Chúng ta đang sống trong mùa World Cup nên gần như mọi chú ý và quan tâm của người Việt đều hướng về Qatar, nơi tổ chức World Cup 2022. Mặc dù World Cup mới bước vào vòng 1/8 nhưng nhiều kỷ lục đã được ghi nhận ví dụ việc đội tuyển Nhật Bản đã đánh bại 2 cường quốc bóng đá Châu Âu là đội tuyển Đức và Tây Ban Nha. Hàn Quốc cũng đã thắng Bồ Đào Nha để cùng với Nhật và Úc đi tiếp vào vòng 1/8.
Sự kiện thể thao lớn nhất hành tinh này đã làm lu mờ ít nhiều tình hình cuộc chiến đang ngày càng khốc liệt tại Ukraine, các cuộc biểu tình chống chính sách ‘Zero Covid’ của Tập Cận Bình tại Trung Quốc cũng như tình hình kinh tế - chính trị trên thế giới. Trong thời gian này các bài viết hay các cuộc thảo luận về chính trị chắc không được nhiều người quan tâm vì vậy xin chuyển sang một đề tài khác đó là ‘văn hóa khen chê’ của người Việt.
Đã là con người thì ai cũng thích được khen chứ không muốn bị chê. Tuy nhiên chính vì là con người nên không ai là không mắc phải sai lầm vì thế chuyện bị chê là rất bình thường và cần thiết. Có một câu thành ngữ rất hay đó là ‘người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải thì là bạn ta, những kẻ vuốt ve nịnh bợ chính là kẻ thù của ta’. Khen - chê từ lâu đã được nâng lên thành một nghệ thuật đó là khen thế nào cho đúng để người được khen không thấy xấu hổ và chê thế nào để người bị chê không mất lòng và có thể tiếp nhận được sự thật.
Văn hóa của người Việt Nam, cụ thể là văn hóa Khổng giáo thì luôn chê nhiều hơn là khen. Người ta dễ dàng chê người khác dù đôi khi cái lỗi rất nhỏ trong khi đó lại rất tiết kiệm lời khen vì cho rằng sự khen ngợi sẽ làm cho người được khen trở nên kiêu căng. Người Việt chỉ khen những người đã thành công hoặc là đã… chết chứ không ai khen những người chưa thành công và đang còn sống. ‘Người thành công’ là người đã đạt được một thành tích cụ thể nào đó ví dụ như đã trở nên giàu có hoặc đã thành đạt trên con đường quan lộ bất chấp người đó thành công nhờ thủ đoạn hay vô đạo đức.
Người Việt chỉ khen những người đã thành công hoặc là đã… chết chứ không ai khen những người chưa thành công và đang còn sống. (Ảnh: Phan Chu Trinh, người hiện nay đang được ca ngợi hết lời nhưng lúc sinh thời ông không được nhiều người ủng hộ)
Trong lĩnh vực chính trị là rõ nét nhất, một tướng cướp mà giành được chính quyền, dù không có đạo đức và tàn nhẫn vẫn được ca tụng hết lời như Đinh Bộ Lĩnh hay anh em nhà Tây Sơn. Văn hóa Khổng giáo xem sự thành công là phải có kết quả ngay lập tức trước mắt chứ không phải là những người đã đóng góp cho sự thay đổi. Sự khen chê của người Việt hoàn toàn mang nặng cảm tính, tôn sùng kẻ mạnh chứ không phải vì tôn trọng lẽ phải và sự thật. Việc các vua chúa bắt các sử gia phải viết sử theo ý mình thay vì tôn trọng sự thật là một ví dụ.
Một ví dụ nữa là không ít trí thức Việt Nam trong cũng như ngoài đảng đã ca ngợi Đảng cộng sản không tiếc lời chỉ vì họ đang cầm quyền chứ không phải vì họ tài giỏi hay vì dân vì nước. Ngược lại, những người chê bai Đảng cộng sản Việt Nam cũng bất chấp sự thật. Họ luôn cho rằng Đảng cộng sản ngu dốt, vô học và bất tài. Cả người khen và chê đều quá lời. Sự thật thì việc Đảng cộng sản giành được chính quyền năm 1945 là hoàn toàn chính đáng vì họ đã có sự chuẩn bị để đón nhận cơ hội trong khi các tổ chức khác thì không. Họ đã tìm kiếm một ‘tư tưởng chính trị’ là chủ nghĩa cộng sản để dẫn đường cho các hoạt động. Họ cũng đã chú trọng việc xây dựng và đào tạo một ‘đội ngũ cán bộ nòng cốt’ bằng cách tuyển lựa những thanh niên ưu tú rồi gửi sang Nga và Trung Quốc để đào tạo. Sau đó nhờ vào một vận hội lớn là Thế chiến 2 kết thúc với sự thất bại của phe phát xít trong đó có Nhật Bản (lực lượng đang chiếm đóng Việt Nam) để vùng dậy và chiếm được quyền lãnh đạo Việt Nam.
Rõ ràng là nội dung và bản chất của chủ nghĩa cộng sản là sai trái, độc hại và hoang tưởng nhưng tiến trình hành động của Đảng cộng sản để dành được chiến thắng là hoàn toàn đúng. Điều này nhắc lại một lần nữa sự quan trọng của ‘tư tưởng chính trị’ và việc xây dựng một ‘đội ngũ cán bộ nòng cốt’ cho mọi tổ chức trước khi bắt tay vào các hành động cụ thể.
Một vấn đề nữa cũng gây ít nhiều tranh cãi trong phong trào dân chủ Việt Nam đó là nên hay không nên khen các tổ chức chính trị dân chủ đối lập và người lãnh đạo của tổ chức đó ? Có ý kiến cho rằng không nên vì việc khen ngợi đó giống với những gì cộng sản đã làm. Tốt hơn là để việc đó cho người khác, là một người không thuộc tổ chức lên tiếng thì khách quan hơn… Điều đó có đúng không ? Theo tôi thì điều đó hoàn toàn không đúng. Ai cũng biết là Đảng cộng sản đã đánh bóng, bịa đặt và tô vẽ một cách dối trá về người lãnh đạo của họ là ông Hồ, bất chấp sự thật. Chúng ta không thể làm như họ nhưng nếu chúng ta nói đúng sự thật, không thêm bớt thì đâu có gì là sai và không đúng ?
Bất cứ một cuộc cách mạng nào cũng cần có một tổ chức chính trị dẫn đường và lãnh đạo. Việc tôn vinh và xây dựng một khuôn mặt làm biểu tượng cho phong trào dân chủ là điều tất yếu. Có rất nhiều ví dụ như trường hợp bà Ang San Suu Kyi tại Myanmar, Mahatma Gandhi tại Ấn Độ, Lech Walesa tại Ba Lan, Nelson Mandela tại Nam Phi hay Vaclav Havel ở Tiệp Khắc… Phong trào dân chủ Việt Nam muốn thành công cũng phải có một tổ chức tiên phong dẫn đường và một khuôn mặt biểu tượng để đoàn kết và tập hợp mọi người lại với nhau.
Không phải cái gì Đảng cộng sản cũng sai. Việc họ đề cao vấn đề tư tưởng chính trị, tổ chức và đội ngũ nòng cốt là hoàn toàn đúng. Họ sai và thất bại vì tư tưởng cộng sản là hoang tưởng và độc hại chứ phương pháp hành động của họ hồi năm 1945 là hoàn toàn đúng.
Ý kiến để người ngoài đánh giá về một tổ chức nào đó cho khách quan cũng không ổn vì nếu người đó hoàn toàn không biết gì về tổ chức đó thì làm sao có thể đánh giá đúng về họ được ? Ví dụ trong trường hợp Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, nếu một người không biết gì về chúng tôi thì làm sao họ hiểu được những gì chúng tôi đã và đang làm. Nếu một người đã hiểu chúng tôi thì họ đã là chí hữu hoặc thân hữu của Tập Hợp. Muốn chính xác thì chúng tôi phải nói về chúng tôi trước và sau đó mọi người có thể đánh giá xem chúng tôi nói có đúng không, có tôn trọng sự thật và lẽ phải hay không, để rồi từ đó lên tiếng ủng hộ nếu chúng tôi đúng hoặc phê phán nếu chúng tôi sai.
Việc này cũng không có gì khó hiểu, nó cũng giống như trong các kỳ thi tài, từ các kỳ thi học sinh giỏi, thi ca hát, nghệ thuật hay bất cứ bộ môn nào thì ban giám khảo luôn phải là những người có trình độ chuyên môn cao nhất trong các lĩnh vực đó. Không ai mời một bác nông dân giỏi làm giám khảo cho các cuộc thi về thời trang, hội họa hay âm nhạc. Chính trị cũng vậy, đánh giá chính xác nhất về các tổ chức chính trị chính là… các tổ chức chính trị và những chính trị gia đã có thâm niên trong các tổ chức chính trị. Tại các nước dân chủ thì chính các đảng đối lập mới thường xuyên bóc phốt và chỉ ra những sai lầm của đảng cầm quyền chứ không phải người dân. Những người chưa từng tham gia vào các tổ chức chính trị thì không thể đánh giá đúng về các tổ chức chính trị. Điều này cũng giống như việc những người chưa kết hôn thì không thể biết chính xác cuộc sống hôn nhân là như thế nào và các ý kiến của họ về cuộc sống hôn nhân thường mang tính chủ quan và phiến diện.
Xin đính chính một hiểu lầm do thành kiến hoặc sự hời hợt của một số người Việt đó là khi chúng tôi nói rằng đấu tranh chính trị là phải có tổ chức thì một số người cho rằng chúng tôi muốn mọi người phải tham gia vào… Tập Hợp. Điều đó không đúng. Chúng tôi đã nhiều lần minh định, nếu những người dấn thân đấu tranh cho dân chủ chia sẻ với những giá trị của Tập Hợp thì cánh cửa của Tập Hợp luôn mở rộng chào đón tất cả mọi người còn nếu không thì họ nên thành lập các tổ chức chính trị mới. Tập Hợp không độc quyền chân lý và lẽ phải. Tập Hợp chỉ là một khuynh hướng chính trị để mọi người lựa chọn.
Ranh giới giữa sự tô vẽ, đánh bóng với sự nhìn nhận và tôn vinh những đóng góp của một cá nhân hay một tổ chức chính trị cho nền dân chủ Việt Nam dù mong manh nhưng không khó để nhận ra nếu chúng ta tôn trọng sự thật và lẽ phải. Với sự phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay thì việc đi tìm sự thật rất đơn giản và dễ dàng. Nên dứt khoát nói không với sự dối trá và bịa đặt mà nên tôn vinh sự thật và lẽ phải. Sự động viên, khen ngợi chân tình của người dân đối với các tổ chức chính trị là một sự cổ vũ và khích lệ vô cùng lớn lao và quan trọng. Chúng sẽ giúp cho các cá nhân và tổ chức thêm tự tin và mạnh mẽ để vượt qua những khó khăn trên con đường dân chủ hóa đất nước. Cũng nên tôn vinh và ghi nhận sự đóng góp và nỗ lực của những cá nhân xuất sắc ngay từ bây giờ thay vì chờ họ chết mới lên tiếng.
Thế giới đang thay đổi sâu sắc, một trật tự thế giới mới đang hình thành. Đây là một cơ hội lớn cho phong trào dân chủ Việt Nam không khác gì hồi năm 1945. Những người Việt Nam quan tâm đến đất nước không nên bỏ lỡ cơ hội này. Không nên khiêm tốn hoặc tự ti thái quá thì chúng ta mới có thể vượt lên chính mình để cùng nhau mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước, kỷ nguyên của dân chủ và tự do thật sự.
Việt Hoàng
(5/12/2022)
Suốt dòng lịch sử của Việt Nam, các triều đại phong kiến bị thay thế đều do các đại thần phản nghịch, võ tướng hay anh hùng hảo hán chủ trương và lật đổ. Chưa bao giờ giới sĩ phu (trí thức) có vai trò chủ động hay khởi xướng các cuộc thay đổi đó. Lịch sử (do bên thắng cuộc) viết lại đều có nội dung giống nhau là triều đại bị phế truất rất xấu xa, tàn ác và đáng bị lật đổ để thay thế bởi một triều đại mới tốt đẹp hơn. Tuy nhiên sự thật không phải hoàn toàn như vậy, triều đại mới cũng hành xử giống hệt như cũ và không có ai chính nghĩa hơn ai mà chỉ giản dị “thắng làm vua, thua làm giặc”.
Đảng cộng sản Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Sau khi tổ chức thành công cuộc nổi dậy giành chính quyền hồi tháng 8 năm 1945 thì họ cũng viết vào sách lịch sử và gọi sự kiện này là “cướp chính quyền”. Những gì xảy ra sau đó đến giờ đã cho chúng ta thấy rõ sự thật là Đảng cộng sản làm cuộc cách mạng đó là vì họ và cho họ chứ không phải cho người dân. Đảng cộng sản chỉ thay thế ách cai trị của thực dân Pháp bằng sự cai trị của họ, thậm chí còn dã man và hà khắc hơn. Đảng cộng sản xem họ như là một đội quân chiếm đóng người bản xứ chứ không xem mình là một thành phần của dân tộc Việt Nam. Khoảng 3 triệu đảng viên cộng sản còn đương chức nắm giữ toàn bộ quyền lực chính trị, kinh tế, văn hóa, tài nguyên của đất nước. Họ có suy nghĩ và lối sống hoàn toàn khác với 95 triệu người Việt Nam còn lại.
Việt Nam ngày nay dù có đủ mọi phương tiện hiện đại của thế giới như ô tô, điện thoại thông minh, mạng xã hội nhưng về chính trị thì đất nước ta vẫn đang ở thế kỷ 19. Các quyền tự do căn bản của công dân vẫn chưa có, mọi chỉ trích chính quyền đều bị trừng phạt với các bản án lên đến hàng chục năm tù. Câu hỏi chất vấn lương tâm của những người Việt Nam có hiểu biết là tại sao một chế độ phong kiến cải biên tồi dở, lạc hậu và kém cỏi như Đảng cộng sản vẫn còn tồn tại và kéo dài đến ngày hôm nay? Câu trả lời có nhiều, tùy theo mỗi người. Trong bài viết này tôi đưa ra câu trả lời là chúng ta vẫn chưa thoát ra được khỏi văn hóa tranh đấu nhân sĩ đã đeo bám chúng ta suốt chiều dài lịch sử.
Người Việt Nam chúng ta vẫn chưa thoát khỏi văn hóa nhân sĩ đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người. Một trường học ở Hà Nam, Trung Quốc bắt học sinh quì bái Khổng tử.
Nếu theo cách lý luận thông thường thì các chế độ không hợp lòng dân, tham lam độc ác ắt bị đào thải bởi một lực lượng tiến bộ hơn. Vậy tại sao Đảng cộng sản chưa bị thay thế? Câu trả lời là thế giới đã thay đổi nhưng văn hóa tranh đấu của người Việt Nam vẫn không thay đổi. Thời kỳ của những minh quân hay anh hùng áo vải, phất ngọn cờ đào đứng lên kêu gọi khởi nghĩa đã đi qua. Phương pháp đấu tranh vũ trang cũng đã hết thời. Cuộc tranh đấu ngày hôm nay rất khác và rất mới, nó chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Cuộc tranh đấu này không nhằm lật đổ chế độ để giành chính quyền hay thay thế chế độ này bằng một chế độ khác cũng na ná như vậy. Cuộc đấu tranh này là để mở ra một trang sử mới cho dân tộc: Trang sử của dân chủ, tự do và nhân phẩm cho mọi người Việt Nam. Những người làm chính trị trong tương lai không còn là tầng lớp quan lại đè đầu cưỡi cổ người dân mà là những người phục vụ cho một lý tưởng đẹp và quảng đại, là những người có đạo đức và kiến thức được người dân bầu chọn để lãnh đạo và điều hành đất nước.
Chính vì sự khác biệt đó mà cuộc cách mạng này bắt buộc phải do trí thức lãnh đạo và hướng dẫn. Phong trào dân chủ Việt Nam đang bị tắc nghẽn ở điểm này. Trí thức Việt Nam trong suốt dòng lịch sử luôn luôn là công cụ của chính quyền. Các sĩ phu ngày trước chỉ cố gắng tự mình học hỏi rồi đi thi, được đỗ đạt làm quan và được phục vụ cho các ông vua bà chúa. Họ không có văn hóa đấu tranh thay đổi chính quyền để thay đổi xã hội, mục tiêu của họ chỉ là làm thế nào để có danh giá và có địa vị xã hội cao hơn người khác. Do đó họ không thấy sự cần thiết phải kết hợp với nhau thành tổ chức để có sức mạnh của tổ chức, điều kiện bắt buộc để có thể đương đầu với chính quyền và áp đặt sự thay đổi.
Lối đấu tranh hiện nay của trí thức Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi văn hóa tranh đấu cũ, đó là lối đấu tranh theo kiểu nhân sĩ. "Nhân sĩ" là một khái niệm của Nho giáo để chỉ những người "kẻ sĩ", nghĩa là những người có học, có chút tiếng tăm. Hoạt động chính trị kiểu nhân sĩ nghĩa là hoạt động với tư cách cá nhân, thỉnh thoảng ký tên vào một kiến nghị hay tham gia một hành động nhất thời chứ không dấn thân vào một tổ chức nào. Mục tiêu của các nhân sĩ là xây dựng uy tín cá nhân cho mình rồi chờ cơ hội để nắm hay tham gia vào chính quyền. Phương pháp hay văn hóa dấn thân của các nhân sĩ là “giải pháp cá nhân”. Họ chỉ lên tiếng trước những bất công của xã hội chứ không tìm cách giải quyết những bất công đó. Văn hóa nhân sĩ trái ngược với văn hóa tổ chức.
Ông Nguyễn Gia Kiểng từng nhận định, lối đấu tranh nhân sĩ để lại cho trí thức Việt Nam hai thương tật: Một là coi hoạt động chính trị là để làm quan, là tranh giành công danh cho riêng mình, bằng cố gắng cá nhân. Hai là tâm lý phục tùng chính quyền thay vì đấu tranh để thay đổi nó, ngay cả khi đó chỉ là một chính quyền tồi dở và thô bạo.
Bổn phận của trí thức, ở đâu và thời nào cũng vậy đó là phải tranh đấu để thay đổi các chế độ bạo ngược và mang lại tự do dân chủ cho toàn dân.
Bổn phận của trí thức, ở đâu và thời nào cũng vậy đó là phải tranh đấu thay đổi các chế độ bạo ngược để mang lại tự do nhân phẩm cho người dân. Muốn thế thì phải có sức mạnh của một lực lượng dân chủ có đội ngũ và tầm vóc. Đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân mà luôn luôn là đấu tranh có tổ chức. Các giải pháp cá nhân đều dẫn đến bế tắc và thất bại. Thà không đấu tranh còn hơn là đấu tranh kiểu nhân sĩ. Trí thức thực sự và dấn thân không thể ngụy biện rằng không làm gì được Đảng cộng sản đâu, ai làm được gì thì làm, ai lên tiếng được gì thì lên tiếng, như thế cũng là tốt rồi, không nên đòi hỏi này nọ...Những người tranh đấu mà có suy nghĩ như vậy có lẽ là vì lý tưởng dân chủ và lòng yêu nước không mạnh. Họ chỉ lên tiếng vì tức giận với chế độ cộng sản, hay tệ hơn nữa vì muốn có chút tiếng tăm cho bản thân. Việc trí thức Việt Nam cho rằng vì dân trí thấp nên chưa thể có dân chủ cũng là ngụy biện hoặc thiếu hiểu biết. Hầu hết các nước trên thế giới có dân chủ khi đa số người dân họ vẫn còn mù chữ. Họ thiết lập được dân chủ vì trí thức họ có kiến thức và quyết tâm.
Cuộc đấu tranh dân chủ hiện nay là rất mới vì nó khác hoàn toàn các cuộc thoán đoạt hay lật đổ trong lịch sử. Chính vì mới nên cuộc cách mạng này đòi hỏi một văn hóa tranh đấu mới đó là đấu tranh có tổ chức và trong khuôn khổ của tổ chức. Muốn kết hợp hoặc tham gia vào tổ chức thì phải có văn hóa tổ chức. Văn hóa tổ chức là những kiến thức, cách suy nghĩ và hành động khiến chúng ta, một mặt hiểu tầm quan trọng của tổ chức và cảm thấy có nhu cầu sinh hoạt trong tổ chức, và mặt khác suy nghĩ và hành xử một cách phù hợp để giữ gìn và phát triển tổ chức. Văn hóa tổ chức cũng là tiêu chuẩn để đánh giá mức độ văn minh và tiến hóa của một dân tộc.
Thay đổi một chính quyền tồi dở đã là khó, thay đổi văn hóa đã ăn sâu vào tâm hồn một dân tộc lại càng khó hơn. Cuộc cách mạng dân chủ mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đề nghị đồng thời cũng là một cuộc cách mạng văn hóa. Sỡ dĩ chúng ta chưa thành công là vì chưa thay đổi được văn hóa chính trị. Cuộc tranh đấu này không yêu cầu trí thức Việt Nam phải hy sinh thân mình, xông pha nơi hòm tên mũi đạn, vào tù ra tội hay bày tỏ sự dũng cảm trong các phiên tòa do chính quyền dàn dựng mà chỉ cần trí thức dũng cảm với...chính bản thân mình. Sự dũng cảm đó là tôn trọng sự thật, lẽ phải và can đảm xét lại những giá trị cũ đã lỗi thời như danh tiếng hay những hào quang phù phiếm, vô nghĩa để ủng hộ cho những gì đúng đắn, nhân bản và văn minh. Trí thức phải vượt lên chính mình và lịch sử để trở thành người tự do, tự kiến tạo tương lai cho mình và cho cả dân tộc.
Nếu thực sự muốn đấu tranh vì dân chủ và tương lai thì trí thức Việt Nam cần học hỏi, nghiên cứu, suy nghĩ để hiểu rằng nếu không có tổ chức thì không thể nào chiến thắng được Đảng cộng sản. Việc xây dựng một tổ chức dân chủ có tầm vóc là điều bắt buộc phải làm và vô cùng khó khăn vì thế tất cả mọi người cần phải đóng góp và ủng hộ một cách nhiệt tình và chủ động. Trí thức không thể kêu gọi đoàn kết khi bản thân mình không đoàn kết, không tham gia và không ủng hộ cho tổ chức nào. Nên đoạn tuyệt với lối đấu tranh nhân sĩ và văn hóa nhân sĩ. “Đối thủ chính của cuộc vận động dân chủ không còn là chủ nghĩa cộng sản nữa, nó đã chết rồi, mà là chủ nghĩa nhân sĩ”. (1)
Việt Hoàng
(10/5/2021)
(1) https://thongluan-rdp.org/quan-di-m/item/21372-nhin-l-i-cu-c-v-n-d-ng-dan-ch
"Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách". Nước nhà hưng thịnh hay suy vong, người thường trong xã hội cũng phải chịu trách nhiệm.
Nước nhà hưng thịnh hay suy vong, người thường trong xã hội cũng phải chịu trách nhiệm.
Thành ngữ này không rõ có từ khi nào. Chắc lâu lắm, thời phong kiến. Nhưng người dân trong thời phong kiến hay quân chủ có tiếng nói gì, có quyền hạn gì, để phải chịu trách nhiệm về sự hưng vong của đất nước ?
Quan niệm này, theo tôi, là vô lý, bất công và thất sách. Kêu gọi người dân có trách nhiệm với nước nhà thì đúng đắn, nhưng đặt trách nhiệm lên họ về sự hưng vong là sai trái.
Quan niệm này chỉ phục vụ và củng cố cho các chế độ độc tài.
Lãnh đạo (chính trị) quốc gia nào phải chịu trách nhiệm đối với sự thành bại, hưng vong của đất nước mình. Lãnh đạo, trong mọi địa hạt, nói chung, phải can đảm nhận lãnh trách nhiệm về mình khi có những quyết định sai lầm.
Ngày nay chúng ta cần đặt lại vấn đề, và định nghĩa lại vai trò và trách nhiệm của lãnh đạo, nhất là lãnh đạo quốc gia. Nguyên tắc căn bản là càng nắm quyền lực trong tay, càng giữ các vai trò quan trọng và quyết định hệ trọng, thì càng phải có trách nhiệm trước người liên hệ, người dân.
Lãnh đạo, trong mọi địa hạt, công hay tư, chính phủ hay phi chính phủ, được trao phó, ủy quyền để điều hành và quyết định các vấn đề hệ trọng. Do đó sự thành bại, hưng vong, của tổ chức hay quốc gia là chủ yếu nằm ở chỗ lãnh đạo có khả năng để thực hiện vai trò và trách nhiệm của họ hay không. Không thì phải từ nhiệm, hoặc người liên hệ phải có quyền để ngăn chặn sự bất tài và phá hoại của người đứng đầu.
Không xây dựng được văn hóa trách nhiệm giải trình này thì mọi sự thay đổi, kể cả thay đổi chế độ độc tài hiện nay, cũng trở thành vô ích.
Mấu chốt của các vấn đề hệ trọng của Việt Nam hôm nay, cũng như trong vài thập niên tới, theo tôi, là vấn đề lãnh đạo, là mục tiêu xây dựng một thế hệ lãnh đạo mới xứng đáng với tiềm năng quốc gia mình. Lãnh đạo trung tầng, và nhất là lãnh đạo thượng tầng, trong mọi địa hạt quốc gia, nhất là giáo dục, kinh tế, ngoại giao, quốc phòng và chính trị.
Hơn bốn thập niên qua trên toàn nước và bảy thập niên tại miền Bắc, Đảng cộng sản Việt Nam thiết lập nền cai trị toàn diện và tuyệt đối. Họ cai trị bằng bạo lực, tuyên truyền và bưng bít, thay vì lãnh đạo. Tên gọi là "cộng hòa", và "xã hội chủ nghĩa", nhưng quyền lực tập trung vào một thiểu số chóp bu không có ý định chia sẻ quyền lực với ai. Người dân vẫn không có tiếng nói hay quyền lực đáng kể nào cả.
Mặc dầu chế độ cầm quyền thiếu chính nghĩa như thế, các tổ chức đối lập hoặc đối kháng trong và ngoài nước, phần lớn, nếu không phải là tất cả, cũng gặp khủng hoảng lãnh đạo. Khủng hoảng lãnh đạo ở đây là về cả phẩm lẫn lượng. Vẫn chưa có những khuôn mặt nào hay tổ chức nào có khả năng, uy tín và tài năng lãnh đạo để quy tụ nhân tài/lực và xây dựng thế liên minh cần thiết hầu cân bằng quyền lực và tạo thay đổi.
Trong cuộc vận động dân chủ hiện nay, và trong tiến trình dân chủ hóa Việt Nam thời hậu độc tài, lãnh đạo đóng vai trò quyết định cho mọi sự thành bại.
Có lẽ vì nhận thức lãnh đạo quan trọng như thế nên trước đây có nhiều người từng mong ước một minh quân xuất hiện để giải quyết vấn đề của Việt Nam. Theo tôi thì ước mong này thiếu thực tế. Nó sẽ không bao giờ xẩy ra.
- Thứ nhất, thiên tài lãnh đạo không bao giờ tự nhiên xuất hiện cả. Họ đều phải trãi qua quá trình luyện tập, thực tập, trao dồi và phát triển không ngừng.
- Thứ hai, lãnh đạo một phần là do bản tính cá nhân, nhưng phần quan trọng nhất là do môi trường tác động, do đào tạo và kinh nghiệm rèn luyện, cái không thể thiếu.
- Thứ ba, lãnh đạo trổi lên, nhất là trong môi trường hoạt động, là do sự tương tác và qua đó thuyết phục và chứng minh được tài năng, tiềm năng và ý chí của mình, chứ không phải do áp đặt. Thời nay không còn kiểu cha truyền con nối, ngoại trừ trường hợp như Bắc Hàn.
- Và sau cùng, dù là thiên tài lãnh đạo thì một cá nhân cũng không thể kéo cả một con tàu có bản chất ù lì và bảo thủ, không chịu sẵn sàng thay đổi chính mình trong hoàn cảnh mới để thay đổi xã hội. Thiên tài lãnh đạo tài giỏi mấy cũng sẽ bó tay trong hoàn cảnh này. Trong lịch sử Việt Nam cũng như nhân loại, những người lãnh đạo tài giỏi và thành công thường có một đội ngũ xuất sắc không kém, bổ túc cho những thiếu sót hoặc sở đoản của nhau.
Một cách lý tưởng nhất của một tổ chức, dù đó là chính quyền hay một công ty kinh doanh đa quốc, là lãnh đạo có thể thay thế bất cứ lúc nào. Một khi có mệnh hệ gì đến một lãnh đạo nào đó thì có người khác sẵn sàng thay thế gánh vác nhiệm vụ. Một tổ chức có quan niệm và có nhân sự sẵn sàng như thế mới thật sự là tổ chức mạnh. Còn một tổ chức mà phụ thuộc quá nhiều vào một hay vài cá nhân nào đó thì đó là tổ chức không linh động và hiệu quả, dễ rơi vào lòng luẩn quẩn và độc đoán.
Tất cả cần thành thật nhìn nhận rằng vì chúng ta dở, vì văn hóa chúng ta có vấn đề, nên đất nước mới ra nông nổi này. Không thì bốn thập niên nữa, nếu vẫn còn sống, chúng ta sẽ tiếp tục hỏi tại sao đất nước vẫn không có gì đáng để hãnh diện, tự hào.
Vấn đề khủng hoảng lãnh đạo, thật ra, là hiện tượng chung trên toàn cầu hiện nay, không riêng gì của Việt Nam.
Lý do là vì làm lãnh đạo trong thời đại này khó. Rất khó. Rất khác với những thập niên về trước. Và hoàn toàn khác với một thế kỷ trước. Vì nhiều nguyên do, xin được liệt kê vài điểm sơ khởi ở đây.
Một, là vì tác động của thông tin, kiến thức và nhận thức quá nhanh và quá sâu rộng. Xưa, người ta trông cậy lãnh đạo cung cấp thông tin và kiến thức, và qua đó đường đi, nước bước. Nay, khi cần thông tin, trong mọi lĩnh vực, người ta tìm đến Google hay các nguồn truyền thông khác. Nhanh, gần như tức khắc, và mức độ chính xác và khả tín rất cao nếu biết nguồn gốc thông tin, biết chọn lọc và có suy nghĩ phê phán. Nhưng trong thời đại thông tin tràn ngập như thế này, nó dễ tạo cho người ta cảm tưởng rằng họ biết hết mọi vấn đề. Đặc biệt đối với các tổ chức chính trị tranh đấu cho một Việt Nam dân chủ, yếu tố "kiến thức là quyền lực" này ủy quyền cho người nhận thông tin, trong khi gia giảm ảnh hưởng của người lãnh đạo, một tiền lệ được định hình trước đây. Cũng từ hệ quả này, người ta không thấy có nhu cầu để gặp mặt nhau, trao đổi và thảo luận, hoặc tranh luận, để tìm mối tương đồng và điểm chung để cùng làm việc như trước đây. Đây là thử thách mà lãnh đạo ở mọi tầng xã hội trong mọi quốc gia đều gặp phải hiện nay.
Hai, tốc độ cạnh tranh ngày gia tăng và mức độ ngày càng gây gắt. Trước thực tế này, các tổ chức công cũng như tư, chính phủ cũng như phi chính phủ, cầm quyền cũng như đối lập, đều phải chứng tỏ khả năng điều hành và quản lý để tiếp tục lèo lái hướng đi của tổ chức mình, để tiếp tục được sự tín nhiệm của cổ đông hay của người dân mình. Thay đổi trở thành điều bình thường (the only constant is change) để tồn tại, và điều chắc chắn duy nhất là sự bất định (the only certainty is uncertainty). Lãnh đạo ngày nay vì thế có lắm rủi ro và bất an vì áp lực từ mọi phía. Đây cũng là một trong các lý do mà chủ nghĩa dân túy trổi lên bởi vì các nhà dân túy dám đưa ra các hứa hẹn phần lớn không đáp ứng được nhưng lại là điều người dân muốn nghe, trong khi các lãnh đạo chính trị chân chính không dám hứa hẹn điều gì trước tương lai bất định vì không biết có hoàn thành được không. Tóm lại, một trong các thách thức và cũng là yêu cầu thiết yếu của lãnh đạo ở mọi tầng xã hội hiện nay là khả năng đáp ứng và quản lý thay đổi.
Trong khi đó, đối với cộng đồng Việt Nam hải ngoại và các tổ chức đấu tranh cho dân chủ, tôi có cảm tưởng như là mọi sự vẫn như cũ, cách thức làm việc vẫn như xưa, và cũng vì thế nên không những không nắm bắt được cơ hội để chủ động mà phần lớn bị động và phản ứng. Họ không thể lãnh đạo hiệu quả trong bối cảnh hiện nay vì thiếu khả năng và nhân sự chuyên môn, thiếu hế hoạch và kế sách để điều hướng thay đổi, và không nắm bắt được tình huống và cơ hội, kể cả cơ hội về khoa học kỹ thuật, để thay đổi. Phần lớn có lẽ nhìn thấy tốc độ thay đổi liên tục như mối đe dọa.
Ba, trong mọi tổ chức, không chủ động thay đổi thì sẽ bị bắt buộc thay đổi ; và khi ở thế bị động, và không có khả năng lãnh đạo để tìm cách nắm bắt tình thế và thực thi kế hoạch thay đổi, tổ chức đó trước sau gì cũng bị đào thải. Quy luật xã hội trước nay là thế. Ngay cả đối với các tổ chức một thời thành công và uy tín. Trong trường hợp Việt Nam, bao nhiêu tổ chức đấu tranh trước đây giờ này bất lực, có tiếng chứ không có miếng. Có tấm lòng hơn thực chất. Có mong muốn và mục tiêu hơn là viễn kiến, kế hoạch, chiến lược và kiến thuật. Những khó khăn khác là nhân sự. Đấu tranh chính trị luôn đòi hỏi tính chuyên môn, khác với đấu tranh cách mạng cần lực là chính. Thêm vào đó, số người Việt trong và ngoài nước mong muốn đem lại thay đổi cho Việt Nam và nỗ lực để thực hiện điều này cũng chỉ là một thiểu số rất lẻ loi và cô đơn, thiếu huấn luyện và đào tạo về kỹ năng mềm và các kiến thức về chính trị. Nói chung là thiếu thốn mọi mặt. Đó là chưa kể những người vẫn còn trông cậy hay mơ tưởng Hoa Kỳ hay các thế lực ngoại bang can thiệp về dân chủ hay nhân quyền cho Việt Nam. Đó là một suy nghĩ viễn vong, không thực tế chút nào, kể cả sự kỳ vọng vào những người như Donald Trump hay các chính sách và chủ trương "Làm cho Hoa Kỳ vĩ đại trở lại".
Trong thời gian qua, tôi đã dành thời gian để tìm hiểu về lãnh đạo. Lãnh đạo ở mọi tầng xã hội, mọi địa hạt và mọi quốc gia, đều quan trọng. Đối với công việc có lương bổng hẳn hoi, nhân viên sẵn sàng bỏ việc vì cấp trên (boss) dở. Trong cuộc nghiên cứu toàn cầu trên 10 năm với hơn 200 ngàn nhân viên và quản trị do tổ chức O.C. Tanner Learning Group (White Paper) thực hiện, 79 phần trăm những người bỏ việc làm của mình cho biết lý do là vì thiếu sự ghi nhận nỗ lực/đóng góp từ cấp trên (1). Ngay cả khi chấp nhận ở lại làm việc thì tại Hoa Kỳ, khoảng 75 phần trăm nhân viên không hoàn toàn chú tâm (fully engaged) vào công việc của mình. Cũng trong nghiên cứu này thì người ta công nhận rằng những người lãnh đạo hiệu quả, tài năng là những người biết đặt đúng mục tiêu, biết truyền thông giỏi, tạo sự tin tưởng/tín nhiệm và có trách nhiệm giải trình.
Đó là công việc có lương bổng.
Còn việc "ăn cơm nhà vác ngà voi" thì lại càng cần lãnh đạo biết lắng nghe, dám dấn thân, trân quý ghi nhận sự đóng góp của mọi thành viên, và có khả năng truyền sức sống và cảm hứng cho người khác v.v… Tối thiểu là thế, chưa kể các yếu tố như tầm nhìn, khả năng chiến lược và sức động viên thuyết phục người khác. Nhưng tìm người có điều kiện căn bản như thế đã là rất khó.
Không có lãnh đạo nên tình trạng bấy lâu nay bát nháo, điều mà Đảng cộng sản Việt Nam không gì hài lòng và an tâm hơn. Phần lớn các hoạt động hiện nay rời rạc, tản mác, tùy hứng và tùy tiện. Vui, thích thì làm, không thì thôi, hoặc tẩy chay ; tệ hơn thì ném bùn, chụp mũ, vu khống v.v…
Tôi cũng dành thời gian quan sát, nhất là qua một số phương tiện truyền thông xã hội, thì nhận thấy rằng nhiều người Việt, có lẽ vì quá có lòng và quan tâm đến các vấn đề Việt Nam, nên dễ nóng lòng và bất bình khi thấy chuyện lẽ ra phải lên tiếng mà người ta lại vô tư. Vì thế nên dễ đi đến kết luận vội vàng, dán nhãn hiệu người khác là "vô cảm", đẩy họ về phía đối nghịch, tẩy chay hoặc bất cần.
Lãnh đạo hiểu biết và chân chính đâu có ai dám coi thường người dân đến thế ! Nếu không thuyết phục được thì tìm cách khác, hoặc nhận ra sự bất tài của mình, chứ ai lại đi chửi đổng lên như thế. Phần lớn vì thiếu lãnh đạo nên người ta hành động cho cái lợi trước mắt, bất kể cái hậu ra sao !
Nói chung, hầu như trong mọi hoạt động chính trị và đấu tranh hiện nay, thay vì vận dụng tranh thủ và thuyết phục, người ta chửi, mắng để hy vọng người nghe nhận thức. Thay vì nhận thấy cách làm của mình không hiệu quả và cần thay đổi, và nhận trách nhiệm về phía mình, người ta vẫn một mực cho mình đúng và có chính nghĩa. Thay vì tìm hiểu tâm lý con người, nhất là kiến thức về khoa học thần kinh (neuroscience) để vận dụng các phương pháp thích hợp và hiệu quả, để tìm ra phương thức tối ưu hầu vận động đa số người dân ủng hộ các quyết định khó khăn nhưng chính đáng của đất nước thay vì áp đặt và áp bức, thì người ta vẫn chủ yếu phản ứng từ trong tìm thức cách suy nghĩ và hành động đã được định hình từ lúc bé đến giờ. Từ văn hóa đã thấm nhuần, ăn sâu vào máu mủ và tim óc, và tác động lên họ một cách vô thức từ trước đến nay.
Muốn thật sự thay đổi Việt Nam, những người quan tâm và yêu nước cần phải thay đổi chính mình trước. Tất cả cần mở mang học hỏi các kiến thức khoa học dựa trên các khám phá mới nhất về con người. Tất cả cần học hỏi các văn hóa văn minh dân chủ và các tấm gương lãnh đạo sáng ngời và thành công trên thế giới. Tất cả cần thành thật nhìn nhận rằng vì chúng ta dở, vì văn hóa chúng ta có vấn đề, nên đất nước mới ra nông nổi này. Không thì bốn thập niên nữa, nếu vẫn còn sống, chúng ta sẽ tiếp tục hỏi tại sao đất nước vẫn không có gì đáng để hãnh diện, tự hào.
Tất cả các vấn đề này đều liên quan đến lãnh đạo, đến quan niệm của người Việt về lãnh đạo, đến việc bầu chọn trực tiếp lãnh đạo hiện nay và tương lai, trong cộng đồng người Việt hải ngoại cũng như cho đất nước Việt Nam. Quan niệm đúng đắn sẽ giúp người Việt tránh bầu chọn những lãnh đạo bất tài, những nhà dân túy, mị dân hay những người trí trá mở miệng hứa hẹn dân chủ nhưng khi lên nắm được quyền thì chỉ muốn bóp nghẹt các tiếng nói khác biệt.
Tôi sẽ lần lược trình bày chi tiết các vấn đề này trong các kỳ tới.
Úc Châu, 12/03/2019
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 13/03/2019
(1) What's missing ? Why can't we achieve optimal performance ?