Đồng bằng sông Cửu Long, nơi sinh sống của khoảng 20 triệu người, là vùng canh tác nông nghiệp lớn nhất nước, nhưng do những tác động gây ra bởi các hoạt động sinh hoạt và sản xuất của con người, cũng như những đặc tính thiên nhiên của vùng châu thổ, nên bờ sông, bờ biển của khu vực bị sạt lở ngày càng nghiêm trọng.
Một phần tỉnh An Giang bên bờ sông Cửu Long chìm trong lũ lụt. Ảnh chụp ngày 28/9/2011 - Reuters/Duc Vinh
Sạt lở không chỉ xảy ra vào mùa mưa lũ mà ngay cả trong mùa khô, đe dọa trực tiếp đến sinh mạng, tài sản và cuộc sống của cư dân và các công trình cơ sở hạ tầng.
Theo những tài liệu của hai Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên và môi trường, đồng bằng sông Cửu Long có 562 vị trí ở bờ sông, bờ biển bị sạt lở với tổng chiều dài gần 800km, trầm trọng nhất ở An Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Bạc Liêu và Cà Mau.
Trước đây sạt lở chỉ xảy ra ở bờ biển phía Đông của bán đảo Cà Mau nhưng trong vòng vài năm gần đây cả ở phía Tây nằm trong vịnh Thái Lan. Vào tháng 5 vừa qua một số vị trí nằm trên bờ kinh Thạnh Đông, quận Cái Răng, vàm sông Ô Môn (thành phố Cần Thơ), bờ sông Chợ Mới Cái Côn, thuộc thị trấn Mái Dầm (tỉnh Hậu Giang) và bờ kinh Hai Quý, thị xã Bình Minh (tỉnh Vĩnh Long) cũng bị sạt lở, khiến nhiều nhà cửa sụp chìm trong đáy nước.
Sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn Tiến sĩ Huỳnh Long Vân, Nhóm Nghiên cứu Văn hóa Đồng Nai Cửu Long Úc châu.
RFI : Xin kính chào ông Huỳnh Long Vân, trước hết ông có thể cho biết là những nguyên nhân nào khiến bờ sông, bờ biển đồng bằng sông Cửu Long bị sạt lở ngày càng nghiêm trọng như thế ?
Huỳnh Long Vân : Sạt lở ở đồng bằng sông Cửu Long do tác động cộng hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau :
1. Các đập thủy điện thượng nguồn của Trung Quốc giữ lại khoảng 50% khối lượng phù sa thô.
2. Khai thác bừa bãi bùn cát làm biến dạng lòng sông và thay đổi dòng chảy (không chỉ Việt Nam mà Cam Bốt và Lào cũng nạo vét cát sông Mêkông để xuất khẩu).
Hai nguyên nhân nêu trên phá vỡ trạng thái cân bằng có từ lâu đời của các lớp phù sa trầm tích ở đồng bằng sông Cửu Long, khiến bờ sông bị sạt lở và bờ biển bị xói mòn khủng khiếp, riêng Cà Mau mỗi năm mất đến hàng trăm ha đất dọc bờ biển.
3. Khai phá rừng ở thượng nguồn tạo ra lũ có tác động xói mòn trong khi đó hệ thống đê bao khép kín hầu hết những vị trí thoát lũ.
4. Ghe máy có mã lực cao vận chuyển trên sông rạch.
5. Địa hình và những đặc tính địa chất của đồng bằng sông Cửu Long : đồng bằng sông Cửu Long có địa thế thấp dễ bị ngập nước và cấu tạo bởi những lớp than bùn, phù sa xốp, đất cát pha lộn, nên có độ kết dính rất thấp, do đó dễ tan rã trước những tác động của các dòng nước xoáy và sóng to. Ngoài ra đồng bằng sông Cửu Long có nhiều sông rạch chằng chịt thẳng góc với sông Tiền và sông Hậu, điều kiện để dòng chảy ở những nơi hợp lưu tạo ra những luồng xoáy ngầm bào khoét các bờ sông. Điển hình là vụ sạt lở bờ sông trong tháng 5 vừa qua ở phường Thới Lợi, huyện Ô Môn, Thành phố Cần Thơ.
RFI : Vậy cho tới nay chính quyền Việt Nam đã thực hiện những giải pháp nào để ứng phó với tình trạng sạt lở này ?
Huỳnh Long Vân : Trong nhiều năm qua, chính quyền trung ương và địa phương đã đề ra những biện pháp ứng phó như xây dựng đê biển, kè bê tông, phục hồi các rừng phòng hộ, trồng các loại cây dọc bờ sông nơi có nguy cơ sạt lở, chỉ thị thiết lập bản đồ những khu vực có nguy cơ sạt lở để gia cố và thiết lập các khu tái cư. Và trước tình trạng sạt lở nghiêm trọng trong tháng qua, thủ tướng đã đồng ý hỗ trợ 2.500 tỷ đồng đề khắc phục sạt lở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
RFI : Nhưng vì sao những giải pháp đó không có tác động gì đáng kể trong việc ngăn chận tình trạng sạt lở ở đồng bằng sông Cửu Long ?
Huỳnh Long Vân : Bờ biển đồng bằng sông Cửu Long bị sạt lở nghiêm trọng do việc Trung Quốc xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn Mêkông, khai thác nước ngầm và những tác động của biến đổi khí hậu mực nước dâng cao, mưa bão và sóng to, gió mạnh. Còn sạt lở các bờ sông là do việc khai thác bùn cát thiếu kiểm soát, bên cạnh những tác động của các đập thủy điện thượng nguồn.
Trong khi đó những giải pháp chống sạt lở hiện nay rất tạm bợ, không mang tính chiến lược bền vững và sau đây là một số dẫn chứng cho thấy Việt Nam có vẻ thiếu tự tin, kém phần tích cực trong việc khắc phục những nguyên nhân sạt lở cốt lõi nêu trên.
RFI : Phản ứng của Việt Nam đối với việc Trung Quốc, Lào và Cam Bốt xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính sông Mêkông ra sao ?
Huỳnh Long Vân : Ở Trung Đông, khi chính phủ Jordan công bố ý định xây đập trên dòng chính sông Jordan, Israel đã dọa sẽ dùng vũ lực và đã ngăn chặn được kế hoạch này. Trong khi đó, Việt Nam vì quá yếu so với Trung Quốc nên e dè và không đưa ra những phản đối hay đe dọa trả đũa nào.
Công ước quốc tế của Liên Hiệp Quốc xác định quyền sử dụng tài nguyên nước của các quốc gia nằm trong lưu vực của một dòng sông quốc tế, nhưng với điều kiện không gây tổn hại cho các quốc gia khác trong cùng lưu vực. Nhưng Việt Nam không đưa vấn đề này ra trước Liên Hiệp Quốc hay một Tòa án Quốc tế, vì biết rằng ở diễn đàn Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc có quyền phủ quyết và thái độ trịch thượng của Trung Quốc bất chấp phán quyến của Tòa án Trọng tài Thường trực về đường chữ U chín đoạn (đường lưỡi bò) ở Biển Đông cho thấy con đường pháp lý sẽ không mang lại kết quả mong muốn. Ấy là chưa kể hành động này sẽ làm mất lòng ông láng giềng khổng lồ ở phía Bắc.
Lào và Cam Bốt sẽ xây 11 đập thủy điện trên dòng chính hạ lưu Mekong và khi đưa vào sử dụng sẽ giữ thêm 30% khối lượng phù sa, vì thế tình trạng sạt lở ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn. Điều ngạc nhiên là trong số các đơn vị trúng thầu xây đập thủy điện trên dòng chính hạ lưu sông Mekong lại có một công ty của Việt Nam bên cạnh nhiều tập đoàn của Trung Quốc.
Như vậy là Việt Nam phải bó tay và chịu lép vế trước việc các quốc gia thượng nguồn khai thác tài nguyên nước gây tác hại cho đồng bằng sông Cửu Long.
RFI : Đó là nói về nguyên nhân bên ngoài, còn về những nguyên nhân nội tại, những biện pháp đã được thực hiện cũng chẳng có tác động gì ? Vì sao vậy, thưa ông ?
Huỳnh Long Vân : Nguyên nhân chủ yếu là tình trạng khai thác thiếu ý thức tài nguyên thiên nhiên.
Khai thác nước ngầm phục vụ sản xuất nông ngư nghiệp khiến nền đất đồng bằng sông Cửu Long sụt lún, làm gia tốc những tác động gây sạt lở do nước biển dâng cao dưới ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Người dân được khuyến cáo chuyển đổi canh tác lúa sang sản xuất hoa màu tiết kiệm nước ; nhưng hoa quả sản xuất không có thị trường tiêu thụ, được mùa thì mất giá gây thua lỗ, nên người dân cứ tiếp tục trồng lúa. Lúa thóc bán không hết không sợ ế ẩm, vì có thể dự trữ, không bị hư hao như rau quả.
Việt Nam đang trên đà phát triển cần tiếp tục xây dựng các cơ sở hạ tầng, các khu kỹ nghệ, nên rất cần cát bùn để làm nền nhà và mặt bằng, vì thế việc khai thác cát sẽ không bị đình chỉ và tệ hại hơn nữa là mỗi tỉnh thành trong đồng bằng sông Cửu Long được quyền tùy tiện cấp phép nạo vét cát trong sông.
Phải chăng người dân đồng bằng sông Cửu Long cam chịu số phận ngậm bồ hòn làm ngọt !
RFI : Thưa ông Huỳnh Long Vân, như vậy tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ không thể nào chấm dứt ?
Huỳnh Long Vân : Mặc dù chính quyền trung ương và địa phương rất quan tâm về những tai họa này, nhưng toàn thể bờ sông, bờ biển của đồng bằng sông Cửu Long không thể được bao bọc bởi các hệ thống đê, kè dựa trên các công nghệ tân tiến kiên cố, vì phạm vi rộng lớn, nên quá tốn kém, vượt quá khả năng tài chính của Việt Nam.
Giả sử có thực hiện được đi nữa thì bất cứ công trình nào cũng có tuổi thọ, nên sau một thời gian sẽ suy sụp, không còn hữu dụng như trường hợp đê biển ở Gành Hào, Cà Mau là một bằng chứng cụ thể. Vì thế phải chấp nhận giải pháp tìm cách gia cố những nơi có nguy cơ sạt lở. Nhưng gia cố chỗ này, thì chỗ khác sẽ bị tác động, phá sóng nơi này, thì sóng sẽ đập vào các vị trí kế cận.
Tóm lại tình trạng sạt lở đồng bằng sông Cửu Long là một kịch bản gần như không có hồi kết, hay nói khác hơn đây là một chứng bệnh trầm kha nhưng không có phương cách trị liệu hữu hiệu. Như thế thử hỏi "Con đường phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long" sẽ đi về đâu ?
Thanh Phương thực hiện
Nguồn : RFA, 09/07/2018
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất thế giới. Ít nhất 15% tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là đến từ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng vùng có 18 triệu dân này cũng là một trong những khu vực bị biến đổi khí hậu tác động nhiều nhất và chính điều này đang làm gia tăng áp lực về di cư tại đồng bằng sông Cửu Long.
Do tác động của biến đổi khí hậu, ngày càng có nhiều nông dân di cư khỏi đồng bằng sông Cửu Long.Reuters
Tác động của biến đổi khí hậu lên kinh tế
Trong một báo cáo được công bố ngày 09/01/2018, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF nhấn mạnh, Việt Nam đặc biệt dễ bị tác động của biến đổi khí hậu, bởi vì nước này có bờ biển dài đến gần 3.500 km và phần chủ yếu của tài sản kinh tế quốc gia là nằm ở những vùng đất thấp ven biển. Tính từ năm 1990 đến nay, trung bình hàng năm, thiên tai đã khiến 500 người chết và khiến Việt Nam mất đi 1% GDP.
Theo thẩm định của IMF, những tác động của biến đổi khí hậu (nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng cao, di cư do khí hậu) có thể khiến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giảm đi 10% và ảnh hưởng đến 12% dân số nước này vào năm 2021.
Trong báo cáo nói trên, IMF cảnh báo : "Biến đổi khí hậu rất có thể sẽ làm gia tăng áp lực lên môi trường : các cơn bão thường xuyên hơn và dữ dội hơn có thể sẽ gây tác hại cho mùa màng, làm giảm thu nhập của nông dân, ảnh hưởng đến an ninh lương thực và xuất khẩu hàng hóa". Định chế này dự báo thêm : " Những nguy cơ đó sẽ tác động nhiều nhất lên người nghèo, buộc họ phải di cư đến những vùng trong nội địa và đến những thành phố lớn hơn".
Đồng bằng Cửu Long mất 1 triệu dân
Theo một nghiên cứu mới đây của giáo sư Alex Chapman, Đại Học Southampton, Anh Quốc và giáo sư Văn Phạm Đăng Trì, Đại Học Cần Thơ, làn sóng di cư hiện đang gia tăng trong một thập niên qua đã khiến vùng đồng bằng sông Cửu Long mất đi 1 triệu dân trên tổng dân số 18 triệu người. Cụ thể là đã có 1,7 triệu dân di cư khỏi vùng này, trong khi chỉ có khoảng 700 ngàn dân đến định cư ở đây. Tỷ lệ di cư này là cao gấp đôi mức trung bình của cả nước.
Theo nghiên cứu của hai vị giáo sư nói trên, có nhiều yếu tố liên quan đến biến đổi khí hậu thúc đẩy di dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một số người đã phải di cư do nhà của họ bị sập vì nước biển xói mòn vùng bờ biển. Hàng trăm hộ đã phải đi nơi khác kiếm sống do tình trạng ngập mặn. Số khác thì không thể tiếp tục sống ở đây do nạn hạn hán, một hiện tượng khí hậu vừa là do tác động của biến đổi khí hậu, vừa do các đập thủy điện ở thượng nguồn.
Một nghiên cứu khác do trường Đại Học Văn Lang ở Sài Gòn thực hiện cho thấy biến đổi khí hậu là nguyên nhân chính khiến 14,5% di dân đi tìm nơi cư trú khác, tức là tương đương với 24 ngàn người mỗi năm. Con số thực tế rất có thể là cao hơn, vì tình trạng di dân còn có quan hệ chặt chẽ với nạn nghèo khó.
Phần lớn di dân là từ các cánh đồng vùng thấp do tình trạng ngập mặn ngày càng nặng, vì nước biển dâng cao khiến nước mặn tràn sâu hơn vào trong. Tình trạng này càng thêm trầm trọng do việc xây dựng các đập thủy điện trên thượng nguồn, chủ yếu là của Trung Quốc và Lào, cản trở các dòng nước ngọt chảy xuống hạ nguồn, tức là xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nước mặn đã vào sâu đến hơn 80 km trong đất liền khi xảy ra trận hạn hán 2015-2016, trận hạn hán nặng nề nhất trong vòng thế kỷ, phá hủy ít nhất 160 ngàn hectare đất canh tác.
Chính sách tái định cư còn bất cập
Chính phủ Việt Nam đã có chính sách tái định cư, ưu tiên cho những hộ nghèo và những người dễ bị tổn thương nhất, bằng cách cho vay với lãi suất thấp để họ có kinh phí di dời nhà ở và xây nhà mới. Nhưng Viện Brookings của Mỹ, sau khi xem xét việc thực hiện chính sách ở hai tỉnh Đồng Tháp và Long An, đã nhận thấy rằng chương trình này còn thiếu minh bạch. Phần lớn các hộ nói trên cho biết thu nhập của họ đã bị giảm sau khi di dời, vì nơi ở mới không thích hợp, khiến họ không thể trả các khoản vay và thế là lâm vào tình trạng nợ nần chồng chất.
Hai giáo sư Alex Chapman và giáo sư Văn Phạm Đăng Trì trong công trình nghiên cứu nói trên cũng đã lên tiếng cảnh báo về cách thức đối phó với biến đổi khí hậu. Đã có những người đã buộc phải di cư do chính những biện pháp được thực hiện nhằm bảo vệ họ trước những tác động của biến đổi khí hậu.
Hàng ngàn km đê đã được xây dựng khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long để ngăn lũ. Nhưng một số con đê này lại phá hủy hệ sinh thái của vùng. Người nghèo và những người không có đất canh tác không còn kiếm được nguồn thủy sản để mưu sinh. Mặt khác, những con đê này ngăn những chất bổ dưỡng tự nhiên do các nước lũ dẫn về các cánh đồng lúa.
Trong một bác cáo thực hiện cho Tổ chức Di cư Quốc tế IOM vào tháng 6/2016, hai nhà nghiên cứu Han Entzinger và Peter Scholten, thuộc đại học Eramus, Rotterdam, Hà Lan, cũng đã từng cảnh báo :" Dường như biến đổi khí hậu đã ảnh hưởng đến các hình thái di cư quan trọng ở miền Nam Việt Nam (chủ yếu là di cư trong nước). Một hành lang di cư đã được hình thành, nối vùng đồng bằng sông Cửu Long và các thành phố như Cần Thơ và đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh".
Phân tích của hai nhà nghiên cứu này cho thấy phần lớn hộ gia đình di dân không xem biến đổi khí hậu là lý do chính cho quyết định di dời. Có thể họ không nhìn nhận việc di cư là để ứng phó với biến đổi khí hậu, mà để thích ứng với các yếu tố khác, ví dụ như điều kiện kinh tế. Phần lớn những hộ gia đình xem biến đổi khí hậu là một lý do dẫn đến di cư thường đề cập đến các hiện tượng như xói lở đất đau, bão và lũ lụt (hơn là các hiện tượng như hạn hán và xâm nhập mặn).
Hơn nữa, các hộ gia đình di cư thường có thu nhập thấp và điều kiện nhà ở kém. Dường như các gia đình dễ tổn thương nhất thì mới phải di cư, trong khi các hộ có điều kiện nhà ở và kinh tế tốt hơn có đủ khả năng bám trụ.
Hai nhà nghiên cứu Han Entzinger và Peter Scholten dự báo rằng, cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục đối mặt với tình trạng di cư quy mô lớn từ nông thôn lên thành thị, một phần do hệ quả của suy thoái môi trường tác động lên các vùng nông thôn, và một phần do hiệu ứng thu hút của đời sống và kinh tế thành thị.
Họ cho rằng, phần nào nhu cầu di cư này có thể được giảm thiểu bằng cách đẩy mạnh các nỗ lực chống suy thoái môi trường, giải quyết hiệu quả các hệ lụy, giảm thiểu rủi ro thảm họa và tăng cường khả năng phục hồi sau thảm họa. Tuy nhiên, giải pháp này đôi khi lại không khả thi, và vì vậy di cư sẽ tiếp diễn. Do đó, theo khuyến cáo của hai nhà nghiên cứu Hà Lan, điều quan trọng nhất là phải gỡ bỏ các rào cản hiện hữu đối với di cư trong nước một cách triệt để.
Ngoài ra, theo họ, các chương trình tái định cư mà Việt Nam đã có kinh nghiệm triển khai nên được tiếp tục và cải thiện nếu phù hợp, đồng thời cũng cần đặc biệt chú ý đến việc tạo ra đầy đủ và đa dạng cơ hội nghề nghiệp lẫn cơ sở vật chất cho học tập, cho các cộng đồng phải tái định cư do suy thoái môi trường.
Các giải pháp cho Việt Nam theo IMF
Trong báo cáo ngày 09/01/2018, IMF đã kêu gọi chính phủ Việt Nam nên có chính sách sử dụng một cách bền vững các nguồn tài nguyên, đặc biệt là nước và rừng, và kiểm soát tốt hơn các phương thức trồng trọt dùng quá nhiều phân bón gây ô nhiễm nguồn nước ngầm.
Mặt khác, theo IMF, Việt Nam còn là một trong 10 quốc gia bị ô nhiễm không khí nghiêm trọng nhất thế giới, không thua gì tại các thành phố lớn và khu công nghiệp ở Trung Quốc. IMF dự báo là lượng khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính của Việt Nam có thể sẽ tăng gấp đôi trong khoảng thời gian từ 2010 đến 2020 và đến 2030 sẽ tăng gấp ba, một phần vì Việt Nam còn dựa nhiều vào các năng lượng hóa thạch. Cụ thể, 35% nguồn năng lượng của Việt Nam hiện nay là đến từ than, tăng so với mức 15% của năm 2000.
Với nhu cầu năng lượng được dự báo sẽ tăng 2,5 lần vào năm 2035 và do chưa có giải pháp nào thay thế, Việt Nam sẽ lại càng phụ thuộc vào than, cho nên sẽ rất khó mà đạt được mục tiêu cắt giảm 8% lượng khí phát thải vào năm 2030.
Trong báo cáo nói trên, IMF đã đề nghị Việt Nam một số chính sách để đối phó với tác động của biến đổi khí hậu :
* Giảm bớt nguồn năng lượng hóa thạch và gia tăng nguồn năng lượng tái tạo để phá vỡ mối liên kết giữa sản lượng và khí phát thải.
* Cung cấp cho các hộ gia đình, các doanh nghiệp và chính phủ những công cụ mạnh hơn để tiếp tục tăng trưởng xanh : đánh thuế mạnh trên các loại nhiên liệu hóa thạch để thúc đẩy nhu cầu về năng lượng sạch.
* Đầu tư vào các cơ sở hạ tầng liên quan đến khí hậu để giúp các hộ gia đình và các doanh nghiệp ứng phó với bão lụt. Thiệt hại do các thiên tai nên được tính trong các phân tích về tính bền vững của nợ công.
* Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển để gia tăng đầu tư vào các nguồn năng lượng sạch và cải tiến các công nghệ sạch.
* Chuyển dần sang việc sử dụng các xe hơi tự động, xe hơi chạy điện và chia sẻ dùng chung xe hơi để giảm nạn kẹt xe và ô nhiễm không khí ở các thành phố.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 19/02/2018
Đồng bằng sông Cửu Long, với tổng cộng 13 tỉnh, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của cả nước. Tính đến tháng 04/2017, đồng bằng sông Cửu Long đóng góp 54% sản lượng lúa, 70% lượng thủy sản nuôi trồng, 36,5% lượng trái cây, cung cấp 90% sản lượng lúa gạo xuất khẩu và 65% sản lượng thuỷ sản xuất khẩu của cả nước.
Một con kênh tại huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, Châu thổ sông Mêkông cạn khô nước từ cả tháng trước đó (Ảnh chụp ngày 08/03/2016) - AFP
Tuy nhiên, đồng bằng sông Cửu Long đã và đang đối đầu với ba thách thức lớn mang tính sống còn : Thứ nhất, tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Thứ hai, quá trình phát triển nội tại. Thứ ba, tác động do khai thác và sử dụng nước của các quốc gia ở thượng nguồn.
Nhìn chung, những thách thức mà đồng bằng sông Cửu Long đang đối phó là do tác động của con người hơn là do tác động của biến đổi khí hậu. Hôm nay, xin mời quý vị nghe phần phỏng vấn tiến sĩ Huỳnh Long Vân, thuộc Nhóm Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai-Cửu Long, Úc châu, về vấn đề này :
RFI : Thưa ông Huỳng Long Vân, trước hết về tác động của khai thác và sử dụng nước của các quốc gia ở thượng nguồn, có mối liên quan nào giữa tình trạng sạt lở trầm trọng của bờ biển đồng bằng sông Cửu Long và các đập thủy điện của Trung Quốc ?
Huỳnh Long Vân : Hiện nay, trên dòng chính sông Mekong có 8 hồ chứa thủy điện, 7 của Trung Quốc và 1 của Lào. Đồng bằng sông Cửu Long nhận khoảng 89% khối lượng nước từ thượng nguồn, và 160 triệu tấn phù sa/năm, trong đó 50% là phù sa thô. Phù sa thô là vật liệu chắn sóng bảo vệ vùng ven biển chống sạt lở và bồi lấp đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, kể từ khi các đập thủy điện của Trung Quốc vận hành, khối lượng phù sa thô này hoàn toàn bị giữ lại ở các hồ chứa nước, khiến cho dọc theo bờ biển đồng bằng sông Cửu Long hiện nay có 49 điểm/266km bị sạt lở nghiêm trọng và mỗi năm đồng bằng sông Cửu Long mất khoảng 500 ha đất.
Về sạt lở bờ sông, theo Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, miền Tây hiện có 513 điểm sạt lở, với tổng chiều dài 520 km, đe dọa cuộc sống hàng nghìn hộ dân cùng nhiều công trình hạ tầng. Tác động xói mòn của "dòng nước đói phù sa" và việc khai thác cát ở các lòng sông là nguyên nhân chính gây ra sạt lở các bờ sông. Và sạt lở dọc theo các kinh, rạch là do vận chuyển của các ghe thuyền trang bị các động cơ quá mạnh.
RFI : Vậy thì, thưa ông Huỳnh Long Vân, chúng ta phải có những giải pháp ứng phó như thế nào với tình trạng sạt lở đó ?
Huỳnh Long Vân : Đối với sạt lờ bờ biển, ta có thể thiết lập hàng rào phá sóng bằng những vật liệu rắn chắc như các trụ cột, các khối đá hoặc bê tông, đồng thời tái tạo, phục hồi rừng ngập mặn. Đối với sạt lở bờ sông, phải chấm dứt tệ nạn khai thác cát trái phép, không đúng quy hoạch. Đối với sạt lở kinh rạch, phải cấm ghe máy sử dụng các động cơ mã lực cao.
RFI : Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay còn gặp tình trạng bị sụt lún. Vậy thì nguyên nhân là vì sao và phải có giải pháp nào để ngăn chận tình trạng đó ?
Huỳnh Long Vân : Kết quả nghiên cứu của dự án " Rise and Fall" tại đồng bằng sông Cửu Long, do Đại học Cần Thơ phối hợp với Đại học Utrecht (Hà Lan) thực hiện, cho thấy sự sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long là vấn đề đáng lo ngại. Nguyên nhân là do việc khai thác nước ngầm thiếu kiểm soát và quá trình đô thị hóa. Riêng ở Cà Mau - tỉnh ngày đêm khai thác hơn 400.000 m3 nước ngầm, theo nghiên cứu của các chuyên gia thuộc Viện Địa Kỹ Thuật Hoàng Gia Na Uy, nền đất của tỉnh Cà Mau mỗi năm sụt lún 1.56-2.3cm và mảnh đất ở phần cuối của lãnh thổ Việt Nam có nguy cơ biến mất trong vài thập niên nữa.
Dưới tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng khoảng 3mm/năm, trong khi ở nhiều nơi vùng nông thôn của đồng bằng sông Cửu Long, mức độ sụt lún khoảng 10-20mm/năm. Riêng khu vực thành thị và ở các khu công nghệ, mức độ sụt lún khoảng 25mm/năm. Sụt lún còn có tác động cộng hưởng với việc mất nguồn phù sa thô, khiến cho bờ biển bị sạt lở trầm trọng hơn, mất rừng, nước mặn xâm nhập sâu vào nội vùng, các sông và các tầng nước ngầm. Riêng đối với tỉnh Cà Mau, nếu để tình trạng sạt lở sụt lún tiếp tục như hiện nay, mỗi năm có thể mất đến 90.000ha .
Để ngăn chặn tình trạng sụt lún ở đồng bằng sông Cửu Long, các chuyên gia đều đồng ý là cần có biện pháp hạn chế khai thác nguồn nước ngầm và đưa ra những đề xuất như sau :
Ở vùng thượng nguồn Châu thổ (Đồng Tháp, Khu Tứ Giác Long Xuyên...), có nguồn nước mặt dồi dào, nên có thể xây dựng các hồ trử nước trong mùa lũ, giảm sản xuất lúa vụ 3 và giảm xây dựng đê bao để vừa giữ được nước mặt, vừa bổ cập cho nước ngầm.
Ở vùng giữa của Châu thổ với các đô thị như Cần Thơ, Long An, Mỹ Tho, Vĩnh Long, phải triệt để cấm khai thác nước ngầm, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp trang bị công nghệ tái sử dụng nước thải sau khi đã được xử lý.
Ở vùng ven biển, cần xây dựng các hồ chứa nước mưa, kết hợp với việc xây dựng các đường ống dẫn nước ngọt từ khu vực thượng nguồn Châu thổ.
Được biết, tỉnh Cà Mau đang triển khai kế hoạch xây dựng các hồ chứa nước ngọt, có diện tích từ 200 ha đến 300 ha. Bên cạnh đó, địa phương cũng dự kiến tận dụng một số các tuyến sông, kinh, rạch để tích trữ nước ngọt phục vụ sản xuất. Bến Tre cũng đã tiến hành xây các hồ chứa nước ngọt có dung tích 1 triệu m3.
Chính phủ cũng đang tiến hành kế hoạch đầu tư 1,7 tỷ đôla vào dự án cung cấp 200.000-300.00 m3/ngày đêm nước ngọt, lấy từ sông Hậu cung cấp cho 7 tỉnh thành của miền Tây sông Hậu.
Ngoài ra, hiện nay công nghệ biến nước mặn thành ngọt bằng những kỹ thuật Nano và Reverse Osmosis tương đối rẻ tiền, nên thiết nghĩ đây cũng là một giải pháp khả thi cần được lưu ý.
RFI : Riêng Cần Thơ thì hiện nay bị ngập vào mùa nước nổi. Tác động của các đê bao là như thế nào ? Vì sao Cần Thơ và các thành phố khác bị ngập khi có mưa to ?
Huỳnh Long Vân : Các đê bao ở Đồng Tháp và khu Tứ giác Long Xuyên được xây dựng để ngăn chận nước lũ tràn vào ruộng đồng của vùng này giúp canh tác lúa vụ 3. Kế hoạch này dẫn đến hậu quả tai hại là gần như toàn bộ khối nước lũ theo sông Tiền và sông Hậu đổ xuống các vùng phía dưới như Cần Thơ, Sóc Trăng, Long An, Vĩnh Long. Những tỉnh thành này vốn có nền đất rất thấp so với mặt biển và không được bao che bởi các bờ đê, nên nước lũ tràn bờ ngập phủ nhiều tuyến đường trong thành phố, đặc biệt ở những nơi gần các kinh rạch.
Ở Cần Thơ vào tháng 09 và 10 vừa qua, mực nước sông Hậu đã lên cao đến 1,90m, mức báo động 3, cùng lúc với triều cường, nên một số tuyến đường như các đường 30 tháng 4, Châu Văn Liêm, Mậu Thân ở quận Ninh Kiều, đường Bùi Hữu Nghĩa, ở quận Bình Thủy bị ngập nước (mặc dù mặt đường đã được nâng cao nhiều lần với các lớp nhựa), khiến xe cộ ì ạch, cư dân bì bõm trong nước. Riêng ở Sóc Trăng, nông dân phải đốn mía dù còn non, để tránh bị ngập úng.
Trong tháng 09 vừa qua, tại Hội nghị thảo luận chiến lược chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long để thích ứng với biến đổi khí hậu, tổ chức tại Cần Thơ, thủ tướng đã đồng ý cấp ngân khoản để kiện toàn, nâng cao khả năng xả lũ của đập Trà Sứ và khuyến cáo giảm dần canh tác lúa vụ 3. Ngoài ra, được biết thành phố Cần Thơ cũng có dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải và ứng phó với tình trạng ngập úng ở hai quận Ninh Kiều và Bình Thủy.
Ngoài ảnh hưởng của đê bao, thành phố Cần Thơ và một số nơi khác như ở thành phố Hồ Chí Minh, mỗi khi có mưa lớn, một số nơi trong thành phố cũng bị ngập nước. Nguyên nhân là do hệ thống thoát nước cũ kỹ hay quá sơ sài ; ngoài ra cũng do một số kinh rạch, vốn là nơi nước rút, nay được lấp đất để làm mặt bằng trong kế hoạch đô thị hóa ; mở rộng và xây thêm đô thị dàn trải, khiến một diện tích lớn đất đai bị xi măng hóa, nên việc thoát nước bị chậm lại. Tình trạng ngập nước này trở nên tồi tệ hơn nếu xảy ra cùng lúc với triều cường.
RFI : Trước những tác động của biến đổi khí hậu và việc Thái Lan chuyển dòng nước sôngMêkông và Cam Bốt cũng có ý định muốn sử dụng nguồn nước ở Biển Hồ để gia tăng sản xuất nông nghiệp, đồng bằng sông Cửu Long phải có kế hoạch ứng phó như thế nào trước tình trạng sẽ thiếu nước trầm trọng vào mùa khô ?
Huỳnh Long Vân : Thái Lan định làm dự án Khon-Loei-Chi-Mun để hàng năm chuyển 4,5 tỉ m3 nước từ sông Mekong qua sông Loei, để tưới vùng Đông Bắc. Cam Bốt cũng rục rịch muốn sử dụng khối nước ở Biển Hồ để mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp.
Trước đây, vào năm 1989, Thái Lan đã triển khai, nhưng thất bại, một dự án tương tự để chuyển nước sông Mekong, trong kế hoạch gia tăng sản xuất nông nghiệp ở khu vực Isan, miền Đông Bắc Thái Lan. Còn ý định của Cam Bốt hiện còn trong giai đoạn thai nghén.
Tuy nhiên, thiết nghĩ nhà chức trách Việt Nam cũng nên tiến hành xây dựng các hồ chứa nước, để ứng phó với tình trạng thiếu nước trầm trọng có thể xảy ra trong tương lai và xem đây như một "biện pháp không hối tiếc", nghĩa là nếu kế hoạch của Thái Lan một lần nữa thất bại và Cam Bốt từ bỏ ý định của mình, thì việc xây dựng các hồ chứa nước cũng sẽ góp phần đáng kể vào giải pháp ứng phó với tình trạng sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long do việc khai thác nước ngầm quá đáng. Và trước những toan tính này của hai quốc gia láng giềng, việc giảm dần canh tác lúa vụ 3 để tiết kiệm nước cũng là điều phải dứt khoát.
RFI : Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, tình trạng ngập úng ở vùng Đồng Tháp, Tứ Giác Long Xuyên sẽ trầm trọng hơn và nước mặn sẽ lấn sâu vào nội địa khiến diện tích canh tác giảm dần. Vậy phải có giải pháp nào để sản xuất và cuộc sống người dân không bị ảnh hưởng hoặc tồi tệ hơn ?
Huỳnh Long Vân : Ngày 17/11/2017, thủ tướng chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành nghị quyết 120/NQ-CP, công bố chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với biến đổi khí hậu. Chiến lược này xác định biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao là xu thế tất yếu, một thách thức lớn lao đối với đồng bằng sông Cửu Long và vạch ra đường hướng phát triển kinh tế đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai, bao gồm hai tiểu vùng nêu ra trong câu hỏi trên.
Nghị quyết còn nhấn mạnh là việc phát triển đồng bằng sông Cửu Long phải phù hợp với điều kiện thực tế, và trong quy hoạch không chỉ có nước ngọt, mà nước lợ, nước mặn cũng được xem là nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế.
Và nghị quyết120/NQ-CP đưa ra một số giải pháp tổng thể, trong đó có phần thúc đẩy phát triển kinh tế và xây dựng đô thị thích hợp với các tiểu vùng sinh thái :
Vùng ngập sâu (Đồng Tháp và một phần của khu Tứ giác Long Xuyên) trở thành vùng quản lý ngập và trữ nước ngọt, nhằm chủ động cung cấp nước ngọt cho toàn thể Châu thổ ; diện tích lúa vụ 3 sẽ được giảm dần và lối sản xuất nông nghiệp độc canh, tăng sản lượng lúa gạo sẽ được chuyển sang luân canh với các loại cây trồng, thủy sản khác để tận dụng nước lũ ; hoàn chỉnh các công trình xây dựng những cụm dân cư vượt lũ và phát triển đô thị ở tiểu vùng này được hạn chế.
Vùng sinh thái nước ngọt (nằm giữa sông Tiền, sông Hậu và Tây sông Hậu) là vùng sản xuất nông nghiệp (lúa, trái cây và hoa màu…). Đây là tiểu vùng thuận lợi cho phát triển đô thị, nhưng không dàn trải, để dành đất nông nghiệp màu mở cho sản xuất.
Vùng ven biển (ven biển Đông, biển Tây và bán đảo Cà Mau là vùng có những chuyển đổi, sẽ mở rộng nuôi trồng thủy sản nước lợ trong điều kiện nước mặn xâm nhập, gắn với trồng rừng ngập mặn, và phát triển luôn cả ngành nuôi hải sản ở vùng biển ngoài khơi (nuôi trồng rong biển, cá biển, tôm hùm, ..). Việc mở rộng đô thị ở vùng này cũng cần hạn chế, để giảm rủi ro do thiên tai gây ra bởi biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Giải pháp nêu trên không can thiệp thô bạo vào điều kiện tự nhiên, không xây dựng các đê biển bao bọc toàn bộ vùng Châu thổ đồng bằng sông Cửu Long, như ở Hà Lan, nhưng dựa vào tính đặc trưng của từng tiểu vùng để thúc đẩy phát triển đô thị và kinh tế của mỗi khu vực, đảm bảo cuộc sống của người dân trong Châu thổ. Giải pháp này dựa theo phương châm "chủ động sống chung với lũ, với nước lợ và mặn" để biến thách thức thành cơ hội.
Còn đối với vấn đề nước biển dâng khiến diện tích canh tác bị giảm dần thì trong mô hình phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với biến đổi khí hậu cho thấy : "kinh tế nông nghiệp" có chất lượng cao sẽ thay thế lối canh tác nông nghiệp trước đây chú trọng đến sản lượng để đảm bảo an ninh lương thực ; những giống lúa đặc sản, cao sản sẽ được lựa chọn và gieo gặt trên những cánh đồng lớn bằng phương tiện cơ giới ; công nghệ chế biến thực phẩm sẽ được kết hợp để gia tăng chuổi giá trị của sản phẩm nông nghiệp.
Như thế, mặc dù diện tích canh tác sẽ bị thu hẹp, nhưng mức thu nhập của nông dân sẽ được nâng cao.
Thanh Phương thực hiện
Nguồn : RFI, 11/12/2017