Tục ngữ có câu "uống nước nhớ nguồn" để giáo dục thế hệ sau phải nhớ đến công lao khi thụ hưởng một thành quả nào đó từ thế hệ người đi trước, chính vì vậy mới hình thành và phát triển văn hóa, lịch sử của dòng họ, dân tộc, quốc gia.
Câu tục ngữ gắn liền với truyền thống ngàn đời của ông cha để lại trở thành câu khẩu hiệu để tuyên truyền cho giai cấp cầm quyền.
Tục ngữ có câu "uống nước nhớ nguồn" để giáo dục thế hệ sau phải nhớ đến công lao khi thụ hưởng một thành quả nào đó từ thế hệ người đi trước
Ngày Tết cổ truyền của dân tộc, trước mộ phần và vong linh của người bác ruột xấu số, tôi suy ngẫm về "Uống nước nhớ nguồn".
Theo gia phả dòng họ và lịch sử Đảng bộ xã Đức Hòa : ông Đỗ Văn Soại sinh năm 1910, sinh ra và lớn lên tại làng Vạn Phước Đông (thôn Phước Mỹ, xã Đức Hòa, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay), đi học ở Huế và tham gia tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội từ năm 1929 lấy tên Đỗ Ban ; là người lãnh đạo phong trào cộng sản ở xã nhà. Đến tháng 7/1932 bị bắt và kết án khổ sai tại Trường An - Ba Tơ (Quảng Ngãi), chết trong lao tù của thực dân Pháp ngày 13 tháng 7 âm lịch năm 1935. Sau cách mạng tháng 8/1945, chi bộ Đảng cộng sản Việt Nam xã Đức Hòa đầu tiên được đặt tên chi bộ Đỗ Ban.
Ngôi mộ của ông Đỗ Ban cùng với mộ phần những người khác trong dòng tộc, anh em chúng tôi xây dựng vào giai đoạn đất nước khó khăn.
Những người như bác tôi - liệt sĩ Đỗ Ban - có cơ hội học hành, thăng tiến trong xã hội lúc bấy giờ, nhưng lại chấp nhận đấu tranh gian khổ, mất mát, hy sinh để chống lại sự cai trị của người Pháp. Khi chết đi, vẫn không trông mong có được ngôi mộ tử tế. Xương máu của bác hòa vào lòng đất mẹ, trở về với cát bụi vĩnh hằng.
***
Vừa chờ nén nhang lụi tàn trên mộ bác, vừa vào mạng đọc những bản tin "1400 tỷ xây nghĩa trang" (1) dành cho cán bộ cao cấp.
Tổng bí thư, Ủy viên bộ chính trị đương nhiên là cán bộ cao cấp rồi.
Thử tìm hiểu các nguyên tổng bí thư sẽ có tiêu chuẩn được vào nghĩa trang quốc gia. Gần nhất là ông Nông Đức Mạnh (2), sinh năm 1940 đến năm 1958 (18 tuổi) học Trung cấp, thời bao cấp nên đi học được nhà nước nuôi và được gọi là "tham gia cách mạng" ! Làm Tổng bí thư giai đoạn 2006-2011.
Đi học thì có học bổng, quá trình đi làm hưởng lương không thiếu ngày nào, có công trạng thì được khen thưởng, có chế độ về nhà đất, về già có lương hưu. Chính vì vậy mà nhiều người mong muốn được làm cán bộ nhà nước. Tính cho cùng và sòng phẳng là xã hội cũng đã quá ưu ái rồi, còn hơn cả tổng thống Mỹ - nguyên thủ quốc gia giàu nhất thế giới.
Những lần ra Hà Nội bạn bè chở đi dạo, có chỉ cho xem nhà ông Nông Đức Mạnh, nghe nói nhiều tiền lắm, chẳng biết có phải không. Tuy nhiên, nhìn bộ ghế ông ấy đặt cái đít tiếp khách giá trị cũng hàng trăm lần chi phí xây dựng ngôi mộ ông Đỗ Ban.
Nhìn bộ ghế ông ấy đặt cái đít tiếp khách giá trị cũng hàng trăm lần chi phí xây dựng ngôi mộ ông Đỗ Ban.
Nếu lấy ngôi mộ ông Đỗ Ban làm đơn vị tính, chi phí xây dựng 300.000 đồng, diện tích đất 2m2. Nghĩa trang dành cho cán bộ cao cấp với quy mô 1.400 tỷ đồng, 120 ha cho 2.500 ngôi mộ, thì suất đầu tư mỗi ngôi mộ cán bộ cao cấp là 1.867 lần về chi phí và 240 lần diện tích đất so với mộ ông Đỗ Ban, chưa tính đến chênh lệch giá trị đất thủ đô Hà Nội và vùng quê Quảng Ngãi.
Nhắc lại : Liệt sĩ Đỗ Ban tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội năm 1929, không nhận đồng lương nào, chết năm 1935, lúc đó nhiều "cán bộ cao cấp" còn chưa ra đời !
Bằng Tổ quốc ghi công Liệt sĩ Đỗ Ban, Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh cách mạng và giải phóng dân tộc năm 1935, do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ngày 9 tháng 7 năm 1996.
***
Karl Marx – ông tổ của chủ nghĩa cộng sản từng nói : Chỉ có loài súc vật mới quay lưng lại nỗi đau khổ của đồng loại mà chăm lo riêng cho bộ lông của mình. Chính vì vậy mà ông ta theo chủ nghĩa vô thần. Bởi vì, nếu duy tâm, ông ta hiển linh sẽ nhìn thấy mình sinh ra quá nhiều súc vật ! Nên dù là người phương Đông, nhưng ông Hồ Chí Minh cũng đã viết trong Di chúc yêu cầu hỏa táng thi hài và tro sau hỏa táng cho vào ba hộp sành cho ba miền Bắc, Trung, Nam sau khi qua đời.
Ngày Tết hàng năm tôi cố gắng đưa con cháu về quê thắp hương mồ mã ông bà, tổ tiên, muốn dạy cho chúng nó đạo lý "uống nước nhớ nguồn", nhưng tôi cũng nói thêm với chúng nó là có những kẻ đã "uống máu thì không thể nhớ nguồn".
Đỗ Thành Nhân
Nguồn : VNTB, 19/02/2018
Những người cộng sản cầm quyền xây lăng tẩm to lớn, tượng đài hào nhoáng và giờ lại thêm hay nghĩa trang bia mộ to lớn cho mình thì cũng chỉ mục đích là mong chế độ của họ sẽ tồn tại mãi với thời gian qua sự chễm chệ của những thứ hào nhoáng đó trên trần gian.
Những ảo vọng phù du đã khiến cho những ông quan lớn cố xây những tượng đài ngàn khắp nơi và giờ là nghĩa trang ngàn tỷ cho các cán bộ cao cấp.
Bất chấp đói nghèo khắp vùng sâu vùng xa, bất chấp nợ công cao ngất thì Ban lãnh đạo đất nước vẫn lao vào những việc vì lợi ích ích kỷ cho chính mình và đảng phái của mình. Như một đám thủ du thủ thực họ cưỡng chiếm được đất nước Việt Nam rồi thì họ là người sở hữu đất nước như một thứ chiến lợi phẩm ăn hoài không hết. Bao nhiêu tiêu chuẩn cao cấp, nhà cửa đặc quyền đặc lợi cho giới cầm quyền vung vít xênh xang ở trên đời chưa đủ hay sao mà giờ đây họ còn vung vít xênh xang ở thế giới tối đen ở bên kia, nơi mà mọi người dù là ông đại tướng, ông tổng bí thư đều xuôi tay như mọi người dân đen khác. Nghĩa trang Yên Trung của cán bộ cấp cao chỉ dành cho những người cấp cao, những người đã một đời vinh hoa phú quí trên đầu người dân rồi thì khi chết đi cũng muốn được muôn đời tên tuổi trên đầu những hồn ma dân đen trong kiếp đọa đày chăng ?
Tham vọng hay là những ảo vọng phù du đã khiến cho những ông quan lớn cố xây những tượng đài ngàn tỷ được xây dựng khắp nơi và giờ là nghĩa trang ngàn tỷ cho các cán bộ cao cấp. Cũng xin nói ngay là số tiền 1.400 tỷ chỉ là bước đầu rồi còn đội giá lên khi đi vào chi tiết. Rồi các đơn vị quân nhân làm lính tiêu binh danh dự phải gác cho những hồn ma. Rồi quan tài, rồi đủ thứ lễ bái kiểu Tây, kiểu Tàu... tất cả đều trông vào số tiền đóng thuế khó nhọc của muôn triệu người dân Việt Nam chẳng dính dáng gì đến những lăng tẩm vô tích sự đó.
Thật là một ảo vọng vô ích cho những người có tư tưởng ngu ngốc đó. Hãy nhìn sang đất nước cộng sản đàn anh Liên Xô thì sẽ thấy không nơi đâu có nhiều địa danh mang tên các lãnh tụ Cộng sản nhiều như ở đó với bao thành phố, địa điểm, công trình, nhà máy, trường học... Bao nhiêu lăng tẩm mang tên trá hình là khu tưởng niệm, bao nhiêu dòng văn, bài thơ bài hát ca ngợi những tên tuổi những con người Cách Mạng vĩ đại đó. Nhưng được bao lâu khi chế độ cộng sản chủ nghĩa sụp đổ thì tất cả đã biến mất như chưa từng hiện hữu. Giờ đây làm gì còn thành phố công trình nào mang tên K. Marx, F. Enghel, V. Lenin, J. Stalin, V. Kirov... Những vần thơ hay những bài ca veo véo ca ngợi những cái tên đó đâu có còn vang lên nữa trong cơn sốt đập bỏ tất cả những tượng đài trên một cách không thương tiếc. Các lăng tẩm ước xác của V. Lenin thì đều bị trục xuất hoặc hạ tầng thê thảm. Ngay cả lãnh tụ cách mạng vĩ đại của đất nước cộng sản Cuba đang được người em R. Castro cầm quyền cũng như nhìn thấy trước cơn sốt đập phá khi đất nước đổi màu cờ nên quyết định không có bất cứ địa danh hay tượng đài nào mang tên Fidel Castro cả.
Khi ông Võ Nguyên Giáp qua đời thì có thể do cao ngạo không muốn nằm chung với các ông đã đầy ải mình như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ở Nghĩa Trang Quốc Gia Mai Dịch, hoặc cũng có thể lo xa, sợ ở Mai Dịch mà khi có nạn can qua, bọn dân đen nổi dậy nó đốt phá Nghĩa Trang Mai Dịch thì mình mất mả nên ông Giáp và gia đình quyết định cho ông tướng này ra nằm ở đảo Chùa, Vũng Yến, Quảng Bình. Mặc dù lúc đó cam kết không tốn tiền ngân sách để bảo quản mộ nhưng qua thời gian thì đó chỉ là lời nói dối. Mộ ông Giáp được quân đội chăm lo bảo vệ, tối thắp đèn, sáng vòng hoa với cả một đội tiêu binh danh dự để canh gác cho một ông tướng không xứng đáng với vinh dự ấy (1). Người dân sẽ không biết số tiền khủng ấy là bao nhiêu nhưng biết chắc nhà nước này sẽ chi tiền ngân sách cho lăng Võ Nguyên Giáp cho đến khi tận thế, nếu chính quyền này tồn tại đến tận thế.
Cũng nên nói ngay các cán bộ cấp cao này cũng chẳng ai nghèo đến mức phải nhờ tiền ngân khố để xây cái nghĩa trang khủng này mà chính là cái danh cái dự để đua tranh kể cả khi đã chết. Phải hiểu là những người cộng sản đã tạo nên một tầng lớp cán bộ cấp cao cùng gia đình họ có những tính cách khôi hài. Mặc dù xuất thân từ đồng chiêm nước trũng Bắc Kỳ hay vùng chó ăn đá, gà ăn sỏi miền Trung hoặc miền đất rặc phèn chua Nam Bộ nhưng cứ lên được chức vụ cao về Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh là ở tịt trên đó không về. Có nhà cao cửa rộng ở hai thủ đô mới, cũ rồi là chết cứ phải ở hai nghĩa trang quốc gia chớ chẳng có mấy người chịu đem thân xác về quê hương tỉnh lẻ của mình.
Xây dựng Nghĩa Trang Quốc Gia mới này sẽ sinh thêm một thứ kèn cựa của những quan lớn sắp chết nữa. Ai sẽ có chuẩn được nằm trong Yên Trung, ai sẽ không. Ai sẽ được nằm ở vị trí nào gần mặt trời trung tâm nhất, và thậm chí ai được dẫn vợ vào nằm cùng để dễ bề chăn gối vợ chồng nơi miền đất thánh âm u...
Trước đến giờ các quan to kèn cựa từng chút trong các câu lạc bộ cựu này cựu kia, tranh cãi nhau ầm ĩ như các cụ tiên chỉ làng ngày xưa cãi nhau dành thủ lợn. Nào là ông nào ở chiếu trên với bao nhiêu huy chương, huy hiệu hay tuổi Đảng, rồi chết đi thì có bao nhiêu vòng hoa hay đồng chí to nào đến chia buồn hay đọc cáo phó. Từ ngữ thì "Chia buồn, Vô cùng thương tiếc hay Vô cùng đau đớn báo tin…" chỉ là những thuật ngữ tầm thường với người dân nhưng là những đòi hỏi sống chết của các ông sắp về núi. Rồi chết thì thông báo ra sao, tổ chức ở đâu, bao nhiêu xe hoa. Ai cũng tranh chấp những điều phù phiếm vô nghĩa đó và còn ai nghĩ đến những ngàn tỷ đồng tiền quốc khố gió bay đi cùng với sự phù phiếm vô nghĩa đó. Ảo vọng sẽ mãi chỉ là ảo vọng nhưng hàng ngàn tỷ đồng xây cất nghĩa trang lại là những đồng tiền thật mà người dân Việt Nam phải chắt chiu mới có được.
Đã bao nhiêu đặc quyền đặc lợi để phân chia 4 triệu công dân hạng nhất với 90 triệu công dân hạng nhì rồi mà giờ đây còn xây dựng nghĩa trang lăng tẩm hùng vĩ để cho vài ngàn công dân đặc biệt được sống mãi ở thế giới bên kia trên đầu dân tộc Việt Nam. Hãy nhìn để làm gương bao chế độ vương quyền phong kiến ngày xưa cũng xây dựng bao lăng tẩm sừng sững thì giờ đây tất cả đã không còn, hoặc nằm im ở đâu đó với quên lãng của người đời và rêu xanh của thời gian...
Mai Tú Ân
Nguồn : VNTB, 10/02/2018
-----------------
(1) Những người trắng đêm canh giấc ngủ cho Đại tướng (TTO, 21/12/2013)
Hơn hai tháng kể từ ngày Đại tướng Võ Nguyên Giáp mất cũng là hơn 60 đêm các chiến sĩ biên phòng thuộc đội bảo vệ khu vực mộ Đại tướng tại Vũng Chùa, xã Quảng Đông (Quảng Trạch, Quảng Bình) gần như phải thức trắng đêm.
Anh Hoàng Đức Lợi, một trong 31 chiến sĩ biên phòng hướng dẫn khách vào viếng mộ Đại tướng chiều 21/12 - Ảnh : Quốc Nam
Đội bảo vệ mộ đại tướng được thành lập sau ngày an táng đại tướng, gồm 31 chiến sĩ thuộc đồn biên phòng Ròn (Quảng Bình). Các anh đứng giữa mưa bão, giá rét căm căm để bảo vệ sự bình yên cho giấc ngủ ngàn thu của vị Đại tướng mà các anh đều tôn kính.
Không rời vị trí dù đêm mưa bão
18g, trời bắt đầu tối om là lúc Vũng Chùa trở thành vũng gió. Từng đợt gió rát buốt dồn dập hắt vào từ phía biển làm những người lính bắt đầu lạnh cóng. Đó cũng là lúc ca gác đầu tiên của buổi tối bắt đầu vào vị trí. Sáu cán bộ biên phòng được chia thành ba điểm chốt dọc từ phía bãi đổ xe lên đến bên phần mộ Đại tướng.
Giữa đêm giá rét, hai chiến sĩ biên phòng vẫn đứng canh gác bảo vệ mộ Đại tướng - Ảnh: Quốc Nam
Một nhóm gần chục cán bộ biên phòng khác dẫn theo chó nghiệp vụ bắt đầu vòng lên phía sườn núi quanh khu vực mộ thực hiện nhiệm vụ đi tuần tra. Tại khu vực huyệt mộ, vị trí quan trọng nhất và cũng là điểm cao nhất trong khuôn viên khu mộ, chiến sĩ Hoàng Văn Quả cùng một chiến sĩ khác vẫn đứng nghiêm trang.
Bộ quân phục biên phòng, chiếc mũ vải trùm xuống vành tai cùng đôi găng tay len mới được cấp là tất cả những hành trang mà người lính canh gác được khoác lên người. Khoảng hai tuần gần đây, nhiệt độ ngoài trời tại Vũng Chùa xuống dưới 10 độ C. Ban đêm thấp hơn nữa. Ca trực của chiến sĩ Hoàng Văn Quả kéo dài đến nửa đêm. Khoảng 3g sáng lại phải ra trực ca khác.
Chiến sĩ Khắc Ngọc Tân Hào, đội trưởng đội bảo vệ khu mộ Đại tướng, nói mới hơn hai tháng nhưng mỗi tháng đội bảo vệ nếm trải một cảm giác khác nhau: tháng đầu tiên là "tháng dầm mưa". Nặng nề nhất là đợt bão số 11 và siêu bão Hải Yến. 31 người lính phải thay phiên nhau vừa trực vừa đi tuần nên bình quân mỗi đêm mỗi người phải trực hai ca. Trước và trong lúc bão kéo tới, mưa xối xả, gió giật bay luôn các lều bạt dã chiến. Các chiến sĩ mặc áo mưa đứng gác quanh khu mộ. "Tấm áo mưa lâu quá cũng bị thấm nước. Xong ca gác ai nấy đều ướt. Có đêm mưa suốt đêm, áo quần không kịp khô để thay ca khác…", chiến sĩ Hào kể.
Ấm lòng
22g đêm, Vũng Chùa lạnh buốt. Nơi mộ Đại tướng có mấy bóng đèn chiếu sáng bằng máy nổ, còn lại xung quanh tối mịt mù. Nhà dân gần nhất cũng cách đó hơn 2km nhưng nằm phía bên kia chân núi. Bất chợt có một ánh đèn xe từ từ tiến vào khu mộ.
Thông tin về đoàn viếng muộn này nhanh chóng được báo lên vị trí canh gác bên huyệt mộ. Đó là một đoàn sinh viên từ miền Bắc đang đi thực tập ngang qua tranh thủ vào viếng Đại tướng. Việc hành lễ vẫn diễn ra như bình thường.
Chiến sĩ Hoàng Đức Lợi, một cán bộ gác chốt trên huyệt mộ, nói đây vẫn chưa phải là đoàn đến viếng muộn nhất. Anh Lợi kê mới tháng trước có một đoàn khách là cựu chiến binh từ Điện Biên vào viếng mộ Đại tướng. Vượt hơn một ngàn cây số đến nơi cũng là gần 1g sáng. Các cựu binh cứ nhìn mộ Đại tướng khóc nức nở. Có người đã hơn 90 tuổi, đi không vững vẫn cứ nằng nặc đòi đi bằng được đến tận nơi thắp cho Đại tướng nén nhang, sờ lên chỗ Đại tướng nằm.
Chiến sĩ Lợi tâm sự nhìn những cảnh như thế anh em trong đội thấy ấm lòng, đêm gác vì thế cũng bớt lạnh hơn: "Rét run cầm cập nhưng anh em bảo nhau phải cố gắng. Hàng ngàn người từ cách cả ngàn cây số đội rét đến viếng Đại tướng được thì mình sợ chi giá rét".
Chiến sĩ Hoàng Văn Quả kể anh nhận được lệnh điều động về Vũng Chùa ngày 22/10. Khi đó anh như run tay bởi không bao giờ dám nghĩ mình có ngày lại được ở gần Đại tướng đến thế. Lúc nhận tin Đại tướng mất, anh đang công tác tại đồn biên giới Cà Roòng, thuộc xã Thượng Hóa, huyện Tuyên Hóa. Suốt những ngày diễn ra lễ tang anh cùng anh em trong đơn vị cứ dán mắt vào tivi để xem tin tức và bái vọng Đại tướng. "Với những người lính như chúng tôi, Đại tướng như anh, như cha. Được canh cho người yên nghỉ đã là một niềm vinh dự lớn chứ đừng nói đến gian khổ", chiến sĩ Quả nói.
Đại tá Nguyễn Văn Phúc, chỉ huy trưởng bộ đội biên phòng Quảng Bình, cho hay khi biết Đại tướng về an nghỉ tại Vũng Chùa, có rất nhiều cán bộ chiến sĩ biên phòng tình nguyện về Vũng Chùa để canh giấc ngủ ngàn thu cho Đại tướng. Ai cũng nói rất quyết tâm rằng khổ mấy cũng chịu được, miễn là được ở gần Đại tướng.
"Hiện anh em trong đội canh gác vẫn phải ăn uống tắm giặt bằng nước khe suối, điện chỉ chạy máy nổ, nhưng hỏi ai cũng đều lắc đầu không muốn về. Mọi người đều nói rằng cả cuộc đời Đại tướng đã dành cho đất nước, nên xin được ở lại góp chút công sức chăm sóc cho Người khi về với đất mẹ", ông Phúc kể.
Quốc Nam
Nếu xét trên chính sách vĩ mô của nhà cầm quyền, ba khái niệm : Hố chôn tập thể ; Nghĩa trang (Yên Trung) nghìn tỉ và ; Những đứa bé đói khổ, rét lạnh nơi miền núi không có gì liên quan với nhau. Bởi chính sách dành cho mỗi lĩnh vực, mỗi mảng đều riêng lẻ. Nhưng xét trên khía cạnh con người, tính nhân bản, nhân văn, nhân đạo và trách nhiệm của nhà cầm quyền, thì ba vấn đề này đều thuộc về lương tri. Sự cân đối, phân bổ hợp lý ở ba lĩnh vực, khía cạnh này sẽ cho thấy mức độ quan tâm, trách nhiệm và lương tri của nhà cầm quyền.
Karl Marx, ông tổ của chủ nghĩa cộng sản thế giới từng đưa ra một nhận định trong Tư Bản Luận (sau này, trong Chính sách kinh tế mới, viết tắt là NEP – New Economy Policy của Lênin cũng nhắc lại) : Chỉ có những con thú mới quay lưng đi để liếm bộ lông trước đồng loại bị thương. Và xét trên một ý nghĩa nào đó, khi no đủ, người cộng sản lại chọn khuynh hướng đi ngược với giáo huấn của tổ phụ Karl Marx.
Nghĩa là, xét lại tiền ngân sách nhà nước, do đâu mà có. Xin nói nhanh, do nhân dân đóng thuế mà có ngân sách nhà nước. Bản chất và hiệu dụng của ngân sách nhà nước là gì ? Đó là nói một cách sâu xa, ngân sách nhà nước đóng vai trò quĩ tiết kiệm và an sinh cho toàn dân thông qua sự điều hành của nhà nước. Vấn đề an sinh xã hội, cân bằng dân số, y tế, giáo dục, văn hóa, an ninh xã hội đều phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Một khi các vấn đề an sinh xã hội và an ninh xã hội được đáp ứng đầy đủ, nhà nước mới được quyền dùng ngân sách trong các lễ lạc, tượng đài, những công trình không mang tính xã hội.
Mô hình Nghĩa trang Yên Trung dự trù kinh phí hơn 1.400 tỷ đồng dành cho các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam. (Ảnh : VietnamFinance)
Ở đây, nghĩa trang Yên Trung có được xem là công trình xã hội hay không ? Bởi ngày trong lúc này, có quá nhiều vấn đề xã hội cần được quan tâm đúng mức và đầy đủ, nếu chưa thực hiện được các vấn đề như an ninh, chủ quyền quốc gia, an ninh xã hội, an sinh xã hội… Thì tất cả những vấn đề khác nhà nước đều không được trích thuế của dân để thực hiện. Phải dành thuế của dân cho những vấn đề có tính thiết thực cho nhân dân.
Những đứa trẻ miền núi phong phanh trong tuyết rơi.
Thử đặt những câu hỏi : Có bao nhiêu đứa bé dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi được đến trường, cơm đủ ngày ba bữa, có áo ấm để mặc ? Có bao nhiêu hố chôn tập thể gồm cả hai phía Việt Nam Cộng Hòa và cộng sản Bắc Việt đã thành những hố lãng quên ? Và tất cả những cổng chào, tượng đài, nghĩa trang nghìn tỉ của nhà nước mang lại giá trị gì cho quốc gia, dân tộc ?
Ở câu hỏi thứ nhất, về những đứa bé nghèo, có thể nói rằng khắp đất nước Việt Nam, từ thành phố đến thôn quê, vùng sâu vùng xa, miền núi, càng đi sâu vào vùng hoang vắng thì sự nghèo khổ càng hiện rõ. Bạn tôi từng lắc đầu, chép miệng nói với tôi về những đứa bé đồng bào thiểu số khi trời rét còn chưa tới 10 độ C mà chúng vẫn không mặc quần (do không có quần để mặc) rằng "mấy đứa này trời nuôi chứ không phải người nuôi". Bất kỳ huyện miền nhúi vùng sâu, vùng xa nào tại Việt Nam đều có cảnh thiếu, đói, trời lạnh không có áo ấm, trẻ con bỏ học sớm hoặc không có cơ hội đến trường hoặc đến trường bằng những chiếc cầu dây tử thần băng qua suối chảy xiết… Có một ngàn lẻ một kiểu thiếu, đói tại Việt Nam.
Những hố của quan chức Việt Nam Cộng Hòa và thường dân (bị cộng sản nằm vùng giết để trả thù và bịt đầu mối cơ sở) trong trận Mậu Thân Huế, 1968
Nói về những hố chôn tập thể, sở dĩ tôi phải nói đến cả hai phía bởi chỉ riêng chiến dịch tổng tiến công Mậu Thân 1968, tại Huế và nhiều tỉnh khác đã xuất hiện hàng trăm hố chôn tập thể. Trong đó, có những hố của quan chức Việt Nam Cộng Hòa và thường dân (bị cộng sản nằm vùng giết để trả thù và bịt đầu mối cơ sở) và có những hố chôn của chính những người cộng sản chôn người cộng sản.
Trường hợp cộng sản chôn cộng sản diễn ra như thế nào ? Đó là những người bộ đội cộng sản Bắc Việt bị tổng động viên từ những ngày đầu năm 1967 cho đến thời điểm hành quân vào miền Nam để tham gia "tổng tiến công". Cũng xin nói thêm, những bộ đội cộng sản Bắc Việt tham chiến Mậu Thân là những cậu bé từ 13 đến 15 tuổi, họ không có gì ngoài lòng căm thù Mỹ, Ngụy rất con nít mà họ có được thông qua nền giáo dục miền Bắc với thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật, Chính Hữu… Họ chỉ biết Mỹ, Ngụy là những kẻ ăn thịt người man rợ và họ phải đi vào miền Nam để "giải phóng cho người miền Nam", một số người trước khi đi đã xăm hàng chữ "sinh Bắc tử Nam".
Khi vào đến miền Nam, vào Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, có nhiều bộ đội trẻ giật mình vì "lập trường chính trị không vững", khi nhìn thấy miền Nam đẹp, thanh bình và giàu có, hiện đại, không như những gì họ được dạy… Nhiều bộ đội đã tỏ ra lơ là, không còn hăng say tinh thần chiến đấu. Và cái đêm giao thừa định mệnh Tết Mậu Thân, họ bị cấp chỉ huy đưa vào vị trí chiến đấu, xích chân vào nhau để khỏi bỏ chạy lúc đánh nhau. Thường thì một tiểu đội hoặc một trung đội trẻ bị xích chân với nhau để từ đó họ phải bắn và bắn, chiến đấu và chiến đấu cho đến lúc chết.
Và hầu hết những tiểu đội, trung đội thiếu niên này đều chết trong lúc vứa đánh vừa bị xiềng chân. Họ cũng không được chôn cất tử tế, sau này, xương cốt của họ được phát hiện và chôn cất, cởi trói khi có những người dân xây cất nhà cửa, đào móng nhà và đào trúng nơi họ nằm. Tại Gò Vấp, Sài Gòn, tại trung tâm thành phố Huế, tại Đà Nẵng, Quảng Nam đều có những hố chôn như vậy. Và vẫn còn một vài nhân chứng sống, đã chứng kiến những bộ đội trẻ nít phải chiến đấu, chết và bị chính các đồng đội lấp đất trước khi rút quân ra sao. Đó là chưa nói đến một số trường hợp chính cộng sản bị cộng sản giết do họ không muốn tiếp tục theo con đường "giải phóng miền Nam’, họ xin về quê làm ăn, cưới vợ, và khi ra khỏi bưng, họ bị giết, bị chôn ở bìa rừng, con số này không hề ít.
Nếu cộng thêm các hố chôn tập thể mà quan chức, cán bộ miền Nam bị giết trong chiến tranh, đặc biệt là Tết Mậu Thân và những ngày trước 30 tháng 4 năm 1975, có lẽ con số lên đến cả hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn xác người vẫn còn nằm lây lất, rải rác, vất vưởng đâu đó trong lòng đất mẹ. Lẽ ra, trong nhiều năm nay, nhà cầm quyền, cụ thể là đảng cộng sản phải có những hành động qui tập, hỗ trợ qui tập cho cả hai phía để thực hiện tinh thần "nghĩa tử là nghĩa tận" và cũng là động thái hòa giải dân tộc để đi đến hòa hợp dân tộc thay vì kêu gọi bằng những văn bản, lời nói suông. Nhưng họ đã không làm vậy !
Bây giờ, xương máu, sự đau khổ của nhân dân vẫn còn đầy rẫy mặt đất, đi đâu cũng gặp cảnh khổ, đi đâu cũng gặp những gia đình mất con, mất anh em chưa tìm thấy xác vì chiến tranh. Vậy mà người cộng sản lại nghĩ đến chuyện lấy tiền thuế của nhân dân để xây khu nghĩa trang cho cán bộ cao cấp ! Nên nhớ, trong tiền ngân sách nhà nước, cụ thể là tiền thuế của dân, gồm cả sự đóng góp của cả hai phía, không có đồng thuế nào là không nhuốm mồ hôi, nước mắt của dân nghèo, của những bà mẹ liệt sĩ cộng sản, của những bà mẹ quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử trận và cả những đồng đô la của người Việt hải ngoại gửi về cho người thân trong nước.
Nói một cách nghiêm túc, ngân sách nhà nước có không dưới 40% là tiền có gốc gác của người "phía bên kia". Dù có chối bỏ, léo hánh cách gì thì đây cũng là sự thật. Nhưng vấn đề tôi muốn nói ở đây không phải là tiền phía bên này hay bên kia trộn lẫn trong ngân sách nhà nước. Mà vấn đề là một đất nước đang bị tùng xẻo, cây xanh, môi trường, tài nguyên đang kiệt quệ, những khối bê tông cơ quan, nhà quan và tượng đài mọc lên ngày càng quá nhiều, nó hiện hữu như thách thức nỗi khốn cùng, đói khổ và đau khổ của nhân dân.
Trong lúc biển bị nhiễm độc vẫn chưa kịp lành lặn, tiếp tục bị đe dọa bởi Formosa, trong lúc miền Tây Nam bộ đang bị nhiễm mặn trầm trọng, nhân dân đói khổ, trong lúc trẻ em miền núi, nhân dân miền núi vẫn đói khổ, lạc hậu, trong lúc tài nguyên rừng và khoáng sản bị tùng xẻo không thương tiếc, trong lúc vết thương Nam – Bắc chưa kịp lành lặn, trong lúc nợ công cao chất ngất, người dân còng lưng đóng thuế vì nợ công, giá xăng tăng, điện tăng, vật giá leo thang, các bệnh viện không có chỗ nằm, bệnh nhân phải chui gầm giường, nằm hành lang mà chờ điều trị… Thì nhà cầm quyền lại quyết định xây dựng thật nhiều tượng đài, cổng chào, ngốn hàng tỉ tỉ đồng, rồi lại nghĩ thêm chuyện xây khu nghĩa trang cao cấp cho cán bộ.
Liệu có khi nào giới cầm quyền suy nghĩ về những gì họ đã làm bấy lâu nay ? Liệu có khi nào họ đặt mình vào nhân dân nghèo khổ để thấy sự vô lý và trơ tráo của họ ? Và liệu có khi nào họ nghĩ đến một chân lý : Tượng đài xây được thì đập được, nghĩa trang xây được thì cào bằng được, cổng chào xây được thì hạ được… Bởi những thứ này không phải là sức mạnh, không phải là trường tồn. Bởi sức mạnh, sự trường tồn của một dân tộc nằm trong tay nhân dân.
Cụ thể, sức mạnh dân tộc nằm trong niềm tin, sự hưởng ứng, đồng thuận và cảm phục của nhân dân. Và sức mạnh của một đảng phái so với sức mạnh của một dân tộc cũng chỉ bằng một bụi cây trong một vườn cây. Liệu cách lựa chọn đạp qua mọi dư luận, đạp qua mọi sự bất bình, bất công để đạt sự thỏa mãn của một đảng phái, một nhóm lợi ích có phải là lựa chọn thông minh ?
Và vấn đề cần đặt ra ở đây không phải là sự lựa chọn có thông minh hay không thông minh của đảng cầm quyền, mà là sự công bằng xã hội, sự sòng phẵng, tính minh bạch và tôn trọng nhân dân bắt buộc phải có của nhà lãnh đạo. Họ dù muốn hay không muốn cũng phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân và không được phép đạp lên nỗi đau, nỗi khổ của nhân dân mà hưởng lộc ! Bởi đất nước đã quá đủ đau khổ, nhân dân đã quá đủ lầm than và hơn bao giờ hết, nhân dân, đất nước cần phát triển, cần tiến bộ, cần tồn tại đúng nghĩa một dân tộc, một quốc gia !
Viết từ Sài Gòn
Nguồn : RFA, 05/02/20148
(VietTuSaiGon's blog)