Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba.

galang1

Cổng vào trại tị nạn Galang - Ảnh minh họa 

Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.

Tầu vượt biển từ Việt Nam thường cập bến Indonesia trong các vùng quần đảo Riau, Natunas, Anambas rồi được đưa vào Terempa hay Kuku ở tạm, trước khi tầu của Cao uỷ Tị nạn ra đón vào Galang, nơi được gọi là "cửa ngõ tự do và tình người"

bvp1

Trại tị nạn Galang I, Indonesia (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Galang có hai trại nằm cách nhau hai cây số. Từ cầu tầu vào một quãng đường là Galang I, nơi tiếp nhận người mới đến. Ở đây thuyền nhân sống tập thể trong những ba-rắc bằng gỗ, dài 20 mét ngang 6 mét. Mỗi ba-rắc chừng 50 người, có thể nhiều hoặc ít hơn tuỳ theo dân số trại.

Galang II, trước năm 1987 là nơi sinh sống của những người đã được một nước thứ ba nhận cho định cư. Đa số đi Mỹ và một số đi Canada, Úc hay Pháp.

bvp2

Một gia đình thuyền nhân trong ba-rắc Galang I (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Người tị nạn trước khi đi Mỹ phải qua một khoá học kéo dài từ ba đến bốn tháng rưỡi, để học Anh văn và kiến thức về đời sống Mỹ. Từ năm 1987 các khoá Mỹ chuyển qua Bataan, Philippines.

Nhà ở cho người tị nạn trong Galang II cũng là những ba-rắc gỗ, nhưng thiết kế kiểu nhà sàn, tầng trên chia làm 10 phòng, cho từng gia đình để có sự riêng biệt. Bên dưới là nơi nấu ăn, tắm rửa.

Hai trại đều có chợ, quán ăn, quán cà phê ; có nhà thờ, chùa, thánh thất với các lễ nghi tôn giáo cùng các sinh hoạt đoàn thể như Đoàn Oanh Vũ, Gia đình Phật tử Long Hoa, Thiếu nhi Thánh thể, Thanh niên Công giáo.

bvp3

Người tị nạn xem văn nghệ tại Youth Center, Galang II (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Về giáo dục có chương trình phổ thông dành cho trẻ em, có thư viện, phòng thính thị cho việc học tiếng Anh. Có chương trình huấn nghệ do các cơ quan thiện nguyện World Relief, Save the Children điều hành.

Về y tế có bệnh viện PMI do Hội Hồng Nguyệt Indonesia trông coi.

Trong trại có bán nguyệt san Tự Do, do linh mục Gildo Dominici sáng lập và làm chủ nhiệm, người tị nạn lo điều hành và nội dung bài vở.

bvp4

Tuồng cải lương trong một buổi văn nghệ ở Galang (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Vào các dịp lễ như tưởng niệm 30/4, Giỗ tổ Hùng Vương, Kỷ niệm 1/11, Trung Thu, Tết, Giáng Sinh, Phật Đản trong trại đều có sinh hoạt văn hoá, văn nghệ MCI (Maintaining Cultural Identity – Bảo tồn văn hoá) do nhiều đoàn thể đóng góp được tổ chức tại CVC hay Trung tâm Sinh hoạt Thanh Thiếu niên (Youth Center).

Nhìn chung đời sống trại Galang như ở một làng quê Việt Nam. Lúc đông nhất dân số trong trại lên đến 15 nghìn người tị nạn, cùng hàng trăm nhân viên đến trại làm việc từ nhiều quốc gia.

Từ sau tháng 4/1975 những ai rời Việt Nam đến được bến bờ các quốc gia Đông Nam Á, nếu không có thân nhân ở các nước khác, đều được Mỹ nhận cho định cư.

bvp5

Bà Pirjo Dupuy, Cao ủy trưởng đặc trách định cư, trao phần thưởng cho học sinh khối giáo dục phổ thông (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Đối diện với khủng hoảng về thuyền nhân, một hội nghị quốc tế về người tị nạn Đông Dương đã họp ở Genève tháng 7/1979 và đi tới quyết định là không chỉ Hoa Kỳ tăng số người tị nạn được nhận lên 14 nghìn mỗi tháng, nhiều quốc gia khác cũng mở rộng bàn tay đón nhận người tị nạn Đông Dương là Úc, Canada, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Ý, Nhật, các nước Bắc Âu và nhiều quốc gia khác. Ngay cả Do Thái cũng nhận người tị nạn Việt trong giai đoạn này.

Mười năm sau, chính sách về người tị nạn Đông Dương có những thay đổi căn bản.

Đầu tháng 3/1989, đại diện của 29 quốc gia họp tại Kuala Lumpur, Malaysia để tìm giải pháp cho thuyền nhân. Sau đó các quốc gia ASEAN đưa ra quyết định những thuyền nhân đến các trại sau ngày 14/3/1989 sẽ phải qua thanh lọc để xác định qui chế tị nạn, từ đó mới có thể xin định cư ở một nước thứ ba. Không có qui chế tị nạn, người vượt biên, vượt biển sẽ bị trả về nguyên quán.

bvp6

Nhà ở của người tị nạn trong trại Galang II (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Quá trình thanh lọc có những bất công khiến người vượt biển trong các trại ở Đông Nam Á biểu tình phản đối.

Trong trại Galang nhiều người đã tự thiêu, tự sát vì bất công trong thanh lọc và chống lại việc cưỡng bách hồi hương.

Tại hải ngoại, nhiều hội đoàn, các tổ chức giúp người vượt biển đã lên tiếng cầu cứu với Cao uỷ Tị nạn, với lãnh đạo các quốc gia mong tìm ra một giải pháp nhân đạo cho thuyền nhân.

bvp7

Bán nguyệt san Tự Do (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Vào đầu thập niên 1990, việc giải quyết vấn đề thuyền nhân tị nạn Việt Nam, cũng như vấn đề cựu tù nhân học tập cải tạo, vấn đề con lai là những điểm được bàn thảo trong tiến trình thiết lập bang giao giữa Washington và Hà Nội.

Việt Nam lúc đầu không muốn nhận lại thuyền nhân đã bỏ nước ra đi. Như năm 1975 đã không muốn nhận người di tản hồi hương trên con tầu Việt Nam Thương Tín.

Năm 1991 Hà Nội loan báo đồng ý nhận lại những người vượt biên, vượt biển không có qui chế tị nạn.

Chính sách cưỡng bách hồi hương được thi hành. Gần 6 nghìn thuyền nhân từ Galang đã phải hồi hương. Một số đã tình nguyện hồi hương trước, sau được Hoa Kỳ nhận cho vào Mỹ theo chương trình ROVR (Resettlement Opportunity for Vietnamese Returnees).

Cùng lúc chương trình định cư tù cải tạo HO và con lai được Hoa Kỳ và Việt Nam xúc tiến đưa hàng trăm nghìn người Việt qua Mỹ định cư.

Làn sóng vượt biển chỉ chấm dứt 20 năm sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975.

bvp8

Bia tưởng niệm người vượt biển tại nghĩa trang Galang năm 1986 (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Các trại tị nạn ở Đông Nam Á, một thời là "cửa ngõ tự do và tình người", từng đón bộ nhân vượt biên hay thuyền nhân vượt biển đóng cửa.

Khao I Dang, Sikiew, Songkla, Panat Nikhom, Bidong, Sungei Besi, Kuku, Galang, Palawan, Bataan, Chi Ma Wan, Hei Ling Chau, Kai Tak, Tuen Mun, Argyle, Whitehead nhiều nơi nay không còn dấu vết gì nhiều ngoài những nấm mồ của người tị nạn đã qua đời trong trại.

Nằm giữa đường từ Galang I vào Galang II có một khu nghĩa trang, nơi chôn cất khoảng 500 đồng hương kém may mắn đã qua đời tại đây, được thuyền nhân gọi là Galang 3.

bvp9

Nghĩa trang Galang năm 1986 (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Nhiều người chết vì già, vì bệnh. Có bé sơ sinh chết khi vừa lọt lòng mẹ. Có người tự sát để phản đối chính sách thanh lọc bất công được áp dụng cho những ai đến đảo sau ngày 14/3/1989.

Thời gian làm việc trong trại Galang tôi có biết đến hai cái chết. Một anh chừng 30 tuổi, được Hoa Kỳ nhận cho định cư và mở tiệc ăn mừng. Sau buổi tiệc, tối về phòng ngủ và sáng hôm sau không thức dậy nữa.

Người thứ hai là một thanh niên hay quậy phá, nhiều lần bị P3V, cơ quan an ninh của Indonesia, bắt giam vào "nhà khỉ" tức nhà tù của trại. Vào một buổi trưa, anh kêu bạn tù ở phòng cạnh bên kéo dây để anh phơi quần áo. Đâu ngờ đó là dây anh dùng thắt cổ tự tử.

bvp11

Miếu Hai Cô trong trại Galang II (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Trại Galang II có Miếu Hai Cô ngay dưới một tàn cây to cao như cây đa. Nghe kể là hai cô đi vượt biển, tầu gặp hải tặc và bị hãm hiếp. Nhiều người trong trại thường đến miếu thắp nhang.

Những năm sau nơi này có thêm một miếu nữa nên trở thành Miếu Ba Cô, để tưởng nhớ đến ba cô gái Việt đã chết trong trại.

bvp10

Một ngôi mộ trong nghĩa trang Galang. Góc trên là nhà chòi có thể dùng làm nơi cử hành các nghi thức tôn giáo (Screen Shot từ đài RFA)

Năm 2005, ghi dấu 30 năm ngày 30/4 tang thương khiến nhiều người phải bỏ nước ra đi, cộng đồng người Việt hải ngoại có dự án xây đài tưởng niệm thuyền nhân tại Galang và Bidong. Tổ chức Văn khố Thuyền nhân Việt Nam ở Úc, do ông Trần Đông làm giám đốc, xúc tiến công tác.

Khi đài tưởng niệm hoàn thành thì chính phủ Việt Nam phản đối, tạo áp lực ngoại giao buộc chính quyền địa phương phá bỏ.

 

bvp12

Đài tưởng niệm hoàn tất năm 2005 và ngay sau đó bị đục bỏ do áp lực ngoại giao từ Việt Nam (Ảnh tài liệu trên FB)

Đài tưởng niệm ở Galang bị đục bỏ tấm bia bằng đá, với hàng chữ :

"In commemoration of the hundreds of thousands of Vietnamese people who perished on the way to Freedom (1975-1996). Though they died of hunger or thrist, of being raped, of exhaustion or of any other cause, we pray that they may now enjoy lasting peace. Their sacrifice will never be forgotten. Overseas Vietnamese Communities, 2005"

[Để tưởng niệm hằng trăm ngàn người Việt đã chết trên đường tìm tự do (1975-1996). Dù họ đã chết vì đói khát, vì bị hãm hiếp, vì bị kiệt sức hay vì bất cứ nguyên do nào khác, chúng tôi cầu nguyện cho họ được yên nghỉ đời đời. Những hy sinh của họ sẽ không bao giờ bị lãng quên. Các Cộng đồng Việt Nam Hải ngoại, 2005]

Trên tấm bia còn có lời tri ân Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc, Hội Hồng Thập tự Quốc tế, Hội Hồng nguyệt Indonesia và các tổ chức quốc tế đã cứu giúp thuyền nhân.

Trong hơn 10 năm qua, chính phủ Indonesia mở cửa Galang làm nơi du lịch. Người Việt hải ngoại đã có những chuyến đi "Về bến Tự do" thăm lại trại tị nạn xưa.

Nhiều người từng ở Galang đã trở lại nơi này để thăm viếng nơi có một thời sống qua, cùng tảo mộ chăm sóc cho nghĩa trang. Điều này khiến Việt Nam không hài lòng vì Hà Nội muốn xóa bỏ dấu tích và hệ lụy của các chính sách cai trị hà khắc đã khiến người Việt phải bỏ nước ra đi.

Thông tin và hình ảnh đưa lên mạng gần đây cho thấy di sản của người vượt biển tị nạn còn lại tại Galang ngày nay là một bảo tàng về thuyền nhân với nhiều hình ảnh, di vật. Một ba-rắc của Galang II được dựng lại, vài con thuyền vượt biên được phục hồi và trưng bày. Nhà thờ và chùa ở Galang II vẫn còn. Cách đây chừng một tháng thì ngôi chùa đã bị hoả hoạn làm thiệt hại.

Nghĩa trang Galang đã qua nhiều đợt trùng tu. Những ngôi mộ được làm sạch cỏ chung quanh và có nước sơn mới mầu trắng.

Nhìn tấm bia tưởng niệm có trong nghĩa trang từ những năm đầu của thập niên 1980, nay được bao phủ và có nhiều mái che trên lối vào làm mất vẻ đẹp và trang nghiêm, người viết bài đề nghị với Văn khố Thuyền nhân Việt Nam bên Úc, hay hội đoàn nào có trách nhiệm bảo tồn nên có kế hoạch phục hồi bia tưởng niệm lại nguyên trạng như trước, với không gian hoàn toàn mở, không nên có các mái che khuất như hiện nay.

Thêm nữa, các tượng ảnh đặt trước và chung quanh bia tưởng niệm không phù hợp với vong linh của tất cả những người đã khuất vì thuộc nhiều tôn giáo khác nhau.

Tấm bia nguyên thuỷ chỉ có bình nhang phía trước. Nhiều người đã đến đây cầu nguyện và cắm nhang tưởng nhớ.

Về bàn làm lễ nếu cần có cho nghi thức theo tôn giáo, đề nghị dùng một nhà chòi đã có bên phía trên, góc phải nghĩa trang. Khi đọc kinh hay làm lễ có thể đặt trên bàn hình tượng tôn giáo mang theo. Sau nghi thức, mọi người có thể xuống viếng mộ.

bvp13

Cảnh phía trước nghĩa trang Galang năm 2019 (FB Pulaugalang Tienbep)

Nếu cần hướng thẳng về nghĩa trang và bia tưởng niệm, đề nghị xây dựng một nhà chòi bên kia đường đối diện với cổng nghĩa trang.

Trong hai thập niên từ sau ngày 30/4/1975, theo số liệu của Cao uỷ Tị nạn Liên Hiệp quốc, đã có gần một triệu người Việt bỏ nước ra đi, phần đông là vượt biển. Hàng trăm nghìn người đã vùi thây trên biển và trong rừng sâu.

Hành trình tìm tự do với nhiều đau thương của người Việt Nam đã làm nên trang sử của thuyền nhân tị nạn.

Bùi Văn Phú

(29/04/2021)

Tác giả Bùi Văn Phú làm việc tại các trại tị nạn ở Đông Nam Á trong thập niên 1980. Ông hiện là giảng viên đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco, California

Published in Diễn đàn
vendredi, 07 avril 2017 18:53

Tìm về những ngôi mộ thuyền nhân

Trong suốt tun qua, Đài phát thanh Sài Gòn Houston, tiểu bang Texas, đã truyn đi các bn tường trình trc tiếp v chuyến đi thăm m phn nhng tuyn nhân Vit Nam đã b mình Bin Đông trên đường tìm t do. Theo đó, mt phái đoàn khong 60 người đến t Hoa Kỳ, Canada và Úc Châu, phn nhiu là nhng thuyền nhân đã sng sót sau các cuc vượt bin đy him nguy vi sóng gió và hi tc. Chuyến đi thăm này d đnh kéo dài trong ba tun đi đến mt s hi đo trong vnh Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương, nơi có nhiu xác thuyn nhân b chôn vùi dưới ba tc đt, không quan tài, không kim tĩnh !

mo1

Tại tị nạn Galang, Indonesia, 1986 - Ảnh minh họa

Theo những thuyn nhân vượt thoát trong nhng khon thi gian khác nhau các năm trước đây, nay tham gia phái đoàn cho biết, mc đích và ý nghĩa chuyến đi này là đ thăm viếng, tưởng nim và cu nguyn theo nim tin tôn giáo cho các thuyn nhân có s phn không may đã bỏ mình trên bin c do sóng d hay b hi tc sát hi trên đường vượt bin. Vì vy trong phái đoàn này có s tham gia ca mt s tu sĩ như mt Linh mc Công giáo và mt Hòa thượng thành ph Houston, Hoa Kỳ và mt Linh mc Công giáo đến t Đài Loan.

Ngoài ra còn có năm nhà sư và mt s tu sĩ Pht giáo Thái Lan tình nguyn tham gia phái đoàn đến các hi đo đ cu nguyn cho linh hn các thuyn nhân t nn còn vt vưởng nơi đây được sm siêu thoát. Đng thi, phái đoàn cũng mang theo khong 70 bng m bia đ tên nhng người mà thân nhân h biết đã b vùi chôn trên các hoang đo mà h tng trôi dt vào b, đã chết đói chết khát hay b hi tc hãm hiếp, sát hi…

Chuyến đi này gi nh thm cnh ca nhng người Vit Nam tìm đường vượt biên, khi s chỉ vài năm sau ngày 30/4/1975, ngày cng sn Bc Vit cướp được chính quyn Vit Nam Cng Hòa Min Nam Vit Nam, thiết lp chế đ đc tài toàn tr trên c nước, khiến nhiu người phi liu thân b nước ra đi tìm t do. Hành đng cướp chính quyn này ca nhà cầm quyn CSBV 42 năm trước đây (1975-2017) tng b coi là vi phm trng trn Hip Đnh Paris ngày 27/1/1973 do chính h là mt trong bn bên đã hp son và ký kết.

Vì theo khon (b) điu 9 Chương IV quy đnh "Việc thc hin quyn t quyết ca nhân dân Miền Nam Vit Nam" đã ghi như sau :

"b) Nhân dân Miền Nam Vit Nam t quyết đnh tương lai chính tr ca Min Nam Vit Nam thông qua tng tuyn c thc s t do và dân ch, có giám sát quc tế".

Khoản (a) điu 11 thì ghi "Ngay sau khi ngưng bn, hai bên Miền Nam Việt Nam s hip thương trên tinh thn hòa gii và hòa hp dân tc, tôn trng ln nhau và không thôn tính ln nhau đ thành lp Hi Ðng Quc Gia Hòa Gii và Hòa Hp Dân Tc gm ba thành phn ngang nhau…".

Đây là điều 15 ca chương V Hip Ðnh Paris quy định rt rõ ràng : "Việc thng nht nước Vit Nam s được thc hin tng bước bng phương pháp hòa bình trên cơ s bàn bc và tha thun gia Min Bc và Min Nam Vit Nam, không bên nào cưỡng ép hoc thôn tính bên nào... Thi gian thng nht s do Min Bc và Min Nam tha thun...".

Thế mà thc tế đã xy ra hoàn toàn trái ngược trước s làm ngơ ca nhng cam kết quc tế bo đm cho vic thc thi ghi trong bn "Hiệp đnh Paris v chm dt chiến tranh lp li hòa bình cho Vit Nam". Hệ qu là, tuy chm dứt được thm trng ca cuc chiến tranh "ct nhc tương tàn", nhưng đã xô đy c mt dân tc vào nhiu thm trng khác trong hòa bình (theo nghĩa không còn tiếng súng) sau cuộc chiến. Vì sau khi nm quyn thng tr đc tôn trên c nước, đng và cm quyn cộng sản Việt Nam đã thi hành các chủ trương, chính sách cc kỳ gian ác gây nhiu kh ly cho nhân c nước, nht là vi dân Min Nam mi "gii phóng" mà h mit th gi là "dân ngụy, ngy quân, ngy quyn".

Ngay những ngày tháng năm đu sau 30/4/1975, Vit cng đã thc hiện ch trương chính sách tp trung lao đng ci to hàng trăm ngàn sĩ quan quân đi và các viên chc ch huy hành chánh các cp chính quyn Vit Nam Cng Hòa ; đưa đến thm cnh ly tán gia đình, đy nhng người v tr con thơ vào cuc sng bơ vơ, qun bách đến cùng cc, phi bươm tr kiếm sng bng đ mi ngh. Mt s đông v con nhng người tù ci to không biết làm gì đ sng các thành th, đã phi t nguyn hay b d d, cưỡng ép đi lp nghip các vùng kinh tế xa thành th, nhng nơi rng thiêng, nước đc, cc kh, thiếu thn trăm b. Nhiu người trong s h đã chết vì thiếu ăn, thiếu thuc điu tr khi bnh hon. Tiếp theo sau là các cuc đi tin, đánh tư sn đt I, đi II, hu hết dân Min Nam dân thường cũng như nhng người b ghép vào din b đánh tư sn đu trng tay… Nhưng đây mi ch là nhng thm cnh mà nhà cm quyn Vit cng đã gây trước mt cho nhng quân, dân, cán chính chế đ Việt Nam Cộng Hòa Min Nam, còn có mt thm trng lâu dài khác sau hòa bình cho các thế h con cháu h, được tóm gn trong ba câu thơ (1) :

Hòa bình, thống nht, t do đâu ?

Lý lịch bao đi đeo thân phn ?

Con thơ cam chiu đến bc đu…

Đứng trước nhng thm trng sau chiến tranh, trong hòa bình trên, tt c dân Min Nam như b nhà cm quyn chế đ mi dn vào con đường cùng. Nhiều người đã tìm cách vượt thoát ra cnh khn cùng bng cái chết hay tìm đường vượt biên bng mi cách và mi giá, k c đánh đi mng sng đ "tìm s sng trong cái chết". Chính hin thê ca tôi dã có lúc qun bách vì quá kh cc kiếm sng nuôi ba con thơ di vi mt m chng, đã có ý đnh b li tôi trong tù tìm đường vượt biên. Nếu ngày đó (1979), v con tôi đi vượt bin, liu có đến được bến b t do hay cùng chung s phân vi hàng triu thuyn nhân phi vùi thân trong bng cá hay trong lòng bin c ? (2). Theo ước đoán ca cơ quan t nn Liên Hip Quc, thì có khong 5 triu người vit Nam đã vượt biên sau ngày 30/4/1975, nhưng ch sng sót đến được các tri t nn trong vùng khong ba, bn triu ; s còn li mt mng trong rng sâu (mt s ít vượt biên bằng đường b) hay b xác trên bin c hay b nn hi tc sát hi (vi đa s vượt biên bng đường bin).

Thành ra, chuyền đi thăm m phn và cu nguyn cho linh hn các thuyn nhân Vit Nam b mình trên Bin Đông trên đường tìm t do ca phái đoàn 60 người lúc này, ngoài mục đích và ý nghĩa linh thiêng cao đp mà nhng người tham gia phái đoàn bày t, thiết tưởng còn có ý nghĩa đc bit hơn. Vì nó din ra trong thi khong gn ngày 30/4/1975, ngày đánh du kết thúc cuc chiến tranh "ni da xáo tht" đ li nhiều di hi cho dân tc. Vì s kết thúc này, nếu đã chm dt được nhng thm cnh trong chiến tranh, thì li xô đy nhân dân c nước Vit Nam vào mt thm trng trong hòa bình mà thc tế còn t hi hơn nhiu, do chế đ đc tài toàn tr cộng sản Việt Nam gây ra.

Giờ đây sau 42 năm kết thúc cuc chiến tranh Quc-Cng (1975-2017), thiết tưởng phe Vit cng (đảng và nhà cm quyn cộng sản Việt Nam hin nay) đã gây ra các thảm trng trước và sau chiến tranh, trong hòa bình, cho nhân dân và đt nước, cn cúi mt ăn năn thng hi, thay vì tiếp tc ăn mng như mt "chiến thng" (mà thực cht ch là chiến thng gi to) ; tuy có trễ nhưng chưa mun. Đng thi, phe Vit quc (các chính đảng quc gia, các t chc, cá nhân chng cng vì dân ch cho đt nước) cũng cần cúi mt ân hn thay vì nuôi dưỡng hn thù. Vì trong quá kh đã không làm được nhng điu cn làm đ bo v chế đ dân ch pháp tr Min Nam, tao cơ hi cho phe Vit Cng có tư thế và điu kin th ác, không ch gây ra nhng thm trng trước mt mà còn di hi nhiu mt lâu dài cho nhân dân và đất nước Vit Nam thân yêu ca chúng ta.


Houston, ngày 4/4/2017

Thiện Ý

Nguồn : VOA, 06/04/2017

Chú thích :

(1) và (2) : Là hai câu thơ trích trong mt bài thơ v tôi là Liên Hương viết trong nht ký khi tôi b bt cm tù vì ti "phn đng" (tham gia Mặt trn Nhân quyn Vit Nam 1978-1981). Nội dung toàn bài thơ như sau :

Thôi cũng đành chối b quê hương

Khước t vinh quang "Dân Vit kiên cường"

Ðòan người lũ lượt tìm đt ha

Nước lan nhà tan, cnh đan trường.

Ra đi dù chịu lm cam go

Mong thở bu không khí t do

Lăn vào cõi chết tìm đường sng

Chấp nhn thương đau chng đn đo

Vợ lìa chng, cha li xa con

Ngậm đng nut cay, nén ti hn

Liều thân giao phó tay Thiên đnh

Sóng gió mênh mông chọn mt còn.

Thôi cũng đành ôm hận ly hương

Số phn tương lai chn no đường

Ðáy biển vùi sâu bao mơ ước

Cải to đa đy kiếp đau thương.

Ðất nước gì đâu lm kh đau,

Thanh bình, thống nht, t do đâu ?

Lý lịch ba đi đeo thân phn

Con thơ cam chu đến bc đu.

Published in Diễn đàn