Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

jeudi, 22 mars 2018 15:36

Cuộc truy tìm lươn lẹo

Không khó thấy rằng cả ông Tập Cận Bình lẫn ông Nguyễn Phú Trọng đã và đang khổ công tìm kiếm con đường riêng cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu bỏ qua ý đồ cá nhân và một tham vọng vĩ nhân, muốn làm nên lịch sử không chỉ với dân tộc mà của cả thế giới, thì mục tiêu trực tiếp mà hai nhân vật này tìm kiếm chỉ là một thủ đoạn duy trì quyền cầm quyền của đảng cộng sản.

tap1

Tập Cận Bình lẫn ông Nguyễn Phú Trọng đã và đang khổ công tìm kiếm con đường riêng cho Trung Quốc và Việt Nam

Quyền cầm quyền được lý giải bằng tính chính danh được thừa nhận công khai và toàn thể, cùng với sự hợp thức của thể chế hay mô thức của chế độ chính trị, mô hình độc đảng cầm quyền.

Nói một cách ngắn gọn, cả ông Tập lẫn ông Trọng đều đang tìm mọi cách để chứng minh rằng, đảng cộng sản trong mỗi nước này đều có chính nghĩa và xứng đáng ở vị trí cầm quyền, và thể thức cầm quyền của đảng cộng sản theo mô hình độc đảng lãnh đạo là mô hình không có gì khác và trái với các thể thức cầm quyền khác trên thế giới.

Đảng cộng sản, cũng như mọi đảng chính trị khác đều không thể trực tiếp cầm quyền, nghĩa là đảng không thể tự lập ra chính phủ, tự cho mình quyền cai trị, quyền quản lý, và nhất là quyền thu thuế để, trước hết, đảm bảo duy trì sự tồn tại của bộ máy cai trị, bộ máy chính phủ. Tất cả những quyền đó nếu không được thừa nhận bởi mọi thành phần trong xã hội, bao gồm mọi công đồng dân tộc khác nhau, mọi cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau, mọi xu hướng tư tưởng và đảng phái chính trị khác nhau, mọi tổ chức dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội thuộc mọi tầng lớp khác nhau v.v. thì quyền lực đó không thể được gọi là quyền lực hoàn toàn, và vì vậy nó không có hiệu lự thực thi hoàn toàn.

Trong một nhà nước độc đảng, luật pháp quốc gia trùng khớp với điều luật nội bộ của đảng chỉ có thể có hiệu lực với những thành phần và các tổ chức của đảng, với số lượng đảng viên thông thường chỉ chiếm một tỷ lệ rất thấp trong dân số quốc gia. Nó ít nhiều bị vô hiệu bởi toàn phần còn lại, thường chiếm tới 90% cơ cấu xã hội.

Quyền lực không được thừa nhận dẫn tới hiệu lực và hiệu quả của chính sách. Đây chính là nguyên nhân gây nên sự phân rã của xã hội, một nguy cơ tiềm ẩn của ổn định, đe doạ vị trí cai trị của đảng cộng sản.

Các đảng cộng sản cầm quyền hiện nay trên thế giới đều nhận thức được điều đó. Vì vậy những đảng cộng sản này, một mặt, tìm mọi cách ẩn mình, che giấu tính cách không đại diện của mình trong tư cách thực thi quyền lực, một mặt khác, tìm mọi cách hợp thức hóa vị trí cầm quyền của mình, bằng cách chuyển từ uy lực trong đảng sang uy lực của chính quyền, về mặt thực tiễn, đó là sự chuyển hóa từ uy lực của chủ tịch đảng sang uy lực của chủ tịch nước, chuyển sự thừa nhận uy quyền của một bộ phận đảng viên sang sự thừa nhận của toàn thể rộng rãi mọi thành phần xã hội.

Đó là bản chất của việc thay đổi hiến pháp mà Tập Cận Bình vừa thực hiện sau Đại hội 19 và Quốc hội 13 ở Trung Quốc, bản chất của chủ trương nhất thể hóa hai hệ thống đảng và nhà nước mà ông Nguyễn Phú Trọng đặt thành nhiệm vụ tại Hội nghị trung ương 6/XII và đang âm thầm thực hiện ở Việt Nam.

Cuộc truy tìm rất công phu này, chắc chắn mất rất nhiều công sức nghiền ngẫm cả về mặt lý luận, tổ chức thực tiễn lẫn vận dụng mọi thủ đoạn chính trị, cho thấy mâu thuẫn không còn khả năng che đậy về tính chính danh quyền độc tôn cầm quyền của đảng cộng sản ở các quốc gia do đảng cộng sản cầm quyền hiện nay.

Ở những quốc gia này có một đặc điểm chung là đảng cộng sản nắm giữ tuyệt đối hai công cụ bạo lực công là Quân đội và Cảnh sát. Quân đội chống đảo chính và răn đe sự phân rã, cát cứ của phe cánh. Cảnh sát trấn áp mọi xu thế khác biệt của mọi thành phần xã hội.

Chỉ cần có hai đảng chính trị độc lập, có quyền cạnh tranh công khai và bình đẳng với nhau, lập tức Quân đội và Cảnh sát trở thành lực lượng phi chính trị, không thể là của riêng ai và không có nghĩa vụ bênh vực hay bảo vị bất cứ đảng phái nào. Cho nên chỉ cần đo mức độ phi chính trị của Quân đội và Cảnh sát, có thể đo lường tính chất và mức độ dân chủ hóa của bất cứ chế độ chính trị nào.

Trong cuộc truy tìm này, rõ ràng Tập Cận Bình đã đi trước ông Nguyễn Phú Trọng, vì từ nay, sau khi đồng nhất Điều lệ đảng với Hiến pháp, khi không bị giới hạn bởi nhiệm kỳ cho chức vụ Tổng Bí thư đảng, ông Tập Cận Bình là ứng viên đương nhiên cho vị trí chủ tịch nước, trong khi ở Việt Nam, ông Trọng trong vai tổng bí thư đảng không thể tự "phân công" mình làm chủ tịch nước. Lý do là ở Việt Nam, quy tắc từ lâu "đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" đã trở thành một thứ nguyên lý tiên đề không bàn cãi. "Đảng lãnh đạo Chính phủ, không làm thay Chính phủ" đã buộc ông Tổng bí thư phải đứng ngoài, mặc dù đứng trên Chính phủ, đứng trên Nhà nước.

Nhưng Nguyên thủ quốc gia là ai ? Hiến pháp không thể quy định thủ lĩnh một đảng chính trị là nguyên thủ quốc gia. Nhưng ở Việt Nam, vị nguyên thủ quốc gia này, tức là chủ tịch nước, là một người do Bộ chính trị phân công, thường chỉ là nhân vật có uy lực thứ ba hay thứ tư trong thứ tự thang bậc của đảng, thậm chí là chỗ để giải quyết uy tín nôị bộ cho một ủy viên quan trọng nhưng thất sủng, giống như một nơi "ngồi chơi" trước khi bị nghỉ hẳn.

Một nhân vật như vậy có thể mặc nhiên đại diện chủ quyền quốc gia trong đối ngoại ?

Ông tổng bí thư đảng trong thể chế đảng độc quyền, thực chất là người cao nhất trong thang bậc quyền lực, là nguyên thủ quốc gia theo nghĩa người quyết định cuối cùng. Nhưng hệ thống này không tương đồng với thể chế phổ cập trên thế giới, đặc biệt với thế giới dân chủ tự do đa đảng.

tap2

Chủ tịch nước Trần Đại Quang tiếp Tổng thống Mỹ Donald Trump tại Hà Nội ngày 12/11/2017

Trong nghi lễ ngoại giao với thế giới, ông Trọng không phải là nguyên thủ quốc gia, vì ông chỉ được đảng viên trong đảng của ông bầu làm Tổng bí thư, không biết gì về việc ông có được toàn bộ cử tri cả nước bỏ phiếu cho ông không, vì vậy, ông không đại diện, dù trên danh nghĩa, cho quyền lợi quốc gia.

Ở các quốc gia đa nguyên chính trị, ứng viên tranh cử tổng thống thông thường phải qua cuộc bầu chọn trong nội bộ đảng. Người thắng cử trong cuộc bầu chọn này đương nhiên là người cao nhất trong đảng. Khi trúng cử tổng thống, họ cùng lúc là chủ tịch đảng của họ và Tổng thống của toàn dân.

Nhưng khi phải đón tiếp ông Trọng trong một cuộc thăm viếng ngoại giao, ông Tổng thống này không thể nhân danh chủ tịch đảng của ông để tiếp một ông Tổng bí thư một đảng khác, nhưng lại cũng không thể lấy tư cách tổng thống một quốc gia để tiếp tổng bí thư của một đảng chính trị. Đó là sự khập khiễng trong nghi thức, làm đau đầu hệ thống quyền lực tại Việt Nam, làm lộ ra cái bản chất không chính danh của đảng cộng sản.

Nhất thể hóa đang dọn đường cho việc tạo ra một ứng viên đương nhiên của tổng bí thư đảng cho chức vụ chủ tịch nước. Tập Cận Bình đã dọn đường trước cho nhiệm kỳ sau năm 2023, nhưng ở Việt Nam, ông Trọng có thể được bộ chính trị giới thiệu ra ứng cử chủ tịch vào ngay lúc này.

Vấn đề là phải làm thế nào để ông Chủ tịch nước hiện nay, đột nhiên không thể đảm nhiệm được vị trí chủ tịch nước nữa, vì lý do "sức khoẻ" chẳng hạn. Ông Trần Đại Quang dính đến rất nhiều vụ bê bối trong suốt thời gian 5 năm thứ trưởng, 5 năm bộ trưởng Bộ công an dưới triều đại tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng. Quốc hội phải tổ chức Hội nghị bất thường để bầu.

Nếu không có một sự cố bất khả kháng như vậy xảy ra, thì phải đợi tới Quốc hội 15 để bỏ phiếu cho Tổng bí thư trúng cử Chủ tịch nước.

Trong khi chỉ cần làm những gì thế giới làm, trả tự do về cho tự do, hai ông Tập và Trọng phải cất công tìm cách che chắn chuyện khuất tất. Quả thực là một cuộc truy tìm không dễ dàng và có vẻ đầy mưu ma chước quỷ.

Có thể nhất thể hóa dễ dàng mà không phải thủ đoạn quá lắt léo. Đó là bầu chủ tịch nước trước bằng bầu cử tự do và phổ thông đầu phiếu. Người trúng cử chủ tịch nước tự động là tổng bí thư đảng không cần qua đại hội đảng, vì "đảng từ nhân dân mà ra và đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích dủa dân tộc".

Cầu trời để ông Nguyễn Phú Trọng đủ sức khoẻ ở tuổi 74 để không quá thiếu minh mẫn, khi dấn thân cho một nhiệm kỳ 5 năm nữa.

Paris, 22/03/2018

Bùi Quang Vơm

Additional Info

  • Author Bùi Quang Vơm
Published in Quan điểm

Quyền lực trong xã hội con người, từ cổ đại đến nay, đều đặt nền tảng trên quan niệm "chính danh - légitime". Không có chính danh thì nói không ai nghe.

Quyền lực (power – pouvoir) ở đây được hiểu như là "quyền lực chính trị". Tức là "thẩm quyền" áp đặt những nguyên tắc luật lệ mà mọi người trong xã hội (thuộc một vùng lãnh thổ nhứt định) phải tuân thủ.

do1

Việc bổ nhiệm các thái tử đỏ, những người xem ra tài năng chỉ ở mức (tối đa là) trung bình, đã khiến chế độ "cộng hòa xã hội chủ nghĩa" trở thành chế độ "quân chủ xã hội chủ nghĩa".

Tính "chính danh" trong chính trị hiện đại có thể được hiểu như là việc "hợp pháp" hay "hợp hiến".

(Légitime - nguyên thủy bắt nguồn từ Latin "legitimus", có nghĩa là "xác định bằng luật", "phù hợp với luật lệ").

Thí dụ về tính "chính danh" của "con thú đầu đàn" trong xã hội loài thú và người "thủ lĩnh" xã hội sơ khai.

Trong một đàn chim hay một bầy sư tử… luôn có một con đầu đàn. Tất cả những con thú trong bầy đều phục tùng quyết định của con thú đầu đàn. Tính "chính danh" của con thú đầu đàn là sức mạnh, là sự khôn ngoan và kinh nghiệm.

Con sư tử đầu đàn là con thú có sức mạnh vượt trội. Nó có khả năng thiết lập trật tự trong đàn cũng như khả năng bảo vệ an ninh cho cả bầy trước sự tấn công của các con thú khác.

Con chim đầu đàn là con chim khôn ngoan và có kinh nghiệm nhứt trong đàn. Con chim này có khả năng dẫn dắt cả đàn đến vùng nắng ấm, có nhiều mồi ngon, cả bầy được sống trường tồn và sung túc.

Xã hội loài người cũng tương tự như vậy.

Lúc còn sơ khai, con người đã biết sống tụ tập thành bầy đàn, sử dụng sức mạnh và trí khôn tập thể để chống chõi với thiên nhiên để "sinh tồn". Trong nhóm luôn có một người đứng đầu mạnh nhứt, hay tinh khôn nhứt, dẫn dắt cả nhóm. Văn minh hơn một chút, con người biết "tổ chức", bộ lạc được thành lập. Trong bộ lạc có một người ‘thủ lĩnh" để coi ngó mọi sinh hoạt trong bộ lạc. Tất cả thành viên trong bộ lạc đều tuân thủ mệnh lệnh của người thủ lĩnh.

Quan niệm về "quyền lực" được khai sinh. Người thủ lĩnh, con chim đầu đàn, con thú đầu bầy… là đại diện (thể hiện) cho "quyền lực" trong (xã hội) bầy đàn đó.

Tính "chính danh" của "quyền lực" trong các xã hội này là "sức mạnh", "kinh nghiệm" và sự "tinh khôn".

Con người ngày càng văn minh hơn, quan niệm về "vương quốc", sau đó là "quốc gia" được thành hình. Một "quốc gia" thông thường bao gồm một nhóm dân tộc có cùng "nguồn gốc" như ngôn ngữ, màu da, huyết thống… có cùng một "lịch sử" và chia sẻ một "văn hóa" chung. Cốt lõi cho sự "trường tồn" của quốc gia là phương cách (mô hinh) "tổ chức quốc gia" mà trong đó cách thức "tuyển chọn" người thủ lĩnh (người lãnh đạo) nắm "quyền lực quốc gia" là yếu tố quan trọng hơn hết.

Dưới thời "phong kiến" đế quyền, ông vua (hoàng đế) là vị "chủ tể". Lãnh thổ là của vua. Tất cả dân chúng trong vương quốc cũng thuộc về ông vua, gọi là "thần dân". Các quan trong triều đều do vua "sắc phong". Mọi "quyền lực" trong quốc gia đều thuộc về vị "chủ tể" là ông vua. Ông vua thể hiện cho lãnh thổ, vừa dại diện cho thần dân… Nói theo ngôn ngữ hiện đại, ông Vua vì vậy nắm "chủ quyền" của quốc gia.

Tính "chính danh" của ông vua, quan điểm Đông phương ông vua có "mạng trời", "thế thiên hành đạo".

Ông vua chết đi, con của ông vua, gọi là thái tử, được "nối ngôi". Ông con lên nối ông cha trở thành "vua". Sự liên tục quốc gia vì vậy được thể hiện mà không ai dị nghị.

Dĩ nhiên cho tới khi "mệnh trời đã hết".

Theo quan điểm Đông phương, "mệnh trời đã hết" được báo hiệu bằng thiên tai như bão lụt, hán hán, bệnh dịch… liên tục nhiều năm, gây nạn đói kém… Giặc giã nổi lên chống lại ông vua. Kẻ nào thắng, lật đổ ông vua, vỗ ngực xưng hoàng đế thế thiên hành đạo. (Dĩ nhiên không quên nhổ cỏ tận gốc bằng cách tru di tam tộc giòng họ vua trước để tránh việc quang phục). Cứ như vậy mà quốc gia tiếp nối.

Cho tới thời cận đại. Người dân trong quốc gia không chịu đựng được những thói xa hoa phung phí của giới hoàng gia cũng như những áp bức đến từ thành phần quan lại. Sự nghèo khổ cùng cực khiến họ nổi dậy làm "cách mạng" lật đổ chế độ vương quyền. Hệ quả là "ngai vàng phải trả lại cho nhân dân".

Từ đó quan niệm "mọi quyền lực trong quốc gia" thuộc về "nhân dân" được thành hình. Nhân dân là "chủ tể". "Chủ quyền" của quốc gia thuộc về nhân dân. Chế độ "cộng hòa" được ra đời.

Người "thủ lĩnh" không còn là người có "thiên mệnh", hay là người "có sức mạnh". Quyền lực trong quốc gia được phân bổ cho những người "lãnh đạo", bằng các thể thức "dân chủ" là "bầu cử".

Quyền lực của (những) người lãnh đạo được giới hạn trong một khoản thời gian, gọi là "nhiệm kỳ".

Tính "chính danh" của người lãnh đạo là sự "thắng cử". Người nào được nhiều "phiếu bầu", người đó "thắng cử".

Trở lại tình trạng Việt Nam hiện thời, các "thái tử đỏ" được "đảng" trao phó "quyền lực".

Nhìn lại những sự kiện con ông này, cháu ông kia… quyền lực quốc gia được ban phát một cách tùy tiện trong hàng ngũ con ông cháu cha. Quyền hành của các ông hoàng đỏ này bị thách thức. Một chế độ nhìn nhận là "dân chủ", "cộng hòa"... thì dứt khoát không thể có việc kế thừa quyền lực.

Nguyên tắc của mọi chế độ dân chủ (dân chủ tự do hay dân chủ tập trung) là việc phân bổ quyền hành trong bộ máy nhà nước phải đến từ nhân dân, thể hiện qua các cuộc bầu cử.

Tính chính danh của "quyền lực" được bảo đảm bằng sự trung thực của kết quả các cuộc bầu cử.

Quyền lực của các thái tử đỏ này vì vậy không có chính danh.

Nhân dân nào đã bầu cho các ông thái tử đỏ ?

Có một "thái tử đỏ" nhân dịp nhận chức, lên tiếng cho rằng quyền lực của cậu ta là do "đảng" giao phó.

Tức là tính chính danh về quyền lực của cậu ta được đảng bảo kê.

Vấn đề là đảng có "quyền" làm việc này hay không ?

Câu trả lời nên dành cho các đảng viên của đảng cộng sản Việt Nam. Họ có "bầu" cho các thái tử này hay không ?

Nhưng trên phương diện pháp lý, việc này có nhiều điều vướng mắc. Những vướng mắc này không những đặt lại tính "chính danh" quyền lực của các thái tử đỏ mà còn đặt lại tính chính danh (quyền lãnh đạo đất nước và xã hội) của đảng cộng sản Việt Nam.

Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay "cơ bản" đặt trên nền tảng "dân chủ". Theo nguyên tắc dân chủ (kể cả dân chủ tập trung), không có một chức vụ hay cơ chế (quyền lực) nào thuộc bộ máy nhà nước mà không thông qua (sự bầu cử) của người dân, hoặc sự bổ nhiệm của một cơ quan quyền lực chính đáng.

Sự bổ nhiệm các thái tử đỏ do đó là không hợp hiến.

Trước đây, những người cộng sản bảo vệ tính chính danh của đảng cộng sản Việt Nam với lý do đảng "đã lãnh đạo dân tộc giành lại độc lập".

Điều này không đúng trong thời điểm hiện tại (và dĩ nhiên, tương lai).

Tạm cho rằng đảng cộng sản Việt Nam đã "lãnh đạo dân tộc giành lại độc lập" là một sự thật lịch sử, không có điều gì cần tranh biện. Thì những người cộng sản hôm nay cũng không thể vịn vào lý do này để tiếp tục giành quyền lãnh đạo.

Những thế hệ "khai quốc công thần" chống Pháp, chống Mỹ, tức những người có tư cách, có chính danh để lãnh đạo, đã lần lượt khuất núi. Những người "có công", tức những người có tham gia vào cuộc chiến, đã không còn bao nhiêu người. Ngay cả thế hệ lãnh đạo hiện thời cũng không có mấy người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến "chống Mỹ".

Nếu dựa vào "công lao", thì trong đảng hiện nay không ai có công lao (giành lại độc lập) để đặt nền tảng làm "chính danh". Không ai có tư cách để lãnh đạo đất nước hết cả.

Tính chính danh không có "kế thừa". Nếu nhìn nhận sự kế thừa thì lý ra con cháu của những bà mẹ anh hùng, những liệt sĩ, những thương phế binh... phải làm lãnh đạo mới đúng.

Con cháu của con chim đầu đàn, của con sư tử đầu bầy, chỉ đơn thuần là một thành tố trong bầy, chớ không có kế thừa để lên nắm đầu đàn. Muốn trở thành con thú đầu đàn, con chim đầu bầy, những con thú này phải khẳng định sức mạnh, hay chứng minh trí khôn và kinh nghiệm. Đó là "chính danh" trong thế giới loài thú.

Việc bổ nhiệm các thái tử đỏ, những người xem ra tài năng chỉ ở mức (tối đa là) trung bình, đã khiến chế độ "cộng hòa xã hội chủ nghĩa" trở thành chế độ "quân chủ xã hội chủ nghĩa".

Có người biện hộ cho tính chính danh của đảng cộng sản Việt Nam với lý lẽ đảng này được dân bầu lên :

"Đầu năm 1946, Đảng Cộng sản đã tổ chức bầu cử Quốc hội và ra Hiến pháp. Hệ thống chính trị Việt Nam có bầu cử và những người của Đảng ra ứng cử vào các chức vụ". (Vũ Minh Giang, nguyên thành viên Hội Đồng lý luận của đảng, nói trên BBC về tính chính danh của đảng).

Điều này không đúng sự thật. Thứ nhứt, thời điểm tổ chức bầu cử quốc hội (1946) đảng cộng sản đã giải tán. Thứ hai, số dân biểu đắc cử vào quốc hội gồm một số lớn nhân sự không thuộc đảng cộng sản Việt Nam.

Nhưng cũng giả sử rằng thời điểm đó đảng cộng sản không giải tán và số người trong quốc hội 100% là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam. Thì tính chính danh của đảng cầm quyền chỉ có hiệu lực trong nhiệm kỳ bầu cử đó mà thôi. Không lẽ nhiệm kỳ đó kéo dài (đến nay đã gần) 70 năm ?

Lý lẽ khác cũng thường thấy người cộng sản nhắc để biện hộ cho tính "chính danh" của họ là đại diện "giai cấp vô sản".

Bất kỳ đảng cộng sản nào cũng cho rằng họ có "chính danh" để lãnh đạo đất nước, vì họ đại diện cho số đông (nhân dân vô sản) trong xã hội. Nhà nước họ lập nên là "nhà nước vô sản", sử dụng sự "chuyên chính vô sản", tức sự "độc tài" cho tầng lớp vô sản, nhằm triệt tiêu giai cấp bóc lột đem lại sự "công bằng" trong xã hội.

Quyền lực này chỉ chính đáng khi đảng này còn phục vụ cho giai cấp mà họ đại diện, tức giai cấp vô sản, công nhân, nông dân… nói chung là tầng lớp lao động nghèo.

Khi đảng này phục vụ cho một giai cấp khác, như tầng lớp tư bản nước ngoài, tầng lớp tư bản đỏ… thì nó đã phản bội lại giai cấp mà họ đại diện. Tính chính đáng để lãnh đạo của nó bị mất đi.

Ngày hôm nay, dựa vào "giai cấp vô sản" để biện hộ cho tính chính danh trở thành một sự ngụy biện trắng trợn.

Đảng cộng sản Việt Nam bay giờ không hề đại diện cho quyền lợi của "giai cấp vô sản", tức giai cấp công nhân, nông dân, những người lao động nghèo… trong xã hội. Bản thân của họ đã trở thành những trọc phú bóc lột. Bản thân họ là những quan tham. Nhân sự của hệ thống quyền lực quốc gia đã trở thành những con sâu mọt đục phá tài sản quốc gia, nhũng nhiễu dân lành.

Đảng cộng sản Việt Nam bây giờ là đại diện cho tầng lớp tư bản hoang dã, tầng lớp đầu cơ trục lợi cũng như đại diện cho quyền lợi của tầng lớp tư bản nước ngoài. Đảng viên cộng sản trở thành những tên cai thầu coi ngó người dân Việt Nam như là những công nhân lao động cho tập đoàn nước ngoài.

Chính danh ở đây là chính danh làm cai thầu, chính danh đưa dân tộc vào vòng làm thuê vác mướn.

Trương Nhân Tuấn

Nguồn : fb.nhantuan.truong, 19/12/2017

Published in Diễn đàn