Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Tháng 04 và 05/2020, đồng bằng sông Cửu Long trải qua mùa hạn hán và xâm nhập mặn kéo dài nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, thiệt hại về mùa màng không lớn bằng đợt hạn 2016 do người dân và chính quyền địa phương đã rút được bài học và chuyển đổi một số diện tích cây trồng, theo nghị quyết số 120/NQ-CP Về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, có hiệu lực từ ngày 17/11/2017.

mekong1 - Copie

Người dân Vĩnh Long, Việt Nam vận chuyển gạo trên sông Mekong. Wikimedia Commons

Nghị quyết này đã giúp tháo gỡ về mặt chính sách cho Việt Nam, theo nhận định của tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong, khi trả lời phỏng vấn RFI tiếng Việt. Ngoài ra, ông cũng nhấn mạnh đến nguồn nhân lực và sự phối hợp giữa các nước trong vùng để có thể bảo đảm tương lai bền vững cho khu vực sông Mekong.

***

RFI : Mùa hạn 2020 đã khiến ngành nông nghiệp trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là ngành trồng lúa, bị tác động nặng, đâu là giải pháp cho lĩnh vực này ?

Dương Văn Ni : Năm 2017, thủ tướng ra nghị quyết 120. Tôi cho là nghị quyết 120 là một trong những tháo gỡ về mặt chính sách tốt nhất cho Việt Nam vào lúc này. Nghị quyết 120 đó đề cập đến mấy vấn đề cốt lõi.

Vấn đề thứ nhất đề cập là các nguồn nước, kể cả nước mặn, cũng phải xem như một dạng tài nguyên. Điểm này hoàn toàn khác với tư duy trước đó : Hễ thấy nước mặn là phải có một công trình nào đó ngăn chặn. Bây giờ công nhận nước mặn như một tài nguyên để mà khai thác nó dưới diện nào đó cho có hiệu quả về kinh tế. Tôi cho rằng sự thay đổi đó rất là căn cơ.

Nhưng điều quan trọng hơn nữa là nền nông nghiệp : Nhà nước cho phép chuyển dịch nền nông nghiệp theo hướng chiều sâu, hay là theo hướng có hiệu quả kinh tế nhất, chứ không phải là khư khư ép người dân trồng nhiều lúa để gọi là "bảo đảm an ninh lương thực". Đây là điều làm trong nhiều năm qua, chúng ta đẩy mạnh diện tích lúa ra sát bờ biển, trong khi vùng sát bờ biển vốn không thuận lợi cho trồng lúa. Bởi vì, năm nào khi dứt mưa, vùng này chắc chắn là sông rạch bị ảnh hưởng nặng, bị nhiễm mặn. Nhưng nhờ đợt hạn mặn 2015-2016 cho thấy những nỗ lực đưa nước ngọt, đưa cây lúa ra vùng duyên hải rất là bấp bênh. Những bài học đó giúp cho người dân, giúp cho chính quyền địa phương và cả cấp trung ương nhìn thấy ra được vấn đề chỗ nào rất bị tổn thương, chỗ nào không cần chăm chăm đưa cây lúa vào đó.

Tôi cho rằng 2017, Nhà nước ra được nghị quyết 120 là tháo gỡ khó khăn mang tính vĩ mô và như vậy nó giúp cho người dân có cơ hội điều chỉnh lại sản xuất của họ. Có nghĩa là nếu vùng đó thường xuyên bị mặn đe dọa và xâm nhập như vậy, tốt nhất là chúng ta nên chọn loại cây trồng, vật nuôi nào phù hợp hơn là cứ cố giữ khư khư cây lúa theo chỉ thị của Nhà nước. Đó là cái mở mang rất tốt !

RFI : Sau khi Nhà nước ban hành nghị quyết 120, nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long hiện chuyển sang hướng canh tác nào được cho là phù hợp với điều kiện thời tiết của vùng ?

Dương Văn Ni : Nghị quyết chỉ mang tính rất tổng thể, giải quyết được vấn đề vĩ mô. Còn để đi vào thực tế, thực tiễn từng vùng, thì điều này lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự sáng tạo của người dân và chính quyền địa phương.

Bởi một lý do là trong một thời gian dài, chúng ta tập trung quá nhiều cho cây lúa, và bây giờ chuyển qua cây trồng và con khác, thì thứ nhất phải cần đến hạ tầng về kỹ thuật phải tương đối đồng bộ (hệ thống tưới tiêu, hệ thống dẫn nước…). Bây giờ ví dụ muốn nuôi trồng thủy sản, thì cũng phải có cải tiến hoặc thiết kế lại, công việc này tốn rất nhiều thời gian, cũng như kinh phí.

Điểm thứ hai, quan trọng hơn, đó là hạ tầng về xã hội và kinh tế. Ví dụ, ngày xưa trồng cây lúa, thì bao nhiêu chục năm nay, người dân biết trồng như thế nào. Bây giờ chuyển sang một cây trồng khác, việc đầu tiên là người dân phải nắm được kỹ thuật để quản lý mùa vụ của cây con đó. Khi người dân đã biết những việc đó rồi thì hạ tầng, dịch vụ phục vụ liệu đã có sẵn chưa, bởi vì một thời gian dài, chúng ta chỉ phục vụ cho cây lúa, giờ chuyển sang cây con khác, người ta không chuẩn bị sẵn vật tư, phân bón hay thuốc sâu, thuốc bệnh đó.

Tiếp theo phải nói tới công lao động. Phải nói rằng hiện nay cây lúa đã được cơ giới hóa với một tỉ lệ rất lớn, từ khâu làm đất đến thu hoạch. Bây giờ chuyển qua những cây trồng khác thì cần một lượng lao động nhiều để chuẩn bị gieo sạ hay thu hoạch. Điểm quan trọng cuối cùng là không biết bán cho ai và ai ăn, nên vẫn chưa biết thị trường ở đâu.

Những điểm trên cho thấy rằng mặc dầu nghị quyết 120 đã tháo gỡ những nút thắt, nhưng để chuyện đó thành hiện thực, cụ thể ở một nơi nào đó, thì cần sự quyết tâm và sự sáng tạo của người dân và chính quyền địa phương nơi đó.

RFI : Ngoài tình trạng thiên tai, còn phải nêu thêm vấn đề nguồn lao động do người dân, đặc biệt là thanh niên, di cư lên các thành phố lớn. Tương lai của đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao ?

Dương Văn Ni : Nếu mà gọi là tương lai của đồng bằng sông Cửu Long như thế nào, chúng ta phải chia làm mấy loại tương lai.

Thứ nhất là tương lai gần. Tôi thấy trước mắt một vấn đề rất cụ thể là diện tích bình quân trên đầu người đã quá nhỏ do mật độ dân cư của đồng bằng đã quá lớn : Trước đây chỉ có 5-6 triệu người, giờ lên tới 20 triệu. Rồi vấn đề thiên tai, dịch bệnh, nước biển dâng, mưa bão... làm cho người dân không sống nổi trên mảnh đất của mình nữa, bởi thu nhập không đủ để trang trải nhu cầu của cuộc sống. Thành thử ra hiện nay, những người trẻ phải bỏ xứ, đi làm những nơi xa như ở trên thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Sông Bé... Đây là một vấn đề rủi ro cho tương lai. Rủi ro là vì nguồn nhân lực không phải là thanh niên nữa.

Thứ hai là các đập ở phía thượng nguồn sẽ làm cho dòng nước thất thường, lúc nhiều thì nhiều qua, lúc ít thì lại không có thêm, gây hạn chồng hạn, lũ chồng lũ. Do đó, những thiên tai do con người đóng góp vô làm cho thêm trầm trọng, càng ngày càng nhiều trong tương lai.

Cái thứ ba, nói gì thì nói, chúng ta nhìn năng lực sản xuất của người dân đồng bằng mới là vấn đề quan trọng. Trong vòng 100 ngày thôi, ở đồng bằng này, người ta có thể sản xuất ra 7-8 triệu tấn lúa. Chưa thấy một vùng đồng bằng nào trên thế giới lại có một năng lực sản xuất, gọi là tương đối đặc biệt như vậy. Nếu sức sản xuất của đồng bằng sông Cửu Long bị mai một bởi vì nguồn nhân lực trẻ không còn ở tại chỗ, rồi đất đai bị bạc mầu dần vì không còn được phù sa bồi thêm nữa, rồi nguồn nước thất thường... tất cả những yếu tố đó đe dọa đến một vấn đề rất căn cơ : Làm cho "bao tử" của nước Việt Nam bị đe dọa.

Do đó, nếu nói về sự ổn định của đồng bằng, ngoài yếu tố ổn định về môi trường, chúng ta phải coi sự ổn định năng lực sản xuất của người dân trong vùng này là điều gì đó quan trọng, từ bằng đến hơn sự phong phú của tài nguyên tự nhiên. Vì nếu tài nguyên tự nhiên có phong phú mà không có con người thì cũng không tạo được vật chất. Do đó, phải biết làm sao phải gìn giữ được năng lực sản xuất này và biết làm sao cho người dân, từng gia đình một, người ta sống nổi trên chính mảnh đất của họ, thì đến lúc đó, chúng ta mới duy trì được tính ổn định.

Thành thử ra, nói ổn định ở đây, nói về tương lai gần, tương lai xa, chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta đang đối diện với một tương lai rất nhiều vấn đề bất định. Nếu chúng ta không tổ chức, gìn giữ được năng lực sản xuất của người dân trong khu vực này, thì chúng ta sẽ phải đối phó với nhiều rủi ro trong tương lai.

RFI : Nhiều nghiên cứu và diễn đàn khoa học đã cảnh báo rằng ổn định của lưu vực Mekong không được bảo đảm. Đâu là những nguyên nhân dẫn đến việc các nước trong khu vực vẫn chưa tìm ra được đồng thuận cụ thể ?

Dương Văn Ni : Đây là một vấn đề rất nổi cộm trong quá khứ, đặc biệt trong thời gian gần đây, nó lại nêu ra một vấn đề mang tính toàn cầu hơn. Trước hết, chúng ta thấy đồng bằng sông Cửu Long mỗi một năm xuất khẩu 6-7 triệu và 2-3 triệu tấn tôm cá... Lượng nông sản này phân phối ít nhất cho tầm 40 quốc gia trên khắp thế giới. Như vậy, đồng bằng sông Cửu Long không chỉ sản xuất để phục vụ cho 20 triệu người dân tại đồng bằng, hay là 100 triệu người dân của toàn nước Việt Nam mà nó còn đóng một vai trò quan trọng trong mắt xích kinh tế thế giới.

Do đó, vấn đề của đồng bằng sông Cửu Long phải vượt ra khỏi lưu vực của sông Cửu Long. Và không thấy ra được chuyện này, thì mọi người chỉ lo phát triển phần của mình. Ví dụ Lào có ưu thế phát triển thủy điện. Nhưng khi phát triển thủy điện thì lại gây ra những hệ lụy ở hạ lưu gồm có Campuchia, Việt Nam... Chúng ta thấy rằng Lào chỉ có khoảng từ 6-8 triệu dân, trong khi nội đồng bằng sông Cửu Long thôi đã có 20 triệu dân và có 60-80 triệu dân sống lệ thuộc vào dòng sông này. Dịch bệnh vừa xảy ra, chúng ta thấy rõ là ngành công nghiệp, dịch vụ bị ngưng trệ, thì lượng điện đâu có cần. Có nhiều điện nhưng không có lương thực thực phẩm trong khu vực, thì phải đối diện với rủi ro rất nhiều.

Điểm thứ hai mà chúng ta thấy là vừa rồi, khi dịch bệnh xảy ra, có hàng triệu người từ các thành phố lớn, như Sài Gòn, Bình Dương, Sông Bé... quay trở về đồng bằng sông Cửu Long tránh dịch. Chúng ta đặt tình huống là nếu đồng bằng sông Cửu Long không còn sức để hấp thụ thì mấy triệu người này đi đâu. Chúng ta biết là họ sẽ tìm những chỗ nào có nước, có lương thực để đi, thì đến lúc đó, liệu biên giới giữa các quốc gia còn thực sự yên ổn không hay là nó sẽ tạo ra sự xáo trộn trong khu vực và sự xáo trộn đó luôn luôn tạo ra nguy cơ lớn nhất cho những cộng đồng nào có số lượng ít.

Chính vì vậy, những quốc gia trong lưu vực sông Mekong phải thấy rằng đây là một vấn đề lệ thuộc lẫn nhau. Thế nhưng, đây lại là một thách thức rất khó, đã bàn từ vài chục năm mà vẫn chưa tìm thấy được một tiếng nói chung. Các quốc gia vẫn thấy phần của mình là quan trọng. Nhưng tôi vẫn tin rằng những đợt xáo trộn dịch bệnh như này cũng làm cho người ta thức tỉnh và nhìn lại tất cả những vấn đề. Hy vọng là sẽ có một tiếng nói, một sự đồng thuận về chia sẻ nguồn nước hợp lý, về gìn giữ hệ sinh thái của sông Mekong, bởi vì đây là tương lai không phải của một thế hệ mà của nhiều thế hệ tiếp theo.

RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong.

Thu Hằng thực hiện

Nguồn : RFI, 08/06/2020

Additional Info

  • Author Dương Văn Ni
Published in Diễn đàn

Lời giới thiệu :

Quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong suốt những năm bao cấp cho tới khi đổi mới nền kinh tế đến nay, nền kinh tế bị trói buộc vào cơ chế bao cấp và nửa thị trường sau này không có gì đáng tự hào về thành tựu. Tuy nhiên, ở những ngành nghề sản xuất, những lĩnh vực của đời sống, chúng ta vẫn gặp những con người tâm huyết, có tài năng và trình độ, đã làm việc và cống hiến cho xã hội những đóng góp quý báu. Điểm chung của những người tài năng và tâm huyết này là họ có những sáng kiến, những công trình, những dự án và giải pháp, sản phẩm rất hữu ích và hữu dụng nhưng không hoặc chưa được công nhận, áp dụng và phổ biến. Một số người đã âm thầm thực hiện các dự án, chương trình hoặc phổ biến sản phẩm của mình trong hoàn cảnh rất khó khăn của môi trường triệt tiêu sáng kiến và nhân tài ở Việt Nam hiện nay. Chúng ta có thể lấy ví dụ, giáo sư Chu Hảo với Tủ sách khai sáng của nhà xuất bản Tri Thức ; Nhà giáo Phạm Toàn với chương trình sách giáo khoa "Cánh Buồm" hoặc tiến sĩ Nguyễn Văn Khải với sản phẩm nước sinh học Ozon, còn gọi là ông già Ozon... Đặc biệt, có một người đã từng lăn lộn với một ngành kinh tế trong suốt cuộc đời, có thời gian tham gia quản lý ngành, luôn suy tư và trăn trở để đưa ra những giải pháp, xây dựng chiến lược phát triển ngành. Đó là tiến sĩ Trần Nhơn với chiến lược phát triển ngành thủy lợi Việt Nam. Có thể nói, cả cuộc đời tiến sĩ trần Nhơn gắn bó với ngành thủy lợi, ông đi lên từ cán bộ thủy lợi, cho tới khi về hưu là thứ trưởng bộ thủy lợi. Ông là người trực tiếp lăn lộn và trăn trở với thực tiễn, kết hợp với tầm nhìn và tư duy sắc bén, đã xây dựng được chiến lược phát triển bền vững của ngành thủy lợi Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả nội dung (tóm tắt) chiến lược phát triển bền vững thủy lợi Việt Nam thông qua giải pháp cốt lõi xây dựng thị trường hàng hóa nước.

*******************

Phần 1

Thực trạng thủy lợi Việt Nam


Hạn hán nghiêm trọng tại khu vực phía Đông Nam tỉnh Gia Lai

Thủy lợi Việt Nam

Để đánh giá thực trạng thủy lợi Việt Nam, tiến sĩ Trần Nhơn đã có sự khảo sát sâu rộng về các phương diện, khía cạnh của ngành thủy lợi trong tương quan với kinh tế nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.

I. Một số đặc thù của ngành thủy lợi, hiện trạng các công trình thủy lợi và năng lực tưới tiêu

Định nghĩa

Theo định nghĩa trong Từ điển Bách khoa (Tập 4, trang 302) : "Thủy lợi : biện pháp tổng hợp nghiên cứu ứng dụng các vấn đề kinh tế, kỹ thuật nhằm phát triển, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên nước, phòng chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra. Gồm : đánh giá, dự báo diễn biến tài nguyên và môi trường nước (cả nước mặt, nước dưới đất) ; xác định nhu cầu nước cho dân sinh và các ngành kinh tế quốc dân theo từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội ; cân bằng nước trong lưu vực, khu vực, vùng và quốc gia ; xác lập các biện pháp cấp, thoát nước cho các đô thị, khu vực kinh tế và các vùng nông thôn ; khảo sát, thiết kế và xây dựng (kể cả các biện pháp chỉnh trị sông và bờ biển) ; quản lý khai thác có hiệu quả công trình và hệ thống thủy lợi, phòng chống lụt bão và quản lý đê điều, quản lý lưu vực, bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái".

Có thể nói ngắn gọn, thủy lợi là phương thức chuyển hóa nguồn nước tự nhiên thành nước sử dụng cho con người và hạn chế, khắc phục tác hại của nước. Như vậy, đối tượng của thủy lợi rất rộng lớn trải khắp mọi miền đất nước bởi nguồn nước tự nhiên có thể là từ sông suối, ao hồ, nước ngầm, nước mưa, nước biển...đồng thời, nước sử dụng cho con người cũng bao hàm nhiều phương diện, nước cho sinh hoạt, nước cho các ngành công nghiệp và nước cho sản xuất nông nghiệp. Nhưng nội hàm thủy lợi chúng ta bàn tới ở đây, chủ yếu liên quan tới việc sử dụng nước trong sản xuất nông nghiệp, và có mối tương quan với các phương diện khác về sử dụng nước. Đối với nguồn nước sinh hoạt, tầm quan trọng là đương nhiên và ai cũng có thể xác nhận một cách tự nhiên. Nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp cũng được cha ông ta tổng kết : Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống. Vai trò của nước trong sản xuất nông nghiệp cũng giữ vị trí hàng đầu, then chốt.

Hiện trạng các công trình thủy lợi và năng lực tưới tiêu

Theo số liệu điều tra thống kê, tính đến năm 2012, cả nước có 6.831 hồ chứa các loại với tổng dung tích trữ nước 50 tỷ m3, trong số đó có 150 hồ với tổng dung tích 39,8 tỷ m3, 6681 hồ với tổng dung tích 10,28 tỷ m3 (26 hồ chứa thủy điện với tổng dung tích là 27,12 tỷ m3, 2.460 hồ chứa thủy nông có dung tích ≥ 200 ngàn m3) ; trên 10.000 trạm bơm điện lớn có tổng công suất lắp máy phục vụ tưới là 250Mw và phục vụ tiêu là 300Mw và 6.000 trạm bơm nhỏ ; trên 5.500 cống tưới tiêu lớn các loại ; trên 126.000 km kênh mương (trong đó có trên 1.000 km kênh trục lớn) ; khoảng 3.700 km đê sông, trên 2.000 km đê biển và trên 23.000 km bờ bao ngăn lũ đầu vụ hè thu ở Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó có 904 hệ thống thủy lợi quy mô vừa và lớn có diện tích phục vụ tưới tiêu từ 200 ha trở lên. Hầu hết các hệ thống thủy lợi lớn nằm ở khu vực Bắc Trung bộ và vùng đồng bằng sông Cửu long chiếm 62,2 %.

Trong những năm gần đây, Nhà nước đã tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông, lâm thủy sản. Các hệ thống kênh mương đang được kiên cố hóa, tính đến năm 2011 cả nước đã kiên cố hóa được trên 40.000 km kênh mương nội đồng (chiếm 23,2% ) trong đó một số vùng đạt tỷ lệ cao như Trung du miền núi phía Bắc (gần 42%), Tây Nguyên (41%), Đông Nam bộ (34,1), Bắc Trung bộ Duyên hải miền Trung (31%). 

Tổng năng lực thiết kế tưới của các hệ thống thủy lợi tính đến năm 2011 bảo đảm cho khoảng 3,47 triệu ha đất canh tác, đảm bảo tiêu thoát nước cho 1,76 triệu ha đất nông nghiệp. Theo báo cáo của các địa phương, năm 2011, tổng diện tích đất trồng lúa được tưới đạt 7,651 triệu ha, diện tích rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày đã đạt khoảng 1,53 triệu ha.

Theo số liệu điều tra nông nghiệp và nông thôn, tính đến năm 2011 cả nước có 6.682 xã (73,6%) đã có hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh : Vùng Đồng bằng Sông Hồng có 86,8% ; vùng Trung du Miền núi phía Bắc có 67,4% ; vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 71,% ; vùng Tây Nguyên có 49,2% ; vùng Đông Nam Bộ có 45,5% và Đồng bằng sông Cửu Long có 92%.

II. Thực trạng công tác quản lý các công trình thủy lợi

Mặt tích cực :

Hệ thống quản lý không ngừng được nâng cấp, hoàn thiện, từng bước đi vào nền nếp.

Về quản lý các công trình thủy lợi đầu mối lớn, hệ thống thủy lợi liên xã trở lên, cả nước hiện có 96 tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi là doanh nghiệp trực thuộc cấp tỉnh, 3 doanh nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 7 đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh và 4 Chi cục Thủy lợi kiêm nhiệm.

Về quản lý các công trình thủy lợi nhỏ và hệ thống kênh mương nội đồng, cả nước có 16.238 Tổ chức dùng nước, bao gồm các loại hình chủ yếu là : Hợp tác xã có làm dịch vụ thủy lợi (Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và Hợp tác xã chuyên khâu thủy nông), Tổ chức hợp tác (Hội sử dụng nước, Tổ hợp tác, Tổ, Đội thủy nông) và Ban quản lý thủy nông. Trong đó, Hợp tác xã và Tổ hợp tác là hai loại hình chính, chiếm 90% Tổ chức dùng nước.

Công tác quản lý khai thác công trình thủy lợi đang từng bước đi vào nền nếp, phục vụ tốt sản xuất, dân sinh. Hoạt động của các tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất, dân sinh. Một số đơn vị ở địa phương và Trung ương đã chủ động đổi mới mô hình tổ chức và cơ chế quản lý nhằm nâng cao hiệu quả các công trình thủy lợi, như : Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Nội, Thanh Hóa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Tiền Giang...

Mặt hạn chế, tồn tại :

Hiệu quả quản lý khai thác công trình thủy lợi còn yếu kém. Mặc dù được đầu tư lớn nhưng công tác quản lý, vận hành hệ thống công trình thủy lợi còn bộc lộ nhiều hạn chế, như : hiệu quả quản lý thấp ; bộ máy tổ chức cồng kềnh ; đội ngũ cán bộ, nhân viên có xu hướng tăng ; năng suất lao động thấp, chất lượng quản trị không cao, công trình xuống cấp nhanh, vi phạm công trình thủy lợi tăng và chưa được tập trung giải quyết dứt điểm ; sử dụng nước lãng phí.

Tổ chức thủy nông cơ sở thiếu bền vững ; năng lực của cán bộ quản lý yếu cả về tổ chức quản lý và kỹ thuật ; tài chính của tổ chức thủy nông cơ sở rất khó khăn, theo báo cáo của địa phương, trên 52% tổ chức có nguồn thu chỉ đáp ứng 65-70% yêu cầu chi, thiếu kinh phí duy tu, sửa chữa nạo vét kênh mương, dẫn đến công trình hư hỏng, xuống cấp nhanh. Một số địa phương có xu hướng giao công trình thủy lợi nội đồng cho Công ty khai thác công trình thủy lợi quản lý, tiếp tục làm tăng gánh nặng lên ngân sách nhà nước.

Quản lý an toàn hồ đập chưa được coi trọng đúng mức, nhiều hồ đập bị xuống cấp có nguy cơ mất an toàn, tổ chức quản lý hồ đập (đặc biệt là hồ đập nhỏ) chưa đáp ứng yêu cầu ; năng lực cảnh báo, dự báo sớm phục vụ chỉ đạo điều hành và vận hành hồ chứa còn yếu.

Thủy lợi chưa đáp ứng được yêu cầu của nền nông nghiệp đa dạng và hiện đại. Hệ thống công trình thủy lợi chủ yếu tập trung cung cấp nước cho cây lúa, phần lớn các cây trồng cạn chưa có tưới hoặc tưới bằng các biện pháp lạc hậu và lãng phí nước. Theo thống kê năm 2012, diện tích gieo trồng chè đạt 129 nghìn ha, cà phê 622,1 nghìn ha, cao su 910,5 nghìn ha, hồ tiêu 58,9 nghìn ha, điều 235,9 nghìn ha, cây ăn quả 675,9 nghìn ha, mía 297,9 nghìn ha, cây rau, đậu 1.004,9 nghìn ha (Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030) nhưng diện tích được áp dụng các giải pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước còn hạn chế. Đầu tư hạ tầng thủy lợi cho phục vụ nuôi trồng thủy sản rất thấp, hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu nuôi.

III. Vấn đề huy động và sử dụng vốn trong ngành thủy lợi hiện nay

Đầu tư vốn cho ngành thủy lợi từ trước tới nay

Nhà nước là chủ thể duy nhất trong việc đầu tư vốn cho ngành thủy lợi từ trước tới nay. Trong vốn xây dựng thủy lợi có hai bộ phận hợp thành, bộ phận vốn xây dựng cơ bản lần đầu tiên và bộ phận vốn đầu tư tiếp tục bảo tồn duy trì năng lực các công trình. Ngoại trừ thời kỳ còn bao cấp, còn hợp tác xã, chỉ có thời kỳ sau khoán 10, cụ thể là với nghị định 112 – HĐBT (Nghị định về thu thủy lợi phí) nhà nước mới đặt vấn đề thu thủy lợi phí. Nhưng chưa có cơ chế và nhận thức đúng đắn trong xác định thủy lợi là ngành kinh tế có thể tự thu bù chi, nên phần thủy lợi phí chưa đủ bù đắp nguồn vốn đầu tư, và xu hướng còn kéo dài, ảnh hưởng tới chính bản thân việc phát triển của ngành.

Về đầu tư cho ngành thủy lợi từ trước tới nay : Thời kỳ từ 1955 – 1975 :

Về vốn : Nếu tính theo giá so sánh năm 1989 thì tổng số vốn đầu tư là : 773.277 triệu đồng. Trong đó, đầu tư cho thủy nông là 610.692 triệu đồng, cho đê kè cống là 162.585 triệu đồng.

Về kết quả công trình : Tổng số công trình thủy nông đã đưa vào khai thác năm 1955 có 88 cái, đến năm 1975 là 1.333 cái, tăng 1.514% so với năm 1955. Trong đó, công trình loại lớn nếu năm 1955 là 12 cái thì đến 1975 là 95 cái, tăng so với 1955 là 791%.

Việc phân bổ vốn các công trình nói trên giữa các vùng có khác nhau, trong đó có thiên hướng tập trung cho vùng Đồng bằng sông Hồng 52,31%, vùng khu 4 cũ chiếm 22,79% ; vùng núi phía Bắc thấp hơn, chỉ chiếm 12,95%, Trung du 11,89% trong tổng vốn đầu tư thủy lợi.

Thời kỳ từ 1976 - 1990 : Thời kỳ đất nước bước vào sự nghiệp xây dựng thủy lợi trong cả nước. Trên cơ sở xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, nên nhà nước vẫn dành trên 9% trong tổng số vốn xây dựng cơ bản từ ngân sách cho ngành thủy lợi. So với thời kỳ 1955 - 1975 thì thời kỳ 1976-1990 tăng 3,6 lần, mặc dù từ 1981 lại đây, vốn này từ ngân sách có bị thu hẹp dần (1986 – 1990) chỉ bằng 77,43% của thời kỳ 1976-1980.

Về vấn đề thu thủy lợi phí

- Thời kỳ từ 1955 - 1984, việc đầu tư vốn (cả 2 loại vốn) hầu hết do vốn ngân sách nhà nước đầu tư. Việc thu phí thủy lợi về cơ bản không đặt ra. Tình hình này kéo dài gần 30 năm cho đến ngày ra đời Nghị định 112 – HĐBT (Nghị định về thu thủy lợi phí).

- Thời kỳ 1985 đến nay, so với mức thu dự kiến cả nước là 400.000 tấn/năm nhưng từ 1986 - 1990, không năm nào đạt được tỷ lệ 50%, lấy năm 1990, năm đạt cao nhất làm ví dụ, cả nước chỉ thu được 168.988 tấn, tỷ lệ đạt 42,24%. Trong đó, vùng Duyên hải miền Trung đạt tỷ lệ 68,33%, đồng bằng sông Hồng 67,11%. Thấp nhất như Đồng bằng sông Cửu Long tỉ lệ đạt là 5,24% so với mức phải thu ; miền Đông Nam Bộ đạt tỉ lệ 9,12% so với mức phải thu.

IV. Những bất cập trong phân cấp và quản lý nhà nước về thủy lợi

Nước là mạch máu của cả nền kinh tế quốc dân

Ban đầu, nhiệm vụ quản lý nhà nước về thủy lợi, là của Bộ Giao thông - Công chính (1945), sau đó là Bộ Thủy lợi - Kiến trúc. Tháng 4/1958, tại kỳ họp thứ 8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa I ra nghị quyết tách Bộ Thủy lợi - Kiến trúc thành Bộ Thủy lợi và Bộ Kiến trúc. Đến tháng 10/1995, Bộ Thủy lợi được sáp nhập cùng Bộ Nông nghiệp và Bộ Lâm nghiệp thành Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chấm dứt 37 năm tồn tại như một bộ chuyên ngành kinh tế kỹ thuật độc lập.

Lý giải cho việc sáp nhập này, người ta cho rằng thủy lợi chỉ là một giải pháp kỹ thuật trong nông nghiệp (cấp nước tưới tiêu cho cây trồng). Tuy nhiên, nước không chỉ là mạch máu của nông nghiệp, mà còn là mạch máu của cả nền kinh tế quốc dân. Do đó, đến năm 2002, chức năng quản lý nhà nước về thủy lợi được chuyển giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, một bộ mới ra đời theo Nghị quyết số 02/2002/QH11 ngày 5/8/2002 của Quốc hội khóa XI.

Chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước (hay thủy lợi) đã được chuyển giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, còn Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chỉ quản lý nhà nước về chuyên ngành thủy nông, tức là phân ngành thủy lợi phục vụ cho nông nghiệp. Điều này dẫn tới những bất cập cụ thể sau đây.

a. Bất cập giữa quản lý nhà nước về đo đạc thống kê tài nguyên nước, dự báo tình hình với quản lý nhà nước về khai thác sử dụng tài nguyên nước và phòng chống thiên tai bởi đang bị tách ra ở hai Bộ ;

b. Giữa bảo vệ, khai thác sử dụng nước mặt và nước ngầm không vào một mối.

c. Đặc biệt là việc phân chia chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ phân phối tài nguyên nước và chức năng quản lý nhà nước về khai thác, sử dụng, phát triển thủy lợi và phòng chống thiên tai ở hai Bộ khác nhau. Lẽ ra không nên có sự phân chia chức năng quản lý nhà nước như trên bởi việc bảo vệ nguồn nước phải đi đôi với xây dựng, khai thác và sử dụng nước. Giải pháp để tiêu thoát nước và cung cấp nguồn nước cho đô thị, công nghiệp khó có thể tách rời tiêu thoát nước và cung cấp nguồn nước chung trên địa bàn, căn bản không có sự tranh chấp giữa các ngành dùng nước.

d. Việc quản lý bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước chưa được phối hợp chặt chẽ. Vừa qua, các phương tiện thông tin đại chúng và nhiều nhà khoa học đã nêu lên nhiều sự việc cụ thể về chuyển nước lưu vực, xả lũ của các hồ thủy điện, điều tiết nước mùa khô của một số hồ thủy điện…không được xem xét chu đáo lợi ích tổng hợp, không đề phòng những hậu quả tai hại cho hạ du ; nhiều thành phố, cơ sở hạ tầng, vùng dân cư, vùng trồng cây lương thực, hoa mầu bị úng ngập nghiêm trọng, kéo dài…mà không thấy bộ, ngành nào phải chịu trách nhiệm, trong đó có nguyên nhân vì phân công chức năng nhiệm vụ chưa rõ ràng.

Hậu quả, hệ lụy trực tiếp

Với tất cả những hạn chế, tồn tại trong thủy lợi Việt Nam trên các phương diện, tiến sĩ Trần Nhơn đã chỉ ra rằng, nguyên nhân cốt lõi trong ngành thủy lợi chính là cơ chế cấp phát, xin - cho trong đầu tư và vận hành các công trình thủy lợi. Những hạn chế của ngành thủy lợi đã dẫn tới những hậu quả, hệ lụy trực tiếp sau đây.

Thứ nhất, nhà nước hiện nay đang phải bỏ ra một khoản kinh phí không nhỏ đầu tư cho ngành thủy lợi, ước tính mỗi năm từ 8-10.000 tỷ đồng.

Thứ hai, Mặc dù số tiền đầu tư nói trên không nhỏ, nhưng cũng không phải là quá lớn, quan trọng hơn, với cơ chế cấp phát, xin- cho đã triệt tiêu động lực của một ngành kinh tế có thể tự đầu tư kinh doanh, lấy thu bù chi.

Thứ ba, Hậu quả của việc không tính đúng tính đủ đầu vào và bao cấp tràn lan cho người được nhận dịch vụ tưới tiêu đã làm triệt tiêu nội lực, động lực phát triển của ngành dịch vụ này và các công trình thủy lợi bị xuống cấp nghiêm trọng ở tất cả mọi nơi.

 Thứ tư, quan trọng nhất, xu hướng bao cấp, cơ chế xin – cho đang làm cho ngành thủy lợi không đáp ứng được các yêu cầu tưới tiêu, ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng cây trồng, sản lượng của toàn ngành nông nghiệp, và gián tiếp tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân...

Hà Nội, ngày 23/01/2017

N.V.B

*********************

Phần II

Hàng hóa nước và chiến lược phát triển thủy lợi bền vững

thuyloi1

Chiến lược phát triển thủy lợi bền vững

Khi đã xác định được nguyên nhân cốt lõi và các nguyên nhân khác dẫn tới những hạn chế, khó khăn trong ngành thủy lợi, cần phải có giải pháp khắc phục triệt để, toàn diện. Giải pháp triệt để chính là tìm ra cơ chế khắc phục nguyên nhân cốt lõi, xóa bỏ cơ chế bao cấp (cấp phát và xin - cho) trong ngành thủy lợi. Tiến sĩ Trần Nhơn đã đưa ra ý tưởng cần xây dựng thị trường hàng hóa nước để chuyển đổi toàn bộ cơ chế bao cấp trong đầu tư của ngành thủy lợi thành cơ chế tái sản xuất vốn, để ngành thủy lợi có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình. Phương châm "lấy thủy lợi nuôi thủy lợi" là giải pháp đột phá giải quyết tận gốc rễ các vấn nạn của ngành thủy lợi, đưa thủy lợi thành ngành kinh tế đầu tàu cho nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam.

Để hình thành và xây dựng được thị trường hàng hóa nước và khắc phục các mặt tồn tại và hạn chế trong ngành thủy lợi, cần quán triệt nhận thức và thực hiện các vấn đề quan trọng sau đây.

I. Hàng hóa nước trong ngành thủy lợi và xây dựng thị trường hàng hóa nước

1. Hàng hóa nước của ngành thủy lợi

Mọi người đều biết một ngành nào đó được gọi là ngành kinh tế hay kinh tế dịch vụ nếu nó có đầy đủ các yếu tố : vốn cố định, vốn lưu động, công nhân, sản phẩm và lợi nhuận. Ngành thủy lợi - các công trình thủy lợi do các xí nghiệp kinh doanh dịch vụ thủy lợi đảm nhiệm - cũng có đầy đủ các yếu tố nói trên, nên nó cũng phải được coi là ngành kinh tế có chức năng dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân. Nước tự nhiên chưa phải là hàng hóa, nhưng nước có sự tác động của con người, có sức lao động con người trong đó, như lọc nước, dẫn nước qua kênh mương, đường ống tới tay người sử dụng, thì nước đó là hàng hóa. Sản phẩm nước đó cũng có hai thuộc tính : giá trị sử dụng (thỏa mãn nhu cầu nào đó của sản xuất đời sống) và có giá trị (có lao động vật hóa và lao động sống kết tinh) nên có giá cả, và để bán - nó cũng là hàng hóa. Với tư cách là hàng hóa nó phải có giá được tính đúng tính đủ, công trình phải được hoàn vốn để tái tạo vốn mới, không chỉ giản đơn mà còn mở rộng.

2. Nét đặc thù của ngành kinh doanh dịch vụ thủy lợi

Xuất phát từ việc xác định ngành thủy lợi không phải là ngành sản xuất vật chất thuần túy mà là ngành kinh tế dịch vụ, nhưng ngoài cái chung vẫn có những nét đặc thù sau :

- Công trình thủy lợi là sản phẩm đơn chiếc, có thời gian xây dựng dài.

- Vốn đầu tư lớn và được xây dựng đồng bộ từ đầu mối đến kênh mương.

- Công trình thủy lợi chỉ có thể bắt đầu phát sinh tác dụng sau một thời gian xây dựng.

- Tính hiệu quả đa ngành đối với công trình. Các hộ sử dụng sản phẩm (dịch vụ) của công trình thủy lợi sẽ tạo ra sự tăng trưởng vượt bậc về năng suất, chất lượng sản phẩm và do đó thu được một khoản lợi nhuận siêu ngạch to lớn.

- Sản phẩm của xí nghiệp quản lý khai thác công trình thủy lợi là sản phẩm duy nhất không có cạnh tranh, không thể nhập ngoại để thay thế.

- Không mua bán theo kiểu trao tay trực tiếp mà thanh toán trước hoặc sau một chu trình theo hợp đồng ký kết.

- Khách hàng của ngành thủy lợi nói chung là ổn định.

3. Xây dựng thị trường hàng hóa nước

Để xây dựng được thị trường hàng hóa nước, cần có các giải pháp đồng bộ, từ nhận thức tới việc xác định chủ thể, đơn vị kinh doanh và các vấn đề liên quan.

- Đổi mới nhận thức : xóa bỏ nhận thức cũ lỗi thời, xây dựng nhận thức mới trong xã hội phù hợp với cơ chế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước, trước hết là đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các ngành, các cấp có liên quan.

- Xác định các xí nghiếp quản lý và khai thác thủy nông là đơn vị kinh doanh dịch vụ thủy lợi, kinh doanh hàng hóa nước. Các xí nghiệp thủy nông cần quán triệt phương châm tự thân vận động, biến khả năng thành hiện thực.

- Tạo ra môi trường thuận lợi và hành lang cần thiết cho hoạt động của các xí nghiệp quản lý khai thác thủy nông. Trên cơ sở xác lập mối quan hệ và sự khác nhau giữa chức năng quản lý nhà nước về mặt kinh tế và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp thủy nông ngoài cố gắng chủ quan, đòi hỏi có môi trường cần và đủ - môi trường thuận lợi để thực hiện chức năng của mình. Nói cách khác, xí nghiệp cần có sự ổn định về mặt chính trị, xã hội và kinh tế. Xí nghiệp còn đòi hỏi phải có hành lang cần thiết để xí nghiệp hoạt động đúng hướng, đúng luật pháp. Môi trường và hành lang nói trên gắn với hai nhóm loại công cụ kinh tế (cơ chế chính sách kinh tế) và công cụ luật pháp.

- Tổ chức sắp xếp lại bộ máy của ngành thủy lợi theo hướng cơ chế hoạch toán kinh doanh toàn ngành.

II. Đổi mới nhận thức và pháp luật về ngành thủy lợi

Cần phải trang bị nhận thức đầy đủ về vai trò ngành thủy lợi, về xu hướng đổi mới của ngành theo các quy luật của thị trường đối với người dân, nhưng trước hết là các cán bộ ngành thủy lợi, nông nghiệp và nông dân. Hoạt động thủy lợi gắn liền với đời sống sinh hoạt và sản xuất của xã hội. Nước trong thiên nhiên (nước mặt, nước ngầm, nước trong khí quyển) là tài nguyên đặc biệt, dễ bị tổn thương, không thể thay thế. Hoạt động thủy lợi (sản xuất kinh doanh hàng hóa nước, cung ứng dịch vụ nước - cấp nước, hạn chế tác hại của nước) phải được quản lý, tổ chức bảo đảm phát triển bền vững (tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, đạt hiệu quả kinh tế cao) thông qua xã hội hóa hoạt động thủy lợi :

1. Xã hội hóa hoạt động thủy lợi trước hết phải tách quản lý nhà nước về nước (thủy lợi) ra khỏi quản trị sản xuất thủy lợi. Nhà nước thực hiện quản lý thủy lợi bằng hệ thống pháp luật, bằng quy hoạch và chiến lược phát triển, bằng cơ chế chính sách điều chỉnh hoạt động bảo vệ tài nguyên nước, khai thác và tiêu dùng nước bền vững, có hiệu quả.

2. Phải cơ cấu lại các tổ chức quốc doanh sản xuất thủy lợi theo hướng tước bỏ các hoạt động mang tính quản lý nhà nước, phát triển hạch toán như các doanh nghiệp khác. Gắn với việc cơ cấu lại, phải tiến hành cổ phần hóa các công ty thủy lợi quốc doanh. Tùy tình hình, yêu cầu cụ thể mà xác định tỉ lệ phần vốn nhà nước thích hợp.

3. Khuyến khích bằng cơ chế, chính sách để các tổ chức xã hội, tư nhân (trong và ngoài nước) bỏ vốn đầu tư vào thủy lợi, từ khai thác nguồn nước đến cung ứng dịch vụ nước, hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật và chính sách (tạo động lực, phát huy nội lực) của nhà nước.

Để xã hội hóa ngành thủy lợi thu hút các nguồn lực của xã hội đầu tư phát triển thủy lợi bền vững, trong tình thế hiện tại, cần đổi mới tư duy trên các điểm then chốt sau đây :

a. Đối với xã hội, không được coi nước là vô hạn, là của trời cho, phải nhận thức các nguồn nước là tài nguyên quý và có hạn, nhất là trong tình trạng biến đổi khí hậu đang diễn ra như hiện nay. Phải nhận thức dịch vụ cấp nước và hoạt động giảm thiểu tác hại của nước là thành phần trong các yếu tố vật chất thiết yếu tạo nên giá trị của dịch vụ. Vì vậy, phải sử dụng nước có hiệu quả và tiết kiệm thông qua định giá sản phẩm hàng hóa nước hợp lý, khoa học ; giá cả tương thích với giá trị và giá trị sử dụng.

b. Về phía Nhà nước, phải xem xét thủy lợi là đối tượng điều chỉnh chứ không phải là công cụ của pháp luật, chính sách. Ngành thủy lợi được đối xử công bằng như các ngành nghề khác trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động của ngành này (về địa giới phân chia, về cơ cấu tổ chức, về chính sách đặc thù…) phải phù hợp với tính kết cấu hệ thống của các lưu vực sông ngòi, nguồn nước chứ không phụ thuộc vào địa giới hành chính.

Để phát triển thủy lợi bền vững, tất yếu phải xây dựng ngành thủy lợi theo hướng kinh tế thị trường. Xã hội hóa chính là quá trình phát triển mang tính quy luật của ngành này.

III. Đổi mới tổ chức và quản lý nhà nước về thủy lợi

Đổi mới tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước đối với tài nguyên nước (trong đó nội dung cơ bản là thủy lợi) phải quán triệt quan điểm quản lý tập trung thống nhất và nhằm tới mục tiêu xóa bỏ cơ chế "xin - cho", bao cấp tràn lan, thực hiện xã hội hóa hoạt động bảo vệ, khai thác tài nguyên nước và cung ứng dịch vụ nước. Dưới đây là những điểm then chốt của vấn đề này.

1. Xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của quản lý nhà nước

 Cần sớm khắc phục, xóa bỏ nhận thức Nhà nước đảm đương tất cả mọi việc, từ tổ chức bảo vệ, khai thác tài nguyên nước đến cung ứng dịch vụ nước cho các nhu cầu thay vì đây chính là trách nhiệm, nghĩa vụ của cả xã hội : doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phục vụ cộng đồng các hộ dùng nước theo những điều kiện ràng buộc công khai minh bạch được quy định bởi pháp luật. Nhà nước chỉ là người hướng dẫn, giám sát thực hiện. Để thực hiện được yêu cầu này, phải sửa đổi, bổ sung luật pháp nhằm xác định rõ nhiệm vụ, chức năng của quản lý nhà nước đối với tài nguyên nước theo hướng :

+ Nhà nước là người duy nhất và trực tiếp ban hành pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch để điều chỉnh hoạt động bảo vệ, khai thác tài nguyên nước và cung ứng dịch vụ nước của xã hội.

+ Nhà nước chịu trách nhiệm hướng dẫn và giám sát thực hiện việc bảo vệ nguồn nước, môi trường nước, phòng chống tai họa do nước gây ra.

+ Nhà nước chủ yếu tạo điều kiện, môi trường để hình thành ngành kinh tế nước nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, đồng thời trực tiếp tham gia ở mức độ thật cần thiết nhằm nắm giữ khả năng điều tiết thị trường này. Nhà nước chỉ trực tiếp tổ chức thực hiện các khâu mà các thành phần kinh tế khác không thể hoặc chưa có khả năng đảm nhiệm.

Xác định nhiệm vụ chức năng của quản lý nhà nước đối với tài nguyên nước còn cần các quy định, chế tài để các cơ quan quản lý nhà nước không sa đà vào các hoạt động sự vụ quản lý sản xuất kinh doanh dịch vụ nước.

2. Thực hiện quản lý nhà nước tập trung thống nhất kết hợp phân công phân cấp hợp lý

Để xóa bỏ tình trạng phân tán, chia cắt hiện nay, phải thực hiện quản lý nhà nước tập trung thống nhất kết hợp phân công, phân cấp hợp lý.

a. Trước hết, Bộ Tài nguyên và Môi trường phải đảm đương vai trò của cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp đối với tài nguyên nước trên phạm vi cả nước, trong mọi lĩnh vực.

+ Thay mặt Chính phủ trình ban hành các đạo luật về tài nguyên nước.

+ Giúp Chính phủ xây dựng và ban hành các chính sách vĩ mô về bảo vệ, khai thác tài nguyên nước và cung ứng, sử dụng dịch vụ nước.

+ Xây dựng kế hoạch thực hiện Chiến lược Quốc gia về tài nguyên nước, quy hoạch tổng thể về tài nguyên nước. Trình Chính phủ hoặc theo thẩm quyền ban hành các tiêu chuẩn, định mức quốc gia về tài nguyên nước, môi trường nước, dịch vụ nước...

+ Thực hiện quyền quản lý nhà nước về phòng chống tai nạn do nước gây ra, bảo vệ môi trường nước.

b. Các Bộ khác (Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Xây dựng, Công thương, Giao thông vận tải...) thực hiện nhiệm vụ chức năng quản lý nước chuyên ngành ; đại diện sở hữu nhà nước đối với vốn đầu tư của Nhà nước tại các doanh nghiệp nước chuyên ngành.

Từng bước xóa bỏ chế độ Bộ chủ quản đối với các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt còn rất nặng nề ở lĩnh vực thủy nông. Trong lĩnh vực thủy nông đã xuất hiện nhiều mô hình sáng tạo tự đầu tư, tự quản lý, khuyến khích cạnh tranh để hạ giá thành dịch vụ nước từ nhiều thập niên qua (ví dụ, cơ chế đấu thầu đường nước ở An Giang theo QĐ 244/QĐ.UB, ngày 12/2/1991), nhưng chưa được quan tâm tổng kết để nhân rộng mà chỉ "mải mê" bám vào cơ chế "xin - cho" làm triệt tiêu nội lực và động lực phát triển trong khi nguồn vốn ngân sách rất hạn hẹp.

3. Đề xuất thành lập bộ Thủy lợi và quản lý thiên tai

 Với những bất cập trong việc phân cấp và quản lý nhà nước đối với ngành thủy lợi nêu ở phần trên, để thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển hàng hóa nước và phát triển bền vững ngành thủy lợi, tiến sĩ Trần Nhơn và các cán bộ ngành thủy lợi đã mạnh dạn đề xuất việc thành lập Bộ Thủy lợi và Quản lý thiên tai, là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện các chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên nước đầy đủ như Điều 57 Luật Tài Nguyên Nước ; thống nhất quản lý tài nguyên nước về điều tra, đo đạc, thống kê tài nguyên nước, cả nước mặt và nước ngầm ; về dự báo phát triển, xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, chiến lược, kế hoạch bảo vệ, khai thác sử dụng, phát triển tài nguyên nước và phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại của nước, bền vững, hiệu quả cao, đồng thời nắm chắc và có kế hoạch đối phó với các hậu quả của biến đổi khí hậu toàn cầu đối với nước ta (chủ yếu cũng là bảo vệ, khai thác sử dụng nước và phòng chống thiên tai) ; về chỉ đạo quản lý các công trình thủy lợi và phòng chống lụt, bão an toàn ; về quản lý tốt vốn đầu tư thủy lợi, thực hiện quan hệ quốc tế về nước được thuận lợi. Trên cơ sở giao cho Bộ này chức năng và trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn các loại hồ chứa nước bất kỳ thuộc sở hữu của ai ; về bảo đảm an toàn của hệ thống chống lụt, chống úng giảm nhẹ thủy tai ; về bảo đảm nguồn nước cho các ngành dùng nước như công nghiệp, du lịch, dịch vụ, cấp nước cho sinh hoạt và nông nghiệp… mà phân rõ chức năng quản lý nhà nước với các Bộ khác về thủy điện, về giải quyết cấp và tiêu thoát nước cho đô thị, về phát triển giao thông thủy nội địa, về bảo vệ chất lượng nước./.

Hà Nội, ngày 25/01/2017 

Nguyễn Vũ Bình

Nguồn : RFA, 24/01/2017 (nguyenvubinh's blog)

Additional Info

  • Author Nguyễn Vũ Bình
Published in Diễn đàn