Câu chuyện người Việt vượt biển tìm tự do ở nước khác đã và vẫn đang hiện hữu. Tại sao họ phải tìm mọi cách dù đối mặt quá nhiều khó khăn.
Câu chuyện về thuyền nhân Việt Nam thời nay ra sao, là đề tài của Hội luận tại RFA Studio với ba vị khách mời :
1. Nhà báo Shira Sebban – đến từ nước Úc, Tác giả cuốn sách Vietnam’s Modern Day Boat People Thuyền Nhân VN Thời Hiện Đại.
2. Cô Grace Bùi, thiện nguyện viên độc lập chuyên tranh đấu về nhân quyền và pháp lý cho người tị nạn VN ở Thái Lan trong chín năm qua.
3. Luật sư nhân quyền Võ An Đôn, đến Mỹ tháng Mười Một 2023 sau khi bị nhà cầm quyền VN trù dập vì đứng ra bênh vực cho những vượt biên sang Úc và sang Indonesia. Đài Á Châu Tự Do RFA trụ sở tại thủ đô Washington Hoa Kỳ, cung cấp thông tin đa dạng, chính xác, trung thực về các vấn đề thời sự, kinh tế, xã hội, đời sống tại Việt Nam và trên Thế Giới.
Nguồn : RFA, 10/09/2024
Lời tác giả :
Cuộc tấn công "thần tốc" của quân đội miền Bắc Việt Nam tiến vào Sài Gòn, và kết thúc vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, đã kéo theo một thảm họa nhân đạo chưa từng xảy ra đối với nhân loại kể từ sau Thế Chiến II. Thảm họa này được thế giới gọi tên "Boat People" (thuyền nhân), cái tên đã trở thành lịch sử. Nhưng thảm họa thuyền nhân – bỏ nước ra đi - đã diễn ra nhiều ngày trước 30/04/1975 và vẫn còn tiếp diễn cho đến tận hôm nay, dù bằng những hình thức khác, với những bi kịch khác, như vụ tất cả 39 người Việt đã cùng chết ngạt trong một xe tải trên đường trốn vào Anh tháng 10/2019. Lịch sử thuyền nhân Việt Nam chắc chắn vẫn còn kéo dài chừng nào cái chính thể đã chiến thắng vào ngày 30/04/1975 còn tồn tại.
Cuốn sách L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong của Patrice Franceschi, ấn hành 08/1979, là một nỗ lực quí giá ghi lại đoạn đầu lịch sử thuyền nhân của người Việt Nam chúng ta. Đây là một lịch sử không đáng hãnh diện nhưng không thể và không nên chối bỏ hay quên lãng.
Nhân dịp 30/04, xin mời quí vị xem một vài thông tin có tính phóng sự, thống kê trong cuốn sách này về Thuyền Nhân.
Người dịch và tóm lược Phạm Hồng Sơn, 25/04/2020
* * *
Chắc chắn ngày 15 tháng Sáu năm 1979 sẽ được các sử gia tương lai ghi nhận là một trong những mốc quan trọng trong lịch sử của những người tỵ nạn Việt Nam. Bởi vào ngày này toàn thế giới mới bắt đầu thực sự mở to đôi mắt để nhìn vào những thảm cảnh đã diễn ra trên các vùng biển gần bờ tại Biển Đông. Trong bốn năm, đã có hàng trăm ngàn người Việt bỏ nước ra đi trước sự thờ ơ ráo hoảnh của công luận quốc tế. Có mấy ai biết trước thời điểm này đã có khoảng 100 tới 200 000 người đã chết đuối giữa biển khơi trên đường trốn chạy khỏi Việt Nam ?
Số người tỵ nạn cứ tiếp tục tăng dần lên, chen chúc trong các trại dựng tạm ở Thái Lan, Indonésie, Mã Lai, Philippines và ở nhiều nơi không mấy ai biết. Thi thoảng báo chí cũng có vài dòng cho biết lại xảy ra một thảm cảnh chìm thuyền nghiêm trọng hơn thảm cảnh mới xảy ra, một cuộc họp thượng đỉnh ở đâu đó hay một vài quyết định nào đó. Thậm chí một bài báo còn viết rõ "ở đó đang diễn ra một chuyện không bình thường". Nhưng chẳng có mấy ai để ý đến những vụ chết chóc đó. Thảm cảnh người tỵ nạn Việt Nam bỏ nước ra đi đã chìm nghỉm trong biển cả thông tin hàng ngày của thế giới với muôn vàn sự kiện.
Mọi sự hẳn sẽ còn tiếp diễn như thế, với số người tỵ nạn chết đuối cứ chồng lên trên biển hay sự đau khổ của họ cứ kéo lê trong các trại tỵ nạn, nếu như không có sự xuất hiện của con tàu Đảo Ánh Sáng (Île de lumière) [i] và nhất là nếu không có ngày 15 tháng Sáu năm 1979 - đồng loạt các nước có trại tỵ nạn tạm cư tuyên bố sẽ đẩy tất cả hàng ngàn thuyền nhân ra biển khơi vì các quốc gia của họ đang khốn đốn. Lời đe dọa hóa ra lại biến thành tiếng kêu cứu đánh thức con người. Bỗng nhiên, người ta biết rằng 300 000 thuyền nhân đang sắp bị giết chết. Đây chẳng còn là vấn đề trục trặc trong việc giải quyết dòng người di cư nữa, mà là một cuộc thảm sát holocauste mới đang chuẩn bị thực hiện, công khai và ráo riết ngay trước mắt công luận.
Như để chứng minh không phải đe dọa suông, chính quyền Malaisie đã tăng cường các cuộc xua đuổi và cho đăng tải các con số hàng ngàn thuyền nhân đã bị xô ra ngoài bể. Chính quyền Thái Lan còn mạnh bạo hơn, họ đẩy người tỵ nạn Cambodge về lại xứ sở gốc dù biết rõ hậu quả sẽ là cái chết. Ở châu Âu, công luận hét lên : Ôi, Khủng khiếp !
Ngày 15 tháng Sáu năm 1979, lương tâm của phương Tây, cả chính quyền lẫn dân thường, đã thức tỉnh trước thảm họa thuyền nhân.
* * *
Tại trại Pulau Bidong (Malaisie), mười lăm ngày đầu của tháng Sáu vẫn diễn ra mọi sự buồn khổ giống như gần 300 ngày trước đó. Trong thời gian này đã có khoảng 30 thuyền tỵ nạn cập đảo đưa tổng số thuyền tỵ nạn tới đảo lên thành 450 và tổng số thuyền nhân trên đảo lên con số 42 000 người trên một diện tích 1,2 km2. Có lẽ đây là nơi có mật độ dân số cao nhất thế giới.
Trên tàu Đảo Ánh Sáng, công việc cứu chữa bệnh tật cho thuyền nhân vẫn tiếp tục. Tới nay, nhóm bác sĩ tình nguyện thứ ba người Pháp đã tới luân phiên thực hiện công việc nhân đạo này. Ngoài chuyên môn y tế, những người tình nguyện còn phải đối mặt với những vấn đề đã diễn ra từ trước : Giới chức Mã Lai ngày càng cay nghiệt với thuyền nhân. Những con thuyền tỵ nạn mới vẫn cố tiến gần tới Đảo Ánh Sáng trước sự cảnh giới, xua đuổi của các cảnh sát Mã Lai. Một lần, trong đêm, một con thuyền mỏng manh đã thoát được sự vây bắt của giới chức Mã Lai và cập sát vào Đảo Ánh Sáng. Người trên thuyền cho biết có nhiều thuyền nhân đang bị bệnh hoặc bị thương. Trước tình cảnh này, thuyền trưởng Herbelin đã quyết định đưa hết mọi người từ thuyền lên Đảo Ánh Sáng. Nhưng cảnh sát đã lao tới phản đối các bác sĩ. Viên chỉ huy ra lệnh phải trả lại ngay lập tức tất cả các thuyền nhân cho họ. Herbelin trả lời rằng anh là người có toàn quyền quyết định trên Đảo Ánh Sáng và không thể đẩy những thuyền nhân ốm yếu, thương tật này ra biển khơi, tất cả sẽ chết mất. Đứng trên Đảo Ánh Sáng, các dây thần kinh của cô y tá trẻ Guylaine Martin, người Pháp, chạy dần dật. Chứng kiến cảnh tượng ngang trái ngay từ đầu, Guylaine Martin, giận điên người, đã khạc và nhổ một bãi nước bọt vào thẳng toán cảnh sát. Để tránh rắc rối, thuyền trưởng Herbelin đã phải giải thích ngay rằng người phụ nữ này là một bệnh nhân bị viêm phế quản từ lâu và rất hay khạc nhổ. Toán cảnh sát dường như đã tin ngay vào lời giải thích. Nhưng để chắc chắn hơn, để buộc cảnh sát phải chấp nhận để 300 thuyền nhân ở lại Đảo Ánh Sáng, anh thợ máy cùng vài thủy thủ khác đã nhanh chóng dùng một chiếc rìu đục thủng một lỗ to vào lòng thuyền của thuyền nhân. Thần chết đã bị đuổi đi trong gang tấc !
Ngày 15 tháng Sáu đã tới : ông phó Thủ tướng Mã Lai M. Mahathir tuyên bố thẳng rằng 76 000 "di dân bất hợp pháp" đang tạm trú trên đất nước của ông sẽ bị đẩy ra ngoài vùng biển quốc tế và chính quyền sẽ ra luật mới để ngăn tất cả các thuyền nhân mới.
Trong những ngày tiếp theo, không một thuyền tỵ nạn nào cập đảo Pulau Bidong. Giới chức Mã Lai đã thực sự xua đuổi thuyền nhân. Họ còn tiến hành sửa chữa, đóng mới các tàu thuyền cần thiết để đưa thuyền nhân trong trại ra biển. Để tránh bạo động, họ tung tin để những người sắp chết tin rằng ở ngoài khơi các tàu Mỹ đang chờ họ.
Tại Pháp, ủy ban "Một con tàu cho Việt Nam" dưới sự điều hành của bác sĩ Bernard Kouchner đã cho tổ chức ngay một cuộc họp báo tại khách sạn Lutetia nhằm báo động công luận và yêu cầu chính phủ phải hành động ngay. Tham dự cuộc họp báo là đại diện của nhiều tổ chức thiện nguyện, tôn giáo, thế tục và người ta lại thấy các trí thức danh tiếng, nhiều người còn là đối thủ của nhau cùng xuất hiện : Glucksmann, Sartre, Aron, Montand, Signoret, v.v. Bernard Kouchner thông báo sẽ thành lập một ủy ban châu Âu cho người tỵ nạn Đông Dương và yêu cầu, không cần chờ phải có hội nghị quốc tế, nước Pháp và một số nước khác phải lập ngay các trại tỵ nạn trung chuyển trên lãnh thổ của mình để chia sẻ gánh nặng với các nước Đông Nam Á. Ông đề nghị lập ngay một cầu hàng không. Bernard Kouchner nói rằng dù Pháp đã có hành động khá lớn, nhận hơn 50 000 thuyền nhân, nhưng với tình trạng khẩn cấp hiện nay nước Pháp vẫn cần phải làm nhiều hơn nữa.
Bernard Stasi, phó Chủ tịch Hạ viện, đảm bảo rằng ít nhất quota thuyền nhân của Pháp sẽ được chu tất và cho biết trong những ngày tới sẽ triệu tập một cuộc họp nghị viện về vấn đề nhân quyền.
Raymond Aron cho rằng những hành động tự nguyện của xã hội như Đảo Ánh Sáng là cần thiết nhưng chưa đủ, cần phải có thêm hành động từ chính phủ.
Jean-Paul Sartre thì khẳng định cần phải giúp đỡ nhiều hơn nữa cho các tỵ nạn-thuyền nhân cho dù những người này không phải luôn luôn đứng cùng chính kiến với ông và dù tỷ lệ thất nghiệp của Pháp vẫn cao.
Nhiều tổ chức, cá nhân đã đưa ra các sáng kiến, cam kết hành động, từ việc nhận một gia đình thuyền nhân tới ở nhà mình trong 06 tháng cho tới việc nhận các trẻ em đã mất cha mẹ làm con nuôi.
Cuộc họp báo kết thúc bằng một yêu cầu từ cử tọa gửi tới Tổng thống Giscard d’Estaing về việc mở ngay một trại tỵ nạn đầu tiên và lập một cầu hàng không để đưa thuyền nhân tới Pháp, bất kể họ là người Việt Nam, Cambodge hay Lào.
Begin, Thủ tướng Israël gửi thư cho Tổng thống Mỹ Carter nói về các hạn chế của cuộc họp báo và đề nghị tất cả các quốc gia nên chấp nhận ngay một số lượng thuyền nhân tương ứng với khả năng của mình.
Jean-Paul II, Giáo hoàng Vatican, phát ra lời kêu gọi "lương tâm nhân loại" và đề nghị mỗi con người hãy nhận lấy một phần trách nhiệm.
Ngày 20 tháng Sáu, Bernard Kouchner cùng bác sĩ gây mê Michel Bonnot lên đường bay tới Pulau Bidong mang theo một hàng hóa đặc biệt : 75 000 liều vaccin TAB chống thương hàn. Vài ngày sau 480 Kg các loại vaccin khác (bại liệt, bạch hầu) tiếp tục được gửi đến để bắt đầu chương trình tiêm chủng cho thuyền nhân.
Ngày 22 tháng Sáu, hai thuyền chở 900 thuyền nhân đã bị đẩy ra khơi xa bất chấp thỉnh cầu của Đại sứ Pháp Travert tại Mã Lai kêu gọi chính quyền Mã Lai đừng xua đuổi thuyền nhân. Ngày 24 tháng Sáu, lợi dụng một cơn bão biển, một chiếc thuyền dài 24 m, mang số hiệu 0020, chở 600 người đã lọt được vào đảo. Song phải nhờ có sự can thiệp của Bernard Kouchner và sự hiện diện của nhiều nhà báo, những thuyền nhân này mới không bị đẩy ra biển. Cũng ngày này tại Pháp, có chừng 2 000-3 000 người gốc Đông Dương biểu tình ở chân tháp Eiffel kêu gọi mở một hội nghị quốc tế về thuyền nhân.
François Mitterrand kêu gọi các thị trưởng trong đảng xã hội của ông nhận 20 000 thuyền nhân trong 6 tháng hoặc 1 năm. Ông còn nói rõ rằng đảng của ông "sẽ hợp tác với mọi sáng kiến của Pháp, bất chấp mọi phản đối chính trị, để cứu giúp thuyền nhân".
Jacques Chirac, Thị trưởng Paris, tuyên bố thành phố Paris đã quyết định thuê một tàu biển để đi đón 1 500 thuyền nhân ; Hội đồng Paris đã thành lập một ủy ban cho thuyền nhân và sẽ gây một quĩ tín dụng trợ giúp các chi phí phát sinh.
Kênh truyền hình Antenne 2 tổ chức một Soirée de Solidarité nhằm kêu gọi các thị trưởng Pháp đón nhận các thuyền nhân tới sống ở các địa phương của họ. France Inter tung ra chiến dịch "S.O.S thuyền nhân Đông Dương chết đuối" để thu thập các đóng góp về vật chất (quần áo, nhu yếu phẩm, thuốc chữa bệnh) cho thuyền nhân. Giám mục Etchegaray và Alain Poher, chủ tịch Hiệp hội các Thị trưởng Pháp, cũng lên TV kêu gọi "nếu mỗi quận hạt của đất nước chúng ta sớm tiếp nhận ngay một gia đình thuyền nhân… đó sẽ là một đóng góp quan trọng để giúp bớt khổ đau cho những nạn nhân này". Michel Debré đăng một bài viết trên La Croix kêu gọi mỗi thành phố hãy nhận một hoặc nhiều gia đình thuyền nhân. Tất cả các tổ chức từ thiện, từ Médecins Sans Frontières cho tới l’Armée du Salut, đều đưa ra các chương trình huy động tương tự. Sự đáp ứng, đóng góp vô cùng rộng lớn và tích cực.
Nhưng liệu nước Pháp có khả năng để thay thế Malaisie và chấp nhận rủi ro để tiếp nhận mãi mãi 50 000 hay 100 000 thuyền nhân nếu không nước nào hành động ?
Đây không phải là câu trả lời của Tổng thống Giscard d’Estaing khi ông tiếp một phái đoàn của ủy ban "Một con tàu cho Việt Nam". Tuy nhiên, ai cũng hiểu Tổng thống sẽ phải cân nhắc hiện trạng nội bộ của nước Pháp.
Phái đoàn tới gặp Tổng thống gồm Claudie Broyelle, Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, Raymond Aron, Jean-Claude Sénéchal và Aurore Miquel đã được ông đảm bảo sẽ nêu vấn đề thuyền nhân tại hội nghị thượng đỉnh G7 sắp tới tại Tokyo. Tổng thống cũng khẳng định đã cho quyết định nhận ngay 5 000 thuyền nhân nữa.
Ở phía bên kia của bán cầu, chính quyền Nam Hàn cho biết sẽ cấp 200 000 đô-la Mỹ cho chính quyền Indonésie để được đến cứu giúp các thuyền nhân. Trong khi đó, Đại sứ của Việt Nam tại Malaisie đã tuyên bố rằng chính quyền Việt Nam sẵn sàng nhận trở lại các thuyền nhân nếu những người này biết "thừa nhận lỗi lầm", và lần đầu tiên người ta thấy trong các trại tỵ nạn ở Hong Kong có cả các thuyền nhân là người Bắc Việt.
Về phía đảng cộng sản Pháp, đáp lại không khí khẩn trương, đoàn kết cứu giúp thuyền nhân, đảng này đã ra tuyên bố tố cáo đang có một chiến dịch chống cộng. Montdargent, một hạ nghị sĩ của đảng này cũng tuyên bố : "Chúng tôi tố cáo chính quyền đang lợi dụng thảm kịch này để che đậy các hậu quả trong chính sách điều hành đất nước vào lúc cần phải có các sửa đổi về hành chính và ra luật để tống xuất hàng ngàn dân nhập cư đang gây tổn hại cho sự phát triển của đất nước". Pierre Juquin, người mới nắm chức trưởng bộ phận thông tin của đảng cộng sản, còn nói rõ thế này : "Các thành phố do thị trưởng cộng sản điều hành đang phải chịu đựng việc tiếp nhận các nhân công nhập cư sẽ không tiếp nhận các thuyền nhân Việt Nam để tránh gánh nặng cho dân chúng".
Tại Thượng đỉnh G7 ở Tokyo, Tổng thống Mỹ Carter cho biết Hoa Kỳ đã quyết định tăng gấp đôi quota hàng tháng lên 14 000 thuyền nhân. Cùng lúc tại Mỹ, một chiến dịch lớn được huy động nhằm thúc đẩy chính quyền liên bang phải hành động nhiều hơn nữa.
Khắp nơi, mọi người đều bàn luận về các giải pháp để giải quyết bi kịch thuyền nhân. Nhiều người đề xuất huy động tất cả các tàu thuyền thương mại hay hải quân trong vùng để cứu vớt những thuyền nhân đang lên đênh trên biển. Nhưng vấn đề chính vẫn còn nguyên : thuyền nhân sẽ đi đâu sau đó ?
Chính quyền Việt Nam cũng tỏ ra nhượng bộ chút ít. Theo thỏa ước với Cao Ủy Tỵ Nạn, có khoảng 100 người đã được rời Việt Nam bằng máy bay sang Trung Quốc.
Ngày 28 tháng Sáu, ASEAN (Indonésie, Mailaisie, Philippines, Singapore, Thaïlande) nhóm họp tại Bali với mục tiêu thúc Hà Nội đồng ý lập một trung tâm trung chuyển thuyền nhân ngay tại lãnh thổ Việt Nam dưới sự điều hành của Cao Ủy Tỵ Nạn thuộc Liên Hợp Quốc. Hội nghị cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế tác động Việt Nam để sớm chấm dứt cuộc di tản thuyền nhân. Michaël O’Kennedy, đại diện cho CEE (Cộng đồng kinh tế châu Âu) trong hội nghị này đã tuyên bố CEE có thể sẽ cắt viện trợ lương thực cho Việt Nam nếu chính quyền này không có hành động để chấm dứt cuộc chạy trốn ; các viện trợ này sẽ chuyển cho những nước ASEAN tiếp nhận thuyền nhân. Thủ tướng Anh Thatcher đang có chuyến thăm tới Canberra cũng đồng ý với giải pháp này sau khi đã lên án sự "ác độc" của chính quyền Hà Nội.
Tại Genève, sau phiên họp của ủy ban điều hành của Cao Ủy Tỵ Nạn, các quốc gia Argentine, Áo, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Israël, Na Uy, Thụy Điển và Thụy sĩ đã cam kết nhận nhiều hơn các thuyền nhân. Riêng Mỹ cho biết có khả năng nhận 20 000 thuyền nhân. Trong khi đó các nước mới mạnh lên nhờ dầu lửa vẫn tỏ ra điếc đặc trước các lời kêu gọi.
Nghị viện của Hội đồng châu Âu, nhóm họp tại Stockholm đã kêu gọi mọi thành viên của mình ủng hộ đề xuất về một hội nghị quốc tế.
Tại Hạ viện, Raymond Aron cho biết rằng các tàu của Pháp đã nhận được lệnh cứu vớt tất cả các thuyền nhân khi gặp trên biển. Thủ tướng Pháp cũng cho biết từ ngày 15/05/1975 đến 31/12/1978 các gói tín dụng trong ngân sách sức khỏe dành cho thuyền nhân đã tăng lên 440 triệu quan, không kể các chi phí giáo dục và y tế.
Oilivier Stirn, Quốc vụ khanh tại bộ Ngoại giao đã tới thị sát vùng Nam Thái Bình Dương và tới Kuala Lumpur để đảm bảo việc triển khai các biện pháp hỗ trợ do chính phủ Pháp bảo trợ, nhưng ông chỉ nhận được lời đảm bảo của chính quyền Malaisie sẽ không đẩy thuyền nhân ra biển khi nào hội nghị quốc tế được tổ chức.
Các thuyền nhân trên đảo ngày càng lo lắng trong ngóng đợi cho tới ngày 01/07/1979 khi Kurt Waldheim, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, thông cáo một hội nghị quốc tế về thuyền nhân sẽ tổ chức tại Genève trong hai ngày 20 và 21. Từ nay, các thuyền nhân chỉ còn cần phải kiên nhẫn hơn và hy vọng rằng, giống như nhiều quốc gia, hội nghị sẽ không trở thành một phiên tòa kết án Hà Nội – điều sẽ làm cho tình trạng của họ trở nên bấp bênh hơn. Đối với ban quản lý trại, vận may còn mỉm cười hơn khi Simone Veil tới thăm trại và đã hứa sẽ đưa 450 trẻ mất gia đình tới Pháp, ngoài quota chính thức. Lúc này, có người mới chợt nhớ ra năm 1979 là năm được gọi : "Năm của Trẻ Thơ".
Hội nghị tại Genève đã qui tụ sự hiện diện của 65 quốc gia, bàn thảo trong 48 giờ về thảm họa thuyền nhân. Kết thúc Hội nghị, Kurt Waldheim, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc cho biết : "Mục tiêu của chúng tôi là nhằm giải quyết hoàn toàn thảm trạng đang diễn ra và chúng tôi đã gần như đạt được tất cả". Số lượng thuyền nhân dự kiến được tái định cư đã chuyển từ 125 000 lên 260 000. Cao Ủy Tỵ Nạn có một ngân sách bổ sung 190 triệu đô-la Mỹ, cùng với lời hứa của Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Sonoda sẽ chịu 50% tổng chi phí cần thiết cho các hoạt động cứu trợ thuyền nhân tại Đông Nam Á.
Philippines đề xuất thiết lập một trung tâm tạm cư trên lãnh thổ của họ giống ở đảo Galand (Indonésie). Trung Quốc sẽ nhận 10 000 thuyền nhân "với điều kiện những người này thực sự muốn làm lại cuộc đời mới ở Trung Quốc". Hoa Kỳ thông báo các chiến hạm Hoa Kỳ sẽ tuần tiễu quanh Việt Nam để tìm kiếm, cứu vớt thuyền nhân. Tuy nhiên, đại diện của Hoa Kỳ tại Hội nghị, phó Tổng thống Mondale đòi hỏi phải có một thời hạn cho việc chấm dứt thảm trạng thuyền nhân, không để Việt Nam tiếp tục "tống xuất" công dân của họ nữa.
Con tàu Đảo Ánh Sáng, cái tên như một định mệnh, đã chấm dứt sứ mệnh tại Pulau Bidong. Nhưng Đảo Ánh Sáng vẫn tiếp tục sứ mệnh nhân đạo ở những nơi khác. Trên đường trở lại Singapore, Đảo Ánh Sáng đã cố tìm và cứu vớt được nhiều thuyền nhân.
Đối với trại Pulau Bidong, một trang đời mới đã mở ra phía trước.
Bảng thống kê số thuyền nhân ra đi định cư tại nước thứ ba từ Pulau Bidong trong L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong.
Patrice Franceschi
Nguyên tác : L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong, L'Harmattan, 08/1979
Phạm Hồng Sơn dịch và tóm lược
Nguồn : Dân Luận, 30/04/2020
********************
Đảo Chết gặp Đảo Ánh Sáng [*]
Patrice Franceschi, Phạm Hồng Sơn, Dân Luân, 27/04/2020
Lời tác giả :
Sau khi tới Pháp, tôi hay lang thang xem xét và lục tìm trong các quán sách cũ, mới tràn ngập tại trung tâm Paris. Một lần, trong một buổi chiều tà, trong tâm trạng của một kẻ tỵ nạn mới xa quê hương tôi lại mò tới một quán sách tại Quận 6 gần rạp hát le Théâtre Lucernaire bên bờ tả sông Seine. Quán sách ở Pháp có rất nhiều kệ hay thùng sách để lộ thiên bên ngoài vỉa hè cho khách xem thoải mái. Lần vào một thùng và cầm đại lên tay một cuốn, trang bìa đập vào mắt tôi là một đôi mắt mở to và một dòng chữ : L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong.
Cuộc đời vẫn còn ngắn, so với tha nhân, của tôi đã nhiều lần chứng nghiệm những sự ngẫu nhiên tương tự. Cuốn sách vừa nói là một cuốn có tính phóng sự về một phần của cuộc bỏ nước ra đi của người Việt chúng ta khi chính quyền cộng sản miền Bắc giành chiến thắng vào ngày 30/04/1975. Tác giả của cuốn sách là Patrice Franceschi người Pháp có tính phiêu du. Năm 1979, khi 24 tuổi, Patrice Franceschi đã tự thực hiện một chuyến thám hiểm tới trại tỵ nạn Pulau Bidong (Malaisie) trong nhiều tuần để gặp gỡ trực tiếp các nạn nhân-tỵ nạn và lấy thông tin, tư liệu tại chỗ cho cuốn sách mà nhà xuất bản Arthaud cho biết "Trước đây, chưa có một cuốn sách nào viết về hành trình bi thương của các ‘boat people’". Cuốn sách được ấn hành vào tháng 08 năm 1979.
Tháng 03 năm 2019, tôi và cuốn sách mới được gặp nhau. Dường như, chúng tôi đã âm thầm chờ đợi nhau suốt 40 năm. Đối với tôi, cuốn sách là một tư liệu sống về một phần lịch sử đau thương và bi tráng cần phải biết nhưng đã bị nhiều thế lực giấu kín, chôn vùi. Cuốn sách có những khắc họa chân dung sống động của khoảng một chục thuyền nhân khác nhau ; ghi nhận về các cách thức ra đi của người tỵ nạn ; tất nhiên tác giả phải thay đổi căn cước thật của nhân vật để bảo vệ họ trong một thời điểm hết sức gay cấn – năm 1979. Cuốn sách còn có những tư liệu thống kê chi tiết, như về số lượng tàu tỵ nạn, người tỵ nạn cập trại Pulau Bidong hàng ngày, hàng tháng từ khi trại thành lập cho tới tháng 05/1979 ; số người đi tới các nước thứ ba tính tới một số thời điểm. Cuốn sách có những tấm ảnh, những kỷ vật xúc động về tình cảnh của người tỵ nạn khi đó ; những thông tin thời sự tả lại sự bối rối, do dự của Liên Hợp Quốc và các cường quốc trước một thảm họa nhân đạo chưa từng xảy ra trong thời hiện đại. Trước sự ngập ngừng đó, một số người Pháp đã muốn tự làm ngay một điều gì thiết thực cho các đồng loại – "thuyền nhân".
Nhân dịp tưởng nhớ tới Tháng Tư Tàn Nhẫn – gọi theo nhan đề Cruel Avril của một cuốn sách viết về chiến thắng của người cộng sản, cũng của một tác giả người Pháp Olivier Todd, xin mời quí vị xem một vài thông tin trong cuốn sách của Patrice Franceschi. Trước tiên là bài phóng sự của ban quản lý trại Pulau Bidong, được phát trên loa phóng thanh địa phương, đã được một người tỵ nạn Việt Nam khi đó dịch sang tiếng Pháp và được ghi lại trong cuốn L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong.
Người dịch Phạm Hồng Sơn, 23/04/2020
******************
Chiếc ca-nô hai màu trắng-vàng đang lướt trên những ngọn sóng xanh dương của biển, hướng thẳng vào bãi cát trắng của đảo tỵ nạn Pulau Bidong ngập tràn ánh nắng, báo hiệu một ngày rất tốt lành. Chiếc ca-nô tiến dần vào bờ trong con mắt ngóng chờ của hàng ngàn người tỵ nạn. Trên ca-nô là các bác sĩ người Pháp đến từ con tàu bệnh viện đang neo ngoài khơi xa. Con tàu mang tên : Đảo Ánh Sáng (Île de lumière). Hầu hết các bác sĩ có tuổi đời còn rất trẻ, đầy nhiệt huyết, năng động, và tràn ngập tình yêu thương đồng loại. Nếu thiếu những trái tim như thế, chắc chắn họ đã không thể gặp nhau trên Đảo Ánh Sáng, họ đã chẳng thể cùng nhau thực hiện một tâm nguyện giống nhau và dứt khoát : San bớt một chút khổ đau của người tỵ nạn. Họ không hẹn mà lại cùng đi trên một con đường, cùng làm một công việc của những kẻ truyền bá đức tin nhân bản. Đảo Ánh Sáng đã tới giống như một cơn mưa rào cho những cơn khát cháy bỏng của những người tỵ nạn. Một sự an ủi, động viên vô cùng quí và đúng lúc.
Hành trình của tàu Đảo Ánh Sáng cứu vớt thuyền nhân Việt Nam trên Biển Đông
Sáng nào cũng thế, chiếc ca-nô trắng-vàng tràn đầy lòng nhân hậu của người Pháp lại tới nhiều lần để đưa những người bị bệnh lên Đảo Ánh Sáng. Và bây giờ xin mời các bạn hãy nghe vài nét sơ lược về nguồn gốc của Đảo Ánh Sáng.
Năm 1962 tại một cảng của Hà Lan, một con tàu chở hàng dài 86 m, rộng 12,50 m đã được hoàn thành. Năm 1974, sau 12 năm chuyên chở trên đại dương một cách bình an, con tàu với tải trọng 1 400 tấn đã đi từ Hà Lan hướng về Đại Tây Dương phía châu Phi, đi lên Biển Bắc rồi đi về Nouméa (Nouvelle-Calédonie) để chuyển giao cho ông chủ mới. Nouvelle-Calédonie là một hòn đảo có hình giống như một điếu xì-gà dài 400 Km, rộng 50 Km nằm ở Thái Bình Dương, về phía Đông-Nam Việt Nam và gần ngay Australie, với dân số chừng 120 000 người, phần lớn sống nhờ nghề chài lưới, khai thác mỏ nickel. Tại đây, con tàu được nhận một cái tên mới Đảo Ánh Sáng với ngầm ý ánh sáng không bao giờ tắt trên đảo. Với cái tên mới, con tàu lại tiếp tục vi vu trên biển cả.
Năm 1978, không thể sống một cách nhục nhã dưới chế độ độc tài phi nhân và ngu xuẩn (la dictature inhumaine et idiote) của cộng sản, nhiều người Việt Nam đã bỏ quê hương bản quán ra đi trên những chiếc tàu cũ nát với hy vọng tìm lại được tự do, được sống một cuộc đời xứng đáng, song họ đã phải sống trong các trại tỵ nạn. Trước tình cảnh khẩn cấp của những con người đang sống khắc khoải, đang chết hao mòn, đang tìm mọi cách để sống sót trên một hòn đảo nổi tiếng là "Đảo Chết", nhiều người Pháp đã nghĩ tới việc phải kiếm một con tàu có trang thiết bị thật tốt như một bệnh viện nổi để đưa gấp tới Pulau Bidong. Chỉ như thế mới có thể phần nào giúp được chút ít cho những người tỵ nạn khốn khổ này. Mong muốn này đã được thực hiện nhờ sự đóng góp tài chính của 8 000 người Pháp từ mọi tầng lớp xã hội.
Đảo Ánh Sáng đã được chuyển đổi dần cho phù hợp với sứ mạng mới của nó. Công việc sửa chữa ban đầu khá khó khăn, phải mất 8 ngày ở Nouméa. Sau đó Đảo Ánh Sáng lên đường với một hải đoàn gồm 16 người, tất cả đều là công dân Pháp nhưng có gốc rất khác nhau : Pháp, Tahiti, châu Phi, Calédonie, Australie, v.v. Với động cơ 1 400 mã lực, tàu chạy dọc theo bờ bắc Australie và Nouvelle-Guinée, lượn qua Bali (Indonésie) trước khi tới Singapore ngày 11 tháng 04. Tại đây, tàu dừng lại 05 ngày để tiếp tục sửa chữa, hoàn tất sự chuyển đổi thành tàu bệnh viện. Đảo Ánh Sáng, được thuê với giá 5 000 đô-la Mỹ/ngày, cuối cùng đã cập Pulau Bidong dưới sự điều khiển của vị thuyền trưởng Herbelin, người Pháp, 28 tuổi, gốc Normandie, một xứ sở rất nổi tiếng sau Thế Chiến II. Trên tàu có 4 bác sĩ, gần như tất thảy đều rất trẻ, rất năng động giống như vị thuyền trưởng. Các bác sĩ này đều làm việc thiện nguyện không thù lao, trong đó có hai phẫu thuật viên, bác sĩ Cheysson và bác sĩ Laburthe, một chuyên môn tiêu hóa, bác sĩ Bonniaud, một chuyên môn gây mê, bác sĩ Radoman, và một y tá cực kỳ nhanh nhẹn, cô Martin.
Về cấu trúc y tế, tàu bệnh viện Đảo Ánh Sáng có 120 giường bệnh với nệm dày và drap trắng tinh. Các giường đều được xếp theo hàng ngay ngắn và được chia thành nhiều khu, trong đó có cả khu dành cho bệnh nhi. Giữa tàu là khu vực phẫu thuật được trang bị cực tốt. Bên cạnh là phòng X-ray nơi sẽ thực hiện các thăm dò hình ảnh. Việc tráng rửa phim X-ray có thể làm ngay tại chỗ. Tàu cũng có một labo để thực hiện các xét nghiệm máu, nước tiểu, phân, v.v.
Các bác sĩ cho biết, tính tới ngày 27 tháng Tư, đã có 12 cuộc phẫu thuật, tất cả đều thành công. Các bệnh nhân khi tới tàu được chăm sóc rất tận tình bởi chính các bác sĩ và một y tá duy nhất, tất cả đều người Pháp. Có một người tỵ nạn Việt Nam, tới Nouméa khoảng cuối năm 1978, đảm nhận việc nấu ăn cho bệnh nhân. Mỗi tuần Đảo Ánh Sáng lấy thêm nước ngọt một lần và cứ ba ngày lấy thêm rau xanh. Đảo Ánh Sáng có hệ thống thông tin bằng radio để duy trì liên lạc với Trengganu, Kuala Lumpur và với cả Paris.
Mười lăm ngày trước khi Đảo Ánh Sáng tới Đảo Chết, tất cả các tờ báo của Paris đều loan tin bằng những bài báo dài, riêng tờ báo của đảng cộng sản Pháp, L’Humanité, câm lặng.
Các kênh truyền hình lớn của thế giới từ Đức, Anh, Thụy Điển, Hà Lan, Colombie đã tới thăm Đảo Ánh Sáng. Riêng đoàn của Mỹ, đại diện cho Tổng thống, đã lên Đảo Ánh Sáng trong chuyến thăm của họ tới Đảo Chết – Pulau Bidong.
Theo tin của bác sĩ Radoman, tờ Paris-Match sẽ có bài viết vào tuần này về Đảo Ánh Sáng và Đảo Chết-Pulau Bidong. Các quốc gia của thế giới tự do sẽ phải chú ý nhiều hơn tới những người tỵ nạn, những người được gọi là "Thuyền Nhân" (boat people).
Bên cạnh những giúp đỡ không thể kể xiết và không thể lượng hết, Đảo Ánh Sáng đã mang tới cho những người tỵ nạn một phần thưởng vô giá, đó là những ánh mắt đồng cảm, những nụ cười khích lệ và những quan tâm chân thành của các bác sĩ người Pháp. Tất cả những điều này cho chúng ta thấy những tình cảm sâu đậm của những con người mà chúng ta không hề biết mặt, không hề biết tên cho tới khi Đảo Ánh Sáng cập bến. Những người đã đến từ một xứ sở rất xa với chúng ta : Pháp quốc.
Rất thân tình và cởi mở, trước câu hỏi của chúng tôi về những suy nghĩ trong công việc, bác sĩ Cheysson nhún vai và nở một nụ cười trìu mến, còn bác sĩ Radoman cũng cười đôn hậu và nói rằng : "Công việc và sự có mặt của chúng tôi ở đây đã nói lên tất cả rồi còn gì". M.L.
Patrice Franceschi
Nguyên tác : L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong, L'Harmattan, 08/1979
Phạm Hồng Sơn dịch và tóm lược
Nguồn : Dân Luân, 27/04/2020
----------------------
[*] Nhan đề này là của người dịch
Vấn đề trục xuất những di dân gốc Việt từng sống ở Hoa Kỳ mấy chục năm nhưng không có quốc tịch Mỹ vẫn đang gây tranh luận trên báo chí tại quốc gia này.
Dưới đây là tóm lược một bài ý kiến của nhà báo Max Boot viết cho tờ The Washington Post, được đăng lại trên nhật báo Houston Chronicle số ra ngày 3 tháng 1, 2019. Ông Boot cũng là một chuyên gia về an ninh làm việc cho Council on Foreign Relations (Hội Đồng Ngoại Giao) và thỉnh thoảng cung cấp những bài nghiên cứu về tình hình thế giới cho đài CNN. Bài viết của ông mang tựa đề "Trump's betrayal of Vietnam's boat people".
Ông Lê Hưng Khánh bị tê liệt cơ thể sau một tai nạn, có thể bị trục xuất về Việt Nam, để lại vợ con ở Texas. (The Washington Post)
Ông Lê Hưng Khánh, 47 tuổi, đã lo lắng về những gì sẽ xảy ra cho ông và đứa con gái 7 tuổi, nếu ông bị trục xuất về Việt Nam. Ông Khánh và con gái sống tại nhà chị của ông tại thị xã Spirng (ngoại ô phía bắc Houston, Texas). Ông đến Mỹ hợp pháp vào thập niên 1990, và có hồ sơ phạm tội hình sự khi còn trẻ. Một vụ tai nạn xe cách đây mấy năm đã làm cho cơ thể của ông bị tê liệt từ ngực trở xuống. Ông liên tục bị đau dây thần kinh, và lo sợ rằng ông sẽ chết trong vòng mấy tháng nếu bị trục xuất ra khỏi nước Mỹ.
Việc Hoa Kỳ tham gia Chiến tranh Việt Nam là có thiện ý - giới lãnh đạo Mỹ đã tìm cách cứu Việt Nam Cộng Hòa khỏi ách cai trị của cộng sản. Cuộc xung đột đó đã cướp mất sinh mạng của 58.000 người Mỹ và 3,1 triệu người Việt Nam ở cả hai phía. (Nhiều nạn nhân bị các lực lượng cộng sản giết chết.)
Một trong những hành động chuộc lỗi của Hoa Kỳ là sẵn sàng mở rộng tấm lòng để đón những người từ miền Nam Việt Nam khi họ tìm cách thoát khoải chế độ cộng sản độc tài cộng sản bắt đầu từ năm 1975.
Lúc đầu Hoa Kỳ giúp di tản 125.000 người tị nạn. Ngày nay có 1,3 triệu người sinh ra ở Việt Nam đang sống ở nước Mỹ. Họ có mức lợi tức trung bình cao hơn những người sinh ở Mỹ, và trong hàng ngũ của họ có các tướng lãnh trong quân đội Hoa Kỳ, có bác sĩ, luật sư, tiểu thuyết gia, dân biểu Quốc Hội, và các viên chức điều hành thành công.
Tuy nhiên chắc chắn trong bất cứu nhóm dân số lớn nào cũng sẽ có những người lầm lạc. Tổng Thống Donald Trump hiện thời đang tìm cách trục xuất hơn 9.000 người Việt tị nạn đang gặp rắc rối với pháp luật - ngay cả khi tất cả những người này đã mãn hạn tù từ nhiều năm trước, vì những tội phạm bất bạo động khi họ còn trẻ hơn nhiều.
Điều duy nhất cản trở lệnh trục xuất hiện nay là một thỏa thuận được ký vào năm 2008, giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn. Thỏa thuận này ngăn chặn việc trục xuất những người tị nạn đến Mỹ trước năm 1995. Thế nhưng chính phủ Trump đang tìm cách ép buộc nhà cầm quyền Việt Nam hủy bỏ thỏa thuận đó. Nếu ông Trump thành công, kết quả sẽ là việc trục xuất những người Mỹ gốc Việt như Nguyễn Nam, 43 tuổi.
Ông được sinh ra chỉ cách một tháng sau khi Sài Gòn thất thủ. Cha ông là một sĩ quan trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa từng chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ, và người cha đã bị đưa vào trại tù cải tạo một cách tàn bạo, trong khi mẹ vất vả nuôi Nam và anh ông. Đến năm 1983, trong lúc tuyệt vọng, người mẹ đã đưa Nam, 8 tuổi, và em trai, 9 tuổi, lên một chiếc ghe nhỏ chật cứng những người tị nạn khác, để thoát khỏi Việt Nam.
Có 200.000 thuyền nhân đã chết ngoài biển. Nam và em trai nằm trong số những người may mắn. Chiếc ghe của họ bị hải tặc tấn công, nhưng hai cậu bé đến được trại tị nạn của Liên Hiệp Quốc ở Nam Dương. Hai năm sau đó, vào năm 1985, hai anh em đến Mỹ. Từ đó ông Nam đã sống trong những nhà nuôi trẻ và nhà tập thể ở Quận Cam, California. Nam nhập vào những phần tử xấu. Năm lên 17 tuổi, một số bạn bè của Nam đánh nhau với một nhóm thiếu niên khác trong một phòng chơi billiard (bi da). Cuộc hỗn chiến leo thang ra bên ngoài, và một vài phát súng được bắn lên trời. Không ai bị thương, nhưng cả đám đều bị buộc tội tấn công bằng súng.
Theo Nguyễn Nam cho biết, được hỗ trợ bởi hồ sơ di trú do luật sư của ông cung cấp, ông bị tuyên án tạm tha có điều kiện. Ngay trước khi thời gian tạm tha kết thúc, ông bị bắt cùng với một người bạn có ma túy. Nam lại phải ở tù thêm 16 tháng, và khi ra tù, ông được trả lại cho Cơ quan Di trú và Nhập tịch (nay là Di trú và Thực thi Công lực Quan thuế). Ông trải qua thêm bốn năm bị giam trong mấy nhà tù khác nhau. Nói cách khác, Nam đã ở tù lâu hơn nhiều so với một công dân ngồi tù nếu phạm cùng một thứ tội.
Sau đó Nam nghiện ma túy. Trong năm 2004, ông dùng ma túy quá liều và trải qua kinh nghiệm gần chết. Khi bình phục, Nam trở thành một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Ông theo học tại một chủng viện để trở thành mục sư, và hiện nay trợ giúp những thanh thiếu niên người Mỹ gốc Việt gặp rắc rối, đồng thời làm quản đốc của một cửa hàng ở miền bắc Virginia phục vụ cho cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Ông Nam không gặp rắc rối với pháp luật kể từ năm 2009.
Hiện nay Nguyễn Nam có một ngôi nhà, một công việc ổn định, có vợ và hai đứa con nhỏ đều là công dân Mỹ. Nhưng chính ông lại thiếu quốc tịch Mỹ, không có cả thẻ xanh. Thế nên ông cần phải xin giấy phép làm việc mỗi năm.
Cá nhân ông là một bằng chứng cho khả năng cứu chuộc từ tội lỗi, nhưng ông và gia đình đang sống trong nỗi sợ hãi triền miên về hình phạt cuối cùng - lệnh trục xuất.
Ông nói, "Nếu tôi bị trục xuất, các con tôi sẽ không có cha, vợ tôi sẽ không có tiền để trả tiền nhà hoặc bảo hiểm y tế. Họ sẽ trở thành người vô gia cư. Nếu tôi bị trục xuất, chính gia đình tôi bị biến thành nạn nhân".
Nguyễn Nam cũng sẽ là nạn nhân, nếu ông bị trả về Việt Nam. Ông nói, "Tôi cảm thấy tôi là người Mỹ, tôi sống ở đây cả đời. Nếu tôi trở về Việt Nam, tôi có thể sẽ bị hãm hại vì tôi là một đứa trẻ từ chính quyền cũ - tôi sẽ bị coi là một kẻ phản bội".
Nếu ông Trump thành công trong việc trục xuất Nam Nguyễn và hàng ngàn người Mỹ gốc Việt khác, đó sẽ là một thảm kịch không chỉ cho họ và gia đình họ. Đó sẽ là một thảm kịch cho toàn nước Mỹ. Hoa Kỳ thiết lập một quan hệ gắn bó kết thiêng liêng với các quốc gia đồng minh, khi các quân nhân Mỹ đổ máu cùng với những người Việt Nam. Những người Việt Nam tị nạn bị trục xuất sẽ là một sự phản bội mới, đối với Việt Nam Cộng Hòa và các cựu chiến binh Việt Nam của chính nước Mỹ.
Max Boot
Nguyên tác : Trump's betrayal of Vietnam's boat people, The Washington Post, 03/01/2019
Nhật báo Viễn Đông tóm lược
Nhân dịp các hội đoàn Việt Nam ở Đức xây tượng để tri ân ông Rupert Neudeck, người đã cứu trên 10 ngàn thuyền nhân với chiếc tầu Cap Anamur, cũng nên nhớ tới một chiếc tàu khác, Île de Lumière. Một chiếc tàu Pháp đã cứu hàng chục ngàn boat people khác.
Cái bắt tay lịch sử
Île de Lumière (Đảo Ánh Sáng) cũng tạo ra cái bắt tay lịch sử của hai trí thức, triết gia hàng đầu của Pháp : một của phe tả, Jean-Paul Sartre, một của phe hữu, Raymond Aron. Và làm lung lay, nếu không tan vỡ, giấc mộng thiên đường xã hội chủ nghĩa, thế giới đại đồng của cả một lớp trí thức không tưởng.
Cái bắt tay lịch sử giữa Jean-Paul Sartre và Raymond Aron
Île de Lumière ra đời do sáng kiến của Bernard Kouchner, được gọi là French Doctor, vì đã sáng lập Médecins Sans Frontières, tổ chức Bác sĩ Không Biên Giới, đưa các y sĩ Pháp đi giúp đỡ nạn nhân chiến tranh hay thiên tai trên khắp thế giới.
Bernard Kouchner, người chủ trương đưa tàu sang cứu thuyền nhân Việt Nam trên Biển Đông
Trí thức Pháp thời đó có một ranh giới không ai muốn, hay có can đảm, vượt qua : tả và hữu
Sartre và Aron chống nhau kịch liệt. Sartre thiên cộng, đã từng nói "những người chống ộng là những con chó" (tout anticommuniste est un chien). Và không lỡ một cơ hội đả kích, miệt thị Aron.
Aron là triết gia, bình luận gia chính trị hiếm hoi đã viết sách báo không ngừng nghỉ, để vạch trần bộ mặt thực của cộng sản, thực chất của chiến tranh Việt Nam, và hiểm họa độc tài toàn trị đe dọa thế giới.
Đó là một thái độ can đảm hiếm có ở một nước, một thời điểm, thiên tả đồng nghĩa với trí thức. Những người chống cộng không dám bày tỏ ý kiến của mình, sợ bị coi là phản động (réactionnaire), chưa nói tới chống cộng kiên trì, với những lập luận sắc bén như Raymond Aron, hay Jean-François Revel. Câu nói quen thuộc của trí thức thời đó : "Thà lầm lẫn với Sartre còn hơn có lý với Aron" (Il vaut mieux avoir tort avec Sartre que raison avec Aron). Đó là cái phi lý của tinh thần mù quáng vì ý thức hệ. Sartre được ngưỡng mộ, Aron bị đả kích, chế nhạo, mặc dù với thời gian, người ta thấy, về chính trị, Sartre lầm từ đầu tới cuối, trong khi Aron có lý trên mọi phương diện. Sartre đã mua chuộc những lầm lẫn của mình bằng một thái độ đáng phục : khi tuổi đã cao, gác bỏ tự ái, đã cùng với Aron gõ cửa chính quyền, kêu gọi cứu giúp khẩn cấp các thuyền nhân Việt Nam
Từ Hải Hồng tới Île de Lumière
Một ngày gần cuối năm 1979, chuyện khó tin nhưng có thực đã xẩy ra : hai ông lãnh tụ trí thức không đội trời chung, Sartre và Aron, ngồi lại với nhau, lên tiếng ủng hô dự án Île de Lumière, kêu gọi dân Pháp mở rộng bàn tay tiếp đón thuyền nhân, nạn nhân của cái mà trước đó những trí thức như Sartre nghĩ là một cuộc giải phóng. Khi quân Khmer Đỏ tiến vào Pnom Penh, tờ báo trí thức thiên tả Le Monde viết : dân chúng chen lấn hai bên đường đón rước.
Thảm trạng của boat people trên chiếc thuyền Hải Hồng trên màn ảnh truyền hình đã làm họ tỉnh ngủ.
Hình ảnh lạ hơn nữa là Sartre cùng với Aron vào điện Elysée, yêu cầu tổng thống Giscard d’Estaing đón nhận những thuyền nhân trên lãnh thổ Pháp.
Sartre là một trí thức anarchiste, không nhìn nhận nhà cầm quyền, hay những cơ cấu của xã hội trưởng giả, đã từng từ chối giải Nobel Văn chương.
Nước Pháp còn là nơi tiếng nói của những trí thức lớn có ảnh hưởng đáng kể. Việc Sartre cùng với Aron vào Dinh tổng thống kêu gọi giúp boat people gây mộ tiếng vang lớn trong dư luận.
Tổng thống Giscard d’Estaing chấp thuận, dân chúng vui lòng đón tiếp và tận tình giúp đỡ trên 128. 000 thuyền nhân, chỉ trong những năm đầu, trong đó nhiều người đã được tàu Île de Lumière cứu vớt ngoài khơi.
Nên nhớ lúc đó kinh tế Pháp đang kiệt quệ. Chính phủ Pháp đã quyết định ngưng nhận di dân. Việc đón tiếp, giúp đỡ, cấp giấy cư trú và giấy phép hành nghề dễ dàng cho hàng trăm ngàn boat people đi ngược lại chích sách nhà nước đã được dân Pháp ủng hộ. Hầu như không có một phản ứng tiêu cực nào, tại một xứ chia làm hai : cái gì phe tả cho là tốt, phe hữu cho là xấu. Hay ngược lại.
Là sáng kiến của Bernard Kouchner, dự án Một con tàu cho Việt Nam được sự ủng hộ tích cực của các trí thức tả phái nổi danh như triết gia Michel Foucault, ca sĩ Yves Montand, tài tử Simone Signoret, trước đó là những người chống Mỹ, chống chiến tranh Việt Nam.
Hình Sartre ngồi họp báo với Aron sau khi gặp Tổng thống Pháp chạy trên trang nhất tất cả các tờ báo lớn nhỏ. Ngồi giữa là André Gluckmann, triết gia thiên tả, maoiste (người tôn thờ Mao), sau vụ này trở thành chống cộng. Ngày nay, tất cả đều đã qua đời, Sartre, Foucault, Aron, Gluckmann, Signoret, Montand. Bernard Kouchner về hưu. Sau khi tàu Île de Lumière ngưng hoạt động, Kouchner rời Médecins Sans Frontières, sáng lập và điều hành tổ chức Médecins Du Monde (Y Sĩ Thế Giới), trước khi trở thành Tổng trưởng ngoại giao dưới thời Sarkozy.
Nhà thương nổi
Île de Lumière là một chiếc tàu cũ, 1.500 tấn, 90m chiều dài, được sửa cấp tốc, chạy tới đảo Poulo Bidong, ngoài khơi Mã Lai, khởi đầu dùng làm nhà thương nổi, với 100 giường, chữa trị cho 20.000 thuyền nhân trên đảo.
Île de Lumière là một chiếc tàu cũ, 1.500 tấn, 90m chiều dài, được sửa cấp tốc, chạy tới đảo Poulo Bidong, ngoài khơi Mã Lai
Thuyền trưởng François Herbelin, 29 tuổi, nói đó là những kỷ niệm sâu đậm nhất trên đời ông. "Tôi rất cảm phục những người Việt rất bình tĩnh, có tổ chức, có tư cách (digne), quyết tâm ra khỏi đại nạn. Khi mới tới, họ kiệt lực, nhưng hồi phục rất nhanh, nghĩ tới tương lai".
Thuyền trưởng François Herbelin và Bernard Kouchner trước mũi tàu Île de Lumière tại Poulo Bidong
Chín tháng sau, Île de Lumière bắt đầu sứ mạng mới : ra khơi cứu vớt những thuyền nhân phấn đấu trên biển cả, giữa cái sống và cái chết, giữa mưa bão và hải tặc.
Hàng triệu người đã liều mạng vượt biển tìm tự do, với những phương tiện thô sơ gây kinh ngạc cho người Tây phương. Hàng trăm ngàn người bỏ mạng trên biển cả.
Île de Lumière đã cứu hàng chục ngàn người, chở về Poulo Bidong chờ ngày được nhận đi định cư ở Hoa Kỳ, Canada hay Âu Châu.
Hàng chục ngàn người đã được chở về Poulo Bidong chờ ngày được nhận đi định cư ở Hoa Kỳ, Canada hay Âu Châu
Sau 14 tháng ngược xuôi, Île de Lumière được thay thế bởi một chiếc tầu mới, Île de Lumière II. Herbelin thành hôn với một phụ nữ thuyền nhân Việt Nam, trở thành thuyền trưởng một tàu thương mại. Làn sóng vượt biển bớt đi từ 1986, khi Việt Nam bắt đầu cởi trói, ít nhất về kinh tế.
Devoir d'ingérence
Île de Lumière đánh dấu một phong trào tương trợ đáng cảm phục ở Pháp, và sau đó ở các nước Tây Phương. Bernard Kouchner nhân đó đưa ra chủ thuyết "Devoir d’ingérence" (Nghĩa vụ can thiệp), theo đó các nước dân chủ Tây phương có bổn phận phải can thiệp, để cứu các nạn nhân, tại những nơi nhân quyền bị chà đạp. Sau đó, các nước Tây phương đã nhân danh nguyên tắc này để can thiệp vào Kosovo.
Île de Lumière cũng đánh dấu sự thức tỉnh của trí thức thiên tả Pháp. Trước đó, từ 1975 tới 1979, Khmer Đỏ thảnh thơi tàn sát dân ở Cambodge, không ai phản ứng gì. Người ta bịt tai, bịt mắt, bịt miệng để khỏi nghe, khỏi thấy, khỏi nói tới những sự thực phũ phàng.
Người ta không quên câu nói nổi tiếng của Sartre, khi giải thích tại sao ông ta không đề cập đến Goulag và những chà đạp nhân quyền ở Nga Xô Viết : Il ne faut pas désespérer Billancourt. Không nên làm Billancourt tuyệt vọng. Boulogne Billancourt là một ngoại ô của Paris, nơi có trụ sở của hãng Renault, tượng trưng cho thợ thuyền Pháp. Không đả động gì tới những tệ hại ở Nga để khỏi làm tuyệt vọng giới thợ thuyền, đang mơ thiên đường xã hội chủ nghĩa như ông già trong thơ Tố Hữu, ngồi đan rổ mơ nước Nga.
Raymond Aron, tác giả cuốn L’Opium Des Intellectuels (Thuốc phiên của trí thức) viết : những trí thức thiên tả là những nhà cách mạng phòng khách, căm ghét xã hội đang sống, một xã hội cho họ một đời sống sung túc và đủ mọi quyền tự do, trong đó có quyền tự do ngôn luận.
Sau làn sóng boat people, sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, phong trào thiên tả đi xuống, Đảng Cộng Sản Pháp trước đó là một trong hai chính đảng lớn nhất, làm mưa làm gió ở Pháp, ngày nay trở thành một đảng bỏ túi, với trên 1% phiếu bầu.
Paris, 04/09/2017
Từ Thức
Chiều hôm ngày 30 tháng 3, chúng tôi, 56 người, gặp nhau ở một phi trường nhỏ trong một tỉnh nhỏ, có tên là Hatyai, của nước Thái Lan. Trong 56 người, chỉ có 4 người : vợ chồng tôi, Trùng Dương, anh Michael ở Texas làm cho đài Truyền Hình Saigon-Houston không phải thuyền nhân. Số đông thuyền nhân tham gia là các anh chị đến từ Úc Châu và rất nhiều người đã từng đi Songkla và Bidong hai, ba lần. Anh chị Dương Phục và Vũ Thanh Thủy cũng là thuyền nhân nhưng đây là chuyến đi đầu tiên của anh chị đến đảo Kra. Cô Ngọc Ân, phóng viên của đài Little Saigon-Radio, Kim Hoàng và Chấn Hồng của đài VietFace TV từ Úc cũng có mặt trong chuyến đi này.
Mắt nào không lệ chảy.
Chúng tôi may mắn có ba Linh Mục, Cha Nguyễn Hùng đến từ Đài Loan, cha Phạm Hồng từ Úc và Phạm Tâm (cũng còn là Bác sĩ Y khoa) đến từ Houston, Hòa Thượng Thích Huyền Việt đến từ Houston, Thầy Tây Tạng Geshe Gawa đến từ Úc.
Trong nhóm còn một Bác sĩ trẻ nữa là Kenneth Nguyễn đến từ California.
Trại Tỵ Nạn Songkla
Chuyến hành hương đầu tiên của chúng tôi, bắt đầu trở lại thăm nền trại tỵ nạn Songkla. Từ thành phố ra tới địa điểm đó khoảng một tiếng lái xe.
Xe đi ra ngoại ô qua những vùng trồng mía, xoài và rất nhiều cánh rừng trồng cây cọ (Palm) dùng cho việc thủ công nghệ. Nhà cửa giống hệt những vùng quê Việt Nam thời chưa đổi mới. Cũng nhà tôn, nhà lá, thỉnh thoảng chen vào một ngôi nhà ngói, bên cạnh bụi chuối, cây hoa sứ. Cũng những con chó trước cửa sủa bâng quơ, những con gà trống nghiêng đầu ngơ ngác, thằng bé ở trần vừa chạy vừa ngã. Chiếc xe như mang chúng tôi trở về quê xưa ngày cũ.
Chiếc xe ca chở hơn 50 người đậu lại, biển xanh trước mặt, nắng gắt trên đầu. Mắt mở to, mọi người xôn xao chỉ tay về phía bên phải.
- Cứ đi vào đây, hướng này đúng rồi. Sẽ thấy cái giếng.
- Cái giếng mấy năm trước tôi trở lại còn thấy, bây giờ đã bị biển xâm thực rồi. Biển đã mang thêm cát vào, đã chôn mất miệng giếng, nhưng còn cây đa. Chính nơi này là trại tạm cư cho thuyền nhân chờ được định cư ở đệ tam quốc gia. (mặc dù cây đó trông giống một cây thùy dương hơn là cây đa. Có thể họ muốn gọi như thế để có một chút hơi hướm quê nhà).
Vùng bờ biển, nền lều trại dựng ngày trước đã được dọn sạch không còn vết tích, một con đường trải nhựa, chạy song song với biển đã như có sẵn tự bao giờ. Chúng tôi tới gốc cây đa đó, vẫn thấy dấu thờ cúng chưa cũ lắm, có bát cơm đổ nghiêng ngả, hạt cơm vừa khô, có nhang đèn vứt lăn lóc, những bức tượng đổ vỡ, những đồ thờ cúng kiểu Thái cái gẫy, cái bể.
Tác giả và miếu thờ ở Songkhla.
Ba linh mục và nhà sư kêu gọi mọi người tụ họp lại cùng thay nhau đọc kinh, tụng niệm.
Nhang được thắp lên, nước mắt thi nhau ràn rụa. Tên Chúa, tên Phật được thốt trên môi mọi người, để cầu cho người chết, kẻ lưu vong. Sau phần tụng niệm, cha Hồng bắt đầu giọng cho mọi người hát theo.
Giữa buổi trưa nắng chang chang, không một ngọn gió, tiếng hát của hơn năm mươi người hát vang vang như muốn át tiếng sóng biển đang đập vào bờ :
Tự Do ơi Tự Do, tôi trả bằng nước mắt
Tự Do hỡi Tự Do, anh trao bằng máu xương
Tự Do ơi Tự Do, em trả bằng thân xác
Vì hai chữ Tự Do, ta mang đời lưu vong
(Nam Lộc)
Mọi người xúm lại chụp hình. Các anh, chị làm phát thanh, truyền hình bắt đầu công việc của mình. Có người đi tách ra riêng một chỗ thì thầm với biển, với dĩ vãng, với kỷ niệm.
Bao nhiêu người đã được định cư ở nơi êm ấm ? Bao nhiêu xác đã trôi giạt vào bãi bờ này ?
Nước mắt, nước biển, trôi đi hai hàng oan nghiệt
Tóc bạc, tóc xanh, chìm sâu một khối tủi hờn.
Tôi cúi xuống vốc lên một nắm cát, nhặt một chiếc vỏ ốc đã vỡ, quay lưng lại với biển, chân thấp chân cao, vừa đi vừa lau nước mắt.
Nơi đây cũng đã dánh dấu bao cuộc tình tỵ nạn. Gặp nhau như rong rêu giạt vào bờ, bám lấy nhau rồi lại phải buông nhau ra vì mỗi người phải đi định cư ở hai nơi khác nhau, hay người đi người vẫn ở lại ngóng trông. Tương lai là một trang giấy trắng chờ tay ai vẽ xuống.
Chúng tôi rời bãi này để tới một bờ khác.
Tha Sala và 11 cô gái Việt
Trưởng nhóm, anh Hùng Lê cất tiếng :
- Bây giờ Hùng đưa các cô chú đến thăm đền thờ Mười Một Cô.
Đó là chuyện 11 cô gái Việt, không một mảnh áo quần, bị trói cổ vào nhau, thả nổi trên biển. Xác các cô trôi tới bãi Tha Sala này, được người địa phương thương tình vớt vào chôn cất. Ai nghe cũng phải xót thương, rùng mình, uất hận.
Những nàng thiếu nữ như hoa đỏ
Một sớm theo nhau bước xuống thuyền
Hoa bỗng rơi ra từng cánh mỏng
Thả vào lòng biển máu oan khiên
Tha Sala không chỉ vớt Mười Một Cô, Tha Sala còn vớt thêm bao nhiêu cái xác trôi đơn lẻ, trôi hai ba, trôi năm bẩy, giạt vào bờ.
Người đàn bà Thái khoảng 60 tuổi, gia đình hiện sống trên bãi đã lập một miếu thờ cho những vong linh này. Mỗi ngày bà mang ra miếu một bát cơm trắng, một chén nước lạnh và mấy cây nhang.
Đây là câu chuyện của bà : Khi gia đình bà tới ở trên bãi này thì vẫn còn rất hoang vu. Họ đào đất dựng nhà, chạm phải nguyên một chiếc thuyền chôn sâu trong cát. Họ tin là thuyền của người vượt biển bị đắm, sóng đánh vào và cát phủ lên. Bà cũng theo người lớn tuổi hơn ra biển mỗi lần có xác giạt vào. Khi đó tuổi của bà, khoảng tuổi các cô con gái Việt này. Gia đình bà dựng một ngôi đền nhỏ thờ vong linh của thuyền nhân và 11 cô gái. Chiếc thuyền cứ thế để nguyên trước cửa đền. Theo năm tháng, biển xâm thực và bão tố, ngôi đền chỉ còn lại cái nền vỡ và cái thuyền chỉ còn lại một mảnh ván dài, nhưng bà vẫn cơm trắng, nước lạnh và thắp nhang mỗi ngày.
Người Việt bị người Thái giết, thì cũng chính người Thái thờ cúng những oan hồn người Việt. Có phải đó là sự đền bù của đất trời không ?
Sau Tha Sala, chúng tôi được đưa tới một địa điểm gần bờ biển phía lên đảo Koh Kra.
Nơi dừng chân là chùa Wat Samphreak, trong chùa còn có một ngôi trường tiểu học. Tối hôm đó chúng tôi được ngủ lại trong chùa. Chúng tôi trải chiếu của nhà chùa, nằm bình an trong chánh điện, dưới chân những tượng Phật. Tôi trăn trở vì nóng, vì muỗi hay vì câu chuyện thương tâm của mười một cô gái bất hạnh. Nghe nói tuổi của các cô khoảng từ 19 tới 23. Ôi cái tuổi tinh khôi, mơ mộng và tràn đầy ước vọng !
Biển gọi em hay em gọi biển
Sóng đang reo sao bỗng khóc gọi hồn.
Nước mắt tôi ứa ra, trái tim tôi thổn thức. Tôi thương các em, thương cha mẹ các em, thương cho dân tộc tôi quá đỗi ! Chúa ở đâu ? Phật ở đâu ?
Lên thuyền ra đảo Koh Kra
Bốn giờ sáng ngày mồng 1 tháng 4, từ bãi của làng chài lưới Hua Sai, thuộc Nakhar Si Thammarat, cách đảo Koh Kra 80 cây số, chúng tôi lên thuyền ra biển đi tới đó.
Tại bãi biển.
Trên bãi biển tiếng gọi nhau khe khẽ, tiếng chân trên cát, ánh đèn pin lóe lên, dắt tay nhau, chúng tôi leo lên những chiếc thuyền tam bản của dân đánh cá Thái Lan, thuyền không mui, chạy bằng máy đuôi tôm.
- Sao đi sớm thế ?
- Giờ này biển êm, không có sóng
- Chạy bao lâu thì tới ?
- Khoảng hơn 3 tiếng.
Ngồi sát vào nhau, tám người một thuyền. Bắt đầu tách bờ tiến về đảo Koh Kra.
Có tiếng nói khẽ cất lên :
- Hồi đi vượt biên, chúng em đi bằng thuyền nhỏ như thế này, gọi là taxi, đưa ra ngoài có thuyền lớn hơn đón.
- Nhưng hồi đó phải ngậm miệng, không được nói, và rất sợ bị bắt lại, cộng thêm nỗi sợ bão biển, sợ hải tặc và chúng em chẳng ai có áo phao mặc như thế này.
Tôi ngồi co rúm người lại, thuyền đang chạy, nước biển bắn tung tóe lên mặt, những hạt muối mặn trên môi. Trời vẫn tối chưa nhìn tỏ mặt nhau. Biển mênh mông, biển tối om, tôi bắt đầu hiểu mang máng thế nào là nỗi sợ của người vượt biển. Nếu thuyền lật bây giờ, cũng khó lòng mà tìm cứu được nhau trong bóng tối. Đây thực ra mới là vịnh chưa ra tới biển.
Trời dần sáng. Lên tới bãi san hô của đảo Koh Kra thì sáng hẳn. Bờ biển này không có cát, chỉ toàn những mảnh san hô, nên không thể đi chân trần được. Năm 1979 đã có tới hơn 2000 thuyền nhân bị hải tặc nhốt giam ở đây. Vợ chồng chị Vũ Thanh Thủy và anh Dương Phục cùng nhóm gần 200 người đã trốn hải tặc 21 ngày đêm ở đây. Những con thú mang hình người đã hành hạ thuyền nhân Việt ở mức độ dã man ngoài sự tưởng tượng của một đầu óc bình thường.
Hàng ngàn người đã bị hải tặc giam cầm trên đảo này, con số người chết ở đây không ai biết rõ là bao nhiêu ? Bao nhiêu phụ nữ đã bị hãm hiếp, bao nhiêu người chồng, người yêu, cha mẹ, anh trai, bất lực và bất hạnh trước thảm nạn dưới tay hải tặc. Chỉ có Trời mới biết con số chính xác này.
Những cô gái nạn nhân này chịu nhiều khổ hạnh khác nhau. Có người bị bắt đi luôn không biết còn sống hay đã chết. Nếu sống, họ có còn muốn tìm về gặp lại những người thân yêu nữa hay không ? Hay họ tự coi như cuộc đời cũ đã chấm hết, đã xóa tên họ. Họ đã chấp nhận sống hai đời trong một kiếp.
Có người khi được cứu đã mang thai nhưng họ can đảm không bỏ đi giọt máu oan khiên đó, nó là một phần xương thịt họ. Họ mang con đến một nơi khuất lấp, xa lánh cộng đồng Việt, không gặp những người thân và tự nuôi con. Họ là những người mẹ vượt lên trên tất cả mọi thử thách mà định mệnh đã đặt vào họ.
Có cô gái chọn nhảy xuống biển chết thay vì bị hải tặc hiếp, nhưng số phận không cho cô chết, cô sống kẹt trong một khe đá, cô đói, khát, lạnh và bị cá tôm rúc rỉa hai chân cô trong 21 ngày. Khi cứu được cô ra, người ta nhìn thấy hai ống xương chân không da thịt.
Tôi đau đớn tự hỏi : Nước mắt nào khóc rửa được những vết thương này.
Nghe bước chân mình trên đá nhọn
nghe trăm gai sắc nhói trong tim
nghe sóng biển đập vào lồng ngực
nghe em gào khóc nỗi oan khiên.
Còn bao nhiêu câu chuyện nữa chưa được kể ra. Những người sống sót không ai muốn nhắc lại ký ức đau thương ấy. Họ im lặng, lãng quên đi hay thậm chí đã mất trí nhớ sau những tai nạn khốc liệt cho cả tâm hồn và thể xác ấy.
Tác giả Dương Phục và Vũ Thanh Thủy đã ghi lại trong hồi ký cả ngàn trang "Tình Yêu, Ngục Tù và Vượt Biển" của anh chị một phần nào những thảm cảnh trên đảo Koh Kra, những thảm cảnh mà Việt Nam và Thái Lan ngày nay đều cố tình phủ nhận và lẩn tránh. Tinh thần trách nhiệm và liêm sỉ của một quốc gia là chiếc hộp đen cả hai nước đều né tránh không muốn mở ra, nhìn lại.
Mỗi người bắt tay vào mỗi việc. Căng lều tập thể, căng lều cá nhân. Người lo dựng tượng Phật, tượng Đức Mẹ, Thánh Giá. Chúa thì phải lắp từng mảnh vào với nhau. (Những tượng này và vật liệu cần thiết đã được anh trưởng nhóm và một vài anh mang tới trước mấy hôm). Người lo mắc võng cá nhân, người lo treo những chiếc đèn lồng từ thân cây này sang thân cây kia. Sửa soạn sẵn cho một đêm hoa đăng trên đảo.
Chúng tôi xếp ra từ trong hộp những tấm mộ bia có khắc ghi tên tuổi thuyền nhân và những tấm khắc lời tưởng niệm (Được anh trưởng nhóm đặt mang từ Việt Nam sang), sửa soạn gắn những bia này chung quanh một bức tường tượng trưng cho khu nghĩa trang.
Buổi trưa nắng qua nhanh. Mỗi người được ăn trưa một tô mì gói, trước khi gạch, xi măng được chuyền tay nhau vác lên đồi tôn giáo. Một số người xuống tắm biển, có người leo lên thuyền trở về đất liền mua thêm vật dụng.
Công việc dựng tượng mới làm được một phần.
Buổi chiều, mọi người còn đang tất bật thì có hai chiếc thuyền tuần duyên từ đâu rẽ sóng tới, bốn năm người lính Thái có vũ trang nhảy vào bờ. Cô bé Nhung thông ngôn thiện nguyện (sống ở Thái) được gọi ra để trả lời những câu hỏi. Lính Thái bắt chúng tôi chia ra làm hai hàng, bên nam, bên nữ. Chúng tôi vội cho người đi mời mấy vị sư Thái (hiện tu hành trên đảo) xuống, cắt nghĩa rõ ràng là chúng tôi đến dựng tượng và thăm mộ thân nhân. Đất Thái là đất Phật, đi đến mỗi góc đường đều có am, miếu, thờ cúng, nên người dân Thái rất nể trọng các vị sư. Họ bắt chúng tôi cầm thông hành của mỗi người lên ngang mặt để họ chụp hình trước khi họ xuống thuyền. Sau khi nói chuyện với các nhà sư xong họ mới chịu xuống thuyền, rời bãi.
Khi họ đi rồi, một nỗi hoang mang dậy lên trong lòng những cựu thuyền nhân : Họ nói, không ai có thể biết được hải tặc có thông đồng với lính tuần duyên hay không ? Nhưng chúng ta nhờ có các sư và hiện mang thông hành ngoại quốc nên tương đối an toàn.
Buổi chiều, cơn mưa to ập xuống, dù lều được dựng dưới những tán lá cây, nước mưa vẫn làm ướt đầm chúng tôi. Khổ nhất là công việc dựng tượng và gắn bia cho người đã chết không tiến hành được, cả những tấm ghi dòng tưởng niệm, cũng phải xếp vào thùng. Nhang đèn, gạch, xi măng, phải che chắn lại. Đêm "Hoa đăng tưởng niệm" như dự tính đã không thành.
Buổi tối vẫn còn mưa. Trong tình cảnh, dưới lưng là những mảnh san hô lớn, nhỏ, mấp mô, rồi nước chảy vào thành từng vũng, quần áo, dày dép ướt sũng. Nhưng các anh em cũng kéo nhau ra lều tập thể hát dưới những giọt mưa.
Tiếng hát hòa đồng với tiếng mưa. Trong ánh lửa nến nhỏ nhoi xoi không tỏ mặt người, họ hát cho nhau nghe, cho hồn ma bóng quế cùng nghe.
Có hay không ! Những hồn ma bóng quế đang rủ nhau cùng về ngồi trong lều với những người đồng hương của mình ?
Đêm vẫn rào rào đổ mưa xuống, nhóm 8 người chúng tôi, nằm giữa một tấm bạt to, gấp đôi lại, nửa trải dưới đất, nửa căng trên đầu, buộc hai góc bạt vào hai thân cây. Frank nằm sát ngoài cùng phía bên phải lều, rồi Tú, Trâm, Nguyệt, Trùng Dương, Thủy, Phục và ngoài cùng là Cha Tâm bìa bên trái. Tội nghiệp Cha Tâm và Frank là hai người nằm ngoài bìa lều, ướt như chuột từ đầu tóc, quần áo, đến giày dép.
Chắc chắn những nhóm khác, trong những chiếc lều nhỏ kiểu cắm trại, cũng ướt không kém gì chúng tôi. Nhưng may, sáng ra trời tạnh, phải dậy thu dọn và ra lều tập thể ngay để làm lễ liên tôn cho các vong linh trên đảo.
Lễ cầu siêu trên đảo Koh Kra.
Các vị chủ tế cùng mọi người cùng quay lưng ra biển, mặt hướng về phía trong đảo, nơi có những nấm mồ của hơn 100 thuyền nhân được biết và thêm bao nhiêu mồ không được biết đích xác, được chôn vùi từ những ngày tháng đó của mấy ngàn thuyền nhân bị hải tặc lùa vào đây.
Chương trình hành lễ được Cha Tâm đề nghị, bắt đầu làm lễ với các Sư Thái đang ở đảo được mời tới cử hành đầu tiên bằng tiếng Phạn, sau đó đến Hòa Thượng Thích Huyền Việt và phần cuối là Cha Hùng, Cha Tâm Cha Hương chia nhau dâng lời nguyện.
Vừa xong hai phần về Phật giáo, tiếng các Cha bên Công giáo chưa cất lên thì có tiếng hốt hoảng gọi vào lều.
- Xin chấm dứt và sửa soạn ra về ngay, vì có tin báo bão sẽ tới lúc 3 giờ.
Mọi người hấp tấp đứng dậy chạy ra khỏi lều để thu dọn hành lý, riêng các Cha, Hòa Thượng và những người Công giáo vẫn ở lại.
Cha Hùng vừa cất tiếng lên đã nghẹn ngào :
Giữa biển khơi lồng lộng gió bốn phương.
Chúng tôi những người sống sót trong cuộc chiến tranh huynh đệ đau thương, cùng nhau về đây chiêu hồn lưu xứ.
Xin những đấng tối cao mở lòng đón nhận, vớt lên giữa bọt sóng lênh đênh những oan hồn, uổng tử.
Xin hãy mang hồn vào giấc ngủ ấm yên
Vòng tay Đức Mẹ, vòng tay Phật Bà xin hãy là những tấm khăn mềm thấm khô ngàn máu lệ.
Chúng tôi cúi đầu gửi lời kinh tiếng kệ
Tiếng chuông tiếng mõ gọi hồn về.
Giọng Cha trầm trầm, bi thương, nghẹn ngào, Cha đọc hết bốn trang bài "Văn Tế Muộn Màng".
Rồi các Cha thay nhau đọc tên từng người trên những mộ bia mới làm. Sóng cứ nhô cao, bão cứ tới, mọi người vẫn bình tâm với những dòng kinh nguyện.
Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời
(Kinh hòa bình-Thánh Francis)
Chiếc lều cuối cùng được kéo xuống, gấp lại, gấp cả những giọt nước mưa còn đọng đêm qua. Tôi lấy tay quẹt trên giọt nước, nếm thấy mặn như những giọt lệ.
Những chiếc thuyền tam bản, không mui, rẽ sóng trở lại đất liền. Trời không nắng, âm u, nước biển bắn tung từng đợt lên mặt mũi, quần áo. Trưởng nhóm Hùng khóc rưng rức nhìn hòn đảo Koh Kra chìm dần vào những đám mây đen đang từ từ kéo tới. Anh khóc vì nhiệm vụ chưa hoàn tất. Chúng tôi phải mỗi người nói một câu an ủi anh, nhưng thật sự trong lòng chúng tôi cũng đang thổn thức. Mây đen kéo mỗi lúc một dầy sau lưng chúng tôi, hòn đảo như chìm từ từ xuống biển, tiếng kêu của những vong linh không vọng được lên trên tiếng sóng. Hòn đảo như biến mất, giữa kẻ chết và người sống một đường vạch dài và đen chia đôi.
Bidong và những ngôi mộ tập thể ở Mã Lai
Xe ca đi từ Thái Lan sang Mã Lai, mất 8 tiếng, qua những chặng đường biên giới, phải làm thủ tục nhập cảnh. Chúng tôi tới Mã Lai thì đã trời chiều.
Phụ nữ ở đây đa số mặc quốc phục nhiều màu sắc, khăn chùm đầu của họ rất đẹp, đủ màu, đủ kiểu quấn khác nhau chung quanh khuôn mặt. Bạn tha hồ ngắm mắt môi và nguyên khuôn mặt thân thiện, hay cười của họ. Hiếm hoi lắm mới thấy một vài bà đứng tuổi quấn mình kín mít trong tấm vải đen chỉ để lộ hai con mắt đủ nhìn bước chân mình. Đàn ông cũng thân thiện không kém, ông tài xế taxi hay nói về đời sống gia đình cho bạn nghe, về việc họ vẫn cầu nguyện năm lần một ngày, mỗi lần bảy phút.
Mã Lai là nước đã nhận gần 300 ngàn người tỵ nạn Việt Nam trong hai thập niên 1975-1995. Những thuyền nhân đi trong nhóm kể lại : nạn hải tặc Mã ít hơn hải tặc Thái rất nhiều. Lính Mã ban đêm có vào trại kiếm những cô vừa mắt mang về làm vợ, không ai can thiệp được. Nhưng lính Mã không hiếp phụ nữ và giết người ngay trước mặt mình.
Mã Lai cũng là nơi có nhiều xác thuyền nhân tạt vào bờ nhất nên cũng là nơi duy nhất có nhiều mộ tập thể. Những người bạn thuyền nhân trong nhóm nói có khi thuyền gần vào tới bờ vẫn bị lật như thường, người đến trước trên bờ có thể nhìn thấy người chết chìm trước mặt mà không làm gì cứu được. Về sau được người địa phương cho biết là khúc biển gần vào đến bãi, dọc biển đó có nhiều vũng xoáy, có khi thuyền vào trúng chỗ xoáy mà không biết, gặp biển êm thì thoát, khi biển lúc đó động thì chỗ xoáy hút thuyền vào, thuyền lật, không cách nào cứu được. Đó là trường hợp của rất nhiều chiếc thuyền đã nhìn thấy bờ mà không vào được bến.
Viếng ngôi mộ tập thể đầu tiên ở Kelanta.
Mã Lai cũng là quốc gia duy nhất có nhiều mộ tập thể của thuyền nhân, có đầy đủ lý lịch, vì họ chết gần bờ.
Ngôi mộ tập thể số 1 chúng tôi tới ở Balai Bachock thuộc tỉnh Terengganu, mộ đó có 46 người, trong đó có 3 em nhỏ.
Lần đầu tiên trong đời người, đứng trước một ngôi mộ tập thể. Ngôi mộ chơ vơ trên đồng đất nước người với những cái tên Việt Nam, tôi không cầm nổi lòng mình, nghe nôn nao, quặn đau trong ruột, nước mắt ràn rụa. Từ bao lâu nay chỉ nghe tiếng "thuyền nhân" chỉ nhìn "hình thuyền nhân", cái thương cảm đó có đấy, nhưng chỉ thoáng ngậm ngùi như vết xước ngoài da. Phải tới đó, trên một đất nước xa lạ nhìn thấy nấm mộ đó mới hiểu được tình người trong một nước nó sâu đậm đến đâu, mới hiểu rõ hai chữ "Đồng Bào" cùng một cội nguồn dân tộc với nhau. Mình bỗng chốc thấy thương dân, thương nước mình quá đỗi ! Vì đâu, vì ai, vì nghiệp lực nào mà chết thảm, chết khổ, đến thế này ! Cá nhân mình có lãnh một phần trách nhiệm nào trong đó không ?
Nhang, nến, thắp lên, lời kinh hòa đồng, Phật, Chúa có nhìn xuống chúng sinh không ?
Tôi nghĩ tới lời Sư Huyền Việt nói với tôi : Nghiệp lực làm khổ nhau. Cái khổ phải xảy ra một lần trong cuộc đời và cái khổ vẫn tiếp tục xảy ra.
Ngôi mộ thứ hai tại Cherang Ruku, cách nơi này không xa còn to hơn nữa, còn nhiều người hơn nữa, nó cho ta cái cảm tưởng đây là một cái nghĩa trang nhỏ chứ không phải là một nấm mồ. Mộ chôn 123 người, sau nhận thêm 5 người nữa chôn ở nơi khác được đưa về. Tổng cộng là 128 người. Những ngôi mộ tập thể đã được chôn chung như thế nào ? Đây là lời kể của bà vợ ông Alcoh Wong Yahao (sẽ nói đến vị ân nhân này sau).
"Chúng tôi xếp xác từng lớp, không phân biệt nam nữ, tuổi tác. Cứ một lớp xác người xếp lên một lớp khăn liệm, rồi lại tiếp một lớp xác người khác, trên cùng chúng tôi đặt một lớp ván ép, rồi xúc đất đổ lên. Thế là thành một ngôi mộ lớn.
Ngôi mộ thứ hai này và ngôi mộ thứ nhất với 46 người, cộng thêm 5 người mang tới sau, họ cùng đi với nhau trên chiếc tàu khởi hành từ Mỹ Tho, tên tàu là MT- 065, khỏi hành ngày 1 tháng 12, tới gần biển Mã Lai ngày 4 tháng 12 thì bị lật chìm. Tổng số người đi trên thuyền là 300 người.
Mộ tổng cộng 128 người.
Chúng tôi cúi đầu khấn nguyện Chúa, Phật, cầu xin các vong linh về chứng giám cho lòng thành của chúng tôi. Chúng tôi, những phụ nữ dựa vào vai nhau mà đẫm lệ.
Sau đó cha Tâm đề nghị mỗi người cầm nhang đi chung quanh ngôi mộ cắm xuống. Mỗi nén nhang có mang theo những giọt nước mắt.
Hỡi hồn bập bềnh trên biển
Về đây nghe lời kinh an
Trăm ngàn mảnh hồn ướt sũng
Muối nào trong lệ không tan.
Đừng khóc vội, tôi xin kể một câu chuyện liên quan đến nấm mộ to như một nghĩa trang nhỏ này.
Trong mấy ngày hôm sau khi chúng tôi đi thăm những nghĩa trang có chôn rải rác thuyền nhân, tôi thấy xuất hiện trong đoàn một thanh niên rất trẻ, tôi hỏi chuyện làm quen, khi em giúp nắm tay tôi dắt bước qua những mô đất. Em tên là Alex Trần, 28 tuổi, em đi thăm mộ ông bà ngoại và các chú, bác, của mẹ em. Vì thời khóa biểu không trùng hợp với nhóm nên em đến chậm một đôi ngày, em phải đi thăm ông bà ngoại một mình.
- Tại sao mẹ không đi với con ?
- Mẹ sợ, mẹ không dám nhìn lại.
Em nói tiếng Việt rất giỏi, rất lễ phép, chứng tỏ em được lớn lên trong một gia đình tốt. Em kể :
Gia đình của mẹ con, tất cả 18 người đi trên chiếc tàu MT-065 này. Lúc đó mẹ con là một cô bé 12 tuổi, dì của con lên 10. Khi tàu lật, họ kẹt trong khoang, dì con 10 tuổi dùng đầu đập vào cửa kính thuyền, hai chị em chui được ra bên ngoài. Cả hai chị em cùng không biết bơi, ngất xỉu. Sóng đánh họ giạt vào bờ, được cứu sống. Cả gia đình chết 13 người, còn lại 5 người trong đó có mẹ con, dì con và ba người họ hàng.
Em thơ dại sao mà em may mắn
Cả một thuyền chết hết chỉ còn em
Sau đó hai chị em được một gia đình Mỹ bảo trợ, nuôi ăn học, cho tới lúc lập gia đình. May mắn gia đình đó ở Orange County, California ngay trung tâm của người Việt nên hai cô bé đó đã vẫn giữ và nói tiếng Việt. (Khi làm mẹ, cô cũng cho con đi học tiếng Việt).
Hai chị em cô bé này quả thật trong bất hạnh có lồng may mắn. Hai cô được cha mẹ Mỹ cho đi học tiếng Việt và lớn lên với cộng đồng Việt.
Nhìn cậu thanh niên khôi ngô, đĩnh ngộ, lớn lên ở Mỹ, nói tiếng Việt rõ ràng, lễ phép trong một gia đình có hoàn cảnh như thế, tôi thấy mình không khóc được nữa. Tôi đứng sững nhìn cậu, nghe cậu kể lại câu chuyện nhiều lần (vì nhiều người hỏi). Tôi hình dung ra mẹ và dì của cậu như những viên ngọc lăn rơi xuống từ những mỏn đá cao và sắc mà không hề xây xát. Không có viên ngọc nào có thể đẹp hơn nữa.
Tôi nghĩ đến đôi ngày vừa qua, khi cậu một mình đứng trước ngôi mộ tập thể, cậu chạm tay mình lên trên tên ông bà ngoại, tôi biết chắc cậu đã khóc bằng đôi mắt của mẹ mình.
Một mộ bia tập thể của người Việt trên đất Mã Lai.
Người chủ của những ngôi mộ thuyền nhân
Một khu nghĩa trang của người Hoa cũng ở Terengganu với những ngôi mộ xây theo hình vòng cung như cái bào thai của người mẹ (người Hoa nói đó là tượng trưng cho ta trở về nơi ta đã từ đó ra đi).
Trong nghĩa trang này có 4 khu A, B,C,D. Khu A có hơn 400 thuyền nhân được chôn ở đây. Khu B,C,D có hơn 200. Mộ chôn rải rác, khi thì một người, khi thì ba hay bốn người, tùy theo có bao nhiêu giạt vào bờ lúc đó. Có mộ thấy lên tới bảy người, mười người.
Hỏi anh Lưu Dân, một thuyền nhân ở Úc đã tổ chức tới đây nhiều lần, có gia đình nào về lại Mã Lai cải táng thân nhân đem đi không ? Anh nói, có một người đã làm được. Nhưng người Mã ở thành phố này, không muốn cho người Việt đến cải táng mang đi. Họ nêu ra ba lý do :
Thứ nhất, đã chết ở Mã là người Mã.
Thứ hai, mộ ở đây lâu năm đã thành mộ bạn.
Thứ ba, nếu người Việt ai cũng cải táng thì đâu còn ai tới thành phố này (Terengganu là một thành phố cần du khách)
Cha Tâm mặc áo lễ, dâng bánh Thánh ngay trong nghĩa trang này. Tôi và Vũ Thanh Thủy, Ngọc Hân cùng cất tiếng hát : Chúa nhân từ xin lắng nghe linh hồn con tha thiết. Ăn năn kêu van, lạy Chúa xin dủ thương, ban xuống niềm tin ấp ủ cho tâm hồn.
Hình Cha Tâm dâng lễ.
Nắng rát da, trời cao vời vợi, những hạt nước mắt rơi trong tiếng hát, rơi nhòe trên trang giấy hát.
Hòa thượng Huyền Việt đã rời Thái lan sau khi ở Koh Kra về, nên anh Ngô Đức Hữu từ Úc đại diện Phật giáo mỗi lần tới các phần mộ, anh phụ trách khấn nguyện. Tiếng Việt miền Nam của anh nhẹ nhàng, ấm áp, bài kinh anh rút ra từ đạo Ông Bà, nghe thật cảm động, xin trích một đoạn :
Cầu Thượng đế từ bi hỉ xả. Cho linh hồn ổn thỏa nghe kinh. Cầu xin giảm bớt tội tình. Cho vong nhàn hạ nhẹ mình thảnh thơi. Cảnh ly biệt hỡi ôi thê thảm. Đức Thần Minh phất phưởng tràng phan. Cho hồn noi đó nhẹ nhàng. Trở về cứu vị an nhàn hưởng vui…..
Sau lễ chúng tôi đi thắp nhang trên các ngôi mộ, không phân biệt Hoa, Việt, người địa phương hay thuyền nhân. Nghi thức hóa vàng mã tiếp theo rất phong phú, các anh chị trong nhóm mua ngay tại địa phương nên mua được rất nhiều (theo thống kê năm 2010 Mã Lai có 19,8 % theo đạo Phật).
Chúng tôi hóa vàng xong thì xuất hiện một người đàn bà Hoa, được những người trong nhóm giới thiệu đó là bà Alice Wong, vợ của ông Alcoh Wong một vị ân nhân chôn cất gần như là hầu hết những xác thuyền nhân trôi vào bờ bãi Mã Lai.
Chân dung ông Wong
Ông chính là người đã chôn cất những ngôi mộ Tập Thể, hơn thế nữa bao giờ có xác táp vào bờ là người ta đi gọi ông. Ông in ra cuốn sách The Vietnamese Boat People (VBP) along The East Coast Of Malaysia Peninsula để hướng dẫn những người đi tìm mộ thân nhân dọc theo bờ biển phía đông vùng biển Mã Lai. Vùng biển phía đông Mã Lai đối diện với mũi Cà Mau là nơi thuyền nhân tới đông nhất và cũng chết đắm nhiều nhất.
Bia công đức.
Ông để hết thời gian của mình chỉ để lo cho những cái xác của thuyền nhân Việt Nam trôi giạt vào vùng bãi biển Mã Lai, gần nơi ông cư ngụ. Chiếc thuyền đầu tiên của người Việt tỵ nạn ông Wong được nhìn thấy vào ngày 23 tháng 11 năm 1978 đã vào gần tới bãi nhưng chưa được lên bờ. Ông nhìn thấy những khuôn mặt hốc hác, sợ hãi nhưng tràn đầy hy vọng. (Về sau ông được Hội Hồng Nguyệt - Red Cresent - cho biết, chiếc thuyền đó đã bị lật trong khi được hướng dẫn vào bờ ngay trong cùng ngày. Cả thuyền 137 người bị chết đuối).
Ông và những người bạn của ông ngoài việc chôn cất, còn đi tìm những phần mộ của thuyền nhân rải rác trên đất Mã đem về gần nhau.
Những nấm mộ thuyền nhân tập thể được nhìn như "Mồ vô chủ" thì trên một ý nghĩa nào đó, ông Wong chính là "Chủ" những nấm mồ này.
Cho tới khi ông mất, năm 2006 trước đó một tuần ông vào nghĩa trang thăm mộ thuyền nhân ông đã hát bài "I will follow you forever".
Nói theo nhà Phật, kiếp trước ông có nợ người Việt Nam hay chính ông là một người Việt Nam trong tiền kiếp ?
Tấm lòng của ông Wong đối với thuyền nhân từ năm đầu tiên 1978, khi ông nhìn thấy chiếc thuyền tị nạn 137 người kéo vào vùng vịnh Kuala Terengganu, tới năm ông qua đời 2006 là 28 năm dài.
Đảo Bidong và những khu mộ
Chúng tôi cũng tới đảo Bidong bằng thuyền. Thuyền này chạy bằng máy cao tốc và từ đất liền ra tới đảo khoảng 20 phút. Đi giữa trưa nắng gắt.
Từ năm 1975- 1991 đã có 250.000 thuyền nhân sống sót tạt thuyền vào sinh sống ở đây. Nhiều người chờ bảo lãnh có thể ở trên đảo từ hai tới bốn năm, nhiều người bị trả lại. Có người bệnh chết, có người tự tử. Họ được mang lên đỉnh đảo chôn cất.
Mộ chia ra từng khu A, B, C… Khu cho trẻ em riêng. Khu F được coi là đông nhất tới hơn 200 ngôi mộ. Chúng tôi kéo nhau lên đó. Bước thấp, bước cao, chống gậy, cầm dao, vừa leo vừa phạt cây rẽ lối. Cuối cùng cũng lên tới tấm bia có ghi 151 người (có bia mộ) Thật ra số mộ ở đây trên con số 200.
Đồi Tôn giáo nơi trước đây có nhà thờ Công giáo, Tin Lành, Cao Đài và Chùa thì nay đã vừa bị phá, vừa xụp đổ theo thời gian, trông vô cùng hoang phế. Đau lòng hơn nữa những tượng Phật, tượng Đức Mẹ đều bị chém cụt đầu (vì một số người cuồng tín tin là mất đầu thì không còn linh thiêng nữa) Thánh giá Chúa thì chỉ còn dấu vết trên tường mà thôi.
Tôi và Thái hai chị em đi lang thang chung quanh đồi, Thái lo chụp hình, tôi lo… buồn. Tôi đứng trên cao nhìn mông lung bao quát bãi cát dưới chân đồi.
Nơi đây bao nhiêu người dân Việt của tôi giạt vào, giạt vào bằng thân xác còn thở được, còn hy vọng sẽ được chuyển tới một quốc gia nào đó để gây dựng lại cuộc đời cho con, cháu hay chính bản thân mình ? Bao nhiêu người chỉ còn là những cái xác bập bềnh giạt vào bờ ? Bao nhiêu cảnh chia ly của những mối tình vừa nhận được sau những đau thương mất mát ? Bao cảnh đời uất hận bị gửi trả về nơi mình đã không sống được phải bỏ đi ? Bao nhiêu người đã phải ở đây cả ba, bốn năm trong hy vọng, trong tuyệt vọng trước khi được rời nơi này ?
Biển dưới kia đang ập vào từng đợc sóng, nước mắt của mấy mươi năm về trước còn giọt nào pha trong muối đại dương ?
Biển phải làm gì để giữ mãi được những giọt lệ, những tiếng khóc, tiếng cười, hy vọng và tuyệt vọng của một dân tộc luôn luôn "Đi không yên ổn, ngồi không vững vàng" ngay trên chính đất nước mình.
Chúng tôi xuống đồi để sửa soạn quay về đất liền. Xuống đến chân đồi ngoái đầu nhìn lại, một cánh bướm đen thật lớn từ trên đồi bay xuống lượn vòng ngay sau lưng tôi. Một thoáng rùng mình, một thoáng rưng rưng, tôi dừng lại, nói thầm trong cuống họng mình. "Thôi nhé, tôi về, nhớ mãi hôm nay". Giơ tay áo lên, quẹt ngang dòng nước mắt. Cánh bướm bay mất hút lên đồi.
Sau một đêm mắc võng, chùm chăn (cho khỏi muỗi) ngủ lăn lóc trên cầu tàu, chúng tôi trở về đất liền, tiếp tục cuộc hành trình tìm mộ thuyền nhân.
Rải rác mộ thuyền nhân dọc đường
Trên đường sang Kuala Lumpur, trong tỉnh Dungun có hai nghĩa trang. Hai nghĩa trang này có biển trước mặt nên khi xác thuyền nhân giạt vào được vớt lên chôn ngay tại đây. Khi họ vớt được 1 xác, khi được 2, 3, khi được 5, 7. Có khi cả trên 10 xác vào một lúc.
Nghĩa trang thứ nhất lối vào có đền thờ với hàng chữ Tao Yan Dian Temple, có 80 ngôi mộ thuyền nhân, trong đó 38 mộ có tên. Một ngôi mộ tập thể nằm dưới gốc một cây bàng lớn, chôn trên 100 người, được khắc chung một tấm bia. Bia được Văn Khố Thuyền Nhân xây ngày 23 tháng 3 năm 2007.
Những ngôi mộ trong khu thứ hai được đặt trong một nghĩa trang đặc biệt do nhà thờ Công giáo St.Thomas trông coi. Những thân xác thuyền nhân được bao quanh bởi ba ngôi thánh đường của : Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Hồi giáo. Còn được gọi là Migrants Cemetery.
Những linh hồn này thật được chúc phúc an ủi biết bao !
Nhang được thắp lên, lời kinh được cất lên, nước mắt lại chảy xuống, Chúa, Phật trên cao được mời xuống dự tiệc bi ai của nhân loại.
Viết tới đây. Tôi tưởng tượng ra, tôi là người dân Mã Lai sống dọc theo miền đông biển Mã Lai, mỗi sáng trở dậy nghe tiếng gọi nhau ơi ới bên ngoài cánh cửa : Ra vớt xác thuyền nhân Việt đang giạt vào bờ. Không phải một xác, hai xác, mà vô số xác. Rồi cùng nhau tẩm liệm, chôn cất, có khi lập miếu thờ.
Tôi tưởng tượng ra trong những cái xác bất hạnh đó, một cái xác của chính mình.
Những cái xác của đồng bào mình (hay của chính mình) đã được những người không cùng chủng tộc xót thương, được ghi lại in thành sách (như sách của ông Wong) để sau chính những người Việt về tìm lại.
Chôn cất cả trăm, ngàn, nấm mộ không phải là chuyện giản dị. Việc xây cất làm sao chu đáo được. Theo thời gian, mưa nắng những ngôi mộ không tồn tại được.
May mắn thayVăn Khố Thuyền Nhân của người Việt (do ông Trần Đông, từ Úc, sáng lập 2004), đã tới Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương trùng tu lại hầu hết những nấm mộ này. (Theo Văn Khố Thuyền Nhân - Trong vùng Đông Nam Á có hơn 2000 nấm mộ vừa tập thể vừa cá nhân).
Tôi đọc tên tôi
Hội Hồng Nguyệt ( Malaysian Red Cresent Societ - Hồng Thập Tự Mã Lai) đã lưu trữ hai trăm ngàn (200,000) hồ sơ của những người sống sót. Để hôm nay những thuyền nhân trong nhóm chúng tôi đến tìm lại. Mỗi khi tìm được tên của mình hay thân nhân mình, họ òa vỡ ra cùng một lúc tiếng cười và giọt lệ :
Tôi vừa đọc tên tôi trên tấm thẻ
Có phải tôi không trên lý lịch này
Ngày tháng đó tưởng vùi chôn đáy biển
Bỗng sóng đánh vào bờ sáng hôm nay
Khi chúng tôi tới viếng Hội, câu chào hỏi đầu tiên của ông Dato’ Sayed A. Rahman, Tổng thư ký hội Hồng Nguyệt là : "Chúng tôi không cần biết anh là người nước nào, chúng tôi chỉ biết giúp đỡ một con người". Nghe mà ứa nước mắt.
Ông Misnan, nhân viên điều hành của Hội, nói được vài câu bằng tiếng Việt rất thân tình. Đặc biệt là ông hát cho chúng tôi nghe bằng tiếng Việt, bài hát "Bài tình ca cho em" của Vũ Thành An thật hay. Hay một cách bất ngờ !
Thế gian đầy quỷ dữ, nhưng Trời cũng ban phát xuống những thiên thần cứu trợ.
Sau 42 năm nhìn lại, chúng ta có rất nhiều những trang sử mới. Trên hết, mỗi một cái chết của thuyền nhân, của tù cải tạo, của người Quốc gia chết cho Tự do là một trang sử mới được cộng vào.
Tất cả con dân Việt đều phải học Sử Việt.
Ngày 20 tháng 4 năm 2017
Trần mộng Tú
Nguồn : VOA, 23/04/2017
Viết trong cuộc hành trình về Trại tỵ nạn Songkhla, đảo Koh Kra và Trại tỵ nạn Bidong từ 30 tháng 3 tới 16 tháng 4/2017
(*) Những câu thơ trong bài là của tác giả Trần Mộng Tú