Sau khi Liên Bang Xô Viết phá sản thì Đặng Tiểu Bình lập luận mèo trắng mèo đen cũng đều bắt chuột, đảng cộng sản tuy vẫn nắm độc quyền lãnh đạo nhưng tính chính danh đặt trên tăng trưởng GDP.
Các thành viên của đảng Xã hội Dân chủ Hoa Kỳ trong các cuộc biểu tình Chiếm Phố Wall ở New York vào tháng 9 năm 2011 (Ảnh David Shankbone / CC BY / Wikimedia Commons)
Người viết vốn dị ứng với cụm từ xã hội chủ nghĩa và cảnh nhà nước lạm dụng quyền lực cho nên nghe đòi mở rộng vai trò của chính quyền để phục vụ xã hội là dán nhãn mác-xít theo cách nhìn nhà nước chẳng những không giải quyết mà còn tạo thêm vấn nạn (Government is not the solution to our problem, government is the problem – như Tổng thống Ronald Reagan phát biểu).
Tuy nhiên nghĩ lại thì oan uổng cho thành phần cấp tiến (progressive) khi một số đông trong đó vừa chống tư bản bất công vừa chống độc tài cộng sản. Cho nên thiết tưởng cần phân biệt giữa hai mô hình dân chủ xã hội và xã hội chủ nghĩa, cộng thêm một khuông mẫu mới là xã hội chủ nghĩa theo màu sắc Trung Quốc.
Mô hình dân chủ xã hội thường được gắn liền với kinh tế gia nổi tiếng John Maynard Keynes. Ông này sống vào đầu thế kỷ 20 nên chứng kiến cảnh chủ nghĩa tư bản phát triển quá độ dẫn đến chế độ thực dân, bất công xã hội và cuộc Đại khủng hoảng 1929. Keynes lại sang Nga nhìn thấy giáo điều mác-lênin chà đạp lên quyền tự do cá nhân và làm kiệt quệ nền kinh tế, rồi Đức với sự bùng nổ của tư tưởng quốc xã dẫn đến Thế chiến thứ hai thảm khốc. Từ đó Keynes đưa ra giải pháp nhà nước phải đóng vai trò tích cực nhằm ngăn ngừa những quá độ của tư bản, bằng không bất công kinh tế sẽ dẫn đến phẫn nộ và trào lưu dân túy cùng mầm mống cộng sản hay phát xít đe dọa hủy diệt quyền tự do cá nhân.
Nói cách khác, chính quyền cần mang đến cơ hội đồng đều về kinh tế (economic opportunities – khác với sang bằng giàu nghèo) thì mới bảo vệ được tự do. Nhà nước phải chống độc quyền (monopoly) phát triển dân sinh (giáo dục, y tế, quyền lợi lao động) tạo điều kiện để mọi người tìm ra được công ăn việc làm tốt (full employment) và chống đỡ nền kinh tế mỗi lần gặp khủng hoảng nhằm giảm thiểu tình trạng bất công và nghèo đói trước khi tâm lý phẫn uất lan tràn.
Ở Mỹ, Tổng thống Roosevelt đã tiến hành nhiều bước cải cách như phát triển công đoàn và xây dựng mạng lưới an sinh từ sau năm 1929 theo chính sách New Deal để giúp Hoa Kỳ thoát ra Đại khủng hoảng. Trong khi đó Châu Âu vẫn còn chế độ thực dân cho nên có thể nói Hoa Kỳ áp dụng mô hình dân chủ xã hội trước Tây Âu. Nhưng Mỹ là vùng đất mới khai phóng ra đời từ khi dân chúng nổi dậy chống thuế má và sự bảo hộ của vương quốc Anh, do đó người dân Hoa Kỳ có truyền thống độc lập cá nhân (individualism) hoài nghi chính quyền sẽ tước đoạt quyền tự do và tài sản của họ dưới dạng thuế má.
Ngược lại Tây Âu sau Thế chiến thứ hai bị chèn ép giữa hai gã khổng lồ Nga và Mỹ nên nhất thiết phải có chính quyền dân chủ đủ mạnh để bảo đảm hòa bình, phục hồi kinh tế và phát triển dân sinh. Do hoàn cảnh khác biệt này nên từ sau Thế chiến thứ hai Châu Âu phát triển theo mô hình dân chủ xã hội trong khi Hoa Kỳ lúc nào cũng bị giằng co giữa vai trò nhà nước lớn hay nhỏ.
Trong khi dân chúng Châu Âu tin vào chính quyền bảo đảm an sinh và quyền tự do cá nhân thì không ít dân chúng Hoa Kỳ chống lại vai trò bành trướng của nhà nước vì họ nghi ngờ sẽ tước đoạt tài sản (qua thuế má) và bóp nghẹt quyền tự do. Cho nên nhiều người Mỹ không phân biệt giữa dân chủ xã hội hay xã hội chủ nghĩa, trong cách mạng 1775 họ nổi lên chống "The British are coming" thì nay họ so sánh sự bành trướng của nhà nước giống như "The Communists are coming".
Tuy nhiên giữa hai mô hình dân chủ xã hội và xã hội chủ nghĩa có nhiều khác biệt. Một là dân chủ đa đảng hay độc tài đơn đảng. Thứ nhì nhà nước vẫn phải tôn trọng luật pháp thay vì đứng trên luật pháp. Thứ ba là tam quyền phân lập. Nền dân chủ xã hội vẫn tôn trọng quyền tư hữu và kinh doanh tư nhân trong khi nhà nước dùng thuế má để tái phân phối tài sản nhằm giảm bớt giàu nghèo và phát triển dân sinh. Ngược lại trong chế độ xã hội chủ nghĩa không có quyền tư hữu kinh doanh tư nhân, nhà nước nắm trọn của cải và mọi sinh hoạt kinh tế trong nước để chia đều cho mọi người (mà cho đảng viên được nhiều hơn !)
Chủ nghĩa xã hội theo mô hình Trung Quốc (Việt Nam đang áp dụng) lại là một khuôn mẫu mới. Trước đây tư bản tạo ra của cải (wealth creation) trong khi cộng sản hô hào phân phối của cải (wealth distribution) dẫn đến tình trạng nghèo khó. Nhưng sau khi Liên Bang Xô Viết phá sản thì Đặng Tiểu Bình lập luận mèo trắng mèo đen cũng đều bắt chuột, đảng cộng sản tuy vẫn nắm độc quyền lãnh đạo nhưng tính chính danh đặt trên tăng trưởng GDP.
Nhà cầm quyền tuy chấp nhận quyền tư hữu và kinh doanh nhưng phải có khả năng điều hành quốc gia tốt (good governance) nhằm tạo ổn định (stability) cho dân giàu nước mạnh. Kết quả nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhảy vọt đưa 1,5 tỷ người ra khỏi ngưỡng cửa nghèo khó trong đó 500-700 triệu người tiến vào giới trung lưu với mức sống và tiêu thụ không kém gì phương Tây.
Trung Quốc tự xem đang ở vào thời đại hoàng kim hơn cả đời nhà Hán. Dân chúng tuy có quyền tư hữu, khu vực kinh tế tư nhân dù được khuyến khích tăng trưởng vô cùng linh động nhưng vẫn đặt dưới sự giám sát, trong khi nhà nước tiếp tục sở hữu đất đai, độc quyền lãnh đạo và đưa ra chiến lược công nghệ phát triễn quốc gia. Giữa nhà nước và các tập đoàn chủ lực (Huawei, Alibaba, v.v…) mập mờ công hay tư.
Nói tóm lại hiện có 3 mô hình của 3 nền kinh tế lớn cạnh tranh lẫn nhau, đó là mô hình tư bản (Hoa Kỳ), mô hình dân chủ xã hội (Tây Âu) và mô hình xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc. Châu Âu và Trung Quốc sẽ không thay đổi phương thức của mình trừ phi có biến động chính trị, trong khi tại Hoa Kỳ đang có biến động chính trị lớn giằng co quyết liệt giữa hai khuynh hướng tư bản và /2020dân chủ xã hội. Còn lại các nước đang mở mang thì dân chúng thích nếp sống tự do Âu-Mỹ trong khi lãnh đạo lại muốn làm ăn với Trung Quốc để làm giàu và trị dân cho dễ.
Đoàn Hưng Quốc
Nguồn : VNTB, 18/07/2020
Không bàn về học thuật, băn khoăn ở đây là từ một số vụ án xét xử phúc thẩm đã cho thấy dường như ‘pháp quyền xã hội chủ nghĩa’, đang tạo nên sự bất công trong xét xử, với phần thiệt thòi luôn là các bị cáo trước vành móng ngựa.
Thế nào là xây dựng xã hội chủ nghĩa ?
Ba câu hỏi chốn pháp đình
Trong một chia sẻ sau phiên xét xử phúc thẩm vụ án “Phong trào Chấn hưng nước Việt”, một luật sư tâm sự rằng ông rất hoang mang về cái gọi là “pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Ông nói : “Từ thực tiễn xét xử các vụ án ở Việt Nam gần đây gây bức xúc công luận và đánh động lương tri, bất giác khiến tôi nhớ đến các vụ án chấn động ở thế kỷ trước, xảy ra ở Cuba, Hương Cảng (tô giới nước Anh) và Việt Nam (thuộc địa Pháp) mà ngẫm nghĩ, đối chiếu thấy ra những nghịch lý đến khó hiểu”.
Cách đây gần thế kỷ (năm 1931), các luật sư của nước Anh (đế quốc, thực dân) lại hết lòng bào chữa, bảo vệ hữu hiệu cho bị cáo Tống Văn Sơ trước cáo buộc có các hoạt động phương hại đến nền an ninh quốc gia của họ… Vì sao các luật sư nước Anh (trong đó nổi bật là luật sư Loseby) lại hành xử như vậy và vì sao nhà chức trách vẫn để họ yên ổn hành nghề ? !
Cách đây hơn nửa thế kỷ (năm 1953), Tòa án của nhà nước Batista (chính thể bị xem là độc tài, quân phiệt của Cuba lúc bấy giờ) lại để cho bị cáo Fidel Castro tự bào chữa suốt 4 giờ liền không bị gián đoạn, mà nội dung bào chữa được xem là bản cáo trạng lên án nhà cầm quyền, được lưu giữ và sau này in thành sách, chuyển ngữ tiếng Việt với tiêu đề “Lịch sử sẽ xóa án cho tôi” (NXB Công an nhân dân) ?!
Cách đây ngót thế kỷ (năm 1928) ở xứ Nam kỳ thuộc địa đã xảy ra vụ án “Người nông dân nổi dây” tại cánh đồng Nọc Nạng (thuộc xã Phong Thạnh, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu hiện nay) mà khi xét xử vụ án, các “quan tòa áo đỏ” người Pháp tuyên tha bổng các bị cáo đồng phạm đâm chết “ông cò” Tournier (cảnh sát người Pháp, tham gia đàn áp gia đình ông Mười Chức)… ? !
Với ba câu hỏi nói trên, vị luật sư cho biết kể từ khi tham gia bào chữa các vụ án màu sắc ‘án chính trị’, ông gần như nhiều lúc mắc chứng trầm cảm vì có quá nhiều điều không tưởng trong tố tụng đang diễn ra ở những phiên xét xử này. Đơn cử là việc thẩm phán chủ tọa ngăn trở quyền tự bào chữa của bị cáo và của cả luật sư. Bên công tố buộc tội thì lại giữ quyền im lặng, từ chối những câu hỏi đặt ra khi tranh tụng của luật sư. Thân nhân của bị cáo muốn vào dự phiên xét xử phải xin phép, và người dân không được vào dự khán ở phiên tòa được thông báo là xét xử công khai…
“Nhiều người nhìn các tấm hình thấy luật sư ngồi trước laptop (máy tính xách tay) tại phòng xử án, sẽ dễ nhầm tưởng… Thật ra các máy tính này, kể cả thiết bị thẻ nhớ USB lưu trữ tài liệu phục vụ bào chữa ở trước mặt từng luật sư, đều là của nhân viên tòa án đưa cho mượn. Kết thúc xét xử là trả lại cho tòa, và luật sư được nhận lại laptop mà tòa ‘giữ dùm’ trước đó”. Vị luật sư chia sẻ.
Luật là hệ thống hóa chính sách của Đảng ?
Có phải pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một nền luật pháp mà bản thân nó là việc luật hóa và hệ thống hóa các chính sách của Đảng ? Luật là chính sách của Đảng dành cho nhà nước và được giải thích bởi Quốc hội thông qua các thủ tục lập pháp ; chính sách của Đảng là linh hồn và nền tảng của pháp luật ?
Nhìn lại những vụ án như Hội Anh em dân chủ, Phong trào Chấn hưng nước Việt, có thể thấy vai trò của các thẩm phán trong hệ thống luật pháp xã hội chủ nghĩa cũng nằm trong sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Các thẩm phán vẫn đưa ra những phán quyết có lợi cho chính quyền, chứ không áp dụng luật pháp một cách công bình.
Cũng băn khoăn về ‘pháp quyền xã hội chủ nghĩa’, một nhà báo chuyên mảng pháp đình cho rằng trong rất nhiều vụ án, pháp đình không phải là nơi công lý được thực thi. Công lý đã không đứng về phía người tận khổ. Nhà báo này muốn nói về bản án tử hình mà Tòa án nhân dân cấp cao tại hành phố Hồ Chí Minh tuyên cho bị cáo Đặng Văn Hiến hôm 12/7/2018.
“Vụ án đồng Nọc Nạn tháng 8 năm 1928, Tòa Đại hình Cần Thơ đã tuyên tha bổng cho hầu hết các bị can. Toàn án thực dân đã thừa nhận vị thế nạn nhân của các thủ phạm. Sau 90 năm, Tòa án xã hội chủ nghĩa của chúng ta đã không nhìn được điều đó. Ý nghĩa nhân đạo không tồn tại trong bản án phúc thẩm vừa tuyên cho Hiến. Đó là một bước thụt lùi về khía cạnh nhân văn của nền tư pháp.
Trước, trong và sau phiên tòa, hàng trăm, hàng ngàn bài báo đã lên tiếng đòi, kiến nghị, xin giảm án cho Hiến. Gia đình nạn nhân, các luật sư cũng đã làm đủ mọi cách để án cho Hiến nhẹ hơn. Nhưng vô vọng. Luật pháp đã không hề nghe thấy nhưng tiếng kêu từ lương tâm xã hội”. Nhà báo này chua chát so sánh.
Ông Đặng Văn Hiến đã cầm súng thể thao để chống trả lực lượng gồm 34 người của Công ty Long Sơn mang theo hung khí, áo giáp cùng các phương tiện cơ giới vào phá tài sản của gia đình ông. Vụ việc gây hậu làm 3 người chết, 13 người bị thương.
Nói như lời cảm thán của vị ký giả pháp đình, thì nếu chủ tịch nước bác đơn xin ân xá, y án tử hình Hiến, thì xã hội nhận thêm một vết thương, một nỗi đau lương tâm. Y án tử hình Hiến, lương tri đang bị giễu nhại, công lý đang trở nên méo mó, và người ta được quyền nghi ngờ vào những lời hoa mỹ ngợi ca pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Có lẽ không chỉ người dân, mà cả giới luật sư, nhà báo đang khánh kiệt dần niềm tin…
Trúc Giang
Nguồn : 15/07/2018
Một cuộc hội thảo mang tên "Thực tiễn và kinh nghiệm đổi mới của Việt Nam và cải cách mở cửa của Trung Quốc" vừa diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 6/7/2018 với sự tham dự của đại diện hai đảng cộng sản. Đây là lần thứ 14 hai phía gặp nhau bàn về lý luận.
Tỉ phú Trung Quốc Jack Ma, Chủ tịch tập đoàn Alibaba tại Diễn đàn Thanh toán Điện tử Việt Nam ở Hà Nội 2017 - AFP
Phải chăng Việt Nam tiếp tục theo mô hình cải cách kinh tế của Trung Quốc và đang tách mình ra khỏi quỹ đạo kinh tế thế giới ?
Tiến sĩ, Luật sư Bùi Quang Tín, nhà sáng lập và CEO trường Doanh nhân BizLight nhận định nền kinh tế Việt Nam thực chất cũng theo mô hình kinh tế thị trường nhưng với định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, Việt Nam phải lựa chọn một trong những quốc gia cũng theo thể chế xã hội chủ nghĩa nhưng phát triển theo hướng kinh tế thị trường.
Và quốc gia đó chính là Trung Quốc.
"Tức là một nền kinh tế mà nó vẫn là kinh tế thị trường của các nước phương Tây nhưng nó phải đặt trên nền tảng là định hướng của xã hội chủ nghĩa nghĩa là nó theo các thuyết của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu nói về mô hình này hiện nay thì Trung Quốc là đầu, về kinh tế thị trường, về vấn đề mở cửa, về hội nhập, hợp tác đa phương cũng như song phương với các nước phương Tây và các nước trong khu vực".
Công ty Bia Sài Gòn của Việt Nam được tỷ phú Thái Lan mua lại AFP
Theo một phân tích của Giáo sư Hoàng Ngọc Hòa – Học viện Chính trị Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, kinh tế thị trường là mô hình kinh tế phổ biến của thế giới đương đại, chia làm 3 nhóm tiêu biểu : Kinh tế thị trường tự do (tiêu biểu là nền kinh tế thị trường của Mỹ, Anh, Úc) ; Kinh tế thị trường xã hội (tiêu biểu là Đức, Thụy Điển và các nước Bắc Âu khác) ; Kinh tế của mô hình nhà nước phát triển (tiêu biểu là nền kinh tế Pháp, Nhật Bản).
Tách hẳn 3 nhóm đó, từ sau Đại hội trung ương 3 khóa XI đến Đại hội XIV, dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa nền kinh tế nước này đi theo con đường thương trường mới, đó là xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (xã hội chủ nghĩa).
Về phía Việt Nam, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một cơ chế quản lý kinh tế được Đảng Cộng sản Việt Nam tạo ra và triển khai tại Việt Nam từ sau Đại hội VI 1986 và liên tục được được hoàn thiện qua các kỳ Đại hội Đảng sau này.
Điều này được Tiến sĩ, Luật sư Bùi Quang Tín giải thích :
"Việt Nam cũng phải theo một mô hình của một quốc gia cũng theo xã hội chủ nghĩa nhưng phát triển theo định hướng kinh tế thị trường".
Một bài viết của Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển viết vào năm 2015 có đề cập rằng : Định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế đó được xây dựng trên cơ sở một hệ tư tưởng nhằm xác định hướng đi bảo đảm mục tiêu tổng quát là : "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Điều này được chính ông Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng nhắc lại trong buổi hội thảo ngày 6/7. Đáp lại, đại diện cho phía Trung Quốc, Trưởng ban Tuyên truyền Trung Quốc, Hoàng Khôn Minh cũng nhấn mạnh và chia sẻ những kinh nghiệm trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành nhấn mạnh, nền kinh tế Trung Quốc không phải là nền kinh tế thị trường.
"Cái mô hình kinh tế nào có gì ưu việt thì mình học, không bắt buộc phải đi theo anh cả Trung Quốc, tuy là Trung Quốc cũng có rất nhiều cái để học chứ không phải không. Nhưng gọi là mô hình Trung Quốc thì học cái đó làm gì ? Mô hình Trung Quốc đâu phải là kinh tế thị trường".
Đây là chi tiết đáng chú ý. Tháng 12/2017, tờ Financial Times đưa tin về một tuyên bố của chính phủ Tổng thống Donald Trump nói rằng đã gửi hồ sơ cho Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong đó nêu rõ không công nhận nền kinh tế của Trung Quốc là "kinh tế thị trường" như yêu cầu của Bắc Kinh.
Cũng theo chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành, nếu hiểu đúng với định nghĩa của cụm từ "kinh tế thị trường" thì Trung Quốc càng không phải.
"Mô hình kinh tế thị trường trong đấy nhân dân là chủ đạo. Nhân doanh chứ không phải quốc doanh.Việc gì nhân dân không làm được hay tạm thời chưa làm được thì quốc doanh làm. Mô hình Trung Quốc đâu phải là mô hình kinh tế thị trường ?".
Theo dòng thời sự gần đây cho thấy những quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á như Malaysia, Australia đang dần thể hiện rõ đường lối kinh tế dứt khoát với Trung Quốc. Cụ thể, đầu tháng 7/2018, chính phủ Malaysia đã gửi thư đến 3 nhà thầu Trung Quốc để thông báo việc đình chỉ các dự án có vốn Trung Quốc lớn nhất ở quốc gia này, ước tính khoảng 22 tỷ USD.
Một diễn biến khác, vào năm 2017, Thủ tướng Úc Malcolm Turnbull đã tuyên bố thẳng thắn rằng "Bắc Kinh đừng dùng tiền thao túng chính trị Úc".
Như thế, rõ ràng các quốc gia có nền kinh tế thị trường tự do đều không chọn sự hợp tác với Trung Quốc, dù rằng nước này được dữ liệu của Bloomberg đánh giá là có GDP dự báo vượt 19 nước Châu Âu trong năm 2018 (đạt khoảng 13,2 nghìn tỷ USD).
Vậy thì khi lựa chọn một quốc gia có cùng thể chế là Trung Quốc để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm phát triển kinh tế như ông Võ Văn Thưởng đã phát biểu thì liệu Việt Nam có đang tách mình ra khỏi vòng quỹ đạo của sự phát triển kinh tế thế giới hay không ?
Để trả lời câu hỏi này, Tiến sĩ, Luật sư Bùi Quang Tín vẫn giữ quan điểm xem Trung Quốc là "một mô hình tham khảo và nghiên cứu".
"Trung Quốc có thể nói là một quốc gia mà hướng mở cửa rất mạnh. Đặc biệt nó phát triển về kinh tế thị trường rất mạnh, là một mô hình để mình nghiên cứu, tham khảo đưa ra định hướng, chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam hơn là xem đó là một hình mẫu duy nhất, một sự kết nối duy nhất, vì sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay là đa phương và độ mở của kinh tế Việt Nam là mạnh mẽ nhất từ trước đến nay".
Do đó, theo ông, không chỉ Trung Quốc mà Mỹ và các nước Châu Âu cũng là những bài học, mô hình để Việt Nam có thể học hỏi.
Theo quan điểm của Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành, Việt Nam không nên tách ra, đi theo Trung Quốc để làm những việc đối chọi lại với nền kinh tế thị trường khác trên thế giới.
Trong thực tế chính phủ Hà Nội đã và đang ký rất nhiều những Hiệp định kinh tế thương mại với thế giới. Và điều này được cho là Việt Nam đang gia nhập song phương, đa phương với thế giới để được công nhận nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, thể chế chính trị độc đảng vẫn duy trì đường lối kinh tế quốc doanh là chủ đạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phải chăng đây cũng là lý do mà Chủ tịch Bắc Hàn, Kim Jong-un gần đây được tiết lộ là ông ta muốn áp dụng đường lối cải cách kinh tế của Việt Nam cho Bắc Hàn, một quốc gia cộng sản còn khép kín hiện nay ?
Cát Linh
Nguồn : RFA, 10/07/2018
Năm 2017, thế giới chứng kiến sự sụp đổ nền kinh tế của hai quốc gia, Venezuela thuộc khu vực Nam Mỹ và Zimbabwe thuộc Châu Phi. Cả hai nước đều theo chế độ tổng thống và xây dựng đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa. Tương lai hai nước này vẫn chưa biết đi về đâu để thoát ra khỏi bế tắc và phong trào dân chủ Việt Nam cũng như thế.
Thế giới đang chứng kiến sự sụp đổ nền kinh tế của hai quốc gia, Venezuela thuộc khu vực Nam Mỹ và Zimbabwe thuộc Châu Phi, và trước đó là Liên Xô (1991). Cả hai đều theo chế độ tổng thống và xây dựng đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa.
Năm 2017 là năm mà đảng cộng sản Việt Nam ra tay đàn áp dữ dội những người lên tiếng ôn hòa cho các hiện trạng của Việt Nam. Những bản án vô lý, phi nhân dành cho những thành phần cần được lắng nghe và nâng đỡ nhiều nhất, đó là những người mẹ đang có những đứa con thơ cần tình yêu ấp ủ, đó là những sinh viên nhiệt huyết vì tương lai đất nước, đó là những người anh em ôn hòa có tấm lòng yêu thương mảnh đất chữ S này. Chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, chị Trần Thị Nga, sinh viên Phan Kim Khánh, sinh viên Trần Hoàng Phúc, những anh em trong Hội Anh Em Dân Chủ : luật sư Nguyễn Văn Đài, mục sư Nguyễn Trung Tôn, ông Trương Minh Đức, ông Phạm Văn Trội và Nguyễn Bắc Truyển, cô Trần Thị Xuân, cùng cô Lê Thu Hà bị bắt hồi cuối tháng 12 năm 2015, đến giờ vẫn chưa xét xử.
Những bản án nặng nề được đưa ra, những quy chụp mơ hồ về tội danh hoạt động "lật đổ chính quyền nhân dân" hoặc "tuyên truyền chống nhà nước"… chiếu theo điều 79, 88 của Bộ Luật hình sự.
Đảng cộng sản đã không bao giờ đưa ra được trước dư luận những chứng cứ rõ ràng và cụ thể mà họ dùng để ghép tội những anh em hoạt động xã hội dân sự ôn hòa khi buộc tội họ vi phạm điều 79, điều 88, điều 258… để người dân phản biện và thấy được sự minh bạch của người thực thi pháp luật.
1. Venezuela đi từ một quốc gia giàu có tài nguyên đến tận cùng của sự khốn khó…
Venezuela là một quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ, có nhiều hòn đảo nhỏ ngoài khơi biển Caribbean, có khí nhiệt đới, có nhiều loài sinh vật và nhiều khu bảo tồn thiên nhiên hoang dã, là vựa dầu lớn thứ ba thế giới với trữ lượng trên 291 tỷ thùng. Diện tích nước này là 916.445 km², dân số khoảng 30 triệu người.
Venezuela đã bị rơi vào quĩ đạo của "cơn điên" mà thế giới đã trải qua, cơn điên của chủ nghĩa xã hội.
Venezuela giành độc lập từ Tây Ban Nha vào năm 1821, và sau đó trải qua một giai đoạn đầy biến động với những cuộc khủng hoảng chính trị và chế độ độc tài quân sự. Nửa đầu thế kỉ 20, các tướng lĩnh quân đội vẫn kiểm soát nền chính trị. Từ thập niên 1950 đến thập niên 1980, Venezuela là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển tại Mỹ Latinh. Tuy nhiên khi giá dầu thế giới giảm mạnh trong thập niên 1980, nền kinh tế Venezuela rơi vào khủng hoảng.
Thay vì tìm ra con đường để cải tổ kinh tế và chính trị để thoát khỏi sự phụ thuộc vào dầu mỏ, mở rộng kinh tế đa ngành, tạo công ăn việc làm, giảm được bất công xã hội và chênh lệch giàu nghèo, thì chính phủ và người dân Venezuela họ đã chọn con đường khác.
Họ đã bị rơi vào quĩ đạo của "cơn điên" mà thế giới đã trải qua, cơn điên của chủ nghĩa xã hội. (Xin đọc lại bài "Nghĩ về một cơn điên của thế giới" của ông Nguyễn Gia Kiểng).
Có hai lý do.
Lý do thứ nhất người ta ủng hộ nó (cơn điên của chủ nghĩa xã hội) bởi vì người ta chờ đợi nó và người ta không muốn nghe những lập luận phản bác, ngay cả khi dựa trên những bằng chứng xác thực, bởi vì người ta đã kết luận rồi và không muốn đổi ý kiến.
Lý do thứ hai là sự mê hoặc của bạo lực. Bản năng bạo lực có trong mỗi người và nằm sẵn trong bản chất của con người. Con người đã sống và chịu đựng bạo lực trong suốt chiều dài lịch sử. Người ta vừa ghê sợ vừa ham muốn nó. Bạo lực cũng có tính lãng mạn của nó. Trong mỗi con người đều luôn có một tên sát nhân phải kiềm chế. Chủ nghĩa cộng sản đã thả lỏng tên sát nhân này để thỏa mãn bản năng.
Năm 1998, người dân Venezuela đã bầu cho một viên sĩ quan quân đội là Hugo Chavez làm tổng thống với tỷ lệ 56%, người đã đưa học thuyết của chủ nghĩa Bolivar và chủ nghĩa xã hội áp dụng cho Venezuela. Hugo Chavez đã nắm quyền từ cuối năm 1998 đến lúc ông qua đời năm 2013, và người kế vị ông là ông Nicolas Maduro từ năm 2013 đến nay năm 2017, cũng tiếp bước theo con đường mà tiền bối Hugo Chavez đã đi.
Khi lãnh đạo Venezuela chọn con đường xã hội chủ nghĩa, thì tình trạng cũng như y những quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Chính phủ tịch thu tài sản cá nhân một cách tùy tiện ; quốc hữu hóa tài sản dẫn đến các ngành sản xuất trong nước hầu như suy sụp (nền kinh tế chỉ nhắm tới xuất khẩu dầu thô, trong lúc lại hạn chế nhập khẩu ngay cả các nhu yếu phẩm và thuốc men) ; giới quân sự quản lý bộ máy ngân sách cồng kềnh ; tham nhũng tràn lan và không thể nào kiểm soát được ; truyền thông báo chí bị giới hạn ; bắt bớ đàn áp đối lập gia tăng ; chính phủ mượn những khoản tiền khổng lồ của nước ngoài để độc quyền nắm giữ quyền lực và cung cấp lương thực thực phẩm miễn phí nhằm lừa mị người dân.
Chính sách xã hội chủ nghĩa quả thật đã đánh lừa được người dân trong giai đoạn đầu, nhưng chỉ 10 năm sau đó, mọi ung nhọt của chủ nghĩa xã hội đã không thể che giấu nữa. Sau 10 năm theo định hướng xã hội chủ nghĩa, năm 2008 tỷ lệ lạm phát của Venezuela đã tăng 30,9%, cao nhất trên toàn khu vực châu Mỹ. Điều gì đến cũng phải đến, vào tháng 11 năm 2017, Venezuela đã chính thức thông báo vỡ nợ, chìm sâu vào khủng hoảng. Chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn phá hủy hệ thống sản xuất và phân phối của quốc gia này.
2. Zimbabwe, từ quốc gia sung túc ở Châu Phi rơi xuống vực thẳm của sự nghèo khó.
Cộng hòa Zimbabwe là một quốc gia nằm ở phía nam lục địa Phi, dân số khoảng 12 triệu người, là nước có tiềm năng kinh tế, giàu tài nguyên thiên nhiên với crom và vàng là khoáng sản chính của nước này.
Cảnh người dân thủ đô Harare tìm nước uống từ một đường mương - Ảnh sbs.com.au
Zimbabwe là thuộc địa Anh từ năm 1888 đến 1965. Các nhóm sắc tộc da đen chiếm 98% dân số, người da trắng chiếm chưa tới 1% tổng dân số (chủ yếu có nguồn gốc Anh, tuy nhiên sau cuộc bài xích người da trắng những năm 2000, thì số người da trắng chỉ còn là một thiếu số rất nhỏ), người lai chiếm 0.5% dân số, và nhiều nhóm sắc tộc châu Á khác chiếm 0.5% (chủ yếu là người Ấn Độ và Trung Quốc).
Trong cuộc bầu cử tháng 2 năm 1980, Robert Mugabe và đảng ZANU của mình giành một thắng lợi lớn, Robert Mugabe trở thành thủ tướng của Zimbabwe.
Điều đáng chú ý, từ khi độc lập năm 1965 đến 1987, Zimbabwe là một nước theo chế độ cộng hòa đại nghị. Nhưng sau năm 1987, Robert Mugabe đã sửa đổi hiến pháp và tự phong mình làm tổng thống, Zimbabwe trở thành một nước cộng hòa theo chế độ tổng thống.
Robert Mugabe và đảng của mình là ZANU (1965-1988) và ZANU-PF (1988 - nay 2017), ngoài cuộc bầu cử tháng 2 năm 1980 là thắng lợi thực sự, thì các cuộc bầu cử còn lại đều bị cáo buộc gian lận.
Chính sách của chính quyền cộng hòa đại nghị :
Sau độc lập 1965 cho tới năm 1987, chính quyền mới chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, duy trì tốc độ phát triển, tiến hành cấp ruộng đất cho người da đen, ban hành luật lao động, định cư, nâng lương tối thiểu, xây dựng cơ sở y tế, giáo dục ; thực hiện chính sách ôn hòa với người da trắng, sử dụng tay nghề, vốn, kỹ thuật và cơ cấu kinh tế, tài chính của họ nhằm duy trì sản xuất, tránh xáo trộn tình hình. Chính quyền mới từng bước cải tạo nền kinh tế theo chiều hướng xóa dần tệ phân biệt chủng tộc, hạn chế bóc lột sức lao động. Nhà nước nắm những lĩnh vực kinh tế quan trọng như ngân hàng, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên, xuất nhập khẩu ; lập hợp tác xã nông nghiệp, xí nghiệp công nghiệp ; thực hiện tự do hóa nền kinh tế, khuyến khích khu vực tư nhân, xoá bỏ cấp giấy phép nhập khẩu, kiểm soát giá cả các mặt hàng tiêu dùng, nới lỏng quản lý trao đổi ngoại tệ để thu hút đầu tư và khuyến khích liên doanh với nước ngoài. Tranh thủ vốn đầu tư, kỹ thuật và viện trợ của các nước để duy trì hoạt động của nền kinh tế. Xúc tiến hợp tác khu vực, xây dựng ống dẫn dầu qua cảng Becca, Maputo của Mozambique, phục hồi đường sắt vận chuyển qua các nước, từng bước tăng quan hệ kinh tế hợp tác với châu Phi.
Dù là đang trong thời gian chiến tranh du kích, nhưng Zimbabwe vẫn duy trì được mức độ tăng trưởng kinh tế dương trong suốt những năm 1980 (tăng trưởng 5.0% GDP hàng năm), và là nước khá giả nhất Châu Phi lúc bấy giờ.
Quá trình suy tàn của Zimbabwe dưới thời tổng thống độc tài Robert Mugabe :
Robert Mugabe đã đưa Zimbabwe tiến từ từ vào thiên đường xã hội chủ nghĩa, cũng mang đặc tính như những nước độc tài, xã hội chủ nghĩa khác. Chính phủ đã phá bỏ nền kinh tế thị trường mà chính phủ trước đây đã nỗ lực xây dựng, tăng cường kiểm soát người dân, vi phạm nhân quyền, đàn áp đối lập, thu hồi ruộng đất, kiểm soát giá, nông nghiệp giảm sút, tình trạng bất ổn trong ngành công nghiệp càng làm suy yếu nền kinh tế, lương bổng và các chính sách xã hội đi xuống, trình trạng sức khỏe sụt giảm trầm trọng, đói khổ triền miên trong dân, tham nhũng trầm trọng, tài nguyên thiên nhiên và rừng bị tàn phá.
Chính sách thu đất canh tác của người thiểu số da trắng năm 2000, cùng những trận hạn hán liên tục, và thiếu nguồn cung cũng như tài chính, dẫn tới một sự sụt giảm mạnh trong xuất khẩu nông nghiệp. Chính sách bài xích người da trắng, đã khiến hầu hết người da trắng phải đi khỏi đất nước, khiến cho Zimbabwe mất đi một nguồn lực sản xuất lớn của đất nước, dẫn đến thiếu hụt lương thực trầm trọng. Số người da trắng đã giảm từ đỉnh điểm khoảng 296,000 người năm 1975 xuống còn khoảng 120,000 năm 1999 và được ước tính còn không hơn 50,000 năm 2002, và có thể còn ít hơn.
Sự tan rã kinh tế cùng những biện pháp đàn áp chính trị tại Zimbabwe đã dẫn tới một làn sóng người tị nạn đổ tới các quốc gia láng giềng. Ước tính 3.4 triệu người Zimbabwe, khoảng một phần tư dân số, đã chạy ra nước ngoài ở thời điểm giữa năm 2007, trong đó có khoảng 3 triệu người trong số đó đã tới Nam Phi.
Cuối năm 2008, các vấn đề tại Zimbabwe lên tới tình trang khủng hoảng về các lĩnh vực tiêu chuẩn sống, sức khoẻ công cộng và nhiều vấn đề công khác. Một số nhà quan sát miêu tả là cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn nhất từ khi giành được độc lập.
Vòng xoáy suy giảm của nền kinh tế có nguyên nhân chủ yếu từ sự quản lý kém và tham nhũng của chính quyền Robert Mugabe và sự tịch thu tài sản bất hợp pháp của hơn 4.000 chủ trại da trắng trong chiến dịch phân phối lại đất đai gây nhiều tranh cãi năm 2000, cùng với việc Zimbabwe tham gia vào cuộc chiến tại Cộng hoà Dân chủ Congo từ năm 1998 tới năm 2002 đã làm nền kinh tế nước này thiệt hại hàng trăm triệu dollar.
Trong khoảng 5 năm qua, từ năm 2012 đến 2017, việc đấu đá nội bộ và thanh trừng tại ZANU-PF do Robert Mugabe chủ xướng, đã dẫn đến sự hỗn loạn và làm suy thoái sự phát triển của Zimbabwe.
Zimbabwe hôm nay và ngày mai :
Cuộc đảo chính tháng 11 năm 2017 ở Zimbabwe không mang lại một làn gió mới nào để hy vọng thay đổi về nhân quyền và kinh tế cho Zimbabwe. Cuộc đảo chính này, chỉ là cuộc can thiệp của quân đội, nhằm chuyển quyền lực qua tay cựu phó tổng thống Emmerson Mnangagwa, nhằm bảo vệ phe thủ cựu và đảng cầm quyền ZANU-PF.
Ngày 24 tháng 11 năm 2017, ngày mà quân đội và người dân Zimbabwe loại bỏ được tổng thống độc tài sau 37 năm, nhưng liệu đây có phải là ngày mở đầu cho sự cầm quyền của một tổng thống độc tài còn tàn bạo hơn hay không ? Nhiều người vui mừng vì Zimbabwe đã đảo chính thành công và không có tổn thất nào về người. Nhưng cũng không khỏi lo lắng nếu đối lập và người dân Zimbabwe không có cải cách để kiểm soát quyền lực của tổng thống, tăng tính đại nghị trong bộ máy cầm quyền.
Emmerson Mnangagwa và cả sự nghiệp chính trị của ông này hoàn toàn gắn với nhà độc tài 93 tuổi Robert Mugabe, nhân vật này đã được cảnh báo là có thể trở thành một nhà lãnh đạo "đàn áp hơn cả Mugabe" nếu lên nắm quyền. Mnangagwa bị ghê sợ do vai trò "đao phủ" của ông này dưới quyền Mugabe. Ông từng là người đứng đầu cơ quan cảnh sát mật Zimbabwe (CIO), được cho là dính líu đến vụ thảm sát tộc người Ndebele ở Matabeleland, tây nam Zimbabwe trong hai năm 1983-1984. Hiệp hội Các nhà nghiên cứu diệt chủng quốc tế (IAGS) ước tính ít nhất 20,000 thường dân đã bị giết bởi CIO và quân đội Zimbabwe.
Ngoại trưởng Anh, ông Boris Johnson kêu gọi Zimababwe tổ chức bầu cử để chọn ra nhà lãnh đạo mới.
"Không ai muốn nhìn thấy quyền lực chuyển giao từ một nhà độc tài này sang nhà độc tài khác. Chúng tôi muốn thấy cuộc bầu cử tự do và công bằng trong năm tới, và đó là điều chúng tôi sẽ cố gắng thúc đẩy".
Chúng ta cùng cầu mong cho đất nước Zimbabwe, người dân, tầng lớp tinh hoa, giới an ninh – quân đội, các đảng đối lập Zimbabwe làm tốt trọng trách đưa lại dân chủ, phồn thịnh cho đất nước Zimbabwe.
3. Chế độ tổng thống dễ dẫn đến bế tắc, độc tài
Một quốc gia theo chế độ tổng thống, với nền dân chủ non trẻ rất dễ dàng rơi vào tay một tổng thống độc tài. Một số tổng thống độc tài hiện nay như tổng thống Nga, Vladimir Putin, đã biến nước Nga thành một nước phải theo chủ nghĩa Putin, mang đậm nét chủ nghĩa dân tộc và phi dân chủ, là một dạng chủ nghĩa tư bản nhà nước, chính phủ chi phối mọi phương tiện truyền thông. Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ, ông Recep Tayyip Erdoğan, người đã sớm chuyển hướng sang chủ nghĩa chuyên chế từ lâu, nay lại càng tập trung quyền lực nhiều hơn. Tổng thống Philippines, ông Rodrigo Duterte, một nhà dân túy cứng rắn công khai. Tổng thống Venezuela và tổng thống Zimbabwe, họ đều là những tổng thống độc tài, đưa đất nước vào bế tắc. Và rất nhiều những tổng thống độc tài, bất tài khác.
Một trong những nét chính mà chế độ tổng thống dễ dẫn đến các nhà độc tài đó là vì một số lý do chính yếu sau :
1) Tổng thống nắm rất nhiều quyền hành trong tay.
2) Tổng thống được bầu theo thể thức phổ thông đầu phiếu, nên tính chính danh rất lớn, và dù tổng thống không thể hiện được năng lực lãnh đạo, hay thậm chí sai phạm nghiêm trọng, cũng khó lòng phế truất khi đang trong thời gian tại nhiệm.
3) Vì được bầu theo thể thức phổ thông đầu phiếu, nên người được bầu thường là nhờ vào những đặc điểm ngoại hình bên ngoài và những lời hứa mị dân hoặc mục tiêu ngắn hạn. Những người theo chủ nghĩa dân túy cánh hữu thường là người có sức thu hút rất lớn đối với đại bộ phận dân chúng, một chủ nghĩa mà nó thỏa mãn được cơn khát nhất thời của người dân, nhưng hậu quả của sự cai trị này thì không thể lường trước được.
4) Chế độ tổng thống làm suy yếu vai trò của các đảng chính trị. Các đảng chính trị là nơi đào tạo ra các chính trị gia, là nơi các ý kiến được sàng lọc, phân tích và kiểm nghiệm. Khi vai trò của các đảng chính trị bị đẩy xuống mức thấp nhất thì sẽ dẫn đến các cuộc thảo luận chính trị của các đảng chính trị không còn thực chất và nhận thức của dân chúng về chính trị cũng thấp dần.
5) Xảy ra sự mâu thuẫn giữa tổng thống và quốc hội khi đảng của tổng thống không chiếm đa số trong quốc hội, dẫn đến sự bế tắc trong việc ra các chính sách quốc gia….
Khi các đảng chính trị suy yếu, nhận thức chính trị người dân sẽ thấp dần, xã hội dân sự chưa phát triển, thì việc chọn lựa nhầm lãnh đạo là vấn đề dễ dàng xảy ra, các chính sách quốc gia sẽ được tổng thống đơn phương ban hành, mà không cần được quốc hội thông qua, các mầm mống độc tài sẽ không bị ngăn chặn khi chúng vừa mới ló dạng.
Sự hình thành các nhà lãnh đạo độc tài thường được diễn ra như thế nào ? Lúc đầu, họ thường hứa hẹn với người dân rằng họ có thể sửa chữa được các vấn đề của xã hội, họ mị dân bằng các chính sách của chủ nghĩa dân túy, họ hứa hẹn mang lại ổn định và trật tự... Sau khi giành chiến thắng trong bầu cử, nắm trong tay quyền quyết định và điều hành, họ sẽ có đủ thẩm quyền để đưa ra những quyết định nhanh chóng và ngắn hạn, qua đó duy trì sự ủng hộ của cử tri và ngày càng giành được nhiều thẩm quyền hơn. Khi họ có nhiều thẩm quyền hơn, thì song song đó họ bóp nghẹt truyền thông, cắt bớt các quyền tự do dân sự, tiêu diệt các đối thủ chính trị. Tới một lúc nào đó, quyền lực trong tay họ quá lớn, truyền thông đã bị bóp nghẹt, đối lập đã bị triệt tiêu, thì họ sẽ trở thành những nhà lãnh đạo độc tài hủy hoại đất nước.
Các tổng thống trong các nước có chế độ tổng thống có những đặc điểm sau :
• Tổng thống được bầu cử với phiếu bầu trực tiếp theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.
• Tổng thống đảm nhiệm vai trò là nguyên thủ quốc gia và đồng thời cũng là người đứng đầu chính phủ.
• Tổng thống vừa là biểu tượng quốc gia, vừa là đại diện của đảng mình hoạt động.
• Có quyền bổ nhiệm phó tổng thống và quyết định quy mô và thành phần của nội các và bổ nhiệm các thành viên với sự phê chuẩn của quốc hội.
• Quân đội nằm dưới sự chỉ huy của Tổng tư lệnh quân đội là tổng thống.
• Có thể đề nghị quốc hội sửa đổi các điều luật nhưng quốc hội cũng có thế phủ quyết đề nghị của tổng thống nếu đa số phản đối.
• Nhiệm kỳ của một tổng thống là 4 hoặc 6 năm và tổng thống có thể được bầu lại trong một nhiệm kỳ tiếp theo.
4. Hoa Kỳ là một ngoại lệ, vì sao ?
Một điều chúng ta nên ý thức là cho tới nay hầu như TẤT CẢ mọi chế độ tổng thống đều đã thất bại trừ trường hợp duy nhất của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã không thất bại, bởi vì một số đặc điểm chính sau :
1) Hoa Kỳ đã thừa hưởng di sản của những người lập quốc tuyệt vời, với nền hiến pháp dân chủ chặt chẽ dẫn đường ;
2) Hoa Kỳ tu chính hiến pháp rất nhiều để tổng thống không còn có quá nhiều quyền hành như các nước theo chế độ tổng thống khác, quyền hành chủ yếu nằm trong tay quốc hội và quyền hành cũng được tản quyền cho các chính quyền liên bang, cũng như thực hiện tam quyền phân lập thực sự ;
3) Hoa Kỳ có cấu trúc xã hội dân sự mạnh, tinh thần thượng tôn pháp luật và tự do báo chí rất cao ;
4) Hoa Kỳ hầu như luôn ổn định về tư tưởng chính trị ;
5) Tổng thống Hoa Kỳ cũng không do phổ thông đầu phiếu chọn ra, mà do đại cử tri đoàn bầu chọn.
Tinh thần Mỹ đã thành công ngay cả với chế độ tổng thống. Tuy nhiên, dần dần ngay tại Hoa Kỳ, chế độ tổng thống ngày nay cũng đã chứng tỏ sự tàn phá của nó. Từ 25 năm qua Hoa Kỳ đã chỉ có những tổng thống tồi dở : Bill Clinton, George W. Bush, Barack Obama và Donald Trump. Không phải là Hoa Kỳ không có những người giỏi nhưng sự hời hợt tự nhiên của việc bầu cử tổng thống đã cho phép những kẻ tồi dở nhưng mầu mè đánh bại những người có bản lĩnh chính trị, cụ thể như sau :
1) Năm 1992, Bill Clinton, một thanh niên trốn lính, không kinh nghiệm và đạo đức kém đã đánh bại tổng thống đương nhiệm George H. W. Bush, một người đầy kinh nghiệm, một anh hùng trong thế chiến II và cũng là người góp phần quyết định đánh sập Liên Xô và phong trào cộng sản quốc tế ;
2) Năm 2000, George W. Bush, một người không có tài và cũng không biết gì về thế giới đánh bại Al Gore, một người tài giỏi, kinh nghiệm và đầy viễn kiến ;
3) Năm 2008, Barack Obama, một người gần như hoàn toàn không có kiến thức chính trị nào đánh bại John McCain, một người dũng cảm và đầy kinh nghiệm ;
4) Năm 2016 đến lượt Donald Trump đắc cử tổng thống. Trump là một người không có tài năng nào về chính trị, không có kinh nghiệm, không có đạo đức cũng chẳng có tâm hồn. Nhưng thắng lợi của Trump có logic của nó và không vô lý. Cử tri Mỹ phải chọn giữa Donald Trump với Hillary Clinton, và với nhiều người Mỹ, Hillary Clinton còn đáng ghét hơn Trump. Chế độ tổng thống đã tàn phá chính trường Mỹ ở mức rất nghiêm trọng.
Có vẻ Hoa Kỳ đang hạn chế dần dần quyền lực của tổng thống và chuyển dần về chế độ đại nghị trong tương lai ?
5. Chọn lựa cho Việt Nam hôm nay và mai sau
Cả Venezuela và Zimbabwe, ngoài đảng cầm quyền ra, còn có trên 2 đảng đối lập hoạt động trong nước. Do đó, họ vẫn còn có cạnh tranh trong chính trị. Người dân Venezuela xuống đường vì họ có đối lập tổ chức, người dân Zimbabwe xuống được vì họ có đối lập hoặc quân đội tổ chức. Nói tóm lại, muốn cuộc đấu tranh mang lại thắng lợi phải có đối lập tổ chức.
Nhiều người hỏi, khi nào thì người dân Việt Nam xuống đường ? Câu hỏi này dành để hỏi những người còn quan tâm đến đất nước : Khi nào thì họ tập hợp lại với nhau trong một tổ chức ? Họ còn rời rạc vì họ còn mong làm minh quân, vì họ là những nhân sĩ chờ thời, hay vì họ không muốn dấn thân hơn nữa ngoài những lên tiếng như một kiểu phản vấn lương tri của mình ? Khi những người còn quan tâm đến đến nước chưa liên kết được với nhau, thì xin đừng hỏi người dân, người dân họ hoàn toàn không biết nên đi hướng nào trên con đường đấu tranh, họ đang mong chờ sự kết hợp và đường lối của những người đấu tranh.
Việt Nam đã, đang là chế độ độc tài đảng trị, do đó Việt Nam không có đối lập nào chính thức ra mặt hoạt động trong nước khi chưa đủ lực lượng và phương tiện. Các tổ chức đối lập hiện đang đặt cơ quan tại hải ngoại và chỉ có thể chính thức ra mặt khi có đủ lực lượng nòng cốt và được tầng lớp trí thức chính trị ủng hộ. Những người đấu tranh dân chủ hoàn toàn có thể chọn cho mình một tổ chức có viễn kiến để tham gia và cùng phát triển tổ chức, hoặc có thể thành lập tổ chức mới nếu có quyết tâm và có định hướng. Một đất nước chỉ có thể tiến lên, khi người dân lương thiện giúp đỡ nhau, ngược lại, một đất nước mà ai cũng muốn hơn người khác, ai cũng muốn làm minh quân, thì đất nước đó chỉ có thể đi xuống. Trên thế giới, chưa có sự thành công nào mà không khởi đầu từ những kết hợp chặt chẽ.
Zimbabwe đã thể hiện tinh thần hòa giải nội bộ vào khoảng thời gian độc lập 1965 và cố gắng xây dựng một nhà nước ổn vững, nhân quyền nhưng tiếc thay điều đó đã bị chủ nghĩa nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa xã hội phá hủy. Tại Vezuela từ đầu năm 2017 tới nay, đã diễn ra làn sóng biểu tình liên tục và tình trạng bất ổn nghiêm trọng cùng tình trạng vỡ nợ, nhưng tổng thống Nicolas Maduro, vẫn quyết bám giữ quyền lực, không chịu từ chức. Hậu quả của những tổng thống độc tài để lại cho đất nước thật kinh khủng.
Việt Nam đang cố gắng để thoát khỏi ách độc tài toàn trị của đảng cộng sản, nhưng khi đã thoát ra được, chúng ta nên và sẽ chọn thể chế chính trị nào để xây dựng đất nước ?
Việt Nam trong tương lai, nhất định phải đoạn tuyệt chế độ tổng thống vì Việt Nam chưa phải là nước có nền móng dân chủ, vì Việt Nam là nước có nền văn hóa Khổng Giáo nên phần lớn người dân vẫn luôn tôn vinh những kẻ cầm quyền dù kẻ cầm quyền đó là những bạo chúa, vì tinh thần thượng tôn pháp luật của người Việt hiện nay chưa cao, vì Việt Nam chưa có các chính đảng đối lập mạnh… Nếu chọn mô hình tổng thống, sẽ dễ dàng đưa đất nước vào bế tắc và độc tài.
Trong một chế độ dân chủ đại nghị, như tại Đức, vị nguyên thủ hành pháp, thủ tướng, do quốc hội bầu ra, phải là lãnh tụ của đảng hoặc liên minh có đa số trong quốc hội, với sứ mệnh thực hiện dự án chính trị của đảng hoặc liên minh.
Chuyển hóa từ chế độ tổng thống sang chế độ đại nghị là điều rất khó. Các nước Châu Mỹ La tinh dù được độc lập từ hai thế kỷ nay với tài nguyên bao la mà vẫn quằn quại trong nghèo khổ. Họ muốn chuyển sang chế độ đại nghị mà không làm được. Quán tính và sự cám dỗ của chế độ tổng thống rất lớn. Các nước Châu Phi đều theo chế độ tổng thống với hậu quả bi đát mà thế giới đang chứng kiến nhưng cũng không thể nào thay đổi được. Do đó ngay từ ban đầu, chúng ta sẽ chọn lựa mô hình chế độ đại nghị cho Việt Nam dân chủ, nhằm tránh khả năng bế tắc và tụt hậu không lối thoát cho Việt Nam sau này.
Venezuela và Zimbabwe, tiếp tục là chứng minh về sự thất bại của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và chế độ tổng thống. Nếu một hãng sản xuất máy bay có tỷ lệ máy bay rơi là 99%, liệu trong tương lai chúng ta có bước lên một trong những chiếc do hãng này sản xuất hay không ? Một người tỉnh táo sẽ không bao giờ làm điều đó.
Việt Lữ
(27/11/2017)
Chuyện Đại tá Jack Usrey, làm việc tại Bộ Tư lệnh lực lượng Địa phương quân của bang Tennessee, dừng xe, bước ra ngoài giữa lúc trời đang mưa tầm tã, rồi đứng nghiêm, vung tay chào một người ông ta không hề quen biết đang trên đường đến nơi an nghỉ cuối cùng, mà VOA Việt ngữ đăng hồi cuối tuần trước đã nhận được hơn 10.000 “like”,chưa kể câu chuyện này đã được hơn 2.100 facebooker giới thiệu lại trên facebook của họ.
Các thanh niên mặc áo phông màu đỏ, phía trước có in hình búa liềm, sao vàng và đằng sau áo có in chữ “Đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc”, kèm theo các chữ cái viết hoa DLV mà nhiều người cho là chữ viết tắt của "dư luận viên".
Tuy chuyện xảy ra ở Mỹ song phần lớn ý kiến trong số 380 bình luận về câu chuyện này trên facebook của VOA Việt ngữ lại xoay quanh tương quan giữa giáo dục với đạo đức ở… Việt Nam. Những so sánh giữa xưa với nay làm bật ra một vấn đề mới : Nỗ lực hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam rõ ràng đã ngược hướng với việc gìn giữ, vun bồi các giá trị nhân bản.
***
Bình luận về tấm ảnh vừa kể, facebooker Jennifer Dominique bảo rằng, chuyện dừng lại, ngả mũ chào khi gặp đám tang – gây ngạc nhiên và xúc động cho nhiều người Việt đương thời – vốn là điều bình thường ở miền Nam Việt Nam giai đoạn trước tháng 4 năm 1975. Chẳng riêng học sinh mà công chức, quân nhân, cảnh sát cũng được yêu cầu làm như vậy.
Cả trăm facebooker cùng xác nhận chuyện này, cùng thắc mắc là tại sao hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa gạt bỏ hành động nhân văn ấy cũng như nhiều hành động nhân văn khác (nhường chỗ, giúp đỡ người tàn tật, người già, phụ nữ, trẻ em,…) để đến bây giờ, khi gặp đám tang, chẳng những không chào, người Việt đương đại còn bấm kèn, bóp còi giành đường, theo facebooker Dinh Quang, nếu có ai đó đứng lại thì chỉ là để xem, để hỏi nên chọn số nào cho chuyện “đánh đề”.
Những hành động như vậy dường như chẳng phải từng chỉ có ở miền Nam, miền Bắc Việt cũng thế. Facebooker Mai Đoàn bảo rằng, bạn sinh sau, đẻ muộn nhưng nhiều lần được nghe các cụ ngoài đó kể rằng, trước cách mạng tháng 8, dân chúng miền Bắc cũng hành xử tương tự. Facebooker Toan Minh Nguyen, xác nhận, từng được nghe thầy chủ nhiệm lớp 12 kể là thầy có nghe các vị cao niên ở Hà Nội bảo, ngày xưa, mỗi khi gặp đám tang, tất cả mọi người đều dừng lại, lột mũ, đứng chờ cho đến khi đám tang ấy đi qua hẳn.
Tấm ảnh chụp Đại tá Jack Usrey trở thành “tin nóng” trên VOA Việt ngữ vì nó phục sinh ký ức của nhiều người lớn tuổi về những điều tốt đẹp nay không còn nữa. Sự tiếc nuối đủ mạnh để vài facebooker như Trương Sanh Thái bới tìm sách giáo khoa cách nay năm, bảy thập niên, chụp lại, giới thiệu thêm về “đức dục” (giáo dục đạo đức), “thường thức công dân” của hệ thống giáo dục cách nay vài thập niên với những facebooker trẻ. Bài “Cử chỉ, ngôn ngữ khi gặp đám ma” chỉ vài chục chữ (Khi gặp đám ma, ta phải đứng nghiêm chỉnh, ngả mũ, nón chào người quá cố. Ta không được chỉ trỏ, cười nói lớn tiếng khi đám ma đi qua) kèm tranh minh họa nhưng làm nhiều facebooker khác bận tâm. Facebooker Hồ Thụy Mỹ Hạnh đề nghị facebooker Trương Sanh Thái giới thiệu thêm về các bài học ngày xưa để cô dạy lại học sinh của mình. Facebooker Góc Sân Khỏang Trời thì đề nghị giới thiệu thêm “để chúng cháu học”.
Một facebooker tên là Ben Tran lưu ý, đừng ngộ nhận rằng dạy dỗ về “Đức dục”, “Thường thức công dân” như mọi người bàn luận chỉ có ở Việt Nam thời Việt Nam Cộng hòa. Pháp, Anh, Hoa Kỳ,… đều như thế cả ! Ben Tran nhấn mạnh, đó là tiêu chí chung về “văn minh của nhân loại”.
***
Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam, chương trình giáo dục sau 1954 ở miền Bắc và sau 1975 ở miền Nam Việt Nam đã vứt bỏ tất cả các tiêu chí mà facebooker Ben Tran gọi là “văn minh của nhân loại”.
Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam, dân chúng Việt Nam được “giải phóng” một cách triệt để khỏi các “tàn tích của phong kiến, thực dân”. Tiêu chí “Tiên học lễ, hậu học văn” (học lễ nghĩa, đạo đức trước, sau đó mới học kiến thức) luôn nằm ở nơi trang trọng nhất tại tất cả các trường bị đục bỏ. Từ người lớn đến trẻ con bắt đầu được hướng vào việc rèn luyện để trở thành “con người mới xã hội chủ nghĩa”.
Đến nay, các tiêu chí dùng để định tính cho “con người mới xã hội chủ nghĩa” vẫn thế. Riêng chuyện định danh thì có thay đổi một chút. Sau 40 năm, chữ “mới” không còn phù hợp, gần đây Đảng cộng sản Việt Nam sửa lại thành “con người xã hội chủ nghĩa”.
Theo tài liệu ôn tập môn “Tư tưởng Hồ Chí Minh” ở bậc đại học hiện nay, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam thì phải tạo ra “con người xã hội chủ nghĩa”.
“Con người xã hội chủ nghĩa” là cá nhân : Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa (có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể, có tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình, có tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết vươn lên hàng đầu, có tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội). Có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa (Trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Có tinh thần quốc tế trong sáng, có lối sống lành mạnh, trong sáng).
Cũng theo tài liệu vừa kể thì “chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa”. Khi chưa tiến tới chủ nghĩa xã hội thì những “con người xã hội chủ nghĩa” sẽ là “chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Đây chính là lý do Đảng cộng sản Việt Nam đòi buộc các viên chức muốn trở thành lãnh đạo phải vừa là đảng viên (nhằm bảo đảm Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn là tổ chức lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối), vừa phải được đào tạo, bồi dưỡng về chính trị để đủ khả năng chỉ huy “con người xã hội chủ nghĩa”, làm “chủ thể” cho “sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Tốt nghiệp khóa học “Cao cấp về lý luận chính trị” được xác định là điều kiện bắt buộc để được bổ nhiệm làm “cán bộ chủ chốt” từ cấp huyện trở lên.
Kể từ năm 1999, sau khi Ban Tổ chức và Ban Tư tưởng – Văn hóa của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Namcùng ký ban hành quy định số 12 QĐ/TC-TTV về việc xác định trình độ lý luận chính trị để lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt cho toàn bộ hệ thống công quyền từ địa phương đến trung ương, vấn nạn viên chức sử dụng văn bằng giả càng ngày càng nghiêm trọng. Lý do rất đơn giản là theo qui định vừa kể, muốn được nhận vào học các khóa “Cao cấp về lý luận chính trị”, đương sự phải tốt nghiệp đại học. Không thuê làm – sử dụng văn bằng giả để vào “đại học” làm sao có cơ hội trở thành một trong những chỉ huy “con người xã hội chủ nghĩa”, giữ vai trò “chủ thể” của “sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Tuy chương trình đào tạo, bồi dưỡng về chính trị chia thành ba cấp : Sơ, Trung, Cao song các viên chức chỉ muốn hoàn tất khóa học “Cao cấp về lý luận chính trị”. Do nhu cầu quá lớn, tháng 8 năm 2016, Thành ủy TP.HCM chính thức đề nghị Ban Tổ chức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam cho phép đào tạo “Cao cấp về lý luận chính trị” tại chỗ nhưng ông Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Tổ chức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam không đồng ý, bởi “qui định về học chính trị rất ngặt nghèo, đảng viên chức vụ nào học trung cấp, chức vụ nào học cao cấp”. Ông Chính nhấn mạnh : “Cao cấp lý luận chính trị dành riêng cho đội ngũ lãnh đạo, không phải muốn học lúc nào cũng được”.
***
Vậy thì hoàn tất “Cao cấp về lý luận chính trị”, những cá nhân được lựa chọn để đào tạo, bồi dưỡng trở thành chỉ huy những “con người xã hội chủ nghĩa” có gì khác với con người cũ – mà giáo trình về Tư tưởng Hồ Chí Minh cho là cần phân biệt rạch ròi do “sống trong xã hội cũ, chưa giác ngộ con đường cách mạng theo lập trường giai cấp công nhân, chưa được làm chủ” ?
Rất khác !
Xin lấy ông Đào Duy Quát, một trong hai người tham gia ký – ban hành quyết định 12 QĐ/TC-TTV làm ví dụ. Về đời tư, ông Phó Ban Tư tưởng – Văn hóa này được xem như một con yêu râu xanh, sàm sỡ với tất cả phụ nữ bất kể già trẻ ở bất kỳ đâu. Về bản lĩnh, khả năng lý luận chính trị thì tháng 9 năm 2009, ông Quát từng làm dân chúng Việt Nam sôi sùng sục do báo điện tử của Đảng cộng sản Việt Nam do ông làm Tổng Biên tập,dịch và giới thiệu sự kiện Trung Quốc tổ chức tập trận tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nhằm khẳng định chủ quyền của Trung Quốc tại đó.
Tuy đã nghỉ hưu nhưng bây giờ thỉnh thoảng, ông Quát vẫn xuất hiện trên Nhân Dân, Quân đội nhân dân để nhắc nhở về nguy cơ “suy thoái đạo đức”, “suy thoái nhận thức” !
Tiếc là ông Đào Duy Quát không phải là trường hợp cá biệt. Chuyện ông này, bà kia – những người giữ đủ loại chức vụ của đủ mọi ngành, mọi cấp, hành xử, ăn nói càn rỡ, dối trá,… giờ nhờ Internet, bung ra như nấm sau mưa. Chúng phổ biến tới mức nhiều facebooker phải nêu thắc mắc, hệ thống các trường, học viện chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam đã dạy gì cho họ ?
Chưa học làm sao mà biết nhưng mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng đã được minh định là để biến họ trở thành các phần tử ưu tú nhất trong số những “con người xã hội chủ nghĩa” đang là “chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” ở Việt Nam.
Cuối năm ngoái, tâm sự với VietNamNet về Nghị quyết của Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam khóa 12, ông Lê Kiên Thành, con trai ông Lê Duẩn – một trong những Tổng Bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam, từng nhận định, đại khái là Đảng cộng sản Việt Nam đã thất bại trong việc xây dựng con người. Thực trạng xã hội cho thấy rằng, Đảng cộng sản Việt Nam đang hủy hoại con người - tài nguyên lớn nhất, quan trọng nhất. Đáng lo nhất là không có hướng nào để giải quyết vấn nạn này.
Tuy ông Thành tin rằng, vẫn có thể xây dựng được “con người mới xã hội chủ nghĩa” nhưng lối giải thích của ông Thành lại trái ngược hoàn toàn với việc định tính về “con người xã hội chủ nghĩa” của Đảng cộng sản Việt Nam. Theo ông Thành, cái gọi là “mới” phải mang đầy đủ “tính chất của người Việt Nam cũ là yêu thương con người, say mê lao động, có trách nhiệm với đất nước” !
Cũng tham gia luận bàn về con người cũ và “con người mới xã hội chủ nghĩa”, một facebooker nhận định, từ khi hạ quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta thủ tiêu nhiều thứ. Thế hệ ông bà, cha mẹ của chúng ta được dạy phải trân trọng tất cả mọi người, sống có trách nhiệm trong mọi việc. Còn thế hệ của chúng ta và con cháu thì được dạy dỗ, trưởng thành trong môi trường được khuyến khích gọi tất cả những người khác mình, mình không ưng là “thằng” là “con” và không cần phải bận tâm đến chuyện gì ngoài chủ nghĩa xã hội. Chuyện ông Trọng đã bát tuần vẫn bị gọi là “thằng Lú” chính là kết quả được hái lượm từ những gì mà ông ấy và các đồng chí của ông ấy đã gieo trồng.
Dù sao đó chỉ là nhận định của một cá nhân. Còn bạn ? Bạn cảm thấy thế nào về xã hội mà bạn đang sống, môi trường sống mà con cháu bạn sẽ trưởng thành ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 01/08/2017
Cơn hồng thủy "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" đang lột mặt những con người cộng sản Việt Nam sống tàng hình sau tấm màn mạo danh Xã hội Chủ nghĩa.
Lý luận của những người cộng sản Việt Nam có khác gì tin vịt
Trò núp bóng này không đem lại bất cứ lợi ích nào cho đất nước hay người dân mà chỉ làm cho não trạng của những cái đầu đất sét made in Việt Nam thui chột thêm trước những thay đổi của nhân loại trong Thế kỷ 21.
Thiểu số người của lớp này, rất tiếc lại xuất thân từ giới có học hàm cao, đã từng được bố trí vào các chức vụ lãnh đạo then chốt hoặc đang nghêng ngang với bổng lộc trong bộ máy tuyên truyền của chế độ.
Nhiệm vụ chính của họ là phản bác lại những ý kiến nói rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiếp tục đi sai đường để ôm lấy Chủ nghĩa lỗi thời Mác-Lênin, sau sự tan rã không thuốc chữa của các nước xã hội chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu và Liên bang Xô Viết từ 1989 đến 1991.
Họ ra sức tuyên truyền cho chủ trương "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội" của đảng cầm quyền độc tôn cộng sản Việt Nam, nhưng lại bỏ quên cái đuôi "cộng sản" để đánh lừa mọi người.
Ông Hà Đăng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương viết trên báo Quân đội Nhân dân ngày 16/01/2017 : "87 năm qua, những chặng đường phát triển của cách mạng Việt Nam và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã chứng minh sự đúng đắn của đường lối này, cớ sao vì sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu mà phải từ bỏ nó ?".
Nước Việt Nam đã có độc lập trên hình thức nhưng lãnh thổ không vẹn toàn là của Việt Nam. Đã có ai trong Đảng Cộng sản Việt Nam chứng minh được lãnh thổ Việt Nam không bị Trung Hoa chiếm một mảng lớn trên đất liền, sau 2 cuộc chiến tranh biên giới 1979-1990 ? Tại sao bài học lịch sử qua nhiều thời kỳ viết rằng "nước Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu" nay biến thành từ "Cao Bằng đến Cà Mâu" ?
Bộ máy tuyên truyền nhà nước cũng ra rả ngày đêm "Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam", nhưng lại không dám đụng tới Quân Tầu đang kiểm soát Hoàng Sa, sau khi chúng chiếm được từ tay Quân đội Việt Nam Cộng Hòa tháng 1/1974. Quân đội cộng sản Việt Nam cũng không dám lấy lại 7 bãi đá bị Trung Hoa chiếm ở Trường Sa, bắt đầu từ cuộc chiến Gạc Ma năm 1988.
Vậy điều được gọi là "thành tựu to lớn" có bao gồm 30 năm nội chiến đẫm máu do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ động đã lấy mất ngót 4 triệu người dân vô tội trong "kháng chiến chống Pháp giành độc lập" hay "giải phóng miền Nam" ?
Và có sử gia cộng sản nào dám quy tội đảng đã nhúng ta tàn sát hàng chục ngàn nạn nhân trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất từ 1953 đến 1957, hay trong cuộc tàn sát dân lành ở Huế trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 ?
Về Cải cách ruộng đất, tài liệu của Bách khoa toàn thư mở viết : "Tổng số người bị quy trong Cải cách ruộng đất đã được thống kê là 172.008 người ; số người bị oan sai là 123.266 người, chiếm tỷ lệ 71,66%. Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều nông dân trong tầng lớp trung nông đã bị đấu tố là địa chủ và việc đấu tố oan là do "bị địch lũng đoạn". Những sai lầm này, như đã được đề cập đến trong bài phát biểu tháng 10 năm 1956 tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của giáo sư, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, đã làm Đảng Cộng sản Việt Nam bị mất uy tín đối với nhiều người dân".
Bách khoa toàn thư ghi tiếp : "Trong tuyên bố của Hội nghị Trung ương 10 của Đảng Lao động Việt Nam, tháng 9 năm 1956 đã nghiêm khắc phê bình :
"Giai đoạn vừa qua có nhiều sai lầm và khuyết điểm. Đặc biệt là trong cuộc cải cách nông nghiệp và điều chỉnh tổ chức. Hội nghị Trung ương lần thứ 10 đã phân tích chi tiết các khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân và thống nhất những biện pháp khắc phục. Hội nghị thừa nhận nguyên nhân của những khuyết điểm là sự yếu kém của bộ máy lãnh đạo. Vì thế Ban chấp hành Trung ương nhận khuyết điểm của mình. Các ủy viên tham gia trực tiếp đã kiểm điểm trước TƯ theo tinh thần tự phê, và chấp nhận những hình thức kỷ luật nghiêm khắc".
Nói thì như thế, nhưng hai người có trách nhiệm cao nhất là Chủ tịch nhà nước ông Hồ Chí Minh và Tổng bí thư đảng Trường Chinh đã không phải chịu bất cứ hình thức kỷ luật nào.
Nhất là đối với ân nhân của ông Hồ và nhiều Lãnh đạo đảng là bà Nguyễn Thị Năm (1906–09/07/1953, quê ở Làng Bưởi, ngoại thành Hà Nội).
Tài liệu của Bách khoa toàn thư mở viết : "Bà là một địa chủ có công đóng góp tài sản cho Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc Cải cách ruộng đất, bà là người đầu tiên bị xử tử. Bà nguyên là Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Thái Nguyên.
Bà còn được gọi là Cát Hanh Long vì đây là tên một hiệu buôn do bà làm chủ ở Hải Phòng.
"Nhiều cán bộ cách mạng, nhiều đơn vị bộ đội thường tá túc trong đồn điền của bà. Bà Nguyễn Thị Năm cũng từng nuôi ăn, giúp đỡ nhiều cán bộ Việt Minh sau này giữ những cương vị quan trọng như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt , Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nhân, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, Lê Thanh Nghị".
Công lao lớn như thế mà chỉ vì bị áp lực của Cố vấn Trung Quốc bắt phải giết Bà Năm đẩ làm gương nên đảng đã bịa đặt ra bài "Địa chủ ác ghê" của C.B trên báo Nhân dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 có kể tội bà là "Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người... Giết chết 14 nông dân, Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân…".
"…Sau những cuộc đấu tố với đủ các thứ tội ác được gán ghép bà đã bị đem ra xử bắn ở Đồng Bẩm, tỉnh Thái Nguyên vào 29 tháng 5 âm lịch (tức 9 tháng 7) năm 1953 và được báo chí đương thời coi là phát súng hiệu cho một cuộc vận động "long trời lở đất".
Tội ác lịch sử man rợ, vô ơn và không còn tính con người của hai ông Hồ Chí Minh và Trường Chinh có là "thành tựu to lớn" của Đảng Cộng sản Việt Nam như ông Hà Đăng rêu rao hay không ?
Ấy thế mà cái loa Hà Đăng còn dám viết rằng : "Mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải là mô hình Xô-viết của Liên Xô bởi sự khác biệt cơ bản là ở chỗ một bên là từ cơ sở của chế độ tư bản đi lên, một bên từ độc lập dân tộc đi lên. Bác Hồ từng nói, Bác chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được độc lập, dân ta được tự do, hạnh phúc, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chủ nghĩa xã hội đối với Bác như ngày nay chúng ta vẫn nói, là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Thực tế, sau hơn 40 năm thống nhất đất nước, nhân dân vẫn chưa có tự do, hạnh phúc chỉ thuộc về tầng lớp cai trị dân, và không phải ai cũng no cơm ấm áo như ông Hồ từng mơ.
Còn chuyện "dân giàu" đã có bao nhiêu trong số 93 triệu dân, phần đông chỉ biết làm thuê cho nước ngoài để sống ? Tất nhiên, với một đất nước có nền giáo dục lạc hậu, kinh tế phải lệ thuộc vào Trung Hoa để sống còn thì làm sao giầu mạnh được, nói chi đến những chiếc bánh vẽ "dân chủ, công bằng, văn minh" ?
Tuyên truyền Tạ Ngọc Tấn
Tiếng nói thứ hai trong thời gian qua của phe chống lại những người chống đảng đến từ bài viết 2 kỳ trên báo Nhân Dân (13-17/01/2017) của Giáo sư Tiến sĩ Tạ Ngọc Tấn, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Ông Tấn mở màn : "Nhiều năm qua, các thế lực xấu, thù địch luôn cố gắng truyền bá luận điệu cho rằng, vì Chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời cho nên không thể xây dựng xã hội mới tốt đẹp trên nền tảng học thuyết đó (!) và trên thực tế luận điệu này đã mê hoặc được một số người. Vì thế, làm sáng tỏ bản chất vấn đề là một yêu cầu bức thiết trong cuộc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch".
Giáo đầu như thế rồi ông bảo : "Chủ nghĩa xã hội không hề diệt vong. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại không những giữ vững trận địa mà còn định hướng vững vàng cho sự phát triển tiến lên. Từ vùng Trung-Nam Mỹ đã phát sinh phong trào xã hội chủ nghĩa kiểu Mỹ La-tinh, khởi đầu từ Vê-nê-du-ê-la rồi lan ra một số nước khác, nay tuy đang gặp nhiều khó khăn và có bước thụt lùi. Chủ nghĩa tư bản thế giới không thể chứng minh được rằng nó là lực lượng thống trị toàn cầu và xã hội tư bản là xã hội tốt đẹp cuối cùng của loài người. Ngay giữa lúc thế giới tư bản chủ nghĩa huênh hoang về sức sống dài lâu của nó cũng lâm vào khủng hoảng cục bộ, rồi đến khủng hoảng toàn diện hơn, kể từ năm 2008 đến nay, vẫn còn chưa hoàn toàn hồi phục. Thế giới từ lưỡng cực thành đơn cực, rồi nay lại thành đa cực. Các nước thuộc các chế độ chính trị, xã hội khác nhau đều tham gia "toàn cầu hóa" và "hội nhập quốc tế", vừa cạnh tranh, vừa hợp tác dưới nhiều cung bậc khác nhau".
Ông Giáo sư trường Đảng số một của Việt Nam viết như nước chảy như thế, nhưng lại quên rằng chưa có bất cứ nước nào, dù nhỏ và nghèo đã từ bỏ bản chất tự do và nhân bản hạn chế nhất để trở thành nước cộng sản như Việt Nam, Trung Hoa, Bắc Hàn hay Cuba.
Đã có một thời các "nhà tư tưởng cộng sản Việt Nam" đã hồ hởi tưởng rằng Hugo Chavez, Tổng thống "người hùng" của Venezuela sẽ thành công trong kế họach trở thành nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa kiểu cộng sản ở Nam Mỹ. Rất tiếc, người dân Venezuela không dễ bị đánh lừa như nhân dân Việt Nam của thời đại Hồ Chí Minh nên họ đã từ bỏ Hugo để tiếp tục sống thân thiện với Mỹ.
Sau khi Hugo chết năm 2013, giấc mơ Venezuela sẽ là nước xã hội chủ nghĩa cộng sản ở Nam Mỹ của "nhà tư tưởng Việt Nam" cũng chết theo.
Nhưng ông Giáo sư Tấn không chịu đầu hàng mà cứ bao biện rằng : "Ở Việt Nam, chúng ta xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa sau một cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài hơn 30 năm ; sau đó là chiến tranh biên giới phía tây nam, chiến tranh biên giới phía bắc. Chúng ta xây dựng đất nước hầu như từ con số "0", hậu quả chiến tranh là vô cùng nặng nề với hàng triệu thương binh, bệnh binh, người già và trẻ em không nơi nương tựa ; đồng ruộng đầy bom, đạn, mìn. Vì thế, những gì có được hôm nay là rất đáng trân trọng và tự hào, mặc dù chưa được như mong đợi".
Phát biểu như thế nhưng ông Tấn cũng biết hơn ai khác rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã qua 30 năm "đổi mới" mà có nhúc nhích được gì đầu, ngoại trừ cứ tiếp tục nhập siêu hàng hóa từ sợi chỉ, cây kim đến con ốc vít từ Trung Quốc. Nhà nước Việt Nam chỉ biết xua dân ra nước ngoài làm thuê chưa đủ lại gia công cho các công ty nước ngoài ở Việt Nam thì xã hội chủ nghĩa cộng sản tốt đẹp ở chỗ nào ?
Do đó, không khỏi buồn chán khi người ta lại phải nghe ông Tấn tiếp tục loanh quanh, khi ông bảo : "Hơn nữa, xây dựng một xã hội mới chưa từng có tiền lệ không phải là dễ dàng, không thể trong ngày một, ngày hai, bất chấp quy luật, đốt cháy giai đoạn. Như vậy, chỉ nhìn bề ngoài để so sánh rồi cho rằng chủ nghĩa tư bản ưu việt là không khách quan, không có cái nhìn lịch sử, cụ thể".
Tiền lệ hay lạc hậu ?
Nhưng "chưa có tiền lệ" là gì ? Có phải là thứ kinh tế giở giăng giở đèn chả ai hiểu nổi là "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" ?
Nhiều cuộc hội thảo và tranh luận công khai về chủ trương này đã được tổ chức trong vài năm qua, nhưng càng họp thì "hành" lại nhiều hơn. Lý do giải dị vì đảng và nhà nước không muốn cho dân tự do làm kinh tế mà cái gì cũng phải có bàn tay nhà nước nhúng vào định hướng và lãnh đạo.
Vì vậy, nguyên nhân của trì trệ và tắc nghẽo của kinh tế Việt Nam là do Văn kiện đảng XII viết ấm ớ rằng : "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế ; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật".
Nhưng muốn "chủ đạo" thì phải biết làm và làm khá thì mới làm đầu tầu được. Đằng này vô số kể doanh nghiệp nhà nước lại làm ăn thua lỗ năm này chồng lên năm khác mà nhà nước cứ nhắm mắt đổ tiền nuôi cho nó sống để bảo vệ các nhóm lợi ích đục khoét công qũy và rút hầu bao của dân thì chủ đạo cái gì ?
Đó là lý do mà chính ông Tấn cũng phải nghiến răng thừa nhận khi hạ bút viết rằng : "Chúng ta không hề giấu giếm sai lầm, hạn chế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ các bài học rút ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, chúng ta liên tục nhìn thẳng vào sự thật để nhận thức, đánh giá, rút ra bài học nhằm điều chỉnh chiến lược và sách lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là cơ sở để Báo cáo Chính trị Đại hội XII của Đảng chỉ rõ : "Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra ; năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp… Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi… Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm…" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII).
Nát như thế mà cuối cùng, Giáo sư Tạ Ngọc Tấn vẫn khăng khăng như cà cuống chết đến đít vẫn còn cay. Ông bảo : "Tóm lại, những người phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện sự lầm lạc của họ ngay từ cơ sở lý luận - thực tiễn mà họ dựa vào. Hoặc là họ hiểu lầm về tính chất của Chủ nghĩa Mác - Lênin, hoặc là dù rất biết song họ vẫn cố tình xuyên tạc vì mục đích chính trị là thay đổi nền tảng tư tưởng, đường lối, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bằng một lý thuyết khác, một mô hình xã hội khác không vì lợi ích của nhân dân, không vì lợi ích của dân tộc. Nghiên cứu chỉ ra bản chất các luận điểm sai lầm, luận điệu xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ để bảo vệ tính khoa học, nhân văn của Chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là cảnh báo để chúng ta nâng cao nhận thức của mình, tìm hiểu rõ hơn, quán triệt sâu sắc, thường xuyên hơn quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử - cụ thể, tránh các căn bệnh bảo thủ, định kiến khi vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin trong xây dựng đường lối và hoạch định chính sách phát triển đất nước".
Như vậy, khi các nhà tư tưởng hàng đầu của đảng cứ loay hoay bảo vệ Mác-Lênin và tiếp tục đốt nhang khấn vái thì các dân tộc láng giềng, kể cả Cao Miên và Lào đã bỏ Việt Nam mà cao chạy xa bay về miền đất hứa phồn vinh và hạnh phúc.
Mời hai ông Hà Đăng và Tạ Ngọc Tấn cùng nghe : "Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư - Nguyễn Chí Dũng cho rằng, nếu không đổi mới, chỉ 3 đến 5 năm tới, Việt Nam có thể bị các nước láng giềng vượt qua về thu nhập.
Tại hội thảo "Kinh tế Việt Nam đến năm 2025 : Cơ hội và thách thức", do Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia (NCIF) tổ chức cuối tuần qua, ông Dũng cho biết tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam bắt đầu xu thế giảm từ năm 2007. Tới 2012, con số này đã ở mức thấp nhất 15 năm. Từ 2013, tăng trưởng cao hơn trước, nhưng vẫn chưa như kỳ vọng.
Nguyên nhân là các tác động tăng trưởng truyền thống đã tới hạn, nền kinh tế mất cân đối và kém hiệu quả. Tăng trưởng dựa nhiều vào vốn và lao động, hiệu quả đầu tư thấp. Thứ trưởng Dũng nêu ra hàng loạt câu hỏi, như Việt Nam đang nằm ở đâu, đi tới đâu, đi bằng cách nào trong 10 năm tới. Tại sao trong bối cảnh như nhau, các nước vẫn phát triển tốt, còn ta vẫn chậm và mong manh… ? (VnExpress,12/10/2014) .
Tiếp theo, hai ông cũng cần đọc : "Luôn sợ bị Lào và Campuchia vượt mặt nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi vì sao lại thế ? Hãy khoan bàn về góc độ vĩ mô, hãy cùng nhìn lại từ con người Việt Nam, phải chăng chúng ta đang mắc một căn bệnh nan y không thể chữa nổi : LƯỜI !
Năng suất lao động của người Việt Nam thua Lào, gạo Việt sắp nhường ngôi cho gạo Campuchia, dệt may Việt nhìn dệt may Campuchia lấy hết đơn hàng… Những tựa báo khiến cho người đọc cảm thấy Việt Nam đang ở tình thế sắp bị Lào và Campuchia vượt mặt đến nơi rồi.
Đã có hàng trăm, nghìn bài báo, hàng chục cuộc hội thảo bàn luận về vấn đề này, giới kinh tế tìm ra cơ hội và thách thức cho Việt Nam. Thế nhưng, có bao giờ bạn tự hỏi, vì sao mà đất nước chúng ta lại rơi vào tình trạng như vậy không ? (CafeBiz,15/08/2016).
Với hai đọan báo trích dẫn, thiết tưởng các "nhà tư tưởng" của đảng hãy quên bảo vệ Mác-Lenin mà tìm cách cứu nguy kinh tế và con người Việt Nam thì tốt cho đất nước hơn là phí phạm thời giờ nói chuyện viển vông.
Phạm Trần
(09/02/2017)