Suy giảm kinh tế cộng với suy thoái chính trị kéo dài và mang tính cơ cấu củng cố cho lập luận rằng mô hình phát triển có xuất sứ từ Trung Quốc đang kết thúc. Được dẫn dắt bởi tư tưởng thực dụng, "mèo trắng mèo đen không quan trọng miễn bắt được chuột", và duy ý chí về năng lực lãnh đạo của chế độ chính trị tập quyền dựa vào chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa Mác – Lênin để chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường, một mô hình chuyên chế - tăng trưởng được thiết lập. Nó đã làm Trung Quốc thoát nghèo, trở thành nước có thu nhập trung bình cao nhờ "đánh đổi" dân chủ, nhân quyền lấy tăng trưởng kinh tế để đảm bảo tính chính danh cho chế độ Đảng cộng sản toàn trị. Kết quả tăng trưởng "thần kỳ" kéo dài trong suốt hơn ba mươi năm khiến mô hình này trở thành "lý tưởng" cho nhiều quốc gia đang phát triển. Là nước láng giềng tương đồng về thể chế chính trị, Việt Nam đã noi theo áp dụng, nhưng ‘kém’ thành công hơn. Tuy nhiên, những gì diễn ra ở Trung Quốc, về cơ bản, cũng xảy ra ở Việt Nam. Cải cách mô hình chuyên chế - tăng trưởng thế nào đang là vấn đề lớn hiện nay hàm ý cho Việt Nam.
Hình chụp từ trên cao cầu Bãi Cháy ở Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh hôm 28/12/2023 - AFP
Bài viết trước chỉ ra thực trạng chống tham nhũng của Đảng cộng sản vẫn khó khăn, nguy cơ tồn vong chế độ vẫn lớn, "Đảng – Nhà nước" vẫn chưa "trong sạch" trong khi dân chủ, nhân quyền bị cấm đoán và kinh tế trì trệ. Căn nguyên của vấn đề nằm ngay trong mô hình chuyên chế - tăng trưởng khi nghịch lý tăng trưởng nhanh và tham nhũng tràn lan, một trong những hình thức tham nhũng, chiếm vị trí thống trị, trong đó việc trao đổi quyền lực và của cải của giới lãnh đạo đã trở thành "luật bất thành văn". Nay, trong bối cảnh ‘khủng hoảng’ "nghịch lý" đã đảo chiều thành "thuận lý" khi quyền lực bị tuyệt đối hóa, lạm dụng bạo lực để chống lại sự tha hóa quyền lực đang làm hủy hoại động lực tăng trưởng nhờ thị trường.
Lý thuyết và thực tế đã chứng minh rằng, nghịch lý nêu trên, mặc dù không biểu thị mối tương quan nhân quả, nhưng từ các dữ liệu điều tra từ 65 quốc gia, tức một phần ba tổng số nước, tổ chức Hướng dẫn rủi ro quốc gia quốc tế (ICRS - International Country Risk Guide) đã xác lập mối quan hệ đồng biến giữa mức độ tham nhũng và tăng trưởng. Ngoài ra, một nghiên cứu thực tế ở Trung Quốc của phó giáo sư khoa học chính trị Yuen Yuen Ang (洪源远) có ý nghĩa ứng dụng quan trọng được trình bày trong cuốn "Thời đại vàng son của Trung Quốc : Nghịch lý của sự bùng nổ kinh tế và tham nhũng tràn lan" (China's Gilded Age : The Paradox of Economic Boom and Vast Corruption, 2020). Học giả về Trung Quốc tại Đại học Michigan, Mỹ đã chỉ ra rằng, đây là quá trình ‘tiến hóa’ tương tự như Thời đại Vàng của Mỹ vào cuối thế kỷ 19. Tuy nhiên, sự khác biệt các hệ thống chính trị ở Trung Quốc và Hoa Kỳ đã dẫn đến những phản ứng trái ngược nhau trước sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản thân hữu. Ở Mỹ là quá trình cải tiến thể chế dân chủ để kiểm soát quyền lực trong khi ở Trung Quốc củng cố chế độ tập quyền tuyệt đối bằng chống tham nhũng kiểu "đả hổ diệt ruồi".
Làm sâu sắc thêm thực tế này ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng không những chỉ vì chiến dịch "đốt lò" đang gặp thách thức ngày càng lớn khiến niềm tin chính sách giảm sút, diễn ra đồng thời với việc hạn chế các quyền về tự do, dân chủ và nhân quyền khi mô hình chuyên chế ‘kiểu cũ’, kiểu Mao, đang quay trở lại "mạnh mẽ" mà còn vì động lực tăng trưởng nhờ thị trường bị hủy hoại nghiêm trọng dẫn tới kinh tế trì trệ, ảm đạm. Mặc dù, tỷ lệ tăng trưởng GDP theo thống kê là nhanh nhưng đã được ‘cảnh báo’ là "không bền vững", bất cập về cơ cấu. Nền kinh tế có độ mở cao cho thương mại nhưng ngày càng lệ thuộc vào vốn đầu tư nước ngoài, lĩnh vực bất động sản trở thành trục tăng trưởng quan trọng nhưng "mong manh" trước vấn nạn đầu cơ, trong đó chủ yếu là nguyên nhân "sở hữu toàn dân" về đất đai và tính đại diện quản lý của nhà nước bị trục lợi do tha hóa quyền lực, đầu tư công cũng ì ạch… Hơn thế, một thể chế "khai thác" chi phối nền kinh tế khi lý luận giáo điều về chủ nghĩa xã hội lấn án kinh tế thị trường…
Gần đây, đã có sự thừa nhận quan trọng rằng các thể chế thực sự quan trọng. Nghĩa là, các cấu trúc chính trị – như quyền sở hữu, sự ổn định, cải cách luật pháp, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao khả năng giao dịch thương mại… là nền tảng của tăng trưởng kinh tế. Giới điều hành kinh tế - Chính phủ luôn nhấn mạnh sự cấp thiết về cải cách thể chế. Điều khiến các nước nghèo trở nên nghèo không phải là thiếu nguồn lực. Nhật Bản và Hàn Quốc, các đối tác chiến lược của Việt Nam, cho thấy họ thiếu nguồn lực thế nào để bắt đầu con đường phát triển của mình. Đúng hơn, chính việc thiếu thể chế đã khiến các quốc gia trở nên nghèo nàn. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng việc chống tham nhũng có thể ‘thành công’ chỉ khi được thực hiện bởi thể chế dân chủ, kiểm soát quyền lực bởi tam quyền phân lập, xã hội dân sự… Nhưng cải cách thể chế là một quá trình, vì vậy việc tập trung vào cải cách khu vực công, nâng cao năng lực công chức để làm những việc "vi dân" và đồng thời thiết lập những nguyên tắc cơ bản cho kinh tế thị trường vận hành là những bước đi cần thiết. Việc dự báo kinh tế đang thiếu yếu tố thể chế sẽ giảm ý nghĩa cho việc hoạch định và thực thi chính sách !
Mô hình chuyên chế – tăng trưởng kiểu Trung Quốc đang ‘khủng hoảng’ ở Việt Nam, biểu hiện rõ rệt là sự suy giảm tăng trưởng và suy thoái chính trị. Thể chế chính trị đang suy thoái bởi hai cội nguồn chủ yếu, trước hết, là quốc nạn tham nhũng được che đậy bởi nghịch lý nêu trên, nghĩa là sự ‘chấp nhận’ hay ‘đánh đổi’ tham nhũng lấy tăng trưởng đã biến giới lãnh đạo, giới tinh hoa của chế độ thành tầng lớp quyền lực và giàu có trong khi phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn. Họ theo đuổi mục đích duy trì hệ thống chính trị tập quyền bằng bạo lực, trấn áp, từ mầm mống, xã hội dân sự, dân chủ và độc quyền về tư tưởng và truyền thông, ngăn cản các quyền tự do cá nhân. Chống tham nhũng kiểu "ta đánh ta" không thể hiệu quả khi nguyên tắc công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình bị hủy hoại.
Thứ hai, đó là sự cứng nhắc về thể chế và nhận thức. Chế độ luôn nhấn mạnh vai trò của các tổ chức theo cách hiểu của V. Lenin về nhà nước chuyên chế. Theo đó, những quy tắc chi phối cuộc sống của mình cần được tạo ra và, sau đó cố bảo vệ nó bằng mọi giá theo cách "cực kỳ bảo thủ". Ngay cả khi thực tế chỉ ra thế giới không hoạt động theo cách đó, nhưng việc thay đổi mô hình khiến giới lãnh đạo rất ‘do dự.’ Fransis Fukuyama, giáo sư tại Đại học Stanford, Mỹ, trong một cuốn sách về thể chế chính trị, đã được dịch sang tiếng Việt, của mình cho rằng chủ nghĩa thân hữu ở Mỹ trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 là "một cuộc đấu tranh kéo dài gần hai thế hệ". Mô hình chuyên chế - tăng trưởng ở Trung Quốc, theo Giáo sư Fukuyama, là một kiểu ‘mô hình tinh thần’, đã không thực sự tương ứng với thực tế thị trường nhưng người ta vẫn không muốn thay đổi chúng. Chế độ chính trị dưới sự lãnh đạo toàn diện của độc đảng cộng sản trong những năm gần đây đã quay lại mô hình toàn trị kiểu Mao với những chính sách mang tính đối phó với những bất cập, mâu thuẫn trong khi áp dụng những ‘tiêu chuẩn kép’. Điển hình như chính sách ‘nhích’ gần phương Tây - cơ chế dân chủ để ‘mời gọi’ đầu tư nước ngoài trong khi kiểm soát gắt gao tự do cá nhân, dân chủ và xã hội dân sự trong nước.
Sự suy giảm tăng trưởng và suy thoái chính trị mang tính xu hướng báo hiệu rằng mô hình chuyên chế - tăng trưởng kiểu Trung Quốc không còn phù hợp với thực tế với những mâu thuẫn ngày càng căng thẳng Trong trường hợp này lý thuyết của Các Mác về xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở sẽ dẫn đến sự thay đổi chế độ. Cải cách chuyển đổi dân chủ hướng đến một ‘thể chế bao trùm’ để tăng trưởng bền vững là tất yếu nhưng trước hết đòi hỏi sự thay đổi ‘đột phá’ về tư duy. Dù sự chuyển đổi dân chủ chỉ là một cái "hành lang hẹp" (Tiếng Anh : The Narrow Corridor) nhưng cần hy vọng. Mới đây, ngày 16/1/2024 ông Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính đã phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) tại Davos, Thụy Sĩ, rằng : "Không quốc gia nào phát triển nhanh nếu giữ tư duy cũ !"
Phạm Quý Thọ
Nguồn : RFA, 22/01/2024
Tham khảo :
(1) Tăng trưởng GDP trong thời kỳ đổi mới ; (Interactive) GDP của Việt Nam qua 35 năm đổi mới .
(2) Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) ; Corruption Perceptions Index.
(3) Mức tăng trưởng GDP so với chỉ số nhận thức tham nhüng (CPI) tai Việt Nam từ năm 2012-2022
(4) Vụ án AIC Đồng Nai ; Vụ án ‘những chuyến bay giải cứu’ ; Vụ án ‘Việt Á’ ; Vụ án ‘Vạn Thịnh Phát’
Ngoài mối lo giảm phát, thay vì lạm phát, Trung Quốc đứng trước hai vấn đề lớn nữa : Số người làm việc giảm xuống và hiệu năng sản xuất ngưng đọng.
Kinh tế xuống không phải chỉ do thị trường địa ốc. Nguyên nhân sâu xa là sự thất bại của cả mô hình kinh tế bất chấp thực tế cũng như lý luận, vì chỉ nhắm mục đích bảo vệ quyền hành của Đảng cộng sản.
Giá nhà cửa ở Trung Quốc từ tháng 9 qua tháng 10 đã tụt xuống năm tháng liền, mạnh nhất kể từ tháng 2/2015, theo bản tin kinh tế Bloomberg. Cả nền kinh tế xuống theo vì ngành xây dựng đóng góp một phần tư trong Tổng sản lượng nội địa (GDP) của Trung Quốc. Kinh tế xuống không phải chỉ do thị trường địa ốc. Nguyên nhân sâu xa là sự thất bại của cả mô hình kinh tế bất chấp thực tế cũng như lý luận, vì chỉ nhắm mục đích bảo vệ quyền hành của Đảng cộng sản.
Sau vụ công ty Hằng Đại (Evergrande) phá sản, năm nay đến công ty Bích Nhai Viên (Country Garden) cũng không trả được nợ. Năm ngoái, 18 công ty xây cất không trả được nợ nước ngoài. Tháng 6 vừa qua, năm công ty lớn nhất đã không trả được nợ vay bằng đô la Mỹ, tổng cộng 226 tỷ đô la, cũng bằng trị giá những ngôi nhà họ đã bán trả góp trước, theo báoThe Wall Street Journal. Bích Nhai Viên không trả được 83 tỷ đô la tiền nợ, đã tuyên bố phá sản trong tháng 10.
"Tập Đoàn Hằng Đại" (恒大集团, nghĩa là Lớn Mãi Mãi) thành lập năm 1996, vào năm 2017 trị giá lên tới 50 tỷ mỹ kim, hiện nay chỉ còn đáng giá 3 tỷ trên thị trường chứng khoán. Hai năm trước Hằng Đại có 150.000 nhân viên ; với 1.300 dự án xây dựng tại 280 thành phố ; mang nợ 88,5 tỷ đô la nhưng còn nợ 1 triệu 600 ngàn căn hộ chưa xây xong mà người mua đang góp tiền trả trước. Hiện có 20 triệu đơn vị gia cư đã bán rồi nhưng phải ngưng vì các công ty địa ốc thiếu tiền, theo báoThe Wall Street Journal.
Tháng 7 năm ngoái, nhiều người mua nhà trả góp trước bắt đầu "đình công" ngưng đóng tiền vì lo không bao giờ xây xong, tạo ra một phong trào lan ra toàn quốc. Khi đặt tiền, người mua được hứa hẹn trong ba năm nhà sẽ xong, nhưng chờ mãi không được trao chìa khóa ! Những người lo lắng nhất tìm cách bán tống bán tháo khiến giá cả xuống theo, khiến các công ty xây cất thiếu tiền nặng hơn. Các ngân hàng không dám cho các công ty đó vay vì thấy giá trị của các công ty xuống thấp và người mua ngưng trả góp, khiến các công ty càng thiếu tiền. Những xí nghiệp cung cấp cho ngành xây cất bị cuốn theo. Tất cả tạo ra một cái vòng lẩn quẩn.
Công ty Bloomberg đã phân tích tình trạng bế tắc này. Trước năm 1998, Trung Quốc chưa cho phép mua bán nhà cửa tự do, chỉ có một phần ba dân chúng sống tại các thành phố. Sau 25 năm, số dân ở đô thị tăng thêm 480 triệu người, chiếm hai phần ba dân số. Đó là cơ hội cho các công ty xây cất. Họ đua nhau vay tiền dễ dàng từ khắp nơi vì ai cũng thấy viễn tượng phát triển tốt. Năm ngoái, tổng số nợ người nước ngoài đã lên đến 207 tỷ đô la, vay bằng đô la gồm vay từ các ngân hàng và bán trái phiếu, tức giấy nợ. Năm 2009 số trái phiếu bán ra nước ngoài chỉ có 675 triệu đô la, năm 2020 đã tăng gần gấp 100 lần, lên tới 64,7 tỷ đô la. Khi nợ đáo hạn mà không trả được thì phải khai phá sản. Trong khi đó dân số bắt đầu giảm bớt, cả nước còn 50 triệu căn hộ đang không có người ở, và nhiều công trường xây cất ngưng hoạt động.
Những chủ nợ lớn nhất của các công ty địa ốc là người mua nhà trả góp. Khi Tập Cận Bình ra lệnh các ngân hàng bớt cho vay tiền xây nhà, các công ty địa ốc gây vốn bằng cách bán trước các căn hộ sắp xây. Từ 2015 đến tháng 7/2021, loại vốn này tăng từ 39% lên 54% nguồn vốn của các công ty địa ốc.
Tiền tiết kiệm của 70% các gia đình trong lục địa đổ vào việc mua nhà, để ở hoặc đầu tư. Nhà cửa chiếm 60% tài sản của dân. Giá tụt xuống nghĩa là 70% dân Trung Hoa đang mất tiền dành dụm cả đời ; giống như dân Mỹ bỗng dưng mất hết tiền trong quỹ hưu bổng và mất bảo hiểm y tế khi về già ! Địa ốc không còn là một cơ hội kinh tế mà đã trở thành một vấn đề xã hội và chính trị.
Từ năm 2020 chính quyền cộng sản Trung Quốc đã đưa ra các biện pháp hạn chế số nợ của các công ty xây dựng, dựa trên ba tiêu chuẩn : tỷ lệ nợ tối đa, tổng số nợ, và tổng số tiền mặt. Năm ngoái chính quyền trung ương dành 48 tỷ đô la để giúp các công ty tiếp tục xây dựng, hứa sẽ cho các ngân hàng vay 27 tỷ đô la không cần trả lãi nếu cho các công ty xây cất vay ; nhưng đến nay số tiền đó vẫn chưa được dùng hết. Công việc xây cất giảm 14% trong năm 2021, xuống nặng nhất kể từ 6 năm. Tháng 8 vừa qua, Bắc Kinh giảm số tiền phải đặt xuống để mua nhà (down-payment) ; cho phép các ngân hàng hạ thấp lãi suất. Trong khi ở Mỹ tăng lãi suất thì Ngân hàng Trung ương ở Bắc Kinh đã cắt để cứu thị trường nhà cửa, nhưng không thấy hiệu quả.
Kinh tế đang trở thành mối lo lớn nhất kể từ khi bắt đầu mở cửa đầu thập niên 1980. Chính sách đổi mới thành công, kinh tế Trung Quốc lớn dần. Trước đây 40 năm, Tổng sản lượng nội địa của Trung Quốc chỉ bằng 2% GDP cả thế giới ; năm 2021 đã chiếm 18,4%, theo báoFinancial Times. Sau đó Trung Quốc bắt đầu đi xuống, trong khi Mỹ và nhiều nước khác, từ Ấn Độ đến Brazil vẫn tiến lên. Năm 2022, Trung Quốc chỉ còn chiếm 17% GDP toàn cầu.
Nhật báoFinancial Time mô tả địa vị của Trung Quốc đang xuống dần. Trong năm 2023 sản lượng toàn thế giới sẽ lên đến 105 ngàn tỷ mỹ kim, tăng thêm 8 ngàn tỷ. Trung Quốc không hưởng một phần nào trong số 8 ngàn tỷ đô la mới lên đó ; kinh tế Mỹ góp 45% ; các nền kinh tế đang lên đóng góp 50% ; một nửa là do năm nước : Ấn Độ, Indonesia, Mexico, Brazil và Ba Lan.
Số hàng xuất cảng của Trung Quốc đang giảm vì kinh tế các nước mua hàng cũng gặp khó khăn, hoặc đang tìm các nguồn cung cấp mới. Các công ty quốc tế đang rút tiền lời ra khỏi Trung Quốc, cắt số đầu tư bớt 12 tỷ đô la trong quý thứ ba năm nay. Đồng nhân dân tệ xuống giá, các xí nghiệp Trung Quốc cũng theo gót, chuyển đô la ra nước ngoài, mua bất động sản.
Ngoài mối lo giảm phát, thay vì lạm phát, Trung Quốc đứng trước hai vấn đề lớn nữa : Số người làm việc giảm xuống và hiệu năng sản xuất ngưng đọng. Lực lượng lao động của Trung Quốc có lúc lên cao nhất, bằng 24% số người làm việc trên thế giới ; hiện xuống chỉ bằng 19% và trong 35 năm nữa sẽ xuống tới 10%. Tính số người làm việc cùng với sản năng lao động, kinh tế Trung Quốc sẽ chỉ tăng 2,5% một năm, bằng nửa chỉ tiêu trên 5% của ông Tập Cận Bình, vẫn theoFinancial Times.
Đây là kết quả tự nhiên của mô hình kinh tế của Đảng cộng sản Trung Quốc từ khi "đổi mới". Họ từ bỏ kinh tế chỉ huy kiểu cộng sản cũ nhưng vẫn đề cao vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Đó là những xí nghiệp hiệu năng thấp nhất, nhưng được cung cấp tài chánh nhiều nhất. Các xí nghiệp tư nhân đóng góp cho sản lượng quốc gia nhiều hơn nhưng khó vay được tiền từ các ngân hàng.
Cán bộ cầm đầu các địa phương được chấm điểm theo tiêu chuẩn đã "sản xuất" được bao nhiêu, tính bằng số tiền sử dụng và số công nhân có việc làm. Các địa phương chọn lãnh vực dễ thực hiện và dễ phô trương nhất là xây dựng, từ đường sá, cầu cống, bến cảng, phi trường, và các khu cao ốc. Họ vay nợ dễ dàng, vì các ngân hàng do nhà nước kiểm soát.
Cơ cấu kinh tế Trung Quốc nặng về đầu tư, nhẹ về tiêu thụ, trái ngược với các nước theo kinh tế thị trường. Trong năm 2021, ở Mỹ và Anh quốc, 80% sản lượng nội địa là để cung cấp cho nhu cầu của dân tiêu thụ ; ở Trung Quốc người tiêu thụ chỉ hưởng 54%, theo Ngân hàng Thế giới. Đầu tư ở Trung Quốc chiếm 40% GDP, gấp đôi tỷ lệ ở nước Mỹ, vì các cán bộ đầu tư không cần tính toán đến mức lời. Khi trình độ phát triển còn thấp, như thời 1980, đầu tư sinh lợi cao vì thúc đẩy kinh tế lên. Nhưng càng về sau thì đầu tư thêm lợi ích càng giảm, theo định luật "năng suất tiệm giảm" trong kinh tế học.
Trong thời gian bệnh dịch Covid-19, chính phủ Mỹ trợ cấp tiền cho dân đóng thuế để giữ vững khả năng tiêu thụ của họ. Người Trung Hoa trong lục địa phải tự lo lấy mình. Khi kinh tế mở cửa lại, dân Mỹ đua nhau đi mua sắm, người Trung Hoa vẫn lo tiết kiệm, giữ tiền phòng bị tương lai.
Chúng ta có thể hiểu tại sao Đảng cộng sản chọn một cơ cấu kinh tế khập khiễng như vậy : Vì mục đích bảo vệ Đảng. Đảng nắm tiền đầu tư nên dân bị lệ thuộc. Nếu tư doanh phát triển mạnh, thì sẽ đến lúc không ai cần nhờ Đảng nữa !