Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Biển Đông : Việt Nam tăng cường lực lượng dân quân biển để tự vệ hay 'thách thức' Trung Quốc ?

Tạp chí quân sự Trung Quốc Naval and Merchant Ships số ra mới đây có bài viết về lực lượng dân quân biển 'hùng hậu' của Việt Nam với kỹ thuật 'đấu tranh du kích' thành thạo.

danquan0

Đội tàu gỗ đánh cá Việt Nam - Ảnh minh họa

Một số tờ báo quốc tế, trong đó có SCMP, sau đó đã dẫn trích lại bài viết này, nhấn mạnh rằng Việt Nam đang xây dựng lực lượng dân quân biển hùng hậu ở Biển Đông "nhằm thách thức những nỗ lực của Trung Quốc và thống trị vùng biển đang tranh chấp".

Bài viết được báo này đăng tải sau sự kiện Trung Quốc đưa hàng trăm tàu cá tới khu vực Đá Ba Đầu, khiến Việt Nam, Philippines và các tổ chức quốc tế lên tiếng phản đối kịch liệt.

Về vấn đề này, thạc sỹ Hoàng Việt, giảng viên luật, chuyên gia nghiên cứu Biển Đông tại TP Hồ Chí Minh nói với BBC News Tiếng Việt :

"Lực lượng dân quân biển của Việt Nam được xây dựng với mục đích chủ yếu là tự vệ, và chỉ hoạt động ở vùng biển nước mình chứ không đi sang vùng biển các nước khác như lực lượng dân quân biển của Trung Quốc.

"Đây chỉ là một trong các chiêu trò của truyền thông Trung Quốc nhằm đánh lạc hướng dư luận sau vụ nước này đưa tàu dân quân biển tới Đá Ba Đầu, đồng thời nhằm làm chia rẽ các nước ASEAN".

Bài báo của Trung Quốc nói gì ?

danquan1

Khu trục hạm 016 Quang Trung của Việt Nam trên Biển Đông

Naval and Merchant Ships viết rằng cả Việt Nam và Trung Quốc đều có truyền thống lâu đời sử dụng lực lượng dân quân biển để bảo vệ các yêu sách của mình trên Biển Đông. Và rằng Việt Nam đã cho lực lượng dân quân biển hoạt động tại vùng biển gần Hải Nam, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, "đe dọa việc thực thi pháp luật trên biển và an ninh quốc phòng của Trung Quốc ".

"Trong khi Liên minh Châu Âu ước tính rằng khoảng 8.000 tàu đánh cá và 46.000 ngư dân là một phần của lực lượng dân quân hàng hải của Việt Nam, con số thực có thể là hơn 70.000 dân quân".

"Khi không đánh bắt cá, những dân quân được huấn luyện này tham gia một loạt các nhiệm vụ, đôi khi hợp tác với hải quân Việt Nam", bài báo trên Naval and Merchant Ships viết.

Tạp chí này cho biết thêm, nhiệm vụ của lực lượng dân quân biển Việt Nam gồm "do thám các cơ sở quân sự và tàu của Trung Quốc, và đôi khi cố tình đụng độ với các tàu tuần duyên của Trung Quốc để thu hút sự chú ý của giới truyền thông phương Tây".

"Các chiến thuật chiến tranh du kích có thể bù đắp cho Việt Nam khi so sánh với lợi thế về kích thước và công nghệ của các tàu Trung Quốc... [và] nếu chúng bị bắt, chi phí về kinh tế có hạn nhưng lợi ích ngoại giao và chính trị có thể rất lớn, vì vậy họ không mấy sợ hãi", tạp chí của Trung Quốc viết.

Bài báo này kết luận : "Vấn đề phải được xem xét một cách nghiêm túc và xử lý kịp thời ".

Đồng thời viết rằng Trung Quốc nên tăng cường luật pháp đối với tàu thuyền nước ngoài, gây áp lực buộc chính phủ Việt Nam thực hiện các biện pháp kiềm chế thông qua các kênh ngoại giao, và tăng cường khả năng tuần duyên để ngăn chặn lực lượng dân quân.

'Kích động, đe dọa'

danquan2

Ảnh chụp từ trên không của đá Ba Đầu, Quần đảo Trường Sa, Biển Đông ngày 19/3/2021

Ngay sau khi một số báo quốc tế đăng lại thông tin từ Naval and Merchant Ships, báo Thanh Niên có bài viết phản bác, nói Trung Quốc 'vu vạ' và 'kích động gây rối' ở Biển Đông.

"Trong khi đó, ngược lại chính lực lượng tàu dân binh của Trung Quốc đã góp phần vào hàng loạt hành động gây rối ở Biển Đông khiến cộng đồng quốc tế phải quan ngại, dù Tòa trọng tài quốc tế (PCA) năm 2016 đã đưa ra phán quyết bác bỏ tuyên bố chủ quyền mà Bắc Kinh đưa ra đối với Biển Đông. Gần đây, các nước Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Úc… liên tục lên án các hành vi gây rối của Trung Quốc tại Biển Đông. Điển hình, từ tháng 3 - 4 vừa qua, hàng trăm tàu dân binh của Trung Quốc đã gây nhiều quan ngại khi hoạt động thường xuyên gần bãi Ba Đầu ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam", bài báo trên tờ Thanh Niên viết.

Còn thạc sĩ Hoàng Việt thì lý giải với BBC :

"Lý thuyết chiến tranh của Trung Quốc và Việt Nam đều nhấn mạnh tới vai trò của nhân dân, cho nên nhiều người dễ lầm tưởng là hoàn toàn giống nhau trong khi chúng khác nhau trên thực tế".

"Mục tiêu quan trọng nhất của chiến tranh nhân dân trên biển của Việt Nam là nhằm tự vệ, do đó lực lượng dân quân biển Việt Nam tên gọi đầy đủ là lực lượng dân quân tự vệ biển, và chỉ hoạt động trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Khác với lực lượng dân quân biển của Trung Quốc hoạt động trên vùng biển của nước khác".

Ông Hoàng Việt nói bài báo của Trung Quốc đưa thông tin sai sự thật, khi cho rằng Việt Nam 'tăng cường lực lượng dân quân biển.'

"Trong khi trên thực tế, lực lượng này chỉ chiếm 0,08% tổng số lượng dân quân toàn quốc, và 1,12% tổng số lao động trên biển tính tới năm 2016. Gần 8.000 tàu thuyền có tổ chức dân quân tự vệ, chiếm 1,07% số tàu thuyền hoạt động trên biển".

"Năm 2020, và chính phủ Việt Nam thậm chí còn đang đặt mục tiêu giảm số lượng tàu cá toàn quốc xuống còn 110.000 tàu, do đó dẫn tới việc số lượng dân quân tự vệ biển sẽ còn giảm hơn nữa. Mục tiêu là để tập trung tăng cường các lực lượng chính quy như cảnh sát biển, tuần duyên biển".

"Thời gian gần đây, dư luận quốc tế liên tục lên án các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông, trong đó có hoạt động của lực lượng tàu cá và dân quân biển Trung Quốc ở bãi Ba Đầu, quần đảo Trường Sa. Nhận thấy sự bất lợi trên mặt trận thông tin, cùng với truyền thông dòng chính, các trung tâm nghiên cứu về Biển Đông như Sáng kiến minh bạch tình hình chiến lược Biển Đông - SCSPI, Đại học Bắc Kinh liên tục đưa ra các báo cáo xuyên tạc về hoạt động của ngư dân Việt Nam ở Biển Đông".

"Trung Quốc thổi phồng về mối nguy và lo ngại đối với hoạt động của tàu cá cũng như dân quân biển Việt Nam nhằm phân tán sự chú ý cũng như đánh đồng hoạt động của dân quân biển Trung Quốc và Việt Nam, gây hiểu nhầm cho cộng đồng quốc tế, đồng thời tạo ra sự nghi ngờ trong các nước ASEAN về chủ trương, chính sách của nhà nước Việt Nam đối với ngư dân, từ đó gây chia rẽ nội khối ASEAN".

Vài trò thực tế của lực lượng dân quân biển Việt Nam

danquan3

Diễn tập của cảnh sát biển Nhật Bản và Philippines năm 2016

Cũng theo ông Hoàng Việt, trong thời bình, dân quân biển tiến hành các hoạt động đánh bắt thuỷ hải sản để làm kinh tế, đồng thời đảm bảo an toàn cho các ngư dân khác trong lúc ra khơi. Họ cũng tham gia bảo vệ chủ quyền quốc gia, chủ yếu là các hoạt động trinh sát, phối hợp với các lực lượng chấp pháp và hải quân để nắm tình hình thực địa.

Trong thời chiến, lực lượng này sẽ có vai trò phòng thủ, tham gia vào chiến tranh du kích, hỗ trợ hậu cần cũng như trinh sát.

"Trên thực tế, trong các sự kiện đụng độ với Trung Quốc những năm gần đây như sự kiện Bắc Kinh đưa dàn khoan Hải Dương-981 tới vùng biển của Việt Nam năm 2014, sự kiện bãi Tư Chính năm 2019, lực lượng dân quân biển đã tham gia hỗ trợ rất tích cực cho lực lượng chấp pháp, hải quân trong bảo vệ chủ quyền biển đảo".

Nhấn mạnh chiến thuật 'chiến tranh du kích,' ông Hoàng Việt nói lực lượng dân quân biển sẽ phát huy sức sáng tạo này nếu có xung đột trên Biển Đông, bởi thực tiễn chiến tranh chứng tỏ năng lực này của người Việt. Tuy nhiên tới nay Việt Nam chưa phải vận dụng tới chiến thuật này.

"Hơn nữa, việc thực hiện chiến thuật du kích đòi hỏi phải được trang bị vũ khí, tức là vũ trang hóa dân quân, mà chủ trương của VN là không vũ trang hóa dân quân biển, nên có thể thấy hiện tại Việt Nam không có ý định tiến hành chiến thuật du kích trên Biển Đông", ông Hoàng Việt nói.

"Hiện Việt Nam đang tập trung phá triển lực lượng bảo vệ biển chính quy, được trang bị và đào tạo bài bản. Thực tế cho thấy những năm qua VN đã có bước tiến lớn trong việc phát triển sức mạnh hải quân, cũng như trang bị hiện đại cho các lực lượng chấp pháp trên biển. Tuy nhiên do điều kiện đất nước còn khó khăn, nên chính phủ vẫn phát huy sức mạnh tổng hợp, trong đó vai trò của dân quân biển trong bảo vệ chủ quyền biển đảo là rất quan trọng và không hề suy giảm", ông Hoàng Việt nhận định.

Mỹ Hằng

Nguồn : BBC, 29/04/2021

Additional Info

  • Author Mỹ Hằng
Published in Diễn đàn

Trung Quốc tăng cường chiến thuật dân quân biển

Năm 2009, một nhóm tàu cá của Trung Quốc đã bao vây và quấy rối tàu khảo sát USS Impeccable của Mỹ. Năm 2016, một tàu bảo vệ bờ biển của lực lượng Cảnh sát biển Hàn Quốc đã bị đâm chìm trong khi cố gắng trục xuất một nhóm tàu cá Trung Quốc ra khỏi vùng biển của nước này. Vào tháng 6/2019, một nhóm thủy thủ của một tàu cá Philippines đã bị bỏ rơi trên biển sau khi tàu này bị một tàu đánh cá Trung Quốc đâm chìm vào ban đêm. Vào tháng 6/2020, một tàu bảo vệ bờ biển Trung Quốc đã đâm một tàu đánh cá Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa thuộc Biển Đông. Một sự cố tương tự vào tháng 4/2020 đã khiến một tàu cá Việt Nam bị chìm.

danquan1

Tàu cá Trung Quốc và tàu hải cảnh của Trung Quốc ở bãi cạn Scarborough hôm 5/4/2017 -Reuters

Bắc Kinh đang ngày càng quyết đóa n khẳng định những yêu sách biển đơn phương của mình đối với gần như toàn bộ khu vực Biển Đông và Biển Hoa Đông. Đầu năm 2020, yêu sách đó đã vươn tới phía cực Nam Biển Đông đến tận Indonesia khi một đội tàu đánh cá Trung Quốc được hộ tống bởi các tàu hải cảnh do hải quân kiểm soát xâm nhập vào khu vực quần đảo Natuna của Indonesia.

Và Trung Quốc cũng không quan tâm đến các phản đối của quốc tế. Vào năm 2016, Tòa Trọng tài về luật biển xác định các tàu Trung Quốc đã ngăn cản bất hợp pháp ngư dân Philippines hoạt động tại khu vực đánh cá truyền thống của họ tại bãi cạn Scarborough. Tòa án này cũng cáo buộc Trung Quốc thực hiện các phương pháp đánh bắt mang tính hủy hoại, phá hủy môi trường sống của lòa i ngao khổng lồ và những bãi san hô quan trọng. Nhiều môi trường sinh thái quan trọng nhất của khu vực đã bị nạo vét và chôn vùi dưới lượng bê tông để tạo thành các pháo đài đảo bất hợp pháp của Bắc Kinh.

Một báo cáo từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) được thực hiện từ năm 2019 cũng phát hiện lực lượng tàu của Trung Quốc hoạt động không công khai ở Biển Đông. Báo cáo viết : "Khi họ tranh giành để đánh bắt những con cá cuối cùng từ Biển Đông, ngư dân Trung Quốc ít nhất có nhiều khả năng để gây ra một cuộc đụng độ dữ dội tương tự như các lực lượng vũ trang trong khu vực".

Tuy nhiên, báo cáo cũng xác định được một thói hành xử đáng quan ngại hơn. Nhiều tàu trong số đội tàu cá này không thực hiện hoạt động đánh bắt cá mà muốn khẳng định quyền kiểm soát. Nghiên cứu của CSIS chỉ rõ : "Một loại đội tàu đánh cá khác có tham gia vào hoạt động bán quân sự thay mặt cho nhà nước thay vì thực hiện hoạt động đánh cá thương mại đã nổi lên như một lực lượng lớn nhất ở quần đảo Trường Sa. Các hoạt động của dân quân được ghi chép rõ ràng - họ tham gia tuần tra, giám sát, tiếp tế và thực hiện các nhiệm vụ khác để tăng cường sự hiện diện của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp ở Biển Đông và biển Nhật Bản. Bắc Kinh không giấu giếm sự tồn tại của lực lượng này và một số ngư dân được đào tạo và trang bị tốt nhất đã tham gia vào các hoạt động bán quân sự như quấy rối các tàu nước ngoài".

danquan2

Tàu cá Trung Quốc bên cạnh các tàu cá Philippines ở bãi cạn Scarborough hôm 6/4/2017 Reuters

Những tàu cá không đánh cá này thường tập trung quanh các rạn san hô và tại các ngư trường mà Trung Quốc cho là đang có tranh chấp. Sự hiện diện của họ buộc lực lượng ngư dân không phải của Trung Quốc phải di chuyển sang các khu vực khác. Và hàng loạt các vụ va chạm và "sự cố" gần đây ở Biển Đông cho thấy họ ngày càng quyết đóa n và hung hăng hơn.

Năm 2019, Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ khi đó là Đô đốc John Richards đã cảnh báo người đồng cấp Trung Quốc, phó Đô đốc Thẩm Kim Long rằng Mỹ đã biết việc Trung Quốc sử dụng một đội tàu cá dân quân để thúc đẩy các yêu sách phi pháp ở biển Hoa Đông và Biển Đông. Ông Richards cảnh báo rằng Hải quân Mỹ sẽ đáp trả các hành động gây hấn của những tàu đó vì chúng được coi là một phần của lực lượng vũ trang. Nhiều tàu cá loại này không thể phân biệt được với tàu cá thông thường của Trung Quốc, vì họ tham gia nhiều nhiệm vụ khác nhau trong thời bình và được huấn luyện quân sự để tiến hành các hoạt động khi có giao tranh.

Trong trường hợp xảy ra xung đột trên biển ở khu vực, các tàu thuộc lực lượng dân quân biển này có thể được sử dụng để hỗ trợ cho một số nhiệm vụ quân sự của Trung Quốc. Trong số này có các tàu cá ven biển mà sẽ không bị bắt giữ trong cuộc xung đột vũ trang nhưng có thể bị tấn công nếu hỗ trợ cho Hải quân Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLAN) dưới bất kỳ hình thức nào. Đa số các tàu dân quân biển hoạt động ngoài biển khơi và thường đánh bắt cá vì mục đích thương mại, nhưng đôi khi huy động để hỗ trợ PLAN hay lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG). Loại tàu này có thể bị bắt giữ làm chiến lợi phẩm hợp pháp trong xung đột vũ trang và cũng có thể bị tấn công khi hỗ trợ PLAN trong giao tranh. Cuối cùng, loại tàu cá thứ ba đóng vai trò quân phụ trợ trên biển trên thực tế và phối hợp cùng với PLAN và CCG. Không có một định nghĩa chung nào về quân phụ trợ trên biển, nhưng các tàu như vậy được coi như tàu chiến và trong lúc giao tranh có thể bị đánh chìm khi nằm ngoài vùng biển trung lập. Những tàu này đưa vào các hoạt động của PLAN một cách chính thức hơn. Việc phân biệt giữa các đơn vị dân quân biển khác nhau và hiểu được khả năng bị nhắm mục tiêu của các đơn vị này trong các cuộc chiến trên biển là thách thức đối với việc thu thập thông tin tình báo trên biển và cũng như việc phân tích nhằm phân biệt bản chất, xác định cấu trúc chỉ huy và kiểm soát của các tàu này.

Lực lượng dân quân biển của Trung Quốc

Trung tâm nghiên cứu hàng hải Trung Quốc (CMSI) thuộc Đại học Chiến tranh Hải quân đã có phát hiện quan trọng rằng ở Trung Quốc không chỉ có một lực lượng dân quân biển, mà là một loạt lực lượng ở các địa phương và thuộc chính quyền tỉnh hỗ trợ cho các nỗ lực quốc phòng. Ở cấp nhà nước, Quân ủy trung ương do Tập Cận Bình lãnh đạo quy định các chính sách về dân quân, tuy nhiên các lực lượng dân quân lại thuộc sự chỉ đạo của chính quyền địa phương. Bộ chỉ huy PLA ở địa phương đứng ra tổ chức và huấn luyện các lực lượng này, đôi khi phối hợp với CCG và Cục an toàn hàng hải. Về dân sự, lực lượng này bao gồm bộ máy hành chính đảng-nhà nước, còn về cơ cấu quân sự thì thuộc các khu quân sự cấp tỉnh. Hiểu rộng hơn, những lực lượng này được gọi là Dân quân biển thuộc Lực lượng vũ trang nhân dân (PAFMM) và hoạt động với tư cách lực lượng trên biển thứ ba của Trung Quốc.

danquan3

Giàn khoa dầu HD 981 của Trung Quốc ở Biển Đông hôm 14/5/2014, cùng các tàu hộ tống khác Reuters

Khó khăn trong việc phân tích vị thế pháp lý của các lực lượng này phát sinh từ bản chất khác biệt của PAFMM. Nhiều nhóm ngư dân thuộc PAFMM là các tổ chức đánh bắt cá thông thường, hoạt động như một cơ sở đánh bắt cá thương mại, và chỉ thỉnh thoảng tiến hành các hoạt động cho PLAN. Các thành phần khác chuyên nghiệp hơn và được trang bị tốt hơn cho các nhiệm vụ hành động trực tiếp, đóng vai trò tiên phong cho quân phụ trợ trên biển để "bảo vệ các quyền" theo những tuyên bố chủ quyền trên biển, thay vì đánh bắt cá. Các hoạt động cũng do chính quyền địa phương khởi xướng, nhưng phải có sự chấp thuận của PLA. Sự khác biệt về nhiệm vụ của các thành phần khác nhau trong PAFMM trong thời bình và trong xung đột vũ trang càng làm phức tạp thêm cách tư duy về những lực lượng này. Tính đa dạng của PAFMM đã hỗ trợ cho nỗ lực của chế độ Trung Quốc nhằm cố ý che giấu tình trạng của PAFMM : Khi ngụy trang họ đủ điều kiện làm binh sĩ, khi cởi bỏ ngụy trang họ là ngư dân tuân thủ luật pháp. Chính sách của Trung Quốc là che giấu lực lượng dân quân biển bằng cách vận hành lực lượng này theo kiểu "hạm đội ngầm".

PAFMM dường như là động lực thúc đẩy Trung Quốc mở rộng đội tàu cá trong suốt một thập kỷ qua. Các đội tàu cá trên thế giới quá hùng hậu. Số lượng tàu đánh bắt quá lớn, trong khi nguồn cá lại quá ít ỏi, gây cạn kiệt nguồn lợi thủy sản và khiến tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) trở nên trầm trọng hơn. Trung Quốc có đội tàu cá lớn nhất thế giới. Năm 2015, Trung Quốc có khoảng 370.000 tàu cá thô sơ và 672.000 tàu cá trang bị động cơ. Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi Trung Quốc là nước vi phạm nghiêm trọng nhất các quy định về khai thác hải sản. Trung Quốc đã giảm năng suất đánh bắt cá cho tới năm 2008, khi họ đảo ngược tiến trình và tiến hành mở rộng đội tàu kể từ đó. Việc này có liên quan tới vai trò ngày càng nổi bật của PAFMM : Lực lượng này đã được nhận các tàu thân thép mới, hệ thống vệ tinh dẫn đường Bắc Đẩu của Trung Quốc, mà có thể theo dõi và gửi tin nhắn về vị trí các nhóm tàu nổi khác, và được huấn luyện bán quân sự. Các tàu của họ tham gia tập trận quân sự với PLAN và CCG, đồng thời nhận các khoản bồi thường, bao gồm các khoản trợ cấp, phúc lợi xã hội và lương hưu từ chính quyền các địa phương. Tuy nhiên, vì không trực thuộc PLA, nên PAFMM tỏ ra linh hoạt hơn trong hành động cũng như trong việc thúc đẩy các lợi ích và yêu sách biển mà không gây ảnh hưởng đến uy tín của PLA, đồng thời giảm bớt nguy cơ bị cản trở.

Vai trò của dân quân biển trong thời bình

Trong thời bình, PAFMM đóng vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy các yêu sách và lập trường trên biển của Trung Quốc thông qua các hành động ép buộc, theo tầm nhìn của Chủ tịch Tập Cận Bình về việc huy động các lực lượng dân sự tham gia các hoạt động quân sự. Lực lượng dự bị này hỗ trợ hoạt động tìm kiếm và cứu nạn, bảo vệ cơ sở hạ tầng quan trọng như các cảng biển và giàn khoan dầu, tiến hành các nhiệm vụ hiện diện và các chiến dịch "bảo vệ quyền" nhằm khẳng định các yêu sách phi pháp trên biển của Trung Quốc, quấy nhiễu và đánh đuổi các tàu dân sự và tàu của chính phủ nước ngoài, bao gồm tàu chiến, ra khỏi vùng biển Trung Quốc yêu sách chủ quyền. Các tàu PAFMM cũng tham gia các chiến dịch trực tiếp và đặc biệt để hỗ trợ cho PLAN và CCG trong các cuộc chạm trán với tàu hải quân của Mỹ và các nước khu vực trên biển Đông và biển Hoa Đông.

Chẳng hạn, trong năm 2009, lực lượng dân quân biển đã bao vây tàu USNS Impeccable khi tàu này tiến hành các cuộc khảo sát quân sự ở vùng biển ngoài EEZ của Trung Quốc. Các tàu Trung Quốc bao gồm một lực lượng hỗn hợp gồm tàu đánh cá bằng lưới rà thuộc lực lượng dân quân biển và các tàu của Chính phủ Trung Quốc tìm cách quấy rầy các hoạt động của Hải quân Mỹ khi đe dọa cắt dây cáp kéo theo tàu phụ trợ của Mỹ trên vùng biển quốc tế. Vào năm 2012, các tàu cá của Trung Quốc phối hợp với CCG là đội tiên phong chiếm quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough - một hòn đảo nhỏ ở biển Đông. Năm 2016, Tòa Trọng tài xác định rằng các tàu của Trung Quốc đã ngăn chặn bất hợp pháp hoạt động đánh bắt cá truyền thống của ngư dân Philippines ở bãi cạn Scarborough (đoạn 814). Tòa Trọng tài cũng kết luận rằng các tàu cá của Trung Quốc đã khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định mang tính phá hoại, trong đó có việc đánh bắt các lòa i trai sò, san hô và rùa biển có nguy cơ tuyệt chủng theo đoạn 764 trong phán quyết của Tòa.

Tháng 5/2014, các tàu của PAFMM hỗ trợ cho hoạt động lắp đặt giàn khoan dầu Hải Dương 981 ở phía Nam đảo Tri Tôn trong các khu vực thuộc EEZ của Việt Nam, châm ngòi cho một cuộc đụng độ có sự tham gia của hơn 100 tàu ở cả hai bên. Tổ chức Ngư nghiệp Phúc Cảng đã cử lực lượng tàu cá dân quân gồm 29 tàu đánh bắt cá bằng lưới rà tới bảo vệ giàn khoan dầu, hỗ trợ cho khu quân sự Quảng Châu và khu quân sự Hải Nam. Trong hơn 2 tháng, lực lượng tàu cá dân quân được bố trí thành các vòng bảo vệ quanh giàn khoan dầu của Trung Quốc - một chiến lược "bắp cải nhiều lớp" xua đuổi các tàu của Việt Nam đang tìm cách thực thi đặc quyền kinh tế và đánh chìm 3 tàu trong số này.

Tháng 5/2015, tiểu khu quân sự Giang Môn ở tỉnh Quảng Đông đã tổ chức tập trận cho các lực lượng dân quân biển, tập trung vào các nhiệm vụ thời chiến. Nội dung tập trận bao gồm tập hợp và huy động, bảo vệ các quyền trên biển, tuần tra, hậu cần và sửa chữa khẩn cấp các cầu tàu bị hư hại trong giao tranh. Vào tháng 3/2016, khoảng 100 tàu đánh bắt cá của Trung Quốc xuất hiện quanh bãi cạn Laconia của Malaysia nằm ngoài khơi Sarawak và trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia. Những tàu này không treo cờ, không có dấu hiệu đăng ký và đi cùng với 2 tàu của CCG. Năm 2019, các tàu của PAFMM đã tiến vào phạm vi nửa hải lý từ tiền đồn của Philippines trên đảo Loaita thuộc quần đảo Trường Sa. Philippines đã điều một tàu đổ bộ xe tăng lớp LST-542 trước đây của Hải quân Mỹ theo dõi hai tàu cá Trung Quốc.

Điều tương tự cũng diễn ra ở biển Hoa Đông. Kể từ khi Chính phủ Nhật Bản quốc hữu hóa 3 đảo thuộc quần đảo Senkaku từ một công dân nước này vào năm 2010 để ngăn không cho các đảo này bị chiếm đóng, các tàu cá của Trung Quốc và tàu của CCG thường xuyên xâm nhập lãnh hải và vùng tiếp giáp như một cách để quấy rối Nhật Bản và làm xáo trộn nguyên trạng. Vào năm 2020, Trung Quốc đã gia tăng các chiến dịch hiện diện như vậy gần quần đảo Senkaku để gây sức ép với Tokyo. Trung Quốc tuyên bố quần đảo Senkaku đang bị tranh chấp, mặc dù nó thuộc quyền kiểm soát quân sự của Mỹ trong thời gian Mỹ chiếm đóng Okinawa cho tới năm 1971 và được trao trả lại cho Nhật Bản theo tuyên bố năm 1895 khi quần đảo này chưa bị chiếm đóng và là lãnh thổ vô chủ.

Vai trò của dân quân biển trong xung đột vũ trang

Tàu cá của dân quân là công cụ chính để thay đổi tình hình thực địa trong thời bình, chẳng hạn như việc xây dựng các đảo nhân tạo trên biển Đông, đồng thời huấn luyện một lực lượng hải quân bán quân sự có thể được triển khai khi nổ ra cuộc xung đột vũ trang. Cấu trúc lưỡng dụng của PAFMM đặt ra cho các đối thủ của Trung Quốc những thách thức trong hoạt động. Trong lần ra mắt đầu tiên tại một cuộc giao tranh vũ trang, lực lượng dân quân biển đã tham gia cuộc đánh chiếm vùng phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1974. Bắc Kinh hiểu rằng việc sử dụng tàu cá để theo đuổi hành động xâm lược sẽ ít có khả năng lôi kéo Mỹ vào xung đột, thậm chí ngay cả khi các tàu này đe dọa một đồng minh của Mỹ.

Hiện nay, các đơn vị tinh nhuệ nhất của PAFMM đã được chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc chiến tranh du kích được gọi là "Chiến tranh nhân dân trên biển", được trang bị thủy lôi, pháo phòng không và tên lửa. Các tàu cũng được huấn luyện để thực hiện hoạt động tình báo, giám sát và do thám (ISR) và có khả năng chuyển dữ liệu, tạo điều kiện thuận lợi cho chuỗi tấn công tiêu diệt của PLAN. Mạng lưới này, ước tính bao gồm 20.000 tàu và hàng trăm nghìn dân quân, tạo thành một "mạng lưới trinh sát trên biển" gây khó khăn cho đối thủ tiềm năng trong việc lên kế hoạch lực lượng.

Trước khi xảy ra xung đột, lực lượng dân quân biển có thể sử dụng các chiến thuật ép buộc, như đâm vào tàu đối thủ để khiêu khích đối thủ đáp trả, trong lúc CCG và thậm chí cả các lực lượng PLAN từ xa lao tới hiện trường để "dạy cho một bài học". Mỹ, Nhật Bản, Indonesia, Việt Nam và Malaysia đều từng phải đối đầu với dân quân biển của Trung Quốc, làm gia tăng nguy cơ leo thang. Tuy nhiên, việc tránh đối đầu với PAFMM sẽ giúp bình thường hóa sự hiện diện của Bắc Kinh ở vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác. Kịch bản này minh họa cho chiến lược bất đối xứng sử dụng chiến tranh tâm lý, chiến tranh truyền thông, và chiến tranh pháp lý gây mất phương hướng nhằm phá vỡ các khái niệm truyền thống, nhất là của phương Tây, về xung đột vũ trang.

Tôn Thạch Sơn

Nguồn : RFA, 14/08/2020

Additional Info

  • Author Tôn Thạch Sơn
Published in Diễn đàn

Nếu lịch sử là một cách tốt để dự báo những điều sẽ xảy ra trong tương lai, thì Bắc Kinh rất có khả năng sẽ tăng cường lực lượng dân quân biển trong mọi viễn cảnh khả dĩ. Điều đó đồng nghĩa với việc lực lượng này sẽ trở thành một lực lượng đáng gờm trong những năm tới.

danquan1

Lực lượng dân quân – ngư dân có vũ trang của Trung Quốc – hay còn được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ gọi chính thức là Dân quân Biển thuộc Lực lượng Vũ trang Nhân dân (People's Armed Force Maritime Militia - PAFMM) – đóng vai trò chủ đạo trong chiến lược của Bắc Kinh nhằm áp đặt tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông và Biển Hoa Đông. PAFMM là lực lượng ngư dân có vũ trang được chính phủ Trung Quốc bảo trợ, chưa rõ quân số, nằm dưới sự chỉ huy và kiểm soát trực tiếp của Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc (People's Liberation Army - PLA). Lực lượng này đã tồn tại trong nhiều thập niên và hỗ trợ lực lượng Hải cảnh Trung Quốc (China Coast Guard - CCG) và Hải quân Trung Quốc (People's Liberation Army Navy - PLAN) trong việc triển khai các hoạt động trong khu vực.

PAFMM đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thiết lập sự hiện diện trên thực tế của Trung Quốc ở khu vực đang có tranh chấp – qua đó thay đổi thực tế trên biển – nhằm thách thức khả năng kiểm soát các khu vực tranh chấp của các quốc gia tham gia tranh chấp khác. Hình thái tác chiến "vùng xám" kinh điển này được thiết kế để "không đánh mà thắng" thông qua việc áp đảo kẻ thù bằng tàu cá số lượng lớn có hỗ trợ từ phía sau bởi lực lượng hải cảnh hoặc có thể là cả tàu chiến hải quân, tùy thuộc vào tình huống, theo đội hình các vòng tròn đồng tâm ngày càng tăng cường.

Tuy nhiên sự tồn tại của dân quân biển ở Trung Quốc là vô cùng độc đáo, bởi quốc gia duy nhất có một lực lượng tương tự để giải quyết tranh chấp chủ quyền trên biển là nước láng giềng Việt Nam. Đúng vậy, Hà Nội đã chính thức thành lập lực lượng dân quân biển của họ vào năm 2009 với mục đích duy nhất là cạnh tranh trực tiếp với PAFMM trong một cuộc "chiến tranh nhân dân trên biển". Vậy câu hỏi cần được đặt ra là : tại sao Bắc Kinh lại thành lập một lực lượng dân quân biển và PAFMM đã phát triển như thế nào theo thời gian ? Lịch sử của lực lượng này nói lên điều gì về tương lai của nó ?

Lực lượng dân quân biển cách mạng

Sau hồi kết của nội chiến Trung Quốc và sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, Đảng cộng sản Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo tối cao của Mao Trạch Đông, đã tìm cách bảo vệ bờ biển Trung Quốc trước lực lượng quân sự của chính phủ Quốc Dân Đảng vốn đã rút lui ra Đài Loan và các đảo nhỏ ngoài khơi khác. Sự xâm nhập của lực lượng Quốc Dân Đảng vào vùng nước ven biển Trung Quốc đặt ra một thách thức nghiêm trọng bởi Đảng cộng sản Trung Quốc lúc bấy giờ sở hữu một lực lượng hải quân còn yếu kém. Do đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc xem việc thành lập một lực lượng dân quân biển có tổ chức để chống lại mối đe dọa này như một giải pháp khắc phục dễ dàng và nhanh chóng trước vấn đề cấp thiết này. Trên thực tế, Trung Quốc đã sở hữu lực lượng dân quân biển trước khi Đảng cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền, nhưng Đảng cộng sản Trung Quốc đã cung cấp ngân sách và đào tạo để biến các lực lượng địa phương rời rạc thành một lực lượng gắn kết ở cấp quốc gia với nhiệm vụ bảo vệ chế độ mới.

Bằng chứng về vai trò của Đảng cộng sản Trung Quốc đối với các lực lượng địa phương xuất hiện vào đầu những năm 1950, khi Cục Thủy sản [产部] đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức lực lượng dân quân biển. Cục đã khởi xướng việc tập thể hóa hoạt động đánh cá địa phương và xác định ranh giới các ngư trường lớn. Họ cũng đề ra chỉ tiêu đánh bắt và xây dựng chính sách đánh bắt cá. Sự hiện diện của các cựu sĩ quan Hải quân Trung Quốc trong Cục có thể cho thấy sự tham gia chặt chẽ của quân đội trong các hoạt động của dân quân. Ví dụ, đô đốc Yuan Yelie, Phó Tư lệnh Hải quân Trung Quốc vào năm 1957, đã đảm nhận vị trí Cục phó (Thứ trưởng) Cục Thủy sản vào tháng 5 năm 1960. Huấn luyện kiểu hải quân đã giúp lực lượng dân quân biển thực hiện các hoạt động phòng thủ chống lại lực lượng quân sự của Quốc Dân Đảng có ý định quấy phá các tuyến hàng hải địa phương của Trung Quốc. Quả thực, lực lượng quân sự Quốc Dân Đảng đã sử dụng chiến tranh phi chính quy dưới hình thức du kích trên biển, khiến Trung Quốc càng cần phải dùng giải pháp tương tự để chống lại.

Có ít nhất hai cách giải thích khác nhau cho sự trỗi dậy của lực lượng dân quân biển của Trung Quốc : tập thể hóa và ảnh hưởng của học thuyết hải quân Liên Xô.

Đầu tiên, như một phần của việc áp dụng chủ nghĩa Mác – Lênin tại Trung Quốc, Mao đã tìm cách áp đặt tập thể hóa lên toàn xã hội Trung Quốc. Các cộng đồng ven biển truyền thống đã bị xáo trộn sau cuộc nội chiến Trung Quốc và một khi Đảng cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền, họ đã nhanh chóng tập thể hóa các khu vực này. Chẳng hạn, tại Sơn Đông, vào tháng Tư năm 1956, Đảng cộng sản Trung Quốc đã thành lập 786 hợp tác xã đánh cá bao gồm gần 76.000 hộ gia đình, tức 9/10 số ngư dân ở Sơn Đông. Bắc Kinh có lẽ đã tin rằng việc tập thể hóa hoạt động đánh cá là cần thiết để tái thiết đất nước sau chiến tranh.

Cách giải thích thứ hai cho sự tồn tại của lực lượng dân quân biển của Bắc Kinh bắt nguồn từ mối quan hệ giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Liên Xô trong giai đoạn bắt đầu hình thành chiến lược hải quân. Trong những năm 1920, một Liên Xô mới thành lập đã áp dụng lối tư duy hải quân gọi là "Trường phái mới". Về cơ bản, những người theo học thuyết này lập luận rằng quốc gia của họ, vốn là một cường quốc lục địa, nên tập trung phần lớn nguồn tài nguyên của mình vào việc bảo vệ bờ biển thay vì nhấn mạnh việc hiện đại hóa hải quân để đi bành trướng thế lực như tư duy của "Trường phái cũ" thời nước Nga Sa hoàng. Điều này đã giúp Moskva đỡ tốn khoản chi phí lớn vào một lĩnh vực nơi các cường quốc phương Tây đã vượt xa.

Rốt cuộc, "Trường phái mới" đã thắng thế và đã khiến Moskva thiết kế các lực lượng có thể giúp bảo vệ các khu vực ven biển của lục quân thông qua việc nhanh chóng mua sắm các tàu nhỏ và tàu ngầm hạng nhẹ, với mục tiêu nhắm vào các phương tiện, khí tài truyền thống của đối thủ. Trọng tâm là chiến tranh phi chính quy được dẫn dắt bởi tàu ngầm ven biển, tàu ngư lôi và tàu tuần tra, được hỗ trợ bởi các máy bay hải quân. Học thuyết này đã tác động lớn đến Đảng cộng sản Trung Quốc, và họ cuối cùng đã áp dụng chiến lược hải quân này cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ví dụ, tư lệnh Hải quân Trung Quốc Xiao Jingguang từng du học tại Moskva vào những năm 1920 đã học các lý thuyết của "Trường phái mới". Chắc chắn là hợp lý nếu Trung Quốc tiếp nhận "Trường phái mới" bởi Trung Quốc lúc bấy giờ phải đối mặt với những thách thức giống hệt của Liên Xô : chi phí cho các lực lượng xa bờ quá đắt đỏ và Bắc Kinh cũng bận tâm hơn với các diễn biến trên đất liền.

Sau đó không lâu vào năm 1965, truyền thông nhà nước bắt đầu đề cập đến một lực lượng dân quân biển chính thức được hỗ trợ bởi PLAN. Cũng trong khoảng thời gian này, PLAN đã thành lập các trường dân quân biển gần trụ sở ba hạm đội tại Thanh Đảo, Thượng Hải và Quảng Châu. Các trường này có các khóa huấn luyện kĩ năng lái tàu, sử dụng vũ khí, kỹ thuật và liên lạc. PLAN còn có những báo cáo thuật lại thành công của các trận đánh, tuần tra và huấn luyện – tất cả đều thực hiện theo học thuyết "chiến tranh nhân dân" của Mao. Xuyên suốt nửa đầu thập niên 1970, báo chí đã khắc họa PLAN như một lực lượng ven biển không bao giờ đi vượt quá phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Thay vào đó, chủ đề chung là PLAN chỉ hỗ trợ lực lượng dân quân biển.

Dân quân biển phát huy tác dụng

Mặc dù được thành lập với mục đích tuần tra bờ biển và giám sát, lực lượng dân quân biển đã dần phát triển thành một lực lượng bảo vệ chủ quyền biển vào những năm 1970. Lực lượng này dần đóng nhiều vai trò hơn như cứu hộ hàng hải, tham gia các hoạt động chiến đấu, chống buôn lậu, và quan trọng nhất là áp đặt chủ quyền.

Về các hoạt động áp đặt chủ quyền của Trung Quốc, lực lượng dân quân biển (PAFMM) từ sớm đã thể hiện đóng góp đáng kể vào việc chiếm các đảo từ tay Nam Việt Nam trong Hải chiến Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974 . Thực tế là Bắc Kinh chưa có một lực lượng hải quân đáng kể vào năm 1974 và có thể nói PAFMM có nhiều năng lực thực hiện các chiến dịch đổ bộ hơn cả hải quân. Dù thế nào, sự hiện diện của các tàu đánh cá Trung Quốc quanh Hoàng Sa đã làm chậm lại quá trình đưa ra quyết định của Nam Việt Nam trong việc sử dụng vũ lực chống lại PAFMM cũng như đáp trả lại động thái của PLAN. Việc có thêm thời gian đã tạo điều kiện cho Bắc Kinh phối hợp hiệu quả hơn. Khi hai tàu đánh cá chở 500 lính PLA tới Tây Hoàng Sa, hành động đó đã dẫn tới sự đầu hàng ngay lập tức từ lực lượng Nam Việt Nam đang bảo vệ các đảo này.

Một bài học then chốt rút ra cho Bắc Kinh là tận dụng lực lượng dân quân biển có hiệu quả hơn trong việc tránh sự can thiệp của Hoa Kỳ ngay cả khi đối thủ là một đồng minh của Hoa Kỳ. Công bằng mà nói, đây là cốt lõi trong chiến lược sử dụng các lực lượng phi chính quy ở các "vùng xám" trên và Biển Hoa Đông và Biển Đông. Sự ra mắt của PAFMM trên trường quốc tế đã thành công vang dội, càng tô đậm diễn ngôn cho rằng lực lượng dân quân biển đóng vai trò thiết yếu trong thành công của chiến lược biển của Trung Quốc tại Biển Đông. Sau Hải chiến Hoàng Sa năm 1974, PAFMM đã tham gia hầu như mọi chiến dịch quân sự lớn của PLAN cũng như của Hải cảnh Trung Quốc nhằm gây khó dễ cho các quốc gia khác trong khu vực tranh chấp hoặc chiếm các đảo khác từ đối phương.

Andrew S. Erickson và Conor M. Kennedy đã thống kê kỹ lưỡng các hoạt động của PAFMM nhằm hỗ trợ Hải cảnh Trung Quốc và PLAN kể từ năm 1974. Trong số các sự cố, năm 1978 PAFMM tham gia vào các hoạt động "biển tàu" áp đảo quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông đang tranh chấp với Nhật Bản, và kể từ 2016, lực lượng này liên tục củng cố sự hiện diện tại đây. Erickson và Kennedy có chỉ ra sự gia tăng các cuộc va chạm ở Biển Đông kể từ Hải chiến Hoàng Sa, bao gồm việc Trung Quốc chiếm Đá Vành Khăn và Bãi cạn Scarborough từ Philippines vào năm 1995 và 2012. Bắc Kinh còn nỗ lực ngăn chặn tiếp tế của Manila cho Bãi Cỏ Mây vào năm 2014 và kể từ 2017 Bắc Kinh đã liên tục quấy nhiễu ngư dân Philippines tại bãi Sandy Cay và Đảo Thị Tứ gần đó. PAFMM cũng thường xuyên quấy phá các tàu của Việt Nam, và vào tháng 5/2014, họ đã giúp Bắc Kinh hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 tại vùng biển Việt Nam bằng cách va đâm vào các tàu tuần tra và tàu cá của Việt Nam. Ngoài ra, Bắc Kinh dường như tự tin rằng hành động quấy nhiễu của PAFMM đối với tàu hải quân Mỹ dưới ngưỡng dẫn đến hành động đáp trả mạnh mẽ từ phía Hoa Kỳ. Do vậy họ đã sử dụng lực lượng dân quân biển để chống lại tàu USNS Impeccable vào năm 2009 và tàu Howard O. Lorenzen vào năm 2014.

Tương lai của PAFMM

PAFMM đã và đang phát triển từ một lực lượng nhỏ, ven bờ thành một thành tố năng động và thiết yếu trong chiến lược quốc gia về biển của Trung Quốc. Sự thật là PAFMM không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ trong quá trình hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc những năm 1980. Điều đó đồng nghĩa với việc tiếp tục hiện đại hóa và ưu tiên phát triển các hệ thống ngày càng hiện đại sẽ không làm giảm giá trị của PAFMM trong thời gian tới. Thực ra, có vẻ điều ngược lại sẽ xảy ra – vai trò của PAFMM rất có thể sẽ lớn dần song song với lực lượng Hải cảnh và Hải quân để hỗ trợ tốt hơn cho các lực lượng này. Nguồn gốc khiêm tốn của PAFMM như là một sản phẩm của tập thể hóa và "Trường phái mới" gợi ý rằng nếu Trung Quốc phải làm chậm lại quá trình hiện đại hóa quân đội do điều kiện kinh tế hay một lí do nào khác, Bắc Kinh vẫn hoàn toàn có thể dựa vào PAFMM như một lựa chọn thay thế rẻ hơn và đơn giản hơn về công nghệ nhằm giải quyết các tranh chấp chủ quyền và bảo vệ bờ biển. Nếu lịch sử là một chỉ dấu tốt để dự báo tương lai, thì Bắc Kinh rất có khả năng sẽ tăng cường lực lượng dân quân biển trong mọi viễn cảnh khả dĩ. Điều đó đồng nghĩa với việc lực lượng này sẽ trở thành một lực lượng đáng gờm trong những năm tới.

Derek Grossman & Logan Ma

Nguyên tác : "A Short History of China’s Fishing Militia and What it May Tell Us", Maritime Issues, 05/04/2020.

Nguyễn Minh Châu biên dịch

Lê Hồng Hiệp biên tập

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 20/04/2020

Derek Grossman là nhà phân tích quân sự cao cấp tại RAND Corporation. Ông từng là chuyên viên cập nhật tin tình báo cho trợ lý bộ trưởng quốc phòng phụ trách Châu Á và Thái Bình Dương tại Lầu Năm Góc.

Logan Ma là trợ lý nghiên cứu tại RAND Corporation.

Additional Info

  • Author Derek Grossman, Logan Ma
Published in Diễn đàn