đồng UN như vậy thì có khả năng UN sẽ có một nghị quyết. Theo chị thì khả năng Việt Nam giành được thắng lợi tức là tạo được một nghị quyết ở phiên họp lần này ra sao ?
Phạm Ngọc Minh Trang : Mình nói vấn đề gì đó thì người ta nghe là một chuyện, người ta ủng hộ mình hay không là một chuyện. Cơ chế ở Đại hội đồng UN để mà ra được một nghị quyết là cơ chế bỏ phiếu. Tất cả mọi quốc gia đều có quyền bỏ phiếu và các phiếu bằng nhau. Tuy nhiên nó phải hơn 50% thì mới có nghị quyết còn không thì sẽ trôi qua luôn. Mình phỏng vấn một số đại diện của các nước ở UN cộng với trao đổi với các nhân viên làm việc trong UN, họ nhận định là hiện giờ sức ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đại hội đồng UN rất là lớn. Cái thứ hai mình tìm hiểu thêm, Trung Quốc có ảnh hưởng ở Mỹ Latinh, Châu Phi. Thậm chí Trung Quốc có ảnh hưởng ở cả Malasia, Philippines, Campuchia và Lào. Thời điểm hiện nay nếu mình đưa vấn đề này ra và yêu cầu Đại hội đồng UN đưa ra một nghị quyết chỉ trích Trung Quốc và yêu cầu các nước phải kiềm chế các hoạt động của mình không nên gây hấn tại Biển Đông thì nó khó, vì rất có thể lúc mình phát biểu người ta không đến nghe. Có thể họ không xuất hiện khi bỏ phiếu hoặc trường hợp thứ ba mình ra một cái nghị quyết mà được ít phiếu bầu nên không có ý nghĩa lớn. Như trong bài mình viết là không phải là một chiến thắng lớn (big win). Mình phải làm từng bước từng bước trước. Ví dụ mình chuẩn bị về mặt học giả, về mặt báo chí rồi đưa ra Đại hội đồng, chứ hiện giờ đột nhiên đưa ra Đại hội đồng thì hơi khó.
RFA : Như vậy là Việt Nam hiện giờ vẫn chưa chuẩn bị những bước để đưa ra Đại hội đồng như chị nói đúng không ?
Phạm Ngọc Minh Trang : Tình hình của Bộ Ngoại giao và Chính phủ thì mình không rõ lắm, nhưng mình đọc thường xuyên các báo trên thế giới như Diplomat hay của trang CSIS thì thấy ít các bài của học giả Việt Nam trong khi các bài của học giả Trung Quốc rất nhiều. Thậm chí Trung Quốc còn bỏ tiền cho các học giả nước ngoài viết để có lợi cho họ nữa. Minh đọc được những bài đó rất nhiều, nhiều hơn những bài do Việt Nam viết.
RFA : Như vậy chị đánh giá là nó sẽ không có lợi cho Việt Nam khi Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đưa vấn đề này ra tại bài phát biểu ở UN vào ngày mai đúng không ạ ?
Phạm Ngọc Minh Trang : Bài phát biểu của Phạm Bình Minh có thể đưa vấn đề an ninh khu vực nói chung. Còn ví dụ như đề cập trực tiếp Việt Nam lên án Trung Quốc ở Bãi Tư Chính thì theo mình nhận định là hơi khó…. Mình còn một hội nghị nữa mà mình có thể đưa vấn đề Biển Đông ra là hội nghị của các nước thành viên của UNCLOS. Nó có hội nghị hàng năm, tất cả các nước tập hợp lại và chia sẻ việc mình thực hiện công ước thế nào thì lúc đó mình có thể trực tiếp nói là Trung Quốc đã vi phạm điều mấy khoản mấy của công ước. Như vậy là rất trực tiếp và gần như là có tác dụng nhiều hơn.
RFA : Chị có nói rằng Việt Nam đưa vấn đề này ra UN và giả dụ có được một nghị quyết, nghị quyết đó có thể dùng trong các tòa quốc tế. Chị nghĩ thế nào về khả năng Việt Nam sẽ đưa Trung Quốc ra tòa quốc tế cũng giống như Philippines đưa Trung Quốc đưa ra tòa Trọng tài Quốc tế PCA và có phán quyết vào năm 2016 ?
Phạm Ngọc Minh Trang : Minh sẽ phân tích Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế theo hai mặt. Thứ nhất về thủ tục pháp lý thì mình hoàn toàn có thể thỏa mãn tất cả các điều kiện về mặt pháp lý, mình là người thực hiện các điều khoản của UNCLOS, những nguyên tắc pháp lý, và Trung Quốc là người đang vi phạm. Mình hoàn toàn có thể thắng. Mặt thứ hai là về tác động xã hội thì mình phải nhìn lại việc xuất nhập khẩu với Trung Quốc ra thế nào. Ví dụ Trung Quốc có gây khó khăn cho mình không. Thường một vụ kiện tụng kéo dài 3 đến 5 năm thì lúc đó kinh tế mình bị ảnh hưởng thế nào thì mình phải cân nhắc cái đó. Ngoài ra, còn có một số tiểu thương vừa và nhỏ cũng có hợp tác làm ăn với Trung Quốc thế nào đó, thì ví dụ như mình kiện Trung Quốc thì họ sẽ bị ảnh hưởng thế nào. Họ bị ảnh hưởng trực tiếp thì mình phải quan tâm đến đời sống của họ và có những cái hỗ trợ cho họ thế nào. Cái thứ hai nữa là tại vì mình không thể kiện Trung Quốc ra các tòa miễn phí như ICJ hay ITLOS. ICJ là tòa được thành lập bởi Hiến chương Liên Hiệp Quốc hay ITLOS là tòa được thành lập bởi UNCLOS, hai tòa này mình là thành viên thì mình không cần trả tiền để kiện ở đây. Mà kiện ở đây phải có sự đồng ý giữa mình và Trung Quốc và chắc chắn Trung Quốc sẽ không đồng ý giống vụ của Philippines. Mình phải kiện ở nơi khác là Tòa Trọng tài là nơi Philippines kiện Trung Quốc. Tòa này phải trả nhiều tiền, trả cho từng thẩm phán và tòa và nhiều thứ. Lúc mà Philippines kiện Trung Quốc thì tiền mà Philippines bỏ ra để theo kiện tính bằng % GDP của cả nước trong mấy năm. Cho nên để đưa vụ kiện này ra về pháp lý mình hoàn toàn tin tưởng mình có thể chiến thắng, nhưng các mặt khác mình phải tính toán cho thật kỹ, chuẩn bị thật kỹ.
RFA : Một số người nói rằng Việt Nam không cần đưa Trung Quốc ra tòa nữa vì Philippines đã đưa ra rồi và phán quyết của tòa có những cái rất có lợi cho Việt Nam liên quan đến đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc vẽ ra trên biển. Vậy thì Việt Nam chỉ cần tuyên bố chính thức là Việt Nam chấp nhận phán quyết của tòa năm 2016. Chị có nhận xét gì về ý kiến này ?
Phạm Ngọc Minh Trang : Thực ra Việt Nam đã đưa ra một tuyên bố chính thức là Việt Nam ủng hộ tòa đưa ra phán quyết. Đó cũng là một bước cho thấy Việt Nam ủng hộ vụ kiện và ủng hộ Philippines. Cái thứ hai về mặt pháp lý thì đây là vụ kiện của hai nước và nó chỉ có giá trị pháp lý của hai nước mà thôi. Nó sẽ luôn luôn có giá trị pháp lý giữa Philippines và Trung Quốc dù sau nay không còn Philippines hay Trung Quốc đi chăng nữa, nhưng nó sẽ không có giá trị với nước thứ ba. Theo mình biết từ đó đến giờ chưa có quốc gia nào tuyên bố mình sẽ chấp nhận phán quyết đã ra rồi. Ví dụ trong lúc có vụ kiện mà mình đăng ký vào làm bên thứ ba của vụ kiện này và sẽ chịu tác động pháp lý của vụ kiện trong lúc họ đang kiện thì mình có thể. Còn sau đó rồi thì nó chỉ có giá trị pháp lý giữa hai nước mà thôi. Tuy nhiên nếu mình kiện thì mình có quyền dẫn lại những phán quyết trước đây có lợi cho mình.
RFA : Trong bài báo của chị chị có viết là Việt Nam có thể xem xét các bước khác nữa là có được một tuyên bố của ASEAN bày tỏ sự quan ngại về vấn đề Biển Đông. Thực ra ASEAN trong tuyên bố của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN vào tháng 7 cũng bày tỏ quan ngại nhưng họ không nói thẳng là quan ngại mà nói là có một số sự kiện nghiêm trọng xảy ra ở Biển Đông. ASEAN từ trước đến nay cũng luôn tránh chỉ đích danh Trung Quốc, và một số chuyên gia nhận định là ASEAN cũng bị chia rẽ do ảnh hưởng của Trung Quốc. Chị nghĩ Việt Nam có khả năng tạo được một tuyên bố như vậy không và một tuyên bố chung dung như vậy thì giúp được gì cho Việt Nam ?
Phạm Ngọc Minh Trang : Thực ra nó không phải là những tuyên bố chung dung đâu. ASEAN là một tổ chức quan trọng nhất ở Đông Nam Á hiện giờ. Họ đã ra được tuyên bố quan ngại về những sự kiện xảy ra trong khu vực cũng thể hiện phần nào áp lực với các nước có liên quan. Cái thứ hai là về vấn đề ASEAN chia rẽ hiện nay thì vấn đề đó là có. Campuchia, Lào, hay Tổng thống Duterte của Philippines hiện giờ thì khó có thể đưa ra một tuyên bố của ASEAN. Tức là 10 nước phải đồng thuận thì tuyên bố đó mới được công bố. Việt Nam có thể lấy tên ASEAN, tập hợp giữa Việt Nam với Malaysia, Singapore, hay cố gắng có Philippines, gọi là các nước ASEAN, thì lúc đó mình có cái tên ASEAN thì tiếng nói của mình là tập hợp của các nước, không phải là một mình Việt Nam lên tiếng chống lại Trung Quốc. Có được cái tên ASEAN vào thì tốt hơn là chỉ là một cái tên Việt Nam quan ngại.
RFA : Chúng ta phải quay lại ý kiến chị nói lúc nãy về tòa Công lý Quốc tế ICJ, và tòa ITLOS, có một số ý kiến nói rằng là Việt Nam có thể yêu cầu hai tòa ra ý kiến tham vấn về hiệu lực của phán quyết tòa PCA. Người ta cũng nêu những dẫn chứng, những vụ trước đó như giữa Malaysia và Singapore. Chị có thể phân tích liệu Việt Nam có thể áp dụng điều này và nó có lợi gì cho Việt Nam ?
Phạm Ngọc Minh Trang : Để xin được ý kiến tham vấn của các tòa quốc tế thì các quốc gia không thể nào một mình xin ý kiến tham vấn mà phải là một cơ quan của tổ chức quốc tế hay một tổ chức quốc tế nào đó. Ví dụ để xin ý kiến của ICJ thì phải là Đại hội đồng xin ý kiến tham vấn hoặc là Hội đồng bảo an UN xin tham vấn hoặc các cơ quan nhỏ của UN xin tham vấn thì ICJ lúc đó mới có quyền đưa ý kiến tham vấn chứ Việt Nam không có thể nào đưa vào ICJ và nói họ trả lời câu hỏi này… Cho nên bước đầu tiên bao giờ cũng là sự ủng hộ của tất cả các nước, hay đa số các nước của một tổ chức nào đó. Ở đây ICJ thì là Đại hội đồng UN, cũng phải ra được một cái nghị quyết nói rằng Đại hội đồng rất quan ngại về tình hình Biển Đông, và nhơ ICJ tư vấn pháp lý để giải quyết vấn đề hoặc đưa ra những đề xuất pháp lý giải quyết thế nào, thì vấn đề này mới được giải quyết. Tương tự với ITLOS thì cũng phải là một tổ chức quốc tế, bất cứ tổ chức quốc tế nào hoặc một hiệp ước quốc tế giữa các nước trong khu vực ký kết với nhau và yêu cầu là dựa vào hiệp ước đó thì ITLOS trả lời một số câu hỏi liên quan đến pháp lý về một số vấn đề nào đó. Cho nên nếu Việt Nam muốn sử dụng ý kiến tham vấn, thì lúc nào cũng phải tìm cách tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Đó là một trong những lý do mình nói là Việt Nam phải đưa ra cho quốc tế biết nhiều hơn về vấn đề Biển Đông, phải đưa ra Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.
RFA : Theo phân tích của chị là lúc này Việt Nam chưa có lợi thế để đưa ra bất kỳ tòa nào đúng không ạ ?
Phạm Ngọc Minh Trang : Nhìn chung thì chưa phải là thời điểm thích hợp để đưa ra tòa án. … Những khó khăn đó khiến cho thời điểm lúc này chưa phải là thời điểm thích hợp.
RFA : Xin cảm ơn chị đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn.
Nguồn : RFA, 28/09/2019
*****************
Phải chăng Trung Quốc đã thắng trong ‘cưỡng chiếm Biển Đông’ ?
Nguyễn Hiền, VNTB, 28/09/2019
Trung Quốc tiếp tục đưa dàn khoan dầu sâu vào Biển Đông, trước thời điểm kỷ niệm 70 năm thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Tàu hải cảnh Trung Quốc tuần tra trong vùng biển Việt Nam tại Bãi Tư Chính
Thạch Du 982 (Haiyang Shiyou 982, hay Ocean Oil 982), đã đi vào hoạt động vào thứ Bảy ở vùng nước sâu tới 3.000m, theo Chang An Jian, một tài khoản truyền thông xã hội do Ủy ban Chính trị và Pháp lý Trung ương Trung Quốc nắm.
Không cho biết vị trí của giàn khoan, nhưng điều này diễn ra trong bối cảnh Bắc Kinh và Việt Nam vẫn đang tiếp tục so kè với nhau tại vùng Bãi Tư Chính.
Theo SMCP, động thái này nằm trong chuỗi tăng cường nỗ lực thăm dò tài nguyên kể từ năm 2016 nhằm giảm sự phụ thuộc dầu thô vào các nhà cung cấp nước ngoài.
Thạch Du 982 gợi nhớ lại giàn khoan nước sâu đầu tiên của Trung Quốc – Hải Dương 981 - đi vào hoạt động ở Biển Đông vào năm 2012. Năm 2014, nó đã được chuyển đến đảo Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) 30 km, cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam) khoảng 222km về phía đông. Và vị trí đặt của Hải Dương 981 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam. Sự kiện Hải Dương 981 gây ra khủng hoảng ngoại giao hai quốc gia trong suốt mùa hè 2014 và sau đó, làm nổ ra các cuộc biểu tình lớn tại Việt Nam.
Carlyle Thayer, giáo sư danh dự tại Đại học New South Wales, cho biết trong một bài báo đã cho rằng, những diễn biến gần đây cho thấy Trung Quốc đã sẵn sàng đẩy mạnh yêu sách hàng hải của mình.
The Diplomat, ngày 26/9, nhận định, Việt Nam đang cho thấy mình ở một vị trí khó khăn, không có nhiều sự hỗ trợ ngoài lời nói, trước một Trung Quốc đầy kiên quyết [về yêu sách].
Điều này phù hợp với những diễn biến thời gian qua, và vào sáng ngày 26/9, Dự án Đại sự ký Biển Đông tiếp tục cập nhật, vẫn chưa tìm được dấu hiệu nào cho thấy hải cảnh Trung Quốc rời khỏi khu vực lô dài 06.1. SỰ thay phiên nhau tìm đến Bãi Tư Chính của nhóm tàu Trung Quốc gắn liền với khu vực Đá Chữ Thập, cho thấy ‘đảo nhân tạo’ hay tiền đồn quân sự mà Trung Quốc xây dựng trái phép đã pháp huy tác dụng trong gây rối và thực hiện mưa đồ biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp của Bắc Kinh.
Điều đáng chú ý là, Trung Quốc đang triển khai một cách tiếp cận yêu sách chủ quyền có phần khác so với trong quá khứ. Theo đó, trước đây Trung Quốc triển khai tàu và ở lại trong một vài tháng trong cùng một khu vực, nhưng lần này – Bắc Kinh chỉ triển khai tàu khảo sát vài tuần rồi rút, sau đó lại quay trở lại.
Và dù có những phản ứng quốc tế đến từ Anh, Mỹ, Úc, Nhật, hay thậm chí là Malaysia, Ấn Độ,… về các va chạm trên Biển Đông, đặc biệt là tại Bãi Tư Chính (thuộc chủ quyền hoàn toàn của Việt Nam) thì theo The Diplomat, ‘dường như Việt Nam sẽ không thể nhận được bất kỳ sự hỗ trợ mạnh mẽ nào từ các đối tác trong khu vực và bên ngoài. Trong khi, Việt Nam khó có thể tự mình chống lại Trung Quốc. [Và] Bắc Kinh dường như đã tính toán chính xác rằng họ không phải sợ bất kỳ sự chống đối nghiêm trọng nào nữa’.
Sở dĩ như vậy, vì bấy lâu nay, so với các ‘mặt trận’ khác, Biển Đông trong mắt EU và Mỹ, cũng như một số quốc gia khác có chỉ số hồ sơ an ninh thấp hơn. Frans-Paul van der Putten, một nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Clingendael, một nhóm chuyên gia tư duy độc lập ở Hà Lan cho biết : Cho đến vài năm trước, các nước Châu Âu thích giữ chỉ số hồ sơ thấp về các vấn đề an ninh khu vực ở Đông Á.
Kết quả trong tiến trình coi thấp an ninh tại vùng Biển Đông là thời điểm Trung Quốc tận dụng tối đa thời gian và vật lực để bồi đắp chuỗi đảo nhân tạo. Đặc biệt, từ năm 2014 - 2018, Trung Quốc đã gia tăng xây dựng và mở diện tích sửu dụng các đảo mà Trung Quốc cưỡng chiếm trái phép trên Biển Đông, kết quả, tổng diện tích bồi đắp các vùng đá ngầm trên quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam mà Trung Quốc cưỡng quyền trái phép) đã lên đến 13,21km, trong đó nhóm đá nhân tạo Vành Khăn, Xu Bi, và Chữ Thập trở thành một ‘tiền đồn quân sự’ trên vùng Biển Đông của Bắc Kinh.
Với Việt Nam – quốc gia đang phải chịu tổn thất lớn nhất trong các hành động quấy rối và cưỡng chiếm chủ quyền Việt Nam. Từng có thời chủ đề Hoàng Sa – Trường Sa là chủ đề cấm kỵ trong báo giới và bàn luận xã hội. Vào năm 2011, bộ phim tài liệu ‘Hoàng Sa Việt Nam : Nỗi đau mất mát’ của ông André Menras - Hồ Cương Quyết được thực hiện tại huyện đảo Lý Sơn và xã Bình Châu thuộc huyện Bình Sơn, nhưng kết quả, đã bị ‘cấm chiếu ở Việt Nam’ dù không ‘vi phạm luật báo chí Việt Nam’. Trước đó, Báo Du Lịch thuộc Tổng Cục Du lịch Việt nam, đã bị đình bản 3 tháng vào năm 2009, vì đăng bài ‘Tản Mạn Đảo Xa’. Các cuộc biểu tình liên quan đến Hoàng Sa – Trường Sa cũng bị triệt khá vì sự ‘nhạy cảm’ của nó trong mắt chính quyền. Trong vấn đề liên quan đến sự xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, đến nay, cấp lãnh đạo cao nhất lên tướng về vấn đề này là Phó Thủ tướng.
Phải chăng, Trung Quốc đã chiến thắng trước Việt Nam và các nước phương Tây (bao gồm cả Mỹ), trong cuộc chiến thống trị Biển Đông ? Nói cách khác, trong khi Việt Nam lên tiếng tuyên bố ngoại giao về các bằng chứng chủ quyền lịch sử từ thời nhà Nguyễn, Âu-Mỹ lên tiếng về ‘tự do hàng hải’, thì Trung Quốc đã thực thi cưỡng chiếm chủ quyền bằng hành động ?
Và thực tế cho thấy, vào ngày 22/8/2019, trong khi báo Thanh Niên đăng bài ‘Bằng chứng khách quan Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa’. Thì vào năm 2018, Trung Quốc hoàn thành chuỗi đảo nhân tạo : bãi Đá chữ thập, Đá Xu bi ; Đá Vành khăn ; bãi Châu Viên ; đá Gạc Ma ; Đá Ga Ven - Đá Lạc ; Đá Tư Nghĩa (thuộc quần đảo Trường Sa) ; thực hiện cơi nới đảo Phú Lâm và Quang Hòa (quần đảo Hoàng Sa).
Phải chăng Bắc Kinh thực sự đã ‘tính toán đúng’ về rủi ro và cơ hội trong xâm phạm chủ quyền Biển Đông, họ đã thực trọn vẹn kế ‘Vô trung sinh hữu’ (Không có mà làm thành có) trong đó có chủ quyền Việt Nam, nơi mà ‘họ không phải sợ bất kỳ sự chống đối nghiêm trọng nào nữa’ ?
Nguyễn Hiền
Nguồn : VNTB, 28/09/2019
Chú thích :
https://thediplomat.com/2019/09/vietnam-confronts-china-alone/
*******************
Biển Đông : Việt Nam "đơn độc" chống Trung Quốc
Minh Anh, RFI, 27/09/2019
Trang mạng The Diplomat ngày26/09/2019 có bài viết nhận định về những căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc và Việt Nam tại bãi Tư Chính, Biển Đông. Bài viết đề tựa ngắn gọn : "Việt Nam một mình đối đầu với Trung Quốc".
Ảnh vệ tinh chụp một nhà giàn khoan của Việt Nam tại Bãi Tư Chính (Biển Đông) AMTI/CSIS
Theo giải thích của tác giả bài viết, Rajeswari Pillai Rajagopalan, mặc dù Việt Nam và Trung Quốc đang lao vào một cuộc đối đầu dữ dội tại Biển Đông nhưng sự việc lại không thu hút được sự quan tâm đầy đủ của thế giới. Trung Quốc gởi một tầu khảo sát và ít nhất 4 tầu tuần duyên. Việt Nam đáp trả qua việc triển khai đội tầu Cảnh sát biển.
Phản ứng của Việt Nam
Đầu tiên tác giả điểm lại diễn biến vụ việc, bắt đầu vào trung tuần tháng 7/2019. Phát ngôn viên bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng, tố cáo "nhóm tầu khảo sát Hải Dương 8 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở phía nam Biển Đông".
Cuối tháng Bẩy, bà Lê Thị Thu Hằng tái khẳng định yêu cầu "Trung Quốc rút ngay lập tức các tàu của họ khỏi vùng biển của Việt Nam và tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, vì lợi ích mối quan hệ giữa hai nước và vì ổn định và hòa bình cho khu vực". Việt Nam khẳng định rằng họ đã nhiều lần tiếp cận Trung Quốc thông qua một số kênh khác nhau.
Cũng trong cuối tháng 7, Phó thủ tướng, ngoại trưởng, Phạm Bình Minh tại hội nghị ASEAN đã "bày tỏ quan ngại sâu sắc về những diễn tiến gần đây tại Biển Đông, liên quan đến các hoạt động của nhóm tầu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8, xâm phạm vùng EEZ của Việt Nam và thềm lục địa trong vùng lãnh hải". Ngoại trưởng Việt Nam nói thêm rằng các hoạt động này "đe dọa nghiêm trọng các quyền lợi hợp pháp của các quốc gia ven biển, làm xói mòn lòng tin và gia tăng căng thẳng, do đó làm tổn hại hòa bình và ổn định khu vực".
Tờ báo nhắc lại vùng đặc quyền kinh tế này được vạch ra theo quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982, mà cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều có tham gia ký kết.
Chỉ có điều lần này Trung Quốc tiến hành theo một phương thức khác. Theo ghi nhận của các nhà phân tích Việt Nam, không giống như trong quá khứ, mỗi lần như thế tầu Trung Quốc ở lại đến vài tháng trong cùng một khu vực. Lần này, Trung Quốc để đội tầu ở lại vài tuần trước khi rút đi, để rồi sau đó quay trở lại trong cùng vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Đầu tháng Tám năm 2019, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Việt Nam thông báo "tầu Hải Dương Địa Chất 8 đã ngưng các hoạt động khảo sát và rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phía nam". Vài ngày sau, bộ Ngoại giao lại nhận thấy "đội tầu khảo sát Trung Quốc cùng với nhiều tầu hộ tống lại quay trở lại vùng lãnh hải Việt Nam". Chính quyền Hà Nội một lần nữa kêu gọi cộng đồng quốc tế có phản ứng với tình hình nhằm duy trì hòa bình và ổn định khu vực. Cùng lúc đó, Bắc Kinh bắt đầu đợt tập trận mới gần quần đảo Hoàng Sa.
Bất chấp sự phản đối liên tục của Việt Nam, căng thẳng vẫn tiếp tục, và giờ đã bước sang tháng thứ ba. Cách đây vài ngày, Nguyễn Mạnh Đông, Vụ trưởng Vụ biển, Ủy ban Biên giới Quốc gia, trực thuộc Bộ Ngoại giao, trả lời phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam, nói rõ là "Tranh chấp là điều không thể tránh khỏi trong việc diễn giải và áp dụng Công ước UNCLOS, nhưng tất cả các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp này một cách hòa bình thông qua các biện pháp quy định tại Điều 33 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Điều 279 của UNCLOS".
Phản ứng "dè chừng" của quốc tế
Những năm gần đây, Trung Quốc ngày càng tỏ ra hung hăng trong khu vực. Tác giả nhắc lại một loạt các sự cố trong năm nay : Tháng 6, Trung Quốc cho tầu đâm chìm thuyền đánh cá của Philippines tại Bãi Cỏ Rong. Đầu tháng 5, tầu cảnh sát biển Hải Dương 35111 cản trở hoạt động của giàn khoan dầu khí của Malaysia gần đảo Luconia Shoals, ngoài khơi bang Sarawak. Trong một động thái khác để khẳng định yêu sách của mình, Trung Quốc đã tổ chức cuộc đua thuyền Sinan Cup lần thứ 7 tại đảo Duy Mộng, thuộc Hoàng Sa.
Trong tình hình này, chính phủ Việt Nam tìm cách tác động đến các nước Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nga, Úc và nhiều nước khác trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Đáp lại lời kêu gọi này là gì ? Một sự im lặng và những lời phát biểu "sáo rỗng". Chẳng hạn, Malaysia trong một tài liệu công bố chính sách đối ngoại mới tuyên bố : "Biển Đông phải là khu vực của sự hợp tác, kết nối và xây dựng cộng đồng và không phải là nơi đối đầu hay xung đột. Điều này phù hợp với tinh thần của Khu vực Hòa Bình, Tự Do và Trung Lập (ZOPFAN). Malaysia sẽ tích cực thúc đẩy hơn nữa tầm nhìn này tại ASEAN".
Hay như thông cáo chung ngày 27/08/2019 giữa Việt Nam và Malaysia chỉ nhấn mạnh "tầm quan trọng của việc tự kiềm chế, phi quân sự hóa và tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý quốc tế, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển, và điều luật quy định trong UNCLOS 1982 cũng như là tránh các hoạt động có thể gây leo thang căng thẳng".
Các cường quốc ngoài khu vực cũng chỉ có những phát biểu tương tự không hơn không kém. Điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ, David Stilwell, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương, cho rằng, "thông qua nhiều hành động phi pháp và quân sự hóa các thực thể có tranh chấp, Bắc Kinh đã và tiếp tục hành động để ngăn chặn các nước thành viên ASEAN tiếp cận nguồn dự trữ năng lượng ước tính trị giá 2,5 nghìn tỷ đô la".
Còn những cường quốc khác thì dừng lại ở việc nhắc đi nhắc lại tầm quan trọng của tự do hàng hải, như tuyên bố chung New Dehli – Paris nhân chuyến thăm Pháp gần đây của thủ tướng Modi. Hội nghị về Ấn Độ Dương được tổ chức gần đây tại Maldives trong hai ngày 3 và 4 tháng 9, với sự hiện diện của thủ tướng Sri Lanka cùng các ngoại trưởng Singapore và Maldives, cũng chỉ chú trọng vào tự do hàng hải, nhưng một lần nữa không đề cập đến Biển Đông.
Nhật Bản còn có vẻ cứng rắn một chút. Ngoại trưởng Nhật Bản cho rằng Biển Đông là một tuyến đường giao thông quan trọng đối với Nhật Bản và nhiều quốc gia khác. Vùng này có liên quan trực tiếp đến sự ổn định và hòa bình của khu vực. Do vậy, cộng đồng quốc tế, bao gồm cả Nhật Bản, chú ý nghiêm túc đến tình hình ở Biển Đông. Nhật Bản phản đối bất kỳ hành động nào của bất kỳ ai nhằm làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông.
Tương tự, Ấn Độ cũng nhấn mạnh rằng "hòa bình và ổn định khu vực mang lại lợi ích bền vững. Ấn Độ giữ vững lập trường ủng hộ tự do lưu thông hàng hải và hàng không, và giao thương hợp pháp không bị cản trở, trong vùng biển quốc tế, tuân thủ theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS."
Trước những lời lẽ này, tác giả kết luận : Trong cuộc đối đầu này, Việt Nam có thể sẽ không nhận được bất kỳ sự hỗ trợ mạnh mẽ nào từ các đối tác trong khu vực và bên ngoài. Nhưng Việt Nam cũng khó có thể tự mình chống lại Trung Quốc. Bắc Kinh dường như đã tính toán chính xác rằng họ không phải lo sợ bất kỳ một sự hợp nhất chống đối nghiêm trọng nào.
Minh Anh
Nguồn : RFI, 27/09/2019
*******************
Việt Nam đưa căng thẳng Biển Đông ra Liên Hiệp Quốc, tránh nói tên Trung Quốc (RFA, 28/09/2019)
Bộ trưởng Ngoại giao, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh hôm 28/9 đã đưa vấn đề căng thẳng ở Bãi Tư Chính giữa Trung Quốc và Việt Nam ra Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (UNGA) nhưng tránh nói tên Trung Quốc.
Bộ trưởng Ngoại giao, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc hôm 28/9/2019 Screen shot
Trong bài phát biểu dài khoảng 15 phút trước UNGA, Bộ trưởng Phạm Bình Minh nói :
"Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng quan ngại về những diễn biến phức tạp gần đây ở Biển Đông bao gồm những vụ xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán ở vùng biển của Việt Nam đã được xác định bởi UNCLOS (Công ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc 1982). Các nước liên quan nên kiềm chế, tránh các hành động đơn phương có thể làm phức tạp hoặc làm tăng thêm căng thẳng trên biển, và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình theo luật quốc tế, bao gồm UNCLOS"
Phát biểu của Bộ trưởng Phạm Bình Minh về vấn đề Biển Đông đã được trông đợi từ trước đó vì suốt 3 tháng nay Việt Nam đang phải đương đầu với việc Trung Quốc điều tàu khảo sát Hải Dương 8 cùng tàu hải cảnh và dân binh vào Bãi Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, bất chấp những phản đối từ phía Việt Nam và quốc tế.
Bộ trưởng Phạm Bình Minh cũng nói đến việc các bên liên quan phải tôn trọng luật quốc tế mà cụ thể là UNCLOS.
"Chúng tôi thúc giục các bên liên quan ở Biển Đông tôn trọng luật quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển của Liên Hiệp Quốc UNCLOS 1982, vốn được coi như một hiến pháp của đại dương. Nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Biển Đông rất quan trọng về mặt chiến lược đối với hòa bình, an ninh và thịnh vượng cho khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Những nỗ lực của các bên liên quan đã đưa lại những kết quả tích cực trong việc giải quyết những khác biệt và tranh chấp"
Cũng trong bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam không loại trừ khả năng giải quyết các tranh chấp qua cơ chế tòa quốc tế.
"Luật quốc tế là nền tảng cho quan hệ công bằng giữa các quốc gia. Hành động của chúng ta phải tuân theo luật quốc tế. Việt Nam tin rằng việc tuân thủ luật quốc tế là biện pháp quan trọng nhất để ngăn chặn xung đột, và tìm kiếm giải pháp lâu dài cho các tranh chấp. Chúng tôi ủng hộ mọi nỗ lực để giải quyết tranh chấp qua các biện pháp hòa bình theo hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật quốc tế bao gồm cả đàm phán, tham vấn, và qua cơ chế tòa".
Kể từ giữa tháng 6 và đầu tháng 7 vừa qua, Trung Quốc đã không ngừng đưa tàu vào vùng biển của Việt Nam, quấy nhiễu các hoạt động khai thác dầu khí ở Bãi Tư Chính.
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã 3 lần chính thức lên tiếng yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ tàu khỏi vùng biển Việt Nam.
Tuy nhiên người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng mới đây nói rằng vùng biển ở khu vực Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền của Trung Quốc và yêu cầu Việt Nam phải ngưng toàn bộ các hoạt động khoan tìm dầu khí tại đây.
Trung Quốc nói rằng vùng nước này nằm trong khu vực quần đảo Trường Sa đang tranh chấp và Trung Quốc đòi chủ quyền toàn bộ. Tuy nhiên theo phán quyết của tòa Trọng tài quốc tế PCA 2016, các thực thể ở khu vực quần đảo Trường Sa không thể coi là các đảo nên không thể có vùng đặc quyền kinh tế. Trong khi đó Bãi Tư Chính nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý căn cứ theo UNCLOS.
Đã có những ý kiến từ những chuyên gia trong và ngoài nước thúc giục chính quyền Việt Nam đưa Trung Quốc ra tòa quốc tế tương tự như Philippines đã làm hồi năm 2013 và có phán quyết vào năm 2016.
Bà Phạm Ngọc Minh Trang, giảng viên khoa quan hệ quốc tế Đại học khoa học xã hội nhân văn (Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) mới đây nói với RFA rằng, Việt Nam hoàn toàn có thể thắng nếu đưa Trung Quốc ra tòa.
"Về thủ tục pháp lý thì mình hoàn toàn có thể thỏa mãn tất cả các điều kiện về mặt pháp lý, mình là người thực hiện các điều khoản của UNCLOS, những nguyên tắc pháp lý, và Trung Quốc là người đang vi phạm. Mình hoàn toàn có thể thắng".
Tuy nhiên bà Trang cũng nói đến những khó khăn mà Việt Nam sẽ phải đối đầu khi theo đuổi vụ kiện.
"Về tác động xã hội thì mình phải nhìn lại việc xuất nhập khẩu với Trung Quốc ra thế nào. Ví dụ Trung Quốc có gây khó khăn cho mình không. Thường một vụ kiện tụng kéo dài 3 đến 5 năm thì lúc đó kinh tế mình bị ảnh hưởng thế nào thì mình phải cân nhắc cái đó. Ngoài ra, còn có một số tiểu thương vừa và nhỏ cũng có hợp tác làm ăn với Trung Quốc thế nào đó, thì ví dụ như mình kiện Trung Quốc thì họ sẽ bị ảnh hưởng thế nào. Họ bị ảnh hưởng trực tiếp thì mình phải quan tâm đến đời sống của họ và có những cái hỗ trợ cho họ thế nào. ...Mình phải kiện ở nơi khác là Tòa Trọng tài là nơi Philippines kiện Trung Quốc. Tòa này phải trả nhiều tiền, trả cho từng thẩm phán và tòa và nhiều thứ. Lúc mà Philippines kiện Trung Quốc thì tiền mà Philippines bỏ ra để theo kiện tính bằng % GDP của cả nước trong mấy năm. Cho nên để đưa vụ kiện này ra về pháp lý mình hoàn toàn tin tưởng mình có thể chiến thắng, nhưng các mặt khác mình phải tính toán cho thật kỹ, chuẩn bị thật kỹ".
Đã có những ý kiến cho rằng Việt Nam có thể đưa vấn đề ra các tòa quốc tế khác như Tòa công lý Quốc tế ICJ hay tòa của UNCLOS là ITLOS vốn không phải trả tiền vì Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên bà Trang cho biết việc này đòi hỏi phải có sự đồng ý từ Trung Quốc, nhưng Trung Quốc đã từng từ chối phán quyết của tòa PCA trong vụ kiện với Philippines, nên Bắc Kinh cũng có thể sẽ làm tương tự trong trường hợp này.
Cơ chế tham vấn với ITLOS và ICJ cũng đã được nói tới, nhưng để đạt được điều này Việt Nam cũng phải có được tiếng nói ủng hộ của những tổ chức quốc tế như ở Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc.