Mỹ tuyên bố thẳng thừng Trung Quốc là ‘cường quốc xét lại’ trong chiến lược an ninh mới của mình và gọi những hành động của Trung Quốc là phá hoại ‘trật tự quốc tế dựa trên luật pháp’ trong khi các chuyên gia nhận định rằng chính sách ‘Nước Mỹ trên hết’ của chính quyền Donald Trump khiến Mỹ khó lòng thực thi được chiến lược này.
Từ năm 2013, Trung Quốc đã xây nhiều đảo nhân tạo trên Biển Đông để biến thành những căn cứ quân sự kiểm soát sự đi lại của tàu thuyền trên trục lộ giao thông hàng hải Đông Á
Trong thuật ngữ quan hệ quốc tế, ‘cường quốc xét lại’ (revisionist power) tức là cường quốc mới nổi đòi sắp xếp lại trật tự thế giới có lợi cho mình và do đó đe dọa quyền lợi của ‘cường quốc nguyên trạng’ (status-quo power).
Sự đối đầu giữa ‘cường quốc nguyên trạng’ và ‘cường quốc xét lại’ dẫn đến điều mà các học giả quan hệ quốc tế gọi là ‘bẫy Thucydides’, tức là nguy cơ chiến tranh giữa hai bên. Lịch sử ghi nhận những lần trỗi dậy của ‘cường quốc xét lại’ đều dẫn đến chiến tranh.
Báo cáo Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương do Bộ Quốc phòng Mỹ công bố hôm 1/6 đã đặt ‘cường quốc xét lại’ Trung Quốc là mối đe dọa hàng đầu đối với Mỹ, theo sau là Nga – ‘phần tử hiểm ác đang hồi sinh’ – và cuối cùng là Triều Tiên – ‘quốc gia lưu manh’.
Báo cáo này trình bày về nội dung an ninh, một trong ba trụ cột của chiến lược mới này bên cạnh kinh tế và quản trị.
‘Phá hoại trật tự quốc tế’
Mặc dù thừa nhận là sự trỗi dậy về chính trị, kinh tế, quân sự của Trung Quốc là một trong những yếu tố định hình thế kỷ 21, báo cáo này cho rằng khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang đối mặt với một Trung Quốc ngày càng tự tin và quả quyết vốn sẵn sàng chấp nhận xung đột để theo đuổi các lợi ích chính trị, kinh tế, an ninh ngày càng rộng lớn của mình.
"Có lẽ không có quốc gia nào hưởng lợi nhiều hơn từ trật tự thế giới và khu vực mở và tự do hơn Trung Quốc", báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ viết. "Ấy vậy mà trong khi người dân Trung Quốc khao khát thị trường tự do, công bằng và pháp trị, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đã phá hoại trật tự quốc tế từ bên trong bằng cách tận dụng những lợi ích nó đem lại đồng thời làm xói mòn các giá trị và nguyên tắc của trật tự dựa trên pháp luật".
Lầu Năm Góc đánh giá mục tiêu của Trung Quốc trong lúc nước này ngày càng vươn lên về kinh tế và quân sự là ‘bá chủ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong tương lai gần và cuối cùng là áp đảo toàn cầu về lâu dài’.
Để thực hiện mục tiêu này, về quân sự, Bắc Kinh đang đầu tư vào một phạm vi rộng lớn các chương trình quân sự và vũ khí nhằm cải thiện khả năng thực thi sức mạnh, hiện đại hóa năng lực hạt nhân và tiến hành các chiến dịch ngày càng phức tạp trong các lĩnh vực như không gian, không gian mạng và tác chiến điện tử.
"Trung Quốc cũng đang phát triển một loạt các năng lực chống tiếp cận vốn có thể được dùng để ngăn các nước hoạt động ở những khu vực ngoài biên của họ, trong đó có vùng trời và vùng biển vốn mở rộng cho các nước sử dụng", báo cáo viết.
Lầu Năm Góc chỉ ra hai khu vực đáng lo ngại với các hoạt động quân sự của Trung Quốc là Biển Đông và eo biển Đài Loan. Ở Biển Đông, Trung Quốc bị chỉ trích là tiếp tục quân sự hóa vùng biển này với việc lắp đặt các phi đạn hành trình chống hạm và phi đạn đất đối không tầm xa trên những thực thể có tranh chấp thuộc quần đảo Trường Sa và triển khai các lực lượng bán quân sự trong các tranh chấp lãnh thổ với các nước khác.
"Những hành động này làm nguy hại cho dòng chảy thương mại tự do, đe dọa chủ quyền của các quốc gia khác và phá hoại ổn định khu vực. Những hành động như thế không nhất quán với các nguyên tắc của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do", báo cáo viết.
Bộ Quốc phòng Mỹ cũng chỉ ra rằng ‘Trung Quốc sử dụng tuần tự các bước đi nhỏ, dần dần, nằm ở khoảng giữa quan hệ hòa bình và thù địch công khai để đạt được mục tiêu của mình trong khi giữ cho chúng dưới ngưỡng của một cuộc xung đột vũ trang". Chiến lược này biết đến với tên gọi ‘vùng xám’ do tính lờ mờ, không rõ ràng của nó khiến các nước bị ảnh hưởng khó lòng đáp trả quả quyết.
Còn đối với Đài Loan, Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc đã tăng cường tuần tra xung quanh vùng trời Đài Loan với các máy bay chiến đấu, máy bay ném bom và máy bay do thám.
"Trong thập niên qua, Trung Quốc tiếp tục tập trung vào các năng lực chuẩn bị cho các tình huống liên quan đến Đài Loan. Trung Quốc không bao giờ từ bỏ sử dụng sức mạnh quân sự đối với Đài Loan và tiếp tục phát triển cũng như triển khai các khí tài quân sự tối tân cần cho một chiến dịch quân sự có khả năng", báo cáo viết.
‘Bắt nạt về kinh tế’
Báo cáo chiến lược mới của Mỹ cũng nêu mối quan ngại về những hành vi kinh tế mang tính ‘bắt nạt’ của Trung Quốc đối với các nước nhỏ có tranh chấp. Đây là điểm mới so với chiến lược tái cân bằng dưới thời của cựu Tổng thống Barack Obama trong bối cảnh chính quyền Donald Trump có tranh chấp với Trung Quốc trên một loạt vấn đề từ thương mại đến các chính sách cạnh tranh không công bằng.
Trong những hành vi kinh tế mang tính ‘bắt nạt’, Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp phi quân sự, bao gồm các công cụ kinh tế, để gây sức ép với các nước có căng thẳng chính trị với Trung Quốc.
"Trung Quốc sử dụng các biện pháp dẫn dụ và trừng phạt về kinh tế, các chiến dịch gây ảnh hưởng kết hợp cùng đe dọa quân sự ngầm để thuyết phục các nước tuân theo nghị trình của họ", báo cáo viết.
Theo Lầu Năm Góc thì đầu tư của Trung Quốc ‘thường đem đến những tác động kinh tế tiêu cực hay cái giá phải trả đối với chủ quyền của những nước tiếp nhận đầu tư’ do sự đầu tư và cấp vốn của Trung Quốc ‘bỏ qua những cơ chế thị trường thông thường’ sẽ ‘dẫn đến chuẩn mực thấp và giảm thiểu cơ hội cho các công ty và nhân công bản địa và gây tích lũy nợ đáng kể’.
"Các thỏa thuận làm ăn khuất tuất và một chiều không nhất quán với các nguyên tắc của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do".
Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ không hề thay đổi phạm vi hoạt động dưới chiến lược mới "Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương mở và tự do "
Báo cáo dẫn lời của Đô đốc Philip S. Davidson, Tư lệnh Bộ chỉ huy Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, trong một buổi điều trần trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện hồi tháng 2 năm nay rằng cách vận dụng các đòn bẩy kinh tế của Bắc Kinh ‘có thể làm tổn hại đến quyền tự quyết của các nước trong khu vực… tiền đến dễ dàng trong ngắn hạn nhưng đều đi kèm điều kiện ràng buộc, nợ không bền vững, tính minh bạch sụt giảm, những giới hạn của nền kinh tế thị trường và khả năng mất kiểm soát tài nguyên thiên nhiên’.
Tuy nhiên, báo cáo nói rằng Mỹ ‘không chống đối những hoạt động đầu tư của Trung Quốc miễn là họ tôn trọng chủ quyền và pháp trị, cấp vốn có trách nhiệm, và hoạt động một cách minh bạch và bền vững về kinh tế’.
"Nhưng Mỹ có quan ngại nghiêm trọng đối với khả năng Trung Quốc biến những gánh nặng nợ không bền vững của các nước mượn nợ thành quyền tiếp cận chiến lược và quân sự cho Trung Quốc, bao gồm việc chiếm hữu các tài sản thuộc chủ quyền quốc gia làm vật thế nợ", báo cáo viết.
‘Không nhất thiết xung đột’
Trên tờ Diplomat, nhà phân tích chính trị Ankit Panda bình luận rằng việc báo cáo này xem Trung Quốc là ‘đối thủ cạnh tranh chiến lược’ là điều khác biệt đáng quan trọng nhất nhưng cũng ít gây bất ngờ nhất so với chiến lược ‘xoay trục’ hay ‘tái cân bằng’ sang Châu Á của ông Obama vốn là nền tảng chủ chốt cho chiến lược mới này dựa vào để phát triển thêm.
"Chính quyền Obama, vốn rất không muốn đối đầu hay cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc, đã né tránh gọi Trung Quốc là ‘cường quốc xét lại’ và giữ cho cơ chế cạnh tranh với Bắc Kinh ở mức độ ngấm ngầm. Việc báo cáo chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đưa điều này thành chủ đề trọng tâm là điều ít gây ngạc nhiên nhất", ông Panda phân tích.
Trao đổi với VOA, Giáo sư Carl Thayer từ Học viện Quốc phòng Autralia, nói rằng việc Mỹ gọi Trung Quốc là ‘cường quốc xét lại’, vốn đã xuất hiện từ Chiến lược An ninh Quốc gia của Mỹ, không nhất thiết có hàm ý nói về sự xung đột không thể tránh khỏi giữa hai nước mà là Trung Quốc ‘đang hành xử không tuân thủ luật lệ và chuẩn mực’.
"Bản báo cáo đã nói hết sức thành thực rằng Trung Quốc tìm cách trở thành bá chủ ở khu vực Thái Bình Dương và muốn có trở thành cường quốc áp đảo toàn cầu. Cho nên đó là thách thức đối với Mỹ", ông Thayer giải thích.
"Trung Quốc đang có sự phát triển quân sự cũng như kinh tế và không gian mạng – điều này có nghĩa là Trung Quốc có thể dùng thế mạnh này để thúc đẩy lợi ích của họ", ông nói thêm. "Và điều này thách thức trật tự quốc tế dựa trên luật lệ".
Tuy nhiên, ông Thayer cũng lưu ý rằng bản báo cáo của Lầu Năm Góc cũng nói rằng nếu quân đội hai nước tiếp tục gặp gỡ và cùng nhau xác định các luật lệ để hành xử thì họ có thể tránh hiểu lầm và do đó giảm nhẹ nguy cơ về một cuộc đối đầu không tránh khỏi giữa cường quốc xét lại và cường quốc nguyên trạng.
Theo ông Thayer thì bản báo cáo nhấn mạnh việc Trung Quốc có những hành động quả quyết nhưng ‘giữ cho chúng dưới ngưỡng gây ra một cuộc xung đột’, tức chiến thuật ‘vùng xám’, và nhờ vào đó, họ từng bước họ có thể làm xói mòn vị thế áp đảo mà Mỹ có được ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương kể từ khi kết thúc Đệ nhị Thế chiến.
Trả lời câu hỏi của VOA rằng cách đánh giá Trung Quốc của chính quyền Trump khác với chiến lược ‘tái cân bằng’ của chính quyền Obama như thế nào, ông Thayer nói chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ‘thẳng thừng hơn’ trong việc chỉ đích danh những ‘hành vi xấu’ của Trung Quốc.
"Sự ‘xoay trục’ của chính quyền Obama chỉ là nói rằng lợi ích của nước Mỹ nằm ở Châu Á-Thái Bình Dương đang vươn lên do sức nặng kinh tế quan trọng của khu vực này cho nến Mỹ phải xác định lại các ưu tiên", ông giải thích.
Tuy nhiên ông cho rằng việc gọi tên là ‘Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do’ chỉ là một sự ‘thay đổi cách gọi’ so với thời Obama.
"Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ không hề thay đổi phạm vi hoạt động dưới chiến lược mới này", ông nói và bày tỏ nghi ngờ rằng chính quyền Trump sẽ thật sự chú tâm đến khu vực này khi mà nguồn lực của nước Mỹ tiếp tục bị căng ra cho nhưng ưu tiên khác trong lúc ông Trump đang bận tâm về vấn đề Iran".
Sự thất thường của ông Trump
Mặc dù khen ngợi bản báo cáo của Lầu Năm Góc về chiến lược mới, ông Thayer nói rằng từng vấn đề cụ thể nào muốn thành hiện thực ‘đều phải thu hút sự chú ý của ông Trump’.
"Cho dù chiến lược có tốt cũng trở thành vô nghĩa bởi vì anh phải thực hiện những gì Tổng thống muốn", ông nói.
"Anh có một chiến lược về quân sự quốc phòng có gắn kết với khía cạnh kinh tế. Và nếu ông Trump có thể đạt được thỏa thuận với ông Tập (về thương mại tại hội nghị thượng đỉnh G-20 sắp tới ở Nhật), ông ấy có thể ra bất cứ quyết định nào về chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nếu muốn", ông nói thêm.
"Do đó nó khiến các đồng minh của Mỹ bất an".
Khi được hỏi mục tiêu ‘kết nối’ (promoting a networked region), tức là lôi kéo các nước đồng minh và đối tác của Mỹ cùng xây dựng một mạng lưới an ninh chung, như báo cáo nêu ra có thể thực hiện được hay không khi ông Trump dị ứng với chủ nghĩa đa phương và đề cao phương châm ‘Nước Mỹ trên hết’, ông Thayer nhắc lại trên vấn đề thương mại, chính sách của ông Trump chỉ là ‘quý vị hoặc phải đạt thỏa thuận thương mại với chúng tôi hoặc chúng tôi sẽ đánh thuế quý vị’.
Ông đưa ra ví dụ là ông Trump đe dọa các đồng minh Nhật và Hàn Quốc phải tái đàm phán các thỏa thuận thương mại với Mỹ trong khi Mỹ có lợi ích an ninh chung với các nước này trên vấn đề Triều Tiên và gọi đó là ‘chiến lược rối rắm của Mỹ’.
"Không có chủ nghĩa đa phương gì hết trên vấn đề kinh tế trong chiến lược của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương", ông nói và dẫn ra việc ông Trump đã hủy Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ thời Obama ngay khi lên nắm quyền trong khi Việt Nam, một đối tác quan trọng trong chiến lược an ninh của Mỹ, là nước được hưởng lợi nhiều nhất.
Trong khi đó, Trung Quốc đã đổ tiền bạc để thực hiện Ý tưởng Vành đai-Con đường nhằm lôi kéo các nước về phía mình, còn ông Trump đã bỏ qua các diễn đàn khu vực ở Singapore và Papua New Guinea hồi năm ngoái để cho phó Tổng thống Mike Pence đi thay.
"Chủ nghĩa đa phương là vấn đề rất được coi trọng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và nhất là đối với các nước ASEAN. Trung Quốc đang làm tốt hơn Mỹ bằng cách xuất hiện (tại các diễn đàn khu vực) và vung tiền ra", ông Thayer giải thích.
Vì sự rối rắm, không rõ ràng và thiếu nhất quán trong các chính sách của ông Trump mà các nước trong khu vực ‘phải đề phòng’ bởi vì ‘họ không biết mọi chuyện sẽ xảy đến như thế nào’, ông phân tích, chẳng hạn bất thình lình ông Trump quyết định đánh thuế đối với Việt Nam.
Ông Thayer dẫn lại câu trả lời của ông Trump trong một cuộc phỏng vấn với New York Times hồi năm 2017 rằng vũ khí của ông để giải quyết tất cả mọi vấn đề trên thế giới, từ khủng hoảng cho đến đàn áp, là ‘thuế quan và thuế quan’.
Ông cho rằng việc ông Trump chỉ tập trung vào cán cân thương mại trong các vấn đề ở khu vực đã ‘bóp méo bản chất mối quan hệ’ và cách hành xử của Mỹ ‘làm suy yếu vai trò lãnh đạo’ của chính họ trong khu vực.
"Nếu anh nhảy lên một con tàu mà có thể đổi hướng ngay ngày mai thì anh sẽ về đâu ?" ông nói ví von về lập trường các nước trong khu vực trước sự thất thường của Mỹ.
Biển Đông bị đẩy ra sau ?
Khi được hỏi nếu ông Trump quan tâm đến vấn đề thương mại như vậy, liệu ông có bỏ qua hay coi nhẹ Biển Đông hay không, ông Thayer cho rằng nếu ông Trump có thể đạt được thỏa thuận thương mại với Trung Quốc, ông có thể đề cao khả năng đàm phán của mình để đem lại lợi ích cho nước Mỹ với các cử tri. Do đó, vấn đề Biển Đông có thể bị đẩy ra ngoài danh sách ưu tiên (của ông Trump).
"Trong suốt chiến dịch tranh cử, ông Trump đã nói về việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo trên Biển Đông. Nhưng sau đó chúng ta hiếm khi nghe ông Trump nói một lời về việc này bởi vì ông ấy tập trung vào thỏa thuận thương mại với Trung Quốc", ông Thayer nêu ví dụ và cho rằng Biển Đông sẽ càng bị lu mờ trong nghị trình của chính quyền Trump nếu căng thẳng dâng cao ở eo biển Đài Loan.
Ông cũng chỉ trích việc báo cáo chiến lược mới này chỉ nêu việc Trung Quốc triển khai khí tài ra các hòn đảo nhân tạo trên Biển Đông mà không nêu ra chiến lược gì để đối phó và để buộc Trung Quốc ‘phi quân sự hóa’.
"Chúng ta không thật sự thấy điều này mà chúng ta chỉ thấy hành động nhỏ giọt", giáo sư Thayer nói. "Hải quân Mỹ vẫn duy trì các cuộc tuần tra tự do hàng hải thường xuyên nhưng các cuộc tuần tra này không thách thức chủ quyền quá mức của Trung Quốc trên Biển Đông".
"Theo tôi thì Mỹ không có một chiến lược bao trùm để kết nối các biện pháp kinh tế quân sự lại với nhau để hướng đến một nỗ lực nhất định".
"Do đó Biển Đông được để cho sôi nhẹ, được để lại phía sau và vẫn chưa liên quan đến các cuộc đàm phán thương mại", ông Thayer nói thêm.
"Mỹ muốn điều gì ? Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do ? Tự do thương mại ? Thế còn phi quân sự hóa Biển Đông vốn là tuyến hàng hải huyết mạch của thế giới thì sao ?" giáo sư Thayer đặt vấn đề.
Khó lôi kéo các nước ?
Khi được yêu cầu so sánh giữa hai chiến lược ‘Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do’ của chính quyền Trump và ‘tái cân bằng’ (tức ‘xoay trục’) của chính quyền Obama, chuyên gia này cho rằng chiến lược mới ‘tìm cách xử lý toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương bao gồm các đảo quốc Nam Thái Bình Dương.’
"Nhiều yếu tố trong chính sách xoay trục của ông Obama, chẳng hạn như triển khai thêm nhiều máy bay hiện đại, nhiều tàu chiến đến khu vực vẫn sẽ tiếp tục", ông Thayer nói.
Tuy nhiên, giáo sư Thayer cho rằng trong khi ông Obama chuyển toàn bộ sự quan tâm từ khu vực Trung Đông của chính quyền George W. Bush sang khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và tập trung xây dựng cơ chế đa phương, thì ông Trump đã đảo ngược cam kết đối với thỏa thuận hạt nhân Iran khiến tình hình Iran tồi tệ hơn làm cho chính quyền ông khó lòng tập trung vào khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
"Và chính quyền Trump đã làm suy giảm cơ chế đa phương vốn làm suy yếu cấu trúc của khu vực một cách cơ bản".
Vẫn theo giáo sư Thayer, việc chiến lược mới của Mỹ dùng vấn đề chủ quyền để kêu gọi sự hợp tác của các nước đối phó Trung Quốc sẽ không hiệu quả.
Ông nêu trường hợp Việt Nam ‘sẽ nghe theo Mỹ ở một mức độ nào đó’ nhưng nước này ‘không muốn bị rơi vào cái bẫy nếu như họ liên minh vĩnh viễn với Mỹ chống lại Trung Quốc’.
Campuchia là một trường hợp còn khó hơn, theo ông Thayer, vì Mỹ không thể dùng vấn đề chủ quyền quốc gia ra chiêu dụ Phnom Penh được trong lúc chính quyền Hun Sen phá hoại dân chủ và đàn áp khốc liệt phe đối lập.
"Nếu anh là Hun Sen ở Campuchia với chế độ một đảng (CPP) thì Trung Quốc sẽ không làm gì anh chừng nào anh vẫn còn nhờ vả họ và chừng nào anh vẫn còn ủng hộ các chính sách của họ. Tôi không biết Mỹ sẽ nói với Campuchia là chúng tôi sẽ giúp bảo vệ chủ quyền của quý vị như thế nào trong khi các nhà lập pháp Mỹ sẽ chĩa mũi dùi vào các vấn đề nhân quyền", ông giải thích.
Riêng về Úc, một đồng minh thân cận có hiệp ước với Mỹ, ông Thayer cho rằng Úc cũng trong thế khó không thể hùa về cùng với Mỹ đối phó Trung Quốc.
"Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Úc. Khi nước Mỹ trong chiến lược của mình đề cập đến an ninh mạnh, ăn cắp sở hữu trí tuệ… chúng tôi (ông Thayer là người Úc) đã chịu tất cả các hình thức chiến tranh chính trị và tạo ảnh hưởng của Trung Quốc", ông Thayer phân tích. "Nhưng chúng tôi không thể quay lại chống Trung Quốc vì Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn".
"Nước nào (trong khu vực) sẽ có lập trường chống Trung Quốc đây ? Myanmar, Campuchia, hay Thái Lan ? Kể cả Malaysia vốn độc lập hơn nhưng cũng không chống Trung Quốc".
Trên tờ Diplomat, ông Prashanth Parameswaran, biên tập cấp cao của tờ báo này, cũng có nhận định tương tự rằng chiến lược mới của Mỹ sẽ gặp khó khăn trong việc chiêu dụ các nước – bao gồm cả các đối tác hiện tại mà nguyên nhân ông chỉ ra là ‘sự không sẵn sàng’ hay ‘bất an với các chính sách của chính quyền Trump vốn làm tổn hại các nguyên tắc chi phối của một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do, chẳng hạn chủ nghĩa bảo hộ hay sự ngờ vực đối với các luật lệ và thỏa thuận quốc tế.
Ngọc Lễ
Nguồn : VOA, 22/06/2019
Nếu Mỹ mong muốn một "Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở", như Ngoại trưởng Rex Tillerson đã hối thúc và Tổng thống Mỹ Donald Trump và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã thảo luận trong cuộc gặp gần đây giữa họ ở Tokyo, thì sẽ không có 2 cường quốc nào quan trọng bằng Ấn Độ và Nhật Bản.
Thủ tướng Nhật Shinzo Abe và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi
Hai nước này nằm trong số các quốc gia quan ngại nhất về an ninh trong khu vực và cũng ngày càng sẵn sàng cộng tác với nhau về vấn đề này.
Mối quan hệ giữa 2 quốc gia – vốn xa xôi về mặt lịch sử và chiến lược – đã phát triển ngày càng mạnh mẽ dưới sự quản lý của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, với việc thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ cấp cao (Abe đã tới New Delhi để thăm Modi vào tháng 10/2017) kết hợp với những sự trao đổi ngày càng thường xuyên và sâu sắc hơn ở các cấp độ ngoại giao, quốc phòng và kinh doanh.
Lý do khiến 2 quốc gia này đến với nhau là nỗi lo âu chiến lược chung về sự trỗi dậy của Trung Quốc, đặc biệt là các tham vọng chính sách đối ngoại của nước này ở Châu Á. Đối với 2 nước này, sự quyết đoán trên biển của Bắc Kinh ở các biển Hoa Đông và Biển Đông cũng như ở khu vực Ấn Độ Dương, và việc nước này thúc đẩy mở rộng tầm ảnh hưởng địa chính trị của mình vượt ra ngoài khu vực Đông Á thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) và Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) là đặc biệt đáng báo động. Để đáp lại, Ấn Độ và Nhật Bản có cùng cảm giác về mục đích của việc thúc đẩy trật tự hiện tại trong khu vực, vốn được dựa trên các thể chế minh bạch, sự quản trị tốt và luật pháp quốc tế, và làm lợi cho 2 nước này bằng việc đảm bảo các chuỗi cung ứng an toàn và quyền tiếp cận công bằng tới nguồn lực.
Ngoài các mối quan ngại chung của 2 quốc gia về sự trỗi dậy của Trung Quốc, còn có mối lo âu rằng uy tín của Mỹ đang suy yếu. Bất chấp các nỗ lực "tái cân bằng" sang Châu Á-Thái Bình Dương của chính quyền Barack Obama, Washington đã không thể làm dịu đi các mối quan ngại của khu vực rằng ảnh hưởng của nước này đang giảm sút. Tình cảm như vậy đã tồn tại từ trước khi Trump đắc cử tổng thống, nhưng đã được khuếch đại bởi chính sách đối ngoại "Nước Mỹ trước tiên" của Nhà Trắng dưới thời Trump, chính sách dựa trên chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa giao dịch thay vì một cách tiếp cận toàn diện hơn tới khu vực. Việc rút khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) – mà phần lớn đã được 11 nước còn lại trong thỏa thuận nhất trí về mặt nguyên tắc gần đây – đã làm gia tăng hơn nữa sự không chắc chắn trong số các đối tác và đồng minh của Mỹ.
Mặc dù Mỹ vẫn can dự vào khu vực thông qua một loạt khuôn khổ song phương và 3 bên, nhưng New Delhi và Tokyo nhận thấy tầm quan trọng của việc xây dựng các mối quan hệ ngoại giao mang tính bổ trợ mà phần lớn liên kết với Washington nhưng không do Mỹ dẫn dắt. Hai nước này đã thiết lập đối thoại 3 bên Nhật Bản-Ấn Độ-Úc, vốn tồn tại một cách độc lập với các khuôn khổ bao gồm cả Mỹ. Cơ chế này hoạt động ở cấp bộ máy chính quyền, cho phép Canberra, New Delhi và Tokyo xem xét các quan điểm chung về an ninh khu vực và việc hiệp lực trong các vấn đề như xây dựng năng lực và hợp tác trong giúp đỡ nhân đạo và cứu trợ thảm họa. Và vào tháng 9, trong một tuyên bố chung, 2 bên đã nhất trí liên kết 2 chiến lược khu vực của họ : chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở của Nhật Bản và chính sách Hành động hướng Đông của Ấn Độ.
Cách tiếp cận của Tokyo tập trung vào việc liên kết tư thế an ninh và quốc phòng đang tiến triển của họ, mà họ gọi là "sự đóng góp chủ động vào hòa bình", với tầm nhìn rộng mở hơn về các chuỗi cung ứng then chốt của khu vực, vốn trải dài từ Đông Phi tới Hawaii. Việc Nhật Bản tiếp nhận "sự hội tụ của 2 vùng biển" – như được ông Abe vạch ra lần đầu tiên cách đây hơn 1 thập kỷ – bổ sung cho cách tiếp cận khu vực của Ấn Độ, được gọi là Hành động hướng Đông. Chính sách này là một kiểu tiến triển từ chính sách cũ Hướng Đông của Ấn Độ và nhắm tới việc củng cố chiến lược của Ấn Độ ở Đông Á thông qua các liên kết mạnh mẽ hơn với các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (đặc biệt là Myanmar, Singapore, Việt Nam) và đương nhiên là với Nhật Bản. Sự trỗi dậy nhanh chóng và sức mạnh đang gia tăng của Trung Quốc trong khu vực đã tạo ra mối quan ngại ở New Delhi và thúc đẩy sự cần thiết phải có một cách tiếp cận khu vực mạnh mẽ hơn.
Tương tự, khía cạnh an ninh và quốc phòng cũng có nhiều động lực. Các lực lượng phòng vệ Nhật Bản tiếp tục tăng cường hợp tác với quân đội Ấn Độ, đặc biệt là trong các vấn đề an ninh biển. Tokyo và New Delhi đã ký kết các thỏa thuận về việc chia sẻ thông tin quân sự và trao đổi công nghệ phòng thủ. Cũng đã có tiến bộ trong việc hoàn tất các kế hoạch bị trì hoãn từ lâu của Ấn Độ mua máy bay đổ bộ US-2 của Nhật Bản, một động thái mà sẽ đặt nền tảng cho sự hợp tác quốc phòng hơn nữa trong những năm tới, nhưng đã bị trì hoãn trong nhiều năm do mong muốn của Ấn Độ hạ thấp chi phí cho mỗi đơn vị cũng như các câu hỏi về tính thích hợp của việc chuyển giao công nghệ phòng thủ. Dường như thỏa thuận này có thể sớm được thông qua – như được thể hiện qua sự lạc quan ngày càng gia tăng về vấn đề này trong các cuộc gặp gỡ cấp cao kế tiếp nhau giữa Abe và Modi – và sẽ thể hiện một bước đi then chốt tiếp theo trong mối quan hệ chiến lược giữa Ấn Độ và Nhật Bản.
Ở một chừng mực nào đó, tình hữu nghị giữa Nhật Bản và Ấn Độ cũng đang củng cố các mối quan hệ của họ với Mỹ. Năm 2016, New Delhi và Washington đã ký kết một bản Thỏa thuận ghi nhớ trao đổi về logistics được mong đợi từ lâu, cho phép mỗi nước sử dụng các cơ sở của nước kia cho việc tiếp nhiên liệu, sửa chữa và các vấn đề hậu cần khác. Trong khi đó, Tokyo đã phối hợp ăn ý các nỗ lực cải thiện phòng thủ của mình cùng với New Delhi với những sự tăng cường trong quan hệ Mỹ-Ấn. Và cách đây vài tháng, Lực lượng phòng vệ trên biển Nhật Bản đã hoạt động tác chiến cùng với hải quân Mỹ và Ấn Độ trong cuộc tập trận hải quân Malabar thường niên. Sau khi tham gia với tư cách là một thành viên đặc biệt trong nhiều năm, năm 2015 Nhật Bản đã trở thành thành viên thường trực trong các cuộc tập trận này. Cuộc tập trận Malabar năm nay ở vịnh Bengal đã tập hợp hơn 20 tàu, trong đó có tàu hải quân lớn nhất của Nhật Bản là chiếc JS Izumo, và gần 100 máy bay từ cả 3 nước. Quả thực, Malabar đã trở thành chất xúc tác cho hợp tác an ninh ngày càng tăng giữa Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản, và được bổ trợ bởi một loạt cuộc gặp ngoại giao cấp cao, bao gồm một cuộc họp giữa các bộ trưởng ngoại giao của họ vào tháng 9 ở New York bên lề Đại hội đồng Liên hợp quốc.
Đổi lại, hợp tác an ninh 3 bên đã dẫn tới sự hội tụ ngày càng tăng giữa Washington và New Delhi về các vấn đề an ninh, bao gồm cả vấn đề về Afghanistan lẫn an ninh biển. Tháng 9/2017, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis đã tới thăm New Delhi và nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ đối tác 3 bên trong khu vực, với Nhật Bản là đối tác quan trọng nhất. Thật vậy, bất chấp sự gắn bó lâu dài với phong trào không liên kết, Ấn Độ dưới thời Modi ngày càng được khuyến khích đảm nhận một vai trò mạnh mẽ hơn ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Về mặt ngoại giao, New Delhi không biện hộ cho những nghi ngại của họ đối với BRI của Trung Quốc và từ chối cử bất kỳ đại diện nào tới lễ khai mạc diễn đàn BRI lớn của Bắc Kinh hồi đầu năm nay. Về mặt an ninh, New Delhi đã tăng cường quan hệ với Mỹ và Nhật Bản và cũng từ chối rút quân trong một cuộc tranh chấp căng thẳng với Trung Quốc vào tháng 9 vừa qua về vùng lãnh thổ bị tranh chấp ở nước Bhutan lân cận. Hơn nữa, New Delhi đã công khai phát đi tín hiệu cho thấy những quan ngại của mình về sự quyết đoán trên biển ngày càng tăng của Bắc Kinh bằng cách nhất trí khôi phục các cuộc hội đàm 4 bên với Úc, Nhật Bản và Mỹ sau 10 năm tạm dừng – một động thái mà Bắc Kinh chắc chắn sẽ coi là khiêu khích.
Vẫn còn nhiều không gian cho hợp tác lớn hơn nữa giữa New Delhi và Tokyo, đặc biệt trong khi cả hai vẫn còn thận trọng với Trung Quốc. New Delhi nhận thấy Tokyo là một đối tác tự nhiên, với các khả năng phòng thủ ngày càng tăng, đã phát triển và nuôi dưỡng nhiều mối quan hệ chủ chốt trong khu vực. Và Tokyo nhìn nhận New Delhi như là một nước tạo thế cân bằng địa chính trị quan trọng, bất chấp sự khác biệt nào đó trong tư duy chiến lược, đang ngày càng sẵn sàng tăng cường và đóng góp cho an ninh khu vực vượt ngoài cuộc xung đột khó giải quyết với Pakistan.
Mặc dù Ấn Độ và Nhật Bản chia sẻ các mối quan ngại chung, nhưng vẫn chưa rõ các chiến lược của họ sẽ hội tụ như thế nào trong thực tế. Từ góc độ an ninh biển, điều dễ hiểu là Nhật Bản chủ yếu vẫn lo ngại về các tuyến đường biển và kiềm chế hành vi hung hăng của Trung Quốc ở biển Hoa Đông và Biển Đông. Trong khi đó, Ấn Độ vẫn tập trung vào khu vực Ấn Độ Dương, nơi Trung Quốc đã mở rộng cơ sở hạ tầng và đầu tư vào Bangladesh, Maldives, Pakistan và Sri Lanka.
Nhưng những ưu tiên khu vực khác nhau này không nhất thiết phải là điểm gây tranh cãi. Quả thực, cả hai bên cần thừa nhận rằng lợi ích của họ trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở rộng đều bổ trợ lẫn nhau – 2 nước hợp tác trên nhiều vấn đề liên quan đến an ninh hàng hải mà không cần nhân đôi nỗ lực. Chẳng hạn, cả hai bên cần đều đặn chia sẻ các khả năng tác chiến của họ, ví dụ như trong việc phòng vệ và trang bị cho lực lượng bảo vệ bờ biển, và thông qua huấn luyện và các chiến lược xây dựng năng lực ở Nam Á và Đông Nam Á. Việc chia sẻ như vậy có thể được chính thức hoá cùng với các đối tác có chung tư tưởng khác, đặc biệt là Mỹ và Úc, và nằm trong khuôn khổ các cuộc tham vấn 4 bên được tổ chức trở lại.
Nhật Bản và Ấn Độ cũng phải hoàn tất các cuộc đàm phán về việc New Delhi mua máy bay US-2. Việc mua sắm này sẽ là một cột mốc quan trọng trong việc cải thiện mối quan hệ đối tác trong lĩnh vực quốc phòng, công nghiệp và mua sắm trong khi vẫn đem lại cho Ấn Độ khả năng tuần tra lãnh hải rộng lớn của mình, bao gồm quần đảo Andaman và Nicobar. Cuối cùng, Tokyo và New Delhi cần làm việc để mở rộng phạm vi hợp tác của 2 nước ngoài các vấn đề hàng hải bằng cách mở rộng các cuộc trao đổi và đối thoại về các vấn đề như chống khủng bố, an ninh mạng và bảo vệ cơ sở hạ tầng trọng yếu.
Hợp tác mạnh mẽ giữa Ấn Độ và Nhật Bản có tiềm năng thúc đẩy tính minh bạch, các tuyến đường biển mở và việc tuân thủ luật pháp quốc tế trong khu vực. Nhưng nếu họ thất bại, các quốc gia trong khu vực này chắc chắn sẽ thu hẹp các lợi ích quốc gia của họ và thu nhỏ các khối trong khu vực – một kịch bản có lợi cho cách tiếp cận của Bắc Kinh nhằm làm xói mòn việc tập hợp các nhóm "tiểu đa phương" mà họ coi là đối chọi với các lợi ích của họ.
J. Berkshire Miller
Trần Quang biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 29/11/2017
Berkshire Miller là nhà nghiên cứu liên kết cấp cao Học viện Nghiên cứu các Vấn đề Quốc tế Nhật Bản, Tokyo.
cf. "How Abe and Modi Can Save the Indo-Pacific ", Foreign Affairs, 15/11/2017.