Lời tác giả :
Cuộc tấn công "thần tốc" của quân đội miền Bắc Việt Nam tiến vào Sài Gòn, và kết thúc vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, đã kéo theo một thảm họa nhân đạo chưa từng xảy ra đối với nhân loại kể từ sau Thế Chiến II. Thảm họa này được thế giới gọi tên "Boat People" (thuyền nhân), cái tên đã trở thành lịch sử. Nhưng thảm họa thuyền nhân – bỏ nước ra đi - đã diễn ra nhiều ngày trước 30/04/1975 và vẫn còn tiếp diễn cho đến tận hôm nay, dù bằng những hình thức khác, với những bi kịch khác, như vụ tất cả 39 người Việt đã cùng chết ngạt trong một xe tải trên đường trốn vào Anh tháng 10/2019. Lịch sử thuyền nhân Việt Nam chắc chắn vẫn còn kéo dài chừng nào cái chính thể đã chiến thắng vào ngày 30/04/1975 còn tồn tại.
Cuốn sách L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong của Patrice Franceschi, ấn hành 08/1979, là một nỗ lực quí giá ghi lại đoạn đầu lịch sử thuyền nhân của người Việt Nam chúng ta. Đây là một lịch sử không đáng hãnh diện nhưng không thể và không nên chối bỏ hay quên lãng.
Nhân dịp 30/04, xin mời quí vị xem một vài thông tin có tính phóng sự, thống kê trong cuốn sách này về Thuyền Nhân.
Người dịch và tóm lược Phạm Hồng Sơn, 25/04/2020
* * *
Chắc chắn ngày 15 tháng Sáu năm 1979 sẽ được các sử gia tương lai ghi nhận là một trong những mốc quan trọng trong lịch sử của những người tỵ nạn Việt Nam. Bởi vào ngày này toàn thế giới mới bắt đầu thực sự mở to đôi mắt để nhìn vào những thảm cảnh đã diễn ra trên các vùng biển gần bờ tại Biển Đông. Trong bốn năm, đã có hàng trăm ngàn người Việt bỏ nước ra đi trước sự thờ ơ ráo hoảnh của công luận quốc tế. Có mấy ai biết trước thời điểm này đã có khoảng 100 tới 200 000 người đã chết đuối giữa biển khơi trên đường trốn chạy khỏi Việt Nam ?
Số người tỵ nạn cứ tiếp tục tăng dần lên, chen chúc trong các trại dựng tạm ở Thái Lan, Indonésie, Mã Lai, Philippines và ở nhiều nơi không mấy ai biết. Thi thoảng báo chí cũng có vài dòng cho biết lại xảy ra một thảm cảnh chìm thuyền nghiêm trọng hơn thảm cảnh mới xảy ra, một cuộc họp thượng đỉnh ở đâu đó hay một vài quyết định nào đó. Thậm chí một bài báo còn viết rõ "ở đó đang diễn ra một chuyện không bình thường". Nhưng chẳng có mấy ai để ý đến những vụ chết chóc đó. Thảm cảnh người tỵ nạn Việt Nam bỏ nước ra đi đã chìm nghỉm trong biển cả thông tin hàng ngày của thế giới với muôn vàn sự kiện.
Mọi sự hẳn sẽ còn tiếp diễn như thế, với số người tỵ nạn chết đuối cứ chồng lên trên biển hay sự đau khổ của họ cứ kéo lê trong các trại tỵ nạn, nếu như không có sự xuất hiện của con tàu Đảo Ánh Sáng (Île de lumière) [i] và nhất là nếu không có ngày 15 tháng Sáu năm 1979 - đồng loạt các nước có trại tỵ nạn tạm cư tuyên bố sẽ đẩy tất cả hàng ngàn thuyền nhân ra biển khơi vì các quốc gia của họ đang khốn đốn. Lời đe dọa hóa ra lại biến thành tiếng kêu cứu đánh thức con người. Bỗng nhiên, người ta biết rằng 300 000 thuyền nhân đang sắp bị giết chết. Đây chẳng còn là vấn đề trục trặc trong việc giải quyết dòng người di cư nữa, mà là một cuộc thảm sát holocauste mới đang chuẩn bị thực hiện, công khai và ráo riết ngay trước mắt công luận.
Như để chứng minh không phải đe dọa suông, chính quyền Malaisie đã tăng cường các cuộc xua đuổi và cho đăng tải các con số hàng ngàn thuyền nhân đã bị xô ra ngoài bể. Chính quyền Thái Lan còn mạnh bạo hơn, họ đẩy người tỵ nạn Cambodge về lại xứ sở gốc dù biết rõ hậu quả sẽ là cái chết. Ở châu Âu, công luận hét lên : Ôi, Khủng khiếp !
Ngày 15 tháng Sáu năm 1979, lương tâm của phương Tây, cả chính quyền lẫn dân thường, đã thức tỉnh trước thảm họa thuyền nhân.
* * *
Tại trại Pulau Bidong (Malaisie), mười lăm ngày đầu của tháng Sáu vẫn diễn ra mọi sự buồn khổ giống như gần 300 ngày trước đó. Trong thời gian này đã có khoảng 30 thuyền tỵ nạn cập đảo đưa tổng số thuyền tỵ nạn tới đảo lên thành 450 và tổng số thuyền nhân trên đảo lên con số 42 000 người trên một diện tích 1,2 km2. Có lẽ đây là nơi có mật độ dân số cao nhất thế giới.
Trên tàu Đảo Ánh Sáng, công việc cứu chữa bệnh tật cho thuyền nhân vẫn tiếp tục. Tới nay, nhóm bác sĩ tình nguyện thứ ba người Pháp đã tới luân phiên thực hiện công việc nhân đạo này. Ngoài chuyên môn y tế, những người tình nguyện còn phải đối mặt với những vấn đề đã diễn ra từ trước : Giới chức Mã Lai ngày càng cay nghiệt với thuyền nhân. Những con thuyền tỵ nạn mới vẫn cố tiến gần tới Đảo Ánh Sáng trước sự cảnh giới, xua đuổi của các cảnh sát Mã Lai. Một lần, trong đêm, một con thuyền mỏng manh đã thoát được sự vây bắt của giới chức Mã Lai và cập sát vào Đảo Ánh Sáng. Người trên thuyền cho biết có nhiều thuyền nhân đang bị bệnh hoặc bị thương. Trước tình cảnh này, thuyền trưởng Herbelin đã quyết định đưa hết mọi người từ thuyền lên Đảo Ánh Sáng. Nhưng cảnh sát đã lao tới phản đối các bác sĩ. Viên chỉ huy ra lệnh phải trả lại ngay lập tức tất cả các thuyền nhân cho họ. Herbelin trả lời rằng anh là người có toàn quyền quyết định trên Đảo Ánh Sáng và không thể đẩy những thuyền nhân ốm yếu, thương tật này ra biển khơi, tất cả sẽ chết mất. Đứng trên Đảo Ánh Sáng, các dây thần kinh của cô y tá trẻ Guylaine Martin, người Pháp, chạy dần dật. Chứng kiến cảnh tượng ngang trái ngay từ đầu, Guylaine Martin, giận điên người, đã khạc và nhổ một bãi nước bọt vào thẳng toán cảnh sát. Để tránh rắc rối, thuyền trưởng Herbelin đã phải giải thích ngay rằng người phụ nữ này là một bệnh nhân bị viêm phế quản từ lâu và rất hay khạc nhổ. Toán cảnh sát dường như đã tin ngay vào lời giải thích. Nhưng để chắc chắn hơn, để buộc cảnh sát phải chấp nhận để 300 thuyền nhân ở lại Đảo Ánh Sáng, anh thợ máy cùng vài thủy thủ khác đã nhanh chóng dùng một chiếc rìu đục thủng một lỗ to vào lòng thuyền của thuyền nhân. Thần chết đã bị đuổi đi trong gang tấc !
Ngày 15 tháng Sáu đã tới : ông phó Thủ tướng Mã Lai M. Mahathir tuyên bố thẳng rằng 76 000 "di dân bất hợp pháp" đang tạm trú trên đất nước của ông sẽ bị đẩy ra ngoài vùng biển quốc tế và chính quyền sẽ ra luật mới để ngăn tất cả các thuyền nhân mới.
Trong những ngày tiếp theo, không một thuyền tỵ nạn nào cập đảo Pulau Bidong. Giới chức Mã Lai đã thực sự xua đuổi thuyền nhân. Họ còn tiến hành sửa chữa, đóng mới các tàu thuyền cần thiết để đưa thuyền nhân trong trại ra biển. Để tránh bạo động, họ tung tin để những người sắp chết tin rằng ở ngoài khơi các tàu Mỹ đang chờ họ.
Tại Pháp, ủy ban "Một con tàu cho Việt Nam" dưới sự điều hành của bác sĩ Bernard Kouchner đã cho tổ chức ngay một cuộc họp báo tại khách sạn Lutetia nhằm báo động công luận và yêu cầu chính phủ phải hành động ngay. Tham dự cuộc họp báo là đại diện của nhiều tổ chức thiện nguyện, tôn giáo, thế tục và người ta lại thấy các trí thức danh tiếng, nhiều người còn là đối thủ của nhau cùng xuất hiện : Glucksmann, Sartre, Aron, Montand, Signoret, v.v. Bernard Kouchner thông báo sẽ thành lập một ủy ban châu Âu cho người tỵ nạn Đông Dương và yêu cầu, không cần chờ phải có hội nghị quốc tế, nước Pháp và một số nước khác phải lập ngay các trại tỵ nạn trung chuyển trên lãnh thổ của mình để chia sẻ gánh nặng với các nước Đông Nam Á. Ông đề nghị lập ngay một cầu hàng không. Bernard Kouchner nói rằng dù Pháp đã có hành động khá lớn, nhận hơn 50 000 thuyền nhân, nhưng với tình trạng khẩn cấp hiện nay nước Pháp vẫn cần phải làm nhiều hơn nữa.
Bernard Stasi, phó Chủ tịch Hạ viện, đảm bảo rằng ít nhất quota thuyền nhân của Pháp sẽ được chu tất và cho biết trong những ngày tới sẽ triệu tập một cuộc họp nghị viện về vấn đề nhân quyền.
Raymond Aron cho rằng những hành động tự nguyện của xã hội như Đảo Ánh Sáng là cần thiết nhưng chưa đủ, cần phải có thêm hành động từ chính phủ.
Jean-Paul Sartre thì khẳng định cần phải giúp đỡ nhiều hơn nữa cho các tỵ nạn-thuyền nhân cho dù những người này không phải luôn luôn đứng cùng chính kiến với ông và dù tỷ lệ thất nghiệp của Pháp vẫn cao.
Nhiều tổ chức, cá nhân đã đưa ra các sáng kiến, cam kết hành động, từ việc nhận một gia đình thuyền nhân tới ở nhà mình trong 06 tháng cho tới việc nhận các trẻ em đã mất cha mẹ làm con nuôi.
Cuộc họp báo kết thúc bằng một yêu cầu từ cử tọa gửi tới Tổng thống Giscard d’Estaing về việc mở ngay một trại tỵ nạn đầu tiên và lập một cầu hàng không để đưa thuyền nhân tới Pháp, bất kể họ là người Việt Nam, Cambodge hay Lào.
Begin, Thủ tướng Israël gửi thư cho Tổng thống Mỹ Carter nói về các hạn chế của cuộc họp báo và đề nghị tất cả các quốc gia nên chấp nhận ngay một số lượng thuyền nhân tương ứng với khả năng của mình.
Jean-Paul II, Giáo hoàng Vatican, phát ra lời kêu gọi "lương tâm nhân loại" và đề nghị mỗi con người hãy nhận lấy một phần trách nhiệm.
Ngày 20 tháng Sáu, Bernard Kouchner cùng bác sĩ gây mê Michel Bonnot lên đường bay tới Pulau Bidong mang theo một hàng hóa đặc biệt : 75 000 liều vaccin TAB chống thương hàn. Vài ngày sau 480 Kg các loại vaccin khác (bại liệt, bạch hầu) tiếp tục được gửi đến để bắt đầu chương trình tiêm chủng cho thuyền nhân.
Ngày 22 tháng Sáu, hai thuyền chở 900 thuyền nhân đã bị đẩy ra khơi xa bất chấp thỉnh cầu của Đại sứ Pháp Travert tại Mã Lai kêu gọi chính quyền Mã Lai đừng xua đuổi thuyền nhân. Ngày 24 tháng Sáu, lợi dụng một cơn bão biển, một chiếc thuyền dài 24 m, mang số hiệu 0020, chở 600 người đã lọt được vào đảo. Song phải nhờ có sự can thiệp của Bernard Kouchner và sự hiện diện của nhiều nhà báo, những thuyền nhân này mới không bị đẩy ra biển. Cũng ngày này tại Pháp, có chừng 2 000-3 000 người gốc Đông Dương biểu tình ở chân tháp Eiffel kêu gọi mở một hội nghị quốc tế về thuyền nhân.
François Mitterrand kêu gọi các thị trưởng trong đảng xã hội của ông nhận 20 000 thuyền nhân trong 6 tháng hoặc 1 năm. Ông còn nói rõ rằng đảng của ông "sẽ hợp tác với mọi sáng kiến của Pháp, bất chấp mọi phản đối chính trị, để cứu giúp thuyền nhân".
Jacques Chirac, Thị trưởng Paris, tuyên bố thành phố Paris đã quyết định thuê một tàu biển để đi đón 1 500 thuyền nhân ; Hội đồng Paris đã thành lập một ủy ban cho thuyền nhân và sẽ gây một quĩ tín dụng trợ giúp các chi phí phát sinh.
Kênh truyền hình Antenne 2 tổ chức một Soirée de Solidarité nhằm kêu gọi các thị trưởng Pháp đón nhận các thuyền nhân tới sống ở các địa phương của họ. France Inter tung ra chiến dịch "S.O.S thuyền nhân Đông Dương chết đuối" để thu thập các đóng góp về vật chất (quần áo, nhu yếu phẩm, thuốc chữa bệnh) cho thuyền nhân. Giám mục Etchegaray và Alain Poher, chủ tịch Hiệp hội các Thị trưởng Pháp, cũng lên TV kêu gọi "nếu mỗi quận hạt của đất nước chúng ta sớm tiếp nhận ngay một gia đình thuyền nhân… đó sẽ là một đóng góp quan trọng để giúp bớt khổ đau cho những nạn nhân này". Michel Debré đăng một bài viết trên La Croix kêu gọi mỗi thành phố hãy nhận một hoặc nhiều gia đình thuyền nhân. Tất cả các tổ chức từ thiện, từ Médecins Sans Frontières cho tới l’Armée du Salut, đều đưa ra các chương trình huy động tương tự. Sự đáp ứng, đóng góp vô cùng rộng lớn và tích cực.
Nhưng liệu nước Pháp có khả năng để thay thế Malaisie và chấp nhận rủi ro để tiếp nhận mãi mãi 50 000 hay 100 000 thuyền nhân nếu không nước nào hành động ?
Đây không phải là câu trả lời của Tổng thống Giscard d’Estaing khi ông tiếp một phái đoàn của ủy ban "Một con tàu cho Việt Nam". Tuy nhiên, ai cũng hiểu Tổng thống sẽ phải cân nhắc hiện trạng nội bộ của nước Pháp.
Phái đoàn tới gặp Tổng thống gồm Claudie Broyelle, Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, Raymond Aron, Jean-Claude Sénéchal và Aurore Miquel đã được ông đảm bảo sẽ nêu vấn đề thuyền nhân tại hội nghị thượng đỉnh G7 sắp tới tại Tokyo. Tổng thống cũng khẳng định đã cho quyết định nhận ngay 5 000 thuyền nhân nữa.
Ở phía bên kia của bán cầu, chính quyền Nam Hàn cho biết sẽ cấp 200 000 đô-la Mỹ cho chính quyền Indonésie để được đến cứu giúp các thuyền nhân. Trong khi đó, Đại sứ của Việt Nam tại Malaisie đã tuyên bố rằng chính quyền Việt Nam sẵn sàng nhận trở lại các thuyền nhân nếu những người này biết "thừa nhận lỗi lầm", và lần đầu tiên người ta thấy trong các trại tỵ nạn ở Hong Kong có cả các thuyền nhân là người Bắc Việt.
Về phía đảng cộng sản Pháp, đáp lại không khí khẩn trương, đoàn kết cứu giúp thuyền nhân, đảng này đã ra tuyên bố tố cáo đang có một chiến dịch chống cộng. Montdargent, một hạ nghị sĩ của đảng này cũng tuyên bố : "Chúng tôi tố cáo chính quyền đang lợi dụng thảm kịch này để che đậy các hậu quả trong chính sách điều hành đất nước vào lúc cần phải có các sửa đổi về hành chính và ra luật để tống xuất hàng ngàn dân nhập cư đang gây tổn hại cho sự phát triển của đất nước". Pierre Juquin, người mới nắm chức trưởng bộ phận thông tin của đảng cộng sản, còn nói rõ thế này : "Các thành phố do thị trưởng cộng sản điều hành đang phải chịu đựng việc tiếp nhận các nhân công nhập cư sẽ không tiếp nhận các thuyền nhân Việt Nam để tránh gánh nặng cho dân chúng".
Tại Thượng đỉnh G7 ở Tokyo, Tổng thống Mỹ Carter cho biết Hoa Kỳ đã quyết định tăng gấp đôi quota hàng tháng lên 14 000 thuyền nhân. Cùng lúc tại Mỹ, một chiến dịch lớn được huy động nhằm thúc đẩy chính quyền liên bang phải hành động nhiều hơn nữa.
Khắp nơi, mọi người đều bàn luận về các giải pháp để giải quyết bi kịch thuyền nhân. Nhiều người đề xuất huy động tất cả các tàu thuyền thương mại hay hải quân trong vùng để cứu vớt những thuyền nhân đang lên đênh trên biển. Nhưng vấn đề chính vẫn còn nguyên : thuyền nhân sẽ đi đâu sau đó ?
Chính quyền Việt Nam cũng tỏ ra nhượng bộ chút ít. Theo thỏa ước với Cao Ủy Tỵ Nạn, có khoảng 100 người đã được rời Việt Nam bằng máy bay sang Trung Quốc.
Ngày 28 tháng Sáu, ASEAN (Indonésie, Mailaisie, Philippines, Singapore, Thaïlande) nhóm họp tại Bali với mục tiêu thúc Hà Nội đồng ý lập một trung tâm trung chuyển thuyền nhân ngay tại lãnh thổ Việt Nam dưới sự điều hành của Cao Ủy Tỵ Nạn thuộc Liên Hợp Quốc. Hội nghị cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế tác động Việt Nam để sớm chấm dứt cuộc di tản thuyền nhân. Michaël O’Kennedy, đại diện cho CEE (Cộng đồng kinh tế châu Âu) trong hội nghị này đã tuyên bố CEE có thể sẽ cắt viện trợ lương thực cho Việt Nam nếu chính quyền này không có hành động để chấm dứt cuộc chạy trốn ; các viện trợ này sẽ chuyển cho những nước ASEAN tiếp nhận thuyền nhân. Thủ tướng Anh Thatcher đang có chuyến thăm tới Canberra cũng đồng ý với giải pháp này sau khi đã lên án sự "ác độc" của chính quyền Hà Nội.
Tại Genève, sau phiên họp của ủy ban điều hành của Cao Ủy Tỵ Nạn, các quốc gia Argentine, Áo, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Israël, Na Uy, Thụy Điển và Thụy sĩ đã cam kết nhận nhiều hơn các thuyền nhân. Riêng Mỹ cho biết có khả năng nhận 20 000 thuyền nhân. Trong khi đó các nước mới mạnh lên nhờ dầu lửa vẫn tỏ ra điếc đặc trước các lời kêu gọi.
Nghị viện của Hội đồng châu Âu, nhóm họp tại Stockholm đã kêu gọi mọi thành viên của mình ủng hộ đề xuất về một hội nghị quốc tế.
Tại Hạ viện, Raymond Aron cho biết rằng các tàu của Pháp đã nhận được lệnh cứu vớt tất cả các thuyền nhân khi gặp trên biển. Thủ tướng Pháp cũng cho biết từ ngày 15/05/1975 đến 31/12/1978 các gói tín dụng trong ngân sách sức khỏe dành cho thuyền nhân đã tăng lên 440 triệu quan, không kể các chi phí giáo dục và y tế.
Oilivier Stirn, Quốc vụ khanh tại bộ Ngoại giao đã tới thị sát vùng Nam Thái Bình Dương và tới Kuala Lumpur để đảm bảo việc triển khai các biện pháp hỗ trợ do chính phủ Pháp bảo trợ, nhưng ông chỉ nhận được lời đảm bảo của chính quyền Malaisie sẽ không đẩy thuyền nhân ra biển khi nào hội nghị quốc tế được tổ chức.
Các thuyền nhân trên đảo ngày càng lo lắng trong ngóng đợi cho tới ngày 01/07/1979 khi Kurt Waldheim, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, thông cáo một hội nghị quốc tế về thuyền nhân sẽ tổ chức tại Genève trong hai ngày 20 và 21. Từ nay, các thuyền nhân chỉ còn cần phải kiên nhẫn hơn và hy vọng rằng, giống như nhiều quốc gia, hội nghị sẽ không trở thành một phiên tòa kết án Hà Nội – điều sẽ làm cho tình trạng của họ trở nên bấp bênh hơn. Đối với ban quản lý trại, vận may còn mỉm cười hơn khi Simone Veil tới thăm trại và đã hứa sẽ đưa 450 trẻ mất gia đình tới Pháp, ngoài quota chính thức. Lúc này, có người mới chợt nhớ ra năm 1979 là năm được gọi : "Năm của Trẻ Thơ".
Hội nghị tại Genève đã qui tụ sự hiện diện của 65 quốc gia, bàn thảo trong 48 giờ về thảm họa thuyền nhân. Kết thúc Hội nghị, Kurt Waldheim, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc cho biết : "Mục tiêu của chúng tôi là nhằm giải quyết hoàn toàn thảm trạng đang diễn ra và chúng tôi đã gần như đạt được tất cả". Số lượng thuyền nhân dự kiến được tái định cư đã chuyển từ 125 000 lên 260 000. Cao Ủy Tỵ Nạn có một ngân sách bổ sung 190 triệu đô-la Mỹ, cùng với lời hứa của Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Sonoda sẽ chịu 50% tổng chi phí cần thiết cho các hoạt động cứu trợ thuyền nhân tại Đông Nam Á.
Philippines đề xuất thiết lập một trung tâm tạm cư trên lãnh thổ của họ giống ở đảo Galand (Indonésie). Trung Quốc sẽ nhận 10 000 thuyền nhân "với điều kiện những người này thực sự muốn làm lại cuộc đời mới ở Trung Quốc". Hoa Kỳ thông báo các chiến hạm Hoa Kỳ sẽ tuần tiễu quanh Việt Nam để tìm kiếm, cứu vớt thuyền nhân. Tuy nhiên, đại diện của Hoa Kỳ tại Hội nghị, phó Tổng thống Mondale đòi hỏi phải có một thời hạn cho việc chấm dứt thảm trạng thuyền nhân, không để Việt Nam tiếp tục "tống xuất" công dân của họ nữa.
Con tàu Đảo Ánh Sáng, cái tên như một định mệnh, đã chấm dứt sứ mệnh tại Pulau Bidong. Nhưng Đảo Ánh Sáng vẫn tiếp tục sứ mệnh nhân đạo ở những nơi khác. Trên đường trở lại Singapore, Đảo Ánh Sáng đã cố tìm và cứu vớt được nhiều thuyền nhân.
Đối với trại Pulau Bidong, một trang đời mới đã mở ra phía trước.
Bảng thống kê số thuyền nhân ra đi định cư tại nước thứ ba từ Pulau Bidong trong L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong.
Patrice Franceschi
Nguyên tác : L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong, L'Harmattan, 08/1979
Phạm Hồng Sơn dịch và tóm lược
Nguồn : Dân Luận, 30/04/2020
********************
Đảo Chết gặp Đảo Ánh Sáng [*]
Patrice Franceschi, Phạm Hồng Sơn, Dân Luân, 27/04/2020
Lời tác giả :
Sau khi tới Pháp, tôi hay lang thang xem xét và lục tìm trong các quán sách cũ, mới tràn ngập tại trung tâm Paris. Một lần, trong một buổi chiều tà, trong tâm trạng của một kẻ tỵ nạn mới xa quê hương tôi lại mò tới một quán sách tại Quận 6 gần rạp hát le Théâtre Lucernaire bên bờ tả sông Seine. Quán sách ở Pháp có rất nhiều kệ hay thùng sách để lộ thiên bên ngoài vỉa hè cho khách xem thoải mái. Lần vào một thùng và cầm đại lên tay một cuốn, trang bìa đập vào mắt tôi là một đôi mắt mở to và một dòng chữ : L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong.
Cuộc đời vẫn còn ngắn, so với tha nhân, của tôi đã nhiều lần chứng nghiệm những sự ngẫu nhiên tương tự. Cuốn sách vừa nói là một cuốn có tính phóng sự về một phần của cuộc bỏ nước ra đi của người Việt chúng ta khi chính quyền cộng sản miền Bắc giành chiến thắng vào ngày 30/04/1975. Tác giả của cuốn sách là Patrice Franceschi người Pháp có tính phiêu du. Năm 1979, khi 24 tuổi, Patrice Franceschi đã tự thực hiện một chuyến thám hiểm tới trại tỵ nạn Pulau Bidong (Malaisie) trong nhiều tuần để gặp gỡ trực tiếp các nạn nhân-tỵ nạn và lấy thông tin, tư liệu tại chỗ cho cuốn sách mà nhà xuất bản Arthaud cho biết "Trước đây, chưa có một cuốn sách nào viết về hành trình bi thương của các ‘boat people’". Cuốn sách được ấn hành vào tháng 08 năm 1979.
Tháng 03 năm 2019, tôi và cuốn sách mới được gặp nhau. Dường như, chúng tôi đã âm thầm chờ đợi nhau suốt 40 năm. Đối với tôi, cuốn sách là một tư liệu sống về một phần lịch sử đau thương và bi tráng cần phải biết nhưng đã bị nhiều thế lực giấu kín, chôn vùi. Cuốn sách có những khắc họa chân dung sống động của khoảng một chục thuyền nhân khác nhau ; ghi nhận về các cách thức ra đi của người tỵ nạn ; tất nhiên tác giả phải thay đổi căn cước thật của nhân vật để bảo vệ họ trong một thời điểm hết sức gay cấn – năm 1979. Cuốn sách còn có những tư liệu thống kê chi tiết, như về số lượng tàu tỵ nạn, người tỵ nạn cập trại Pulau Bidong hàng ngày, hàng tháng từ khi trại thành lập cho tới tháng 05/1979 ; số người đi tới các nước thứ ba tính tới một số thời điểm. Cuốn sách có những tấm ảnh, những kỷ vật xúc động về tình cảnh của người tỵ nạn khi đó ; những thông tin thời sự tả lại sự bối rối, do dự của Liên Hợp Quốc và các cường quốc trước một thảm họa nhân đạo chưa từng xảy ra trong thời hiện đại. Trước sự ngập ngừng đó, một số người Pháp đã muốn tự làm ngay một điều gì thiết thực cho các đồng loại – "thuyền nhân".
Nhân dịp tưởng nhớ tới Tháng Tư Tàn Nhẫn – gọi theo nhan đề Cruel Avril của một cuốn sách viết về chiến thắng của người cộng sản, cũng của một tác giả người Pháp Olivier Todd, xin mời quí vị xem một vài thông tin trong cuốn sách của Patrice Franceschi. Trước tiên là bài phóng sự của ban quản lý trại Pulau Bidong, được phát trên loa phóng thanh địa phương, đã được một người tỵ nạn Việt Nam khi đó dịch sang tiếng Pháp và được ghi lại trong cuốn L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong.
Người dịch Phạm Hồng Sơn, 23/04/2020
******************
Chiếc ca-nô hai màu trắng-vàng đang lướt trên những ngọn sóng xanh dương của biển, hướng thẳng vào bãi cát trắng của đảo tỵ nạn Pulau Bidong ngập tràn ánh nắng, báo hiệu một ngày rất tốt lành. Chiếc ca-nô tiến dần vào bờ trong con mắt ngóng chờ của hàng ngàn người tỵ nạn. Trên ca-nô là các bác sĩ người Pháp đến từ con tàu bệnh viện đang neo ngoài khơi xa. Con tàu mang tên : Đảo Ánh Sáng (Île de lumière). Hầu hết các bác sĩ có tuổi đời còn rất trẻ, đầy nhiệt huyết, năng động, và tràn ngập tình yêu thương đồng loại. Nếu thiếu những trái tim như thế, chắc chắn họ đã không thể gặp nhau trên Đảo Ánh Sáng, họ đã chẳng thể cùng nhau thực hiện một tâm nguyện giống nhau và dứt khoát : San bớt một chút khổ đau của người tỵ nạn. Họ không hẹn mà lại cùng đi trên một con đường, cùng làm một công việc của những kẻ truyền bá đức tin nhân bản. Đảo Ánh Sáng đã tới giống như một cơn mưa rào cho những cơn khát cháy bỏng của những người tỵ nạn. Một sự an ủi, động viên vô cùng quí và đúng lúc.
Hành trình của tàu Đảo Ánh Sáng cứu vớt thuyền nhân Việt Nam trên Biển Đông
Sáng nào cũng thế, chiếc ca-nô trắng-vàng tràn đầy lòng nhân hậu của người Pháp lại tới nhiều lần để đưa những người bị bệnh lên Đảo Ánh Sáng. Và bây giờ xin mời các bạn hãy nghe vài nét sơ lược về nguồn gốc của Đảo Ánh Sáng.
Năm 1962 tại một cảng của Hà Lan, một con tàu chở hàng dài 86 m, rộng 12,50 m đã được hoàn thành. Năm 1974, sau 12 năm chuyên chở trên đại dương một cách bình an, con tàu với tải trọng 1 400 tấn đã đi từ Hà Lan hướng về Đại Tây Dương phía châu Phi, đi lên Biển Bắc rồi đi về Nouméa (Nouvelle-Calédonie) để chuyển giao cho ông chủ mới. Nouvelle-Calédonie là một hòn đảo có hình giống như một điếu xì-gà dài 400 Km, rộng 50 Km nằm ở Thái Bình Dương, về phía Đông-Nam Việt Nam và gần ngay Australie, với dân số chừng 120 000 người, phần lớn sống nhờ nghề chài lưới, khai thác mỏ nickel. Tại đây, con tàu được nhận một cái tên mới Đảo Ánh Sáng với ngầm ý ánh sáng không bao giờ tắt trên đảo. Với cái tên mới, con tàu lại tiếp tục vi vu trên biển cả.
Năm 1978, không thể sống một cách nhục nhã dưới chế độ độc tài phi nhân và ngu xuẩn (la dictature inhumaine et idiote) của cộng sản, nhiều người Việt Nam đã bỏ quê hương bản quán ra đi trên những chiếc tàu cũ nát với hy vọng tìm lại được tự do, được sống một cuộc đời xứng đáng, song họ đã phải sống trong các trại tỵ nạn. Trước tình cảnh khẩn cấp của những con người đang sống khắc khoải, đang chết hao mòn, đang tìm mọi cách để sống sót trên một hòn đảo nổi tiếng là "Đảo Chết", nhiều người Pháp đã nghĩ tới việc phải kiếm một con tàu có trang thiết bị thật tốt như một bệnh viện nổi để đưa gấp tới Pulau Bidong. Chỉ như thế mới có thể phần nào giúp được chút ít cho những người tỵ nạn khốn khổ này. Mong muốn này đã được thực hiện nhờ sự đóng góp tài chính của 8 000 người Pháp từ mọi tầng lớp xã hội.
Đảo Ánh Sáng đã được chuyển đổi dần cho phù hợp với sứ mạng mới của nó. Công việc sửa chữa ban đầu khá khó khăn, phải mất 8 ngày ở Nouméa. Sau đó Đảo Ánh Sáng lên đường với một hải đoàn gồm 16 người, tất cả đều là công dân Pháp nhưng có gốc rất khác nhau : Pháp, Tahiti, châu Phi, Calédonie, Australie, v.v. Với động cơ 1 400 mã lực, tàu chạy dọc theo bờ bắc Australie và Nouvelle-Guinée, lượn qua Bali (Indonésie) trước khi tới Singapore ngày 11 tháng 04. Tại đây, tàu dừng lại 05 ngày để tiếp tục sửa chữa, hoàn tất sự chuyển đổi thành tàu bệnh viện. Đảo Ánh Sáng, được thuê với giá 5 000 đô-la Mỹ/ngày, cuối cùng đã cập Pulau Bidong dưới sự điều khiển của vị thuyền trưởng Herbelin, người Pháp, 28 tuổi, gốc Normandie, một xứ sở rất nổi tiếng sau Thế Chiến II. Trên tàu có 4 bác sĩ, gần như tất thảy đều rất trẻ, rất năng động giống như vị thuyền trưởng. Các bác sĩ này đều làm việc thiện nguyện không thù lao, trong đó có hai phẫu thuật viên, bác sĩ Cheysson và bác sĩ Laburthe, một chuyên môn tiêu hóa, bác sĩ Bonniaud, một chuyên môn gây mê, bác sĩ Radoman, và một y tá cực kỳ nhanh nhẹn, cô Martin.
Về cấu trúc y tế, tàu bệnh viện Đảo Ánh Sáng có 120 giường bệnh với nệm dày và drap trắng tinh. Các giường đều được xếp theo hàng ngay ngắn và được chia thành nhiều khu, trong đó có cả khu dành cho bệnh nhi. Giữa tàu là khu vực phẫu thuật được trang bị cực tốt. Bên cạnh là phòng X-ray nơi sẽ thực hiện các thăm dò hình ảnh. Việc tráng rửa phim X-ray có thể làm ngay tại chỗ. Tàu cũng có một labo để thực hiện các xét nghiệm máu, nước tiểu, phân, v.v.
Các bác sĩ cho biết, tính tới ngày 27 tháng Tư, đã có 12 cuộc phẫu thuật, tất cả đều thành công. Các bệnh nhân khi tới tàu được chăm sóc rất tận tình bởi chính các bác sĩ và một y tá duy nhất, tất cả đều người Pháp. Có một người tỵ nạn Việt Nam, tới Nouméa khoảng cuối năm 1978, đảm nhận việc nấu ăn cho bệnh nhân. Mỗi tuần Đảo Ánh Sáng lấy thêm nước ngọt một lần và cứ ba ngày lấy thêm rau xanh. Đảo Ánh Sáng có hệ thống thông tin bằng radio để duy trì liên lạc với Trengganu, Kuala Lumpur và với cả Paris.
Mười lăm ngày trước khi Đảo Ánh Sáng tới Đảo Chết, tất cả các tờ báo của Paris đều loan tin bằng những bài báo dài, riêng tờ báo của đảng cộng sản Pháp, L’Humanité, câm lặng.
Các kênh truyền hình lớn của thế giới từ Đức, Anh, Thụy Điển, Hà Lan, Colombie đã tới thăm Đảo Ánh Sáng. Riêng đoàn của Mỹ, đại diện cho Tổng thống, đã lên Đảo Ánh Sáng trong chuyến thăm của họ tới Đảo Chết – Pulau Bidong.
Theo tin của bác sĩ Radoman, tờ Paris-Match sẽ có bài viết vào tuần này về Đảo Ánh Sáng và Đảo Chết-Pulau Bidong. Các quốc gia của thế giới tự do sẽ phải chú ý nhiều hơn tới những người tỵ nạn, những người được gọi là "Thuyền Nhân" (boat people).
Bên cạnh những giúp đỡ không thể kể xiết và không thể lượng hết, Đảo Ánh Sáng đã mang tới cho những người tỵ nạn một phần thưởng vô giá, đó là những ánh mắt đồng cảm, những nụ cười khích lệ và những quan tâm chân thành của các bác sĩ người Pháp. Tất cả những điều này cho chúng ta thấy những tình cảm sâu đậm của những con người mà chúng ta không hề biết mặt, không hề biết tên cho tới khi Đảo Ánh Sáng cập bến. Những người đã đến từ một xứ sở rất xa với chúng ta : Pháp quốc.
Rất thân tình và cởi mở, trước câu hỏi của chúng tôi về những suy nghĩ trong công việc, bác sĩ Cheysson nhún vai và nở một nụ cười trìu mến, còn bác sĩ Radoman cũng cười đôn hậu và nói rằng : "Công việc và sự có mặt của chúng tôi ở đây đã nói lên tất cả rồi còn gì". M.L.
Patrice Franceschi
Nguyên tác : L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong, L'Harmattan, 08/1979
Phạm Hồng Sơn dịch và tóm lược
Nguồn : Dân Luân, 27/04/2020
----------------------
[*] Nhan đề này là của người dịch