Eric Mottet, RFI, 24/08/2020
Việt Nam được cho là một địa điểm lý tưởng đối với các doanh nghiệp di dời hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc sau khi cả thế giới chứng kiến cảnh chờ được phân phối thiết bị y tế, hay nẫng tay trên khẩu trang của nhau ngay trên đường băng ở Trung Quốc trong đợt dịch Covid-19, và tiếp theo là chiến dịch "ngoại giao khẩu trang" như ban ơn của Bắc Kinh.
Hàng loạt quốc gia khuyến khích doanh nghiệp của họ chuyển hoạt động về nước hoặc đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Đầu tháng 08/2020, Samsung đóng cửa nhà máy sản xuất máy tính và điện thoại di động cuối cùng ở Trung Quốc và chuyển sang Việt Nam. Tương tự, hai tập đoàn tin học Đài Loan Pegatron và Inventec dự kiến mở nhiều nhà máy, Google tính sản xuất điện thoại thông minh giá rẻ, Microsoft sản xuất máy tính xách tay, Apple cũng có kế hoạch mở rộng hoạt động tại Việt Nam, 15 trên 30 doanh nghiệp Nhật Bản được hỗ trợ chi phí để ra khỏi Trung Quốc, đã chọn chuyển sang Việt Nam, tập trung chủ yếu vào sản xuất dụng cụ y tế…
Việt Nam có thể khai thác được lợi thế gì và phải cải thiện những điểm nào để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn, cũng như thu hút thêm đầu tư trực tiếp của nước ngoài ? RFI tiếng Việt phỏng vấn giáo sư Eric Mottet, Viện Quan hệ Quốc tế, đại học Québec ở Montréal (UQAM), Canada.
-------------------
RFI :Dịch Covid-19 vừa cho thấy thế giới phụ thuộc quá lớn vào "công xưởng" Trung Quốc. Điều này dường như thúc đẩy nhiều doanh nghiệp quốc tế chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang các nước lân cận, trong đó có Việt Nam. Xin giáo sư cho biết, so với Trung Quốc và các nước trong ASEAN, Việt Nam có tiềm năng gì ?
Eric Mottet : Việc nhiều nhà máy Châu Á, kể cả Trung Quốc, chuyển sang Việt Nam không phải là hiện tượng mới. Ngay đầu những năm 2010, nhiều nhà máy của Hàn Quốc và Đài Loan và một số nhà máy của Trung Quốc đã chuyển cơ sở đến Việt Nam. Nhưng hiện tượng này tăng tốc từ năm 2018 khi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung bắt đầu và ngày càng gia tăng từ năm 2020 trong đợt dịch Covid-19. Chúng ta thấy các chuỗi sản xuất đang được tổ chức lại tại Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Hiện tại, sau Singapore, Việt Nam là nước thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất ở Đông Nam Á, cao hơn các nước Malaysia, Indonesia hoặc Thái Lan. Vốn đầu tư vào Việt Nam chủ yếu đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và giờ đến lượt các công ty Mỹ vì các doanh nghiệp này bắt đầu rời Trung Quốc và chuyển đến Việt Nam.
Vậy Việt Nam có những lợi thế và tiềm năng gì để các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào ? Chúng ta đều biết những yếu tố thuận lợi đầu tiên như lực lượng lao động trẻ và đông đảo, giá nhân công trung bình thấp hơn 2 đến 3 lần so với Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam còn có nền kinh tế phát triển mạnh và là một trong những nước có tăng trưởng cao nhất trong vùng. Theo thẩm định, bất chấp đại dịch Covid-19, GDP của Việt Nam tăng 2-3%. Đây là một tỉ lệ đáng kể vì có rất ít nước trên thế giới có thể đạt mức tăng trưởng dương trong năm 2020.
Việt Nam cũng là nước có thị trường nội địa với tiềm năng lớn. Chính vì thế, tất cả các doanh nghiệp chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam đều hy vọng chinh phục được thị trường có 100 triệu dân, hiện vẫn chưa phát triển nhiều.
Một yếu tố khác, rất quan trọng, đó là Việt Nam đã ký hàng loạt hiệp định thương mại, xóa bỏ thuế quan, tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi thương mại với nhiều nước, như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được ký năm 2018, Hiệp định Thương mại Tự do (EVFTA) với Liên Hiệp Châu Âu bắt đầu có hiệu lực từ tháng 08/2020. Ngoài ra còn phải kể đến sự hỗ tương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, nhiều thỏa thuận với Nhật Bản hoặc với Hàn Quốc đang được đàm phán.
Có thể nói Việt Nam có nền kinh tế rất mở. Theo tôi, Việt Nam có thể tận dụng được cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và có tiềm năng phát triển rất lớn ở Đông Nam Á.
RFI :Dịch Covid-19 đã đẩy cơ hội đến với Việt Nam nhanh hơn nhưng cũng có phần đột ngột. Liệu Việt Nam đã sẵn sàng để nắm bắt thời cơ này chưa ? Hà Nội phải đáp ứng những thách thức về cơ sở hạ tầng, chính trị, quy định về điều kiện lao động nào ?
Eric Mottet : Điều mà cuộc khủng hoảng dịch Covid-19 cho thấy rõ, đó là các nước phương Tây phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc. Vì thế, chúng ta thấy hiện nay Hoa Kỳ và Nhật Bản khuyến khích các doanh nghiệp của họ rời Trung Quốc sang những nước khác, trong đó có Việt Nam. Hà Nội có rất nhiều cơ hội lớn và chính phủ hiểu rõ điều này.
Theo tôi, cơ hội mà Việt Nam có thể và sẽ nắm lấy, đó là trở thành nước đi đầu trong lĩnh vực sản xuất dụng cụ bảo hộ cá nhân, như khẩu trang, găng tay và các kiểu dụng cụ bảo hộ y tế. Việt Nam đã không lầm về điểm này : Chính phủ vừa mới thông báo kế hoạch phát triển ngành công nghiệp y tế, chăm sóc sức khỏe, tầm nhìn đến năm 2030. Dĩ nhiên mục đích là tăng xuất khẩu, nhưng cũng nhằm cải thiện nhu cầu ở trong nước.
Việt Nam có một mục tiêu rất rõ, được hình thành từ khi xảy ra dịch Covid-19, đó là biến sản xuất dụng cụ y tế thành một trong ba trụ cột của nền kinh tế Việt Nam ; hai lĩnh vực khác là ô tô và điện tử với hàng loạt tập đoàn lớn như Samsung, LG… sản xuất tại Việt Nam. Và Việt Nam có tham vọng trở thành một nhà sản xuất lớn, một giải pháp thay thế cho tất cả những gì liên quan đến dụng cụ y tế.
Tuy nhiên, vẫn có một số điểm nhỏ mà Việt Nam còn phải hoàn thiện. Cần nhắc lại là có khoảng 200 doanh nghiệp sản xuất dụng cụ y tế ở Việt Nam nhưng đó là những doanh nghiệp nhỏ, bị phân tán và điều này đặt ra vấn đề về khâu kiểm soát chất lượng vì dụng cụ y tế phải chịu rất nhiều quy định nghiêm ngặt, rất khó được cấp giấy chứng nhận, đặc biệt là nếu muốn xuất khẩu sang Liên Hiệp Châu Âu hoặc Hoa Kỳ. Đây là điểm đầu tiên cần phải lưu ý. Có nghĩa là phải có dây chuyền sản xuất đạt chất lượng cao hoặc phải cải thiện chất lượng để có thể xuất khẩu được loại mặt hàng đặc biệt này.
Tiếp theo, một số vấn đề vẫn tồn tại ở Việt Nam, đó là thiếu hạ tầng giao thông, thiếu công trình cảng biển để chuyên chở hàng ra khắp thế giới. Ví dụ, hiện tại giá vận chuyển một container từ Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh sang một nước nào đó trên thế giới cao gấp 2 đến 3 lần so với giá xuất một container tương tự từ Trung Quốc.
Ngoài ra còn phải nhắc đến vấn đề về năng lượng. Nếu họ muốn xây dựng các nhà máy sản xuất dụng cụ y tế quy mô lớn thì phải giải quyết được vấn đề thiếu năng lượng vẫn xảy ra ở Việt Nam và phải có được một chính sách năng lượng thực sự mà hiện vẫn còn thiếu.
Cuối cùng, chúng ta biết một số vấn đề khác ở Việt Nam, như tình trạng thiếu minh bạch, tham nhũng, hệ thống ngân hàng thiếu vững chắc… Đúng là Việt Nam hiện có một cơ hội rất lớn để thay thế Trung Quốc ở một số lĩnh vực kinh tế nhưng cũng còn nhiều vấn đề và trở ngại mà nước này phải vượt qua.
RFI : Đợt Covid-19 thứ hai ở Việt Nam lan rộng hơn và gây chết người hơn so với đợt thứ nhất. Liệu đây có phải là một trở ngại trong khi Việt Nam được coi là một điểm đến đáng tin cậy sau khi khống chế thành công đợt dịch đầu ?
Eric Mottet : Có điều thú vị là cả thế giới theo dõi cách xử lý dịch của Việt Nam và nhận thấy rằng chính phủ Việt Nam đã chuẩn bị rất kỹ để phòng ngừa Covid-19 vì đất nước đã có kinh nghiệm xử lý dịch SARS năm 2003. Chúng ta cũng thấy là chính phủ đã phản ứng rất nhanh chóng : ngay từ tháng Hai, ngừng tất cả các chuyến bay với Trung Quốc, đóng cửa trường học, đóng cửa biên giới với Trung Quốc và các nước láng giềng, triển khai hệ thống truy vết mọi tiếp xúc với người nhiễm Covid-19, áp dụng cách ly nghiêm ngặt. Nhờ đó, đợt dịch thứ nhất đã được xử lý rất tốt.
Nhưng đợt dịch thứ nhất cũng đặt ra một vấn đề : Chính phủ Việt Nam đã phản ứng quá nhanh, kể cả việc gần như đóng cửa hoàn toàn đất nước và điều này gây thiệt hại vô cùng lớn cho nền kinh tế. Trước khi xảy ra dịch Covid-19, Việt Nam hướng đến tăng trưởng khoảng 7% cho năm 2020 và hiện giờ kỳ vọng vào khoảng 2-3% nếu mọi chuyện ổn thỏa.
Nếu xảy ra đợt dịch thứ hai, tôi cho rằng chính phủ sẽ phản ứng bớt kịch liệt hơn, bớt nghiêm ngặt hơn và sẽ áp dụng biện pháp đóng cửa có chủ đích, cũng như làm mọi cách để duy trì hoạt động kinh tế. Tôi nghĩ là Việt Nam sẽ không lặp lại những sai lầm như trong đợt dịch thứ nhất, có nghĩa là sẽ áp dụng phong tỏa và giãn cách xã hội, vẫn nghiêm ngặt nhưng cục bộ, mà không tác động đến cả nước. Theo tôi, về mặt kinh tế, Việt Nam sẽ vượt qua nếu xảy ra một đợt dịch nghiêm trọng thứ hai ở trong nước.
RFI : Việt Nam ghi nhận thặng dư thương mại với Mỹ từ nhiều năm nay. Liệu việc các doanh nghiệp chuyển sang Việt Nam có thể sẽ là một nguồn để Washington gây sức ép thương mại với Hà Nội ?
Eric Mottet : Chúng ta thấy là thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ rất là lớn. Việt Nam là nguồn thâm hụt thương mại lớn thứ hai của Mỹ ở Châu Á và thứ 6 trên thế giới. Nếu cộng dồn, tổng thâm hụt tương đương khoảng 350 tỉ đô la, một khoản rất lớn. Chỉ tính riêng năm 2019, thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam đã là 56 tỉ đô la.
Cả Hà Nội lẫn Washington đều quan ngại. Đúng là có thể nói thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ có thể gây rủi ro về chính trị cho Hà Nội. Điểm này được bộ Ngân Khố Hoa Kỳ xác nhận. Cứ 6 tháng một lần, cơ quan này lại làm báo cáo tổng kết và theo dõi những nước mà Mỹ bị thâm hụt thương mại. Bộ Ngân Khố Mỹ cũng giám sát xem những nước đó có thao túng tỉ giá hối đoái và tiền tệ nhằm tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Và gần đây, Việt Nam đã bị nêu trong bản báo cáo của bộ Ngân Khố Hoa Kỳ.
Vì thế, một số người cho rằng sau Trung Quốc, có thể Việt Nam sẽ bị chính quyền Trump nhắm đến, ví dụ như lập hàng rào thuế quan, hoặc trừng phạt thuế… May mắn là hiện chưa có gì xảy ra mà ngược lại, nếu nhìn vào những tuyên bố, hay đúng hơn là những tin nhắn trên Twitter, của tổng thống Donald Trump, thì tạm thời Việt Nam chưa bị nhắm đến : thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam chưa phải là một vấn đề. Ngược lại, Việt Nam được coi là một nước cần quan tâm trong cuộc chiến chống Trung Quốc. Tại vì tổng thống Trump vẫn cho rằng việc rất nhiều doanh nghiệp Trung Quốc rời Trung Quốc sang Việt Nam là một điểm tốt, đặc biệt trong bối cảnh chiến tranh thương mại với Bắc Kinh.
Nói tóm lại, tạm thời đây chưa phải là mối bận tâm cho chính phủ Việt Nam nhưng có lẽ không để thặng dư thương mại với Hoa Kỳ lên thành 400, 500 hay 600 tỉ đô la vì điều đó sẽ gây rắc rối cho chính quyền Việt Nam.
RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giáo sư Eric Mottet, Viện Quan hệ Quốc tế, đại học Québec ở Montréal (UQAM), Canada.
Võ Hàn Lam, VNTB, 24/08/2020
Tiến trình này cụ thể ra sao thì đến nay vẫn chưa ai rõ ; thậm chí người ta còn hoài nghi việc ‘thoát Trung’ rất có thể chỉ là chiêu thức tuyên truyền, vì hai quốc gia có một điểm chung là đồng minh cộng sản.
Ấn Độ, Nhật Bản, Australia lập chuỗi cung ứng đối phó với Trung Quốc. Ảnh minh họa : Reuters
Nhật Bản, Ấn Độ và Úc đang hướng tới một nỗ lực ba bên mới nhằm đảm bảo chuỗi cung ứng toàn cầu và giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc dự phòng trường hợp có một thảm họa khác như Covid-19 xảy ra trong tương lai. Chương trình này có tên là Sáng kiến phục hồi chuỗi cung ứng (Supply Chain Resilience Initiative - SCRI).
"Việc chỉ tập trung vào một thị trường duy nhất là Trung Quốc khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam lao đao mỗi khi việc xuất khẩu sang thị trường này gặp khó". Mẫu câu này rất quen thuộc và hầu như mùa nào, năm nào trên báo chí Việt Nam người ta cũng bắt gặp rất nhiều bài viết có câu từ như thế, và người ta lại yêu cầu cần mạnh mẽ ‘thoát Trung’ hơn nữa.
Đại dịch Covid-19 khiến nhiều quốc gia nhận diện rõ nguy cơ khi các chuỗi cung ứng của họ quá lệ thuộc vào Trung Quốc. Việt Nam càng thấm đòn, khi hàng loạt doanh nghiệp bị đình trệ sản xuất vì thiếu nguyên liệu và tắc đầu ra.
Trong quan hệ thương mại, về mặt sản xuất, có sự khác biệt rõ giữa hai nước : trong khi chi phí trung gian của Việt Nam có 8% đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc, Trung Quốc chỉ sử dụng 0,1% đầu vào là sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam. Điều này nói lên mức độ quan trọng tương đối của các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc với nền sản xuất của Việt Nam, lớn hơn hẳn so với chiều ngược lại. Đây là sự phụ thuộc rất đáng chú ý.
Khi bàn chuyện về phương thức giảm sự lệ thuộc vào Trung Quốc, người dân có quyền hoài nghi về những giá trị đích thực từ các hiệp định thương mại gọi là "FTA thế hệ mới" mà Việt Nam đã ký kết (*). Hoài nghi vì người ta vẫn thấy rằng quanh đi, quẩn lại thì nền kinh tế của Việt Nam vẫn chịu chi phối của Trung Quốc ; thậm chí là chi phối luôn cả các quyết sách về điều hành quốc gia.
Sở dĩ có hoài nghi cho chuyện ‘thân Trung’ hơn là ‘thoát Trung’, vì cho đến nay người ta chưa thấy được vấn đề cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam ra sao trước những yêu cầu của các FTA mà Việt Nam đã ký kết.
Trước tiên, thể chế có thể được hiểu là những yếu tố tạo thành khung khổ trật tự cho các quan hệ của con người, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia tương tác ; là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung được mọi người chia sẻ…
Cải cách thể chế kinh tế là một khái niệm chính trị học liên quan đến sự vận hành của nhà nước đối với mọi nền kinh tế sản xuất hàng hóa.
Một vấn đề mà lâu nay được nêu ra song vẫn chưa có bước tiến triển nào rõ rệt, đó là định vị lại vai trò của ba trụ cột trong một thể chế kinh tế thị trường hiện đại là : Thị trường, Nhà nước và Xã hội ; trong đó : (1) Thị trường giữ vai trò quyết định trong việc phân bổ nguồn lực ; (2) Nhà nước sử dụng các công cụ điều tiết nhằm khắc phục những bất cập của thị trường, thực hiện chức năng kiến tạo phát triển và chiến lược tăng trưởng bao trùm ; (3) Xã hội đóng vai trò phản biện và giám sát.
Một đơn cử để dễ hình dung : Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).
Về cơ sở pháp lý để ký kết hiệp định, theo Điều 1.1 của Hiệp định này, việc thành lập khu vực thương mại tự do phù hợp với Điều XXIV GATT (General Agreement on Tariffs and Trade) và Điều V GATS (General Agreement on Trade in Services). Theo các quy định này, các cam kết trong EVFTA sẽ không được tạo thêm rào cản thương mại đối với các thành viên khác của WTO đồng thời phải dỡ bỏ gần như toàn bộ rào cản đối với thương mại nội khối.
Ngoài ra, lời nói đầu của EVFTA còn viện dẫn thêm các cơ sở pháp lý khác bao gồm Hiệp định khung về đối tác và hợp tác toàn diện Việt Nam – EU (PCA) năm 2012 ; Hiến chương Liên Hợp quốc 1945 ; Tuyên ngôn nhân quyền thế giới 1948 ; Hiệp định thành lập WTO và các hiệp định, thoả thuận song phương, khu vực và các hiệp định đa phương khác mà các bên là thành viên. Tuyên bố về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) năm 1998, mặc dù được viện dẫn trong Chương 13 của Hiệp định này, nhưng không được nhắc đến trong Lời nói đầu như một cơ sở pháp lý cho toàn Hiệp định.
Các nội dung liên quan đến lao động nói chung và quyền tự do lập hội nói riêng được quy định tại Chương 13 EVFTA về Thương mại và Phát triển bền vững. Các quy định tại chương này nhằm thúc đẩy phát triển bền vững thông qua việc tăng cường cải thiện các khía cạnh liên quan đến thương mại và đầu tư của các vấn đề môi trường và lao động.
EVFTA dẫn chiếu đến các quy định của Tuyên bố ILO về nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động năm 1998 (ILO Declaration on Fundamental Principles and Rights at Work).
Tuyên bố ILO xác định bốn nguyên tắc và quyền cơ bản của người lao động gồm quyền tự do lập hội và quyền thương lượng lao động tập thể, quyền tự do không bị cưỡng bức hay bắt buộc lao động, xoá bỏ một cách có hiệu quả lao động trẻ em, và quyền không bị phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp. Bốn quyền và nguyên tắc cơ bản này được thể hiện trong bốn cặp công ước của ILO gồm Công ước 87 và 98 về tự do lập hội và thương lượng lao động tập thể ; Công ước 29 và 105 về xoá bỏ lao động cưỡng bức và bắt buộc, công ước 138 và 182 về xoá bỏ lao động trẻ em, Công ước 100 và 111 về xoá bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp. EVFTA dẫn chiếu lại cả bốn nguyên tắc này.
Về quyền tự do lập hội, Điều 13.4 khoản 2 EVFTA quy định :
"2. Mỗi bên khẳng định các cam kết của mình, phù hợp với các nghĩa vụ trong ILO và Tuyên bố ILO về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động […], sẽ tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc liên quan đến quyền cơ bản trong lao động, cụ thể là :
(a) quyền tự do hội họp và ghi nhận một cách có hiệu quả quyền thương lượng tập thể […]".
Như vậy, nếu Việt Nam mạnh mẽ trong ‘thoát Trung’ hơn nữa, thì có lẽ luật về quyền lập hội đã được rốt ráo thảo luận để sớm đi đến ban hành ; đặc biệt là đã sớm sửa lộ trình phê chuẩn Công ước 87 ngay trong năm 2020, hoặc muộn lắm cũng là trong năm 2021, ngay nhiệm kỳ mới của Quốc hội Việt Nam. Trong khi đó thì trên trang web của Bộ Lao động, thương binh và xã hội vẫn tiếp tục ghi rằng phải đến năm 2023, Quốc hội Việt Nam mới phê chuẩn Công ước 87.
Bánh ít chưa đi, thì bánh quy chưa lại – đó là luật chơi chung của các FTA thế hệ mới.
Võ Hàn Lam
Nguồn : VNTB, 24/08/2020
Chú thích :
(*) Hiệp định thương mại tự do (FTA – Free Trade Agreement) được hiểu là các hiệp định hợp tác kinh tế được ký giữa hai hay nhiều thành viên nhằm loại bỏ các rào cản với phần lớn hoạt động thương mại, đồng thời thúc đẩy trao đổi thương mại giữa các nước thành viên với nhau.
Virus corona : Bài học nhớ đời khi lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc
Con virus corona đang dạy cho những bài học đích đáng về việc để các mặt hàng thiết yếu phụ thuộc vào một quốc gia duy nhất. Ngay cả khi dịch Covid-19 sớm kết thúc, thế giới ngày càng lo ngại hơn về Trung Quốc. Rất ít công ty có thể hoàn toàn rời hẳn Hoa lục, nhưng ý định ra đi đang sôi sục, và hiện tượng này sẽ vẽ lại bản đồ chuỗi cung ứng ở Châu Á.
Công nhân trên dây chuyền sản xuất trang bị bảo hộ đối phó với dịch virus corona tại quận Hãn Châu (Xinzhou), Vũ Hán, ngày 12/02/2020. China Daily via REUTERS
Trang bìa tuần báo L’Express kỳ này đăng ảnh Sylvain Tesson, nhà văn best-seller Pháp. L’Obs dành riêng một số báo 48 trang tưởng niệm Jean Daniel, người đồng sáng lập tuần báo, một nhà báo tự do, trí thức dấn thân và nhà văn nổi tiếng. Le Point lo ngại trước "Phe siêu cực tả, mối đe dọa mới", Courrier International dành chủ đề cho "Mafia mạnh nhất thế giới tại Ý", lực lượng Nrangheta. Trên trang nhất của The Economist là quả địa cầu với những con virus corona như những tiểu hành tinh bay quanh, khi nạn dịch "đã trở nên toàn cầu".
Các tập đoàn đa quốc gia chưa sẵn sàng đối phó với nạn dịch
Trong bài "Virus corona gây xáo trộn nền kinh tế thế giới", The Economist nhận định nạn dịch đã gây hậu quả nghiêm trọng đối với các chuỗi cung ứng, và rất ít công ty thực sự chuẩn bị đối mặt với những nguy cơ như vậy.
Điển hình là Apple, lệ thuộc cho đến nỗi hãng United Airlines hàng ngày đưa khoảng 50 nhà quản lý qua lại giữa Trung Quốc và California. Nhưng nay United và nhiều hãng hàng không đã ngưng các chuyến bay đến Trung Quốc, và chuỗi sản xuất của Foxconn đang thiếu nhân công, như vậy con virus khiến số iPhone được Apple đưa ra bán sẽ giảm 5 đến 10% trong quý này.
Cùng với tốc độ lan truyền, virus corona ngày càng tác động mạnh lên các hoạt động kinh tế. Du lịch đến và đi từ Trung Quốc giảm mạnh : khoảng 400.000 du khách Trung Quốc phải hủy chuyến đến Nhật, một tàu du lịch bị năm quốc gia từ chối. Hội chợ hàng không lẽ ra mang lại 250 triệu đô la cho Singapore, đã có đến 70 công ty từ chối tham gia trong đó có Lockheed Martin. Hội chợ viễn thông thế giới ở Barcelona bị hủy bỏ.
Hầu hết các tập đoàn đa quốc gia đều bị bất ngờ, tuy đây không phải là lần đầu chuỗi cung ứng tại Châu Á bị rối loạn. Trận sóng thần ở Nhật Bản và nạn lụt ở Thái Lan năm 2011, rồi mới đây là cuộc chiến tranh thương mại do tổng thống Donald Trump khởi động với Bắc Kinh đã cho thấy nguy cơ khi quá lệ thuộc vào Trung Quốc, tuy vậy lãnh đạo các tập đoàn liên quan vẫn chưa sẵn sàng đối phó với Covid-19.
Lao đao vì lệ thuộc quá nhiều
Có ba lý do khiến những tháng tới sẽ khó khăn hơn. Trước hết, là do chiến lược giảm giá thành, và lượng hàng dự trữ của một số công ty chỉ còn đủ vài tuần.
Thứ hai, nhiều tập đoàn ngày nay lệ thuộc vào các nhà máy Trung Quốc nhiều hơn thời dịch SARS : hồi đó Trung Quốc chỉ chiếm 4% GDP thế giới còn nay lên đến 16%. Trung Quốc chiếm 40% xuất khẩu toàn thế giới về dệt may, 26% đồ gỗ ; đồng thời tiêu thụ đến 20% khoáng sản toàn cầu. Từ 2003 đến nay, các nhà máy vùng duyên hải đã mở rộng đến vùng nội địa nghèo hơn, như Vũ Hán, sự dịch chuyển của công nhân khiến chuỗi sản xuất dễ tổn thương hơn. Bên cạnh đó, các nhà cung cấp Trung Quốc nay không chỉ lắp ráp mà còn sản xuất.
Lý do thứ ba, Hồ Bắc là trái tim của "thung lũng sợi quang", với nhiều nhà sản xuất thiết bị cần thiết cho mạng lưới viễn thông, chiếm đến 25% số cáp quang. Một trong những nhà máy sản xuất chip hiện đại nhất Trung Quốc, làm ra bộ nhớ flash cho smartphone cũng đặt tại đây. Các lãnh vực bị ảnh hưởng nhiều nhất là điện tử, xe hơi do thiếu linh kiện.
Tất nhiên các tập đoàn muốn sản xuất lại càng sớm càng tốt, nhưng chưa biết đến bao giờ công nhân mới được phép trở lại nhà máy. Hơn nữa các khu cư xá công nhân bị quá tải : tại nhà máy Foxconn ở Thâm Quyến, nhân viên chen chúc 8 người một phòng, nếu con virus tái xuất, sẽ có nguy cơ lại bị đóng cửa. Ngay cả khi bắt đầu làm việc lại, việc vận chuyển rất khó khăn. Về lâu về dài, nạn dịch sẽ làm giảm bớt sự gắn bó của các tập đoàn đa quốc gia với Trung Quốc, sau thời gian dài tin rằng chuỗi sản xuất ở nước này là khả tín.
Bước ngoặt dịch chuyển sản xuất khỏi Hoa lục
Tương tự, Courrier International trích dịch bài viết của Nikkei Asian Review, theo đó các tập đoàn đa quốc gia sẽ tổ chức lại chuỗi cung ứng, và giải pháp tạm thời này rất có thể trở thành vĩnh viễn. Một số chuyên gia còn cho rằng việc này sẽ lại bản đồ sản xuất ở Châu Á nếu các công ty "một đi không trở lại".
Nhà sản xuất thiết bị cho ngành xây dựng Komatsu đang dịch chuyển sản xuất các bộ phận bằng kim khí và bó cáp từ Trung Quốc sang Nhật và Việt Nam, tương tự với Meiko Electronics. Daikin Industries muốn dời sản xuất máy lạnh sang Malaysia hay một nơi nào khác ngoài Vũ Hán. Nhà sản xuất trang phục thể thao Asics nghĩ đến việc chuyển từ Vũ Hán sang Việt Nam và Indonesia.
Tuy chỉ là tạm thời, nhưng theo chuyên gia Edward Alden thuộc think tank Council on Foreign Relations, đây sẽ là một bước ngoặt, trong khi nhiều công ty đã buộc phải đa dạng hóa nguồn cung vì tiền lương và giá thành ở Hoa lục tăng lên, đặc biệt là cuộc chiến thuế quan với Mỹ còn kéo dài.
Dan Alpert, giám đốc ngân hàng đầu tư Westwood Capital ở New York cho rằng Bắc Kinh sẽ để cho đồng nhân dân tệ sụt giá để hỗ trợ các nhà xuất khẩu Trung Quốc, khuyến khích các tập đoàn ngoại quốc quay lại. Nhưng như vậy Bắc Kinh sẽ gặp rắc rối với chính quyền Trump, "vì việc này rõ ràng vi phạm thỏa thuận giai đoạn 1".
Virus corona dạy bài học đích đáng khi phụ thuộc vào Trung Quốc
The Economistnhấn mạnh, "Covid-19 đang dạy những bài học nghiêm khắc về việc chuỗi cung ứng dựa hoàn toàn vào Trung Quốc".
Cho đến gần cuối tháng Giêng, chỉ có vài nhà lãnh đạo ngành dược phẩm, thanh tra an toàn dược và những con diều hâu kiên trì là lo âu trước việc phần lớn nguồn cung kháng sinh phụ thuộc vào một ít nhà máy tại Hoa lục, chủ yếu là một cụm nhà máy đặt tại Nội Mông. Rồi nạn dịch Covid-19 bùng phát, việc cách ly khiến nhiều cơ xưởng, hải cảng, và cả những thành phố bị phong tỏa tại Trung Quốc.
Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh khẳng định đang chiến thắng con virus, nhờ đó các doanh nghiệp hàng đầu sẽ mở cửa trở lại. Một thắng lợi trước virus corona chủng mới một lần nữa chứng tỏ "ưu thế vượt trội nhờ sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc" - ông Tập Cận Bình tuyên bố trước 170.000 cán bộ trong hội nghị truyền hình hôm 23/2. Nhưng cho dù sự khoa trương này có trở thành sự thực đi chăng nữa, các chính phủ ngoại quốc và chủ doanh nghiệp không quên bài học đáng sợ : đối với một số mặt hàng thiết yếu, họ lệ thuộc vào một quốc gia duy nhất !
Trung Quốc đang thống trị về các hoạt chất (API) trong ngành dược. Nhà máy sản xuất penicilline cuối cùng của Mỹ đóng cửa vào năm 2004, và những nhà máy quốc doanh hoặc được nhà nước trợ giá của Trung Quốc mọc lên thay thế. Các công ty tư nhân nước ngoài tìm kiếm nguyên liệu giá rẻ, không quan tâm đến xuất xứ.
Một ủy ban của Quốc Hội Mỹ đã mở điều trần hồi tháng 7/2019 về mối đe dọa và cơ hội từ kỹ nghệ dược phẩm Trung Quốc. Một quan chức Bộ Quốc phòng đề nghị thử hình dung Bắc Kinh ngưng cung cấp những loại thuốc không thể thay thế cho quân đội, thí dụ về bệnh than. Một chiến lược gia lưu ý, sự lệ thuộc lẫn nhau trước đây được cho là hợp lý khi quan hệ Mỹ-Trung tốt đẹp, nhưng nay khi đôi bên không còn tin tưởng nhau, thì tình trạng phụ thuộc này thật đáng sợ.
Nguy cơ bị Bắc Kinh bắt chẹt khi xung đột chính trị
Đối với những nhân vật diều hâu như Peter Navarro, cuộc khủng hoảng virus corona đã được báo trước. Hôm 23/2 ông nhận xét trên kênh Fox News là nguồn cung những loại thuốc chính yếu ở quá xa, cần phải đưa sản xuất trở về nước Mỹ.
Joerg Wuttke, chủ tịch Phòng thương mại Châu Âu tại Trung Quốc cho biết sự thống trị của Bắc Kinh trong dược phẩm và thuốc trừ sâu là quan ngại chính mà ông nghe được trong những chuyến công du Berlin, Bruxelles và nhiều nơi khác. Người ta lo ngại Bắc Kinh sử dụng thế độc quyền để bắt chẹt khi có bất đồng chính trị, như đã từ chối xuất đất hiếm qua Nhật Bản năm 2012. Theo ông, thời kỳ toàn cầu hóa, tổ chức sản xuất ở bất kỳ nơi nào hiệu quả, nay đã qua rồi.
James McGregor, nhà tư vấn Mỹ đã nhìn thấy các doanh nghiệp bỏ nhiều trứng vào cùng một cái rổ Trung Quốc trong suốt một thập niên. Với giá nhân công tăng, thương chiến Mỹ-Trung và giờ đây là con virus corona, nhiều công ty kết luận cần đa dạng hóa nguồn cung, dù khó tìm được những nước có cơ sở hạ tầng và lực lượng lao động thích ứng như Trung Quốc.
Một tác động khác từ virus thấy rõ ở dàn lãnh đạo. Các tập đoàn đa quốc gia ngày càng đưa người Trung Quốc (thường là được đào tạo ở phương Tây) vào bộ máy điều hành, và nạn dịch có thể khiến các nhà điều hành ngoại quốc còn ở lại sẽ ra đi. Ô nhiễm không khí, dân tộc chủ nghĩa, độc tài, virus… khiến không ít nhà quản lý người nước ngoài để gia đình về nước, sống một mình tại Hoa lục.
The Economist kết luận, ngay cả khi dịch Covid-19 sớm kết thúc, rõ ràng là thế giới ngày càng lo ngại hơn về Trung Quốc. Rất ít công ty có thể hoàn toàn rời hẳn Hoa lục, nhưng tâm lý muốn ra đi đang sôi sục.
Vũ Hán dối trá về số nạn nhân virus corona ngay từ đầu
Sự thiếu minh bạch của Bắc Kinh về dịch bệnh luôn là nghi vấn. Courrier International đặt câu hỏi "Thành phố Vũ Hán có nói dối về số người bị Covid-19 ?".
Hôm 23/2, Trường Giang Nhật Báo (Changjiang Ribao), nhật báo chính thức của thành phố Vũ Hán, đăng một bản tin tưởng niệm Xia Sisi, nữ y tá 29 tuổi vừa tử vong buổi sáng hôm đó. Tờ báo viết : "Ngày 14/2, Sisi đã chăm sóc một bệnh nhân vừa được xác nhận dương tính với virus corona". Nhưng Sở Y tế thành phố lại tuyên bố hôm đó không có ca nào.
Tạp chí kinh tế uy tín Tài Kinh (Caixin) ngày 20/2 đưa tin "11 người cao tuổi tại một nhà dưỡng lão đã chết". Hôm sau, chính quyền Vũ Hán bác bỏ, và còn dọa "lan truyền tin đồn trong thời kỳ dịch bệnh" có thể bị tù đến 7 năm. Cao Wenjiao, nhà báo của Tài Kinh không chịu thua, ngay sau đó cho công bố danh sách cụ thể những người tại cơ sở trên bị chết, tuổi, thời điểm và nguyên nhân tử vong. "Từ tháng 12/2019 đến tháng 2/2020 có 19 người chết tại nhà dưỡng lão này, chỉ cách chợ hải sản Vũ Hán có vài trăm mét". Chính quyền thành phố lần này không cải chính.
Một điểm gây tranh cãi nữa là ca tử vong đầu tiên do virus corona xảy ra khi nào ? Theo Tân Hoa Xã, đến nửa đêm 10/1 "có 41 ca dương tính, trong đó có một người chết". Nhưng một tuần sau Tân Kinh báo tiết lộ "có đến 15 tử vong và 104 ca dương tính trước ngày 31/12/2019", và theo Hiệp hội y tế dự phòng Trung Quốc, "lây nhiễm từ người sang người đã diễn ra từ giữa tháng 12/2019".
Dịch bệnh do con người làm xáo trộn môi trường
Le Monde Diplomatique đặt vấn đề về mặt sinh thái. Phải chăng đã đến lúc tự hỏi vì sao các loại dịch bệnh liên tục xảy ra ?
Thủ phạm có phải là loài tê tê, dơi hay rắn ? Từ năm 1940, hàng trăm loại virus gây bệnh xuất hiện tại những vùng trước đây chưa bao giờ quan sát thấy. Đó là trường hợp của HIV, Ebola hay Zika, và 60% có xuất xứ từ động vật hoang dã. Nhưng thú hoang không có tội tình gì, hầu hết virus sống chung hòa bình với chúng. Nạn phá rừng, đô thị hóa và kỹ nghệ hóa đã giúp cho virus tiếp cận với con người, thích ứng với cơ thể chúng ta, và từ vô hại trở thành độc hại.
Virus Ebola là một minh chứng. Một nghiên cứu năm 2017 chứng minh virus này xuất hiện nơi nhiều loài dơi, chủ yếu tại Trung Phi và Tây Phi, nơi nhiều cây rừng bị đốn hạ. Dơi đành phải bay đến đậu trên những cây trong vườn nhà, ăn trái cây và lây bệnh cho người. Nhà dịch tễ học Larry Brilliant nói : "Không thể tránh được sự xuất hiện của virus, nhưng dịch bệnh thì được" - với điều kiện con người không làm xáo trộn thiên nhiên và cuộc sống của loài vật
Thụy My
Công nghiệp quốc phòng : Mỹ muốn giảm lệ thuộc vào Trung Quốc
Trên trang nhất, báo kinh tế Les Echos có bài đáng chú ý nói về "Ngành công nghệ Mỹ đương đầu với gián điệp mạng Trung Quốc". Theo một điều tra của Bloomberg, chíp điện tử của Trung Quốc đã bí mật được cấy vào máy chủ của nhiều doanh nghiệp Mỹ. Tiết lộ trên cho thấy sự lệ thuộc của ngành công nghiệp, công nghệ của Hoa Kỳ vào các nhà sản xuất Trung Quốc, khiến công nghệ Mỹ dễ bị tổn thương.
Một vi mạch điện tử. Ảnh minh họa
Trong bài viết này, Les Echos cho biết các nhà báo của Bloomberg đã dựa trên 17 nguồn tin xin ẩn danh bên trong các cơ quan tình báo Mỹ và các tập đoàn khổng lồ về công nghệ. Theo đó, các con chíp điện tử nhỏ chỉ bằng hạt gạo đã bí mật được Trung Quốc cấy vào bên trong máy chủ của khoảng 30 doanh nghiệp Mỹ, trong đó có Apple và Amazon.
Bảo vệ toàn bộ các sản phẩm của Mỹ có nghĩa là không được dùng sản phẩm từ các nhà máy của Trung Quốc, điều này cũng có nghĩa là phải xem xét lại sự phân bố địa lý trong ngành công nghiệp. Sự xáo trộn lớn đó sẽ gây ra nhiều khó khăn, chi phí sản xuất cao kinh khủng khiến sự thay đổi đó rất khó có khả năng thực hiện được.
Còn trong bài viết trên trang Doanh nghiệp và Thị trường "Công nghiệp quốc phòng Mỹ muốn giảm lệ thuộc vào Trung Quốc", Les Echos cho biết theo một báo cáo của Lầu Năm Góc, ngành chế tạo vũ khí của Mỹ lệ thuộc ở "mức cao đáng ngạc nhiên" vào các nhà thầu của Trung Quốc. Đây là một mối đe dọa đối với an ninh quốc gia Hoa Kỳ.
Báo cáo của Lầu Năm Góc cũng nhấn mạnh "Trung Quốc là nhà cung cấp duy nhất một số hóa chất đặc biệt trong ngành sản xuất đạn dược và tên lửa". Nếu Trung Quốc ngưng cung cấp hàng, toàn bộ chương trình của Bộ Quốc phòng Mỹ - từ chế tạo tên lửa đến vệ tinh và bệ phóng vệ tinh, tên lửa - đều bị đe dọa. Trong một số trường hợp, Lầu Năm Góc có thể sử dụng các nguyên vật liệu thay thế, nhưng chi phí phát triển các chương trình sẽ bị đội lên rất cao.
Một vấn đề đáng lo ngại khác là một số hệ thống vũ khí của Mỹ, có linh kiện điện tử được sản xuất ở nước ngoài, có thể dễ bị tấn công. Vấn đề là nhiều doanh nghiệp Mỹ đặt nhà máy tại Trung Quốc để giảm chi phí sản xuất. Đổi lại, theo Lầu Năm Góc, Bắc Kinh yêu cầu các doanh nghiệp Mỹ chuyển giao công nghệ. Điều này cũng có thể đe dọa nước Mỹ.
Vì thế, Bộ Quốc phòng Mỹ kêu gọi các doanh nghiệp phương Tây cân nhắc, xem xét lại các hoạt động tại Trung Quốc. Lầu Năm Góc cũng quyết định sẽ kiểm tra lại, với sự hỗ trợ của các cơ quan tình báo, mạng lưới cung cấp hàng hóa của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực nhạy cảm như hàng không vũ trụ và quốc phòng, để tìm ra các điểm yếu kém trong ngành sản xuất vũ khí của Mỹ.
Biến đổi khí hậu : Báo cáo của GIEC và ý thức của con người
Biến đổi khí hậu là đề tài được báo Libération quan tâm đưa lên trang nhất : "Khí hậu : bây giờ hoặc là không bao giờ". Hôm nay 08/10/2018 là ngày Nhóm chuyên gia liên chính phủ về biến đổi khí hậu (GIEC-Groupe d'experts intergouvernemental sur l'évolution du climat hay IPCC-Intergovernmental Panel on Climate Change) công bố báo cáo đầu tiên về các hậu quả nghiêm trọng đối với hành tinh, nếu nhiệt độ Trái Đất tăng thêm quá 1,5 độ C.
Trong bài viết "Bản báo cáo lạnh người của GIEC", Libération cho biết báo cáo dài 250 trang của 80 tác giả tới từ 39 nước. Theo mục tiêu COP 21 đề ra, từ nay tới năm 2100, nhiệt độ Trái Đất chỉ tăng từ 1,5 đến 2 độ C. Tuy nhiên, các nhà khoa học ước tính nhiệt độ sẽ tăng 3 độ C chứ không phải 1,5 độ C, kéo theo những thảm họa không thể đảo ngược cho cả con người và nhiều loài sinh vật sống.
Nếu nhiệt độ Trái Đất tăng quá 1,5 độ C, mực nước biển sẽ tăng trong nhiều thế kỷ, nhiều vùng đất, nhất là các đảo nhỏ sẽ không kịp thích nghi, hệ sinh thái sẽ bị xáo trộn nhiều, các loài động vật không có khả năng di chuyển nhanh sẽ có tỉ lệ chết cao, đại dương sẽ bị axit hóa. Sự thay đổi khí hậu sẽ diễn ra ở mọi vùng đất, không phân biệt mức độ phát triển của xã hội, nhưng bị tác động mạnh nhất vẫn là các quốc gia nghèo nhất.
Một phần tư nhân loại sẽ sống ở những khu vực có nhiệt độ tăng quá 1,5 độ C so với mức trung bình, ít nhất trong một mùa trong năm. Ở Bắc bán cầu, các đợt nắng nóng sẽ ngày càng nhiều và với mức độ ngày càng cao. Khu vực Nam Âu có nguy cơ sa mạc hóa. Nguy cơ lũ lụt và hạn hán cũng ngày càng tăng, nhất là ở Nam Mỹ, Châu Âu và Châu Á. Các cơn bão nhiệt đới cũng ngày càng mạnh.
Libération cũng dành bài xã luận "Có ý thức" cho đề tài biến đổi khí hậu. Trong nhiều năm, các báo cáo của GIEC đều rơi vào "hố đen", nói cách khác là chúng trở nên vô hình. Thế giới vẫn tiếp tục không chút do dự trong cuộc chạy đua điên rồ về tăng trưởng và tiêu dùng vô độ.
Tuy nhiên, thời thế đã thay đổi, nhận thức về cuộc khủng hoảng khí hậu trở nên sâu sắc hơn. Lý do ? Các hiệu ứng do biến đổi khí hậu là có thật. Phải điếc, mù hay vô cảm thì mới có thể không nhận ra điều đó. Các thông tin đáng lo ngại về sự biến đổi ở cả đại dương và đất liền được báo về từ mọi nơi trên Trái đất.
Báo cáo của GIEC cho thấy mọi chuyện đang rất nghiêm trọng, bởi vì lộ trình - để đạt mục tiêu cho tới cuối thế kỷ này nhiệt độ Trái Đất chỉ tăng thêm 1,5 độ C - đã chệch hướng. Tuy nhiên, mọi chuyện không phải đã hết hy vọng.
Theo Libération, đa phần công dân ý thức được rằng có một thảm kịch đang diễn ra, nhiều người cố tìm cách để cải thiện tình hình ở địa phương. Giới chính trị gia, trừ một số trường hợp như tổng thống Mỹ Donald Trump, đã hiểu nên tiếp tục cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Các nhà công nghiệp cũng bắt đầu ý thức được rằng chống biến đổi khí hậu cũng là một yêu cầu của người tiêu dùng. Giờ đây, điều quan trọng trong cuộc chiến của nhân loại là thuyết phục các nhà quản lý ngân sách, tài chính "tránh những việc không thể quản lý nổi" và "quản lý những điều không thể tránh khỏi".
Hãm hiếp phụ nữ : Vũ khí chiến tranh
Ra sạp sớm từ chiều thứ Bảy 06/10, báo Le Monde có bài xã luận đề tựa "Một giải thưởng Nobel chống vũ khí hãm hiếp". Le Monde nhận định không ai xứng đáng đoạt giải Nobel Hòa Bình 2018 hơn cô gái trẻ Nadia Murad và bác sĩ Denis Mukwege.
Khi quyết định trao giải Nobel Hòa Bình 2018 cho cô gái trẻ Nadia Murad, từng là nô lệ tình dục của tổ chức Nhà Nước Hồi Giáo và sau này là nhà đấu tranh chống bạo lực tình dục, và cho bác sĩ phụ khoa người Congo Denis Mukwege, người đã dành cả cuộc đời cứu chữa cho những phụ nữ từng bị hiếp dâm, Ủy ban Nobel cuối cùng đã tấn công nhắm vào một thảm họa, vốn chỉ bị coi là một tổn thất phụ đáng tiếc và đáng xấu hổ trong suốt một thời gian rất dài.
Mỗi người một cách, nhưng cả cô gái trẻ Nadia Murad và bác sĩ sản phụ khoa Denis Mukwege đều có chung một trận chiến, đều có chung lòng can đảm : đó là đấu tranh để các vụ hiếp dâm không còn bị xem là một hệ quả phụ không thể tránh khỏi trong các cuộc xung đột vũ trang mà là thực sự là một loại vũ khí chiến tranh. Và Ủy ban Nobel muốn nhấn mạnh đến cái gọi là vũ khí chiến tranh, khi quyết định trao giải Nobel Hòa Bình cho hai nhà tranh đấu.
Việc dùng bạo lực tình dục làm vũ khí chiến tranh cũng đã có từ lâu, không kém gì chính bản thân các cuộc xung đột : loại vũ khí răn đe, vô nhân đạo này đã được sử dụng trong Đệ Nhị Thế Chiến, ở Yougoslavia, Rwanda, hay mới đây là ở Syria và Miến Điện. Nhưng sự im lặng trong một thời gian quá dài khiến các thủ phạm không bị trừng phạt và cản trở công tác phòng ngừa nạn hiếp dâm trong các lực lượng vũ trang. Theo Le Monde, giải Nobel Hòa Bình năm nay sẽ góp phần phá vỡ sự im lặng đó.
Việc thông báo quyết định trao giải Nobel Hòa Bình năm nay trùng vào dịp tròn một năm phong trào chống bạo lực tình dục #Metoo ở phương Tây. So với mức độ tàn bạo mà phụ nữ ở các nước có chiến tranh phải hứng chịu, phong trào #Metoo có vẻ không đáng kể. Nhưng Le Monde kết luận, trong lĩnh vực đấu tranh chống bạo lực tình dục, không có gì là không đáng kể. Nền văn minh của chúng ta không thể hòa hợp với bạo lực tình dục, dù chỉ là với một cá nhân hay trên diện rộng.
Pháp : Đấu tranh chống bạo lực tình dục và các trở ngại
Nhân dịp một năm xảy ra vụ bê bối tình dục Weinstein, báo Le Monde chạy tựa trang nhất "#Metoo : Tư pháp và cảnh sát không có đủ phương tiện đối phó với bạo lực tình dục". Trong bài viết về cuộc đấu tranh chống bạo lực tình dục trên trang Nước Pháp, Le Monde cho biết số đơn kiện về các vụ hãm hiếp tại Pháp tăng mạnh.
Trung bình, mỗi năm ở Paris có 600 - 800 đơn kiện về các vụ hiếp dâm, nhưng trong vòng 8 tháng đầu năm 2018, con số này đã tăng 25%. Phong trào #MeToo được khởi xướng trên các mạng xã hội vào tháng 10/2017, sau khi nhiều ngôi sao Mỹ tố cáo nhà sản xuất phim Hollywood, Harvey Weinstein, hiếp dâm họ. Phong trào này đã có những hiệu ứng không thể phủ nhận ở Pháp. Hiệp hội nữ quyền chống hãm hiếp (CFCV) tồn tại từ 30 năm nay và trong những tháng sau vụ bê bối tình dục Harvey Weinstein, số cuộc gọi đến cho hiệp hội này đã tăng 30%.
Thế nhưng, Le Monde đặt câu hỏi tại sao trong 10 năm qua, số vụ xét xử về tội hiếp dâm lại giảm 40% và số vụ xét xử về bạo lực tình dục giảm 20% ? Các thẩm phán cũng rất ngạc nhiên về số liệu nói trên. Sự trái ngược, giữa hiện tượng số vụ đệ đơn kiện trong vòng một năm qua tăng (dấu hiệu cho thấy có sự biến chuyển sâu sắc trong xã hội) và việc số vụ xét xử trong 10 năm qua giảm, đặt ra nghi vấn về khả năng đấu tranh có hiệu quả của hệ thống tư pháp Pháp chống lại nạn bạo lực tình dục.
Các nhà điều tra, thẩm phán, nhà nghiên cứu đại học và cả các hiệp hội bảo vệ nạn nhân bị xâm hại tình dục đều khẳng định đó không phải là một vấn đề liên quan tới việc làm ra luật. Bộ luật hình sự của Pháp hiện khá hoàn chỉnh, đủ để xử lý mọi vụ việc hoặc hầu như mọi vụ việc.
Tuy nhiên, một cuộc điều tra và xét xử chỉ có thể được tiến hành, nếu cảnh sát nhận được đơn tố cáo. Vấn đề là theo Bộ Nội vụ Pháp, cứ 10 nạn nhân bị tấn công tình dục thì có đến 9 người không trình báo vì nhiều lý do : sợ gia đình tan nát, cuộc sống của họ bị thủ phạm kiểm soát… Ngoài ra, nhiều nạn nhân cảm thấy không được lắng nghe khi trình báo ở sở Cảnh sát.
Tuy nhiên, ông Philippe Conte, giám đốc Viện Tội phạm học và luật hình sự Paris cho rằng trong những năm qua đã có nhiều nỗ lực cải cách trong đào tạo cảnh sát để họ có kỹ năng đón tiếp và lắng nghe tốt hơn khi các nạn nhân đến trình báo.
Le Monde cũng nêu lên nhiều lý do khiến các vụ xét xử gặp trở ngại, không đi đến cùng, chẳng hạn theo quy định tại nhiều nơi, băng ghi hình vidéo theo dõi chỉ được lưu trong vòng 15 ngày, sau đó sẽ bị xóa hoặc theo quy định, nếu nạn nhân không hồi đáp thư triệu tập của Tư pháp thì vụ xét xử sẽ phải ngưng lại …
Le Monde kết luận, trung bình hàng năm có 100.000 vụ cưỡng hiếp, nhưng chỉ có 14.000 đơn tố cáo và chỉ có 1.000 vụ được xét xử, và trước quy mô của hiện tượng này, một mình tư pháp không thể làm xuể.
Thùy Dương
Những con số thống kê mà Cơ Quan Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund) mới đây vừa phổ biến cho thấy rằng Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất cảng lớn nhất của Việt Nam vào 2017 thay thế vị trí mà Hoa Kỳ đã chiếm giữ trong 15 năm vừa qua. Điều này xác nhận sự tin tưởng của nhiều người rằng Trung Quốc không những ảnh hưởng mạnh mẽ tới ngoại thương của Việt Nam mà còn cả đến nội thương vì Việt Nam là một nước nhỏ so với nước láng giềngTrung Quốc về dân số, diện tích và kinh tế. Nhưng thực tế không phải hoàn toàn đúng như vậy.
VND và USD - Hình minh họa.
Thương mại về hàng hóa
Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ vào cuối năm 1991 sau cuộc chiến biên giới 1979, Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam vào năm 1988 và Hội Nghị Thành Đô 1990. Từ đó buôn bán giữa hai nước đã gia tăng nhanh chóng từ 692 triệu Mỹ Kim vào năm 1995 lên đến 66 tỉ Mỹ kim vào 2015 là năm mà hiện nay có đủ số thống kê nhất. Trong vài năm đầu, trị giá hàng xuất cảng của Việt Nam vượt trị giá hàng nhập cảng từ Trung Quốc trung bình vào khoảng 41 triệu Mỹ kim hàng năm. Tuy nhiên sáu năm sau cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đối với Trung Quốc đã trở nên thiếu hụt, từ 189 triệu Mỹ kim vào 2001 lên tới 32,9 tỉ Mỹ kim vào 2015, tăng 174 lần, không kể số lượng hàng hóa trao đổi bất hợp pháp qua các vùng biên giới đặc biệt là những nơi gần các thành phố Mống Cái và Lạng Sơn.
Việt Nam nhập cảng từ Trung Quốc nguyên liệu cho kỹ nghệ may mặc (sợi và vải), dụng cụ truyền thông và âm thanh, dầu hỏa và các sản phẩm chế tạo từ dầu hỏa, máy móc và dụng cụ công nghiệp, sắt và thép, quần áo và phụ tùng, máy điện và dụng cụ trong nhà, máy phát điện, xe cộ và những máy móc chế tạo riêng cho những ngành công nghiệp đặc biệt.
Hàng hóa của Việt Nam xuất cảng sang Trung Quốc gồm than đá, than cốc, than bánh, trái cây, rau, dầu hỏa và các sản phẩm chế tạo từ dầu hỏa, nguyên liệu dệt và vải, dụng cụ truyền thông và âm thanh, máy điện và dụng cụ trong nhà, quặng kim loại và kim loại phế thải, bần và gỗ, máy móc văn phòng và điều hành số liệu và giầy dép.
Ở mức độ vi mô, tình trạng Việt Nam buôn bán với Trung Quốc xem ra còn tăm tối hơn. Vào khoảng 70-80% vật liệu cho ngành dệt vải, may quần áo, làm giầy dép, bộ phận cho công nghệ điện tử và kỹ sư nhập cảng từ Trung Quốc. Những công nhiệp này sẽ gặp khó khăn lớn lao trong trường hợp hàng cung cấp bị gián đoạn bất ngờ. Ngoài ra, Việt Nam chỉ có thể hưởng được thuế nhập cảng ưu đãi khi ít nhất 30% vật liệu dùng để chế tạo hàng xuất cảng của Việt Nam phải được sản xuất ở trong nước hoặc tại các nước trong khối theo hiệp định thương mại.
Những con số ở trên cho thấy Việt Nam phụ thuộc đáng kể vào Trung Quốc nhưng không cho thấy toàn bộ tình trạng thương mại giữa hai nước. Nhìn từ góc cạnh toàn cầu, người ta sẽ thấy một bức tranh khác. Thật vậy, theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam trị giá tổng số hàng hóa buôn bán của Việt Nam với thế giới là 327,8 tỉ Mỹ kim vào 2015. Trong đó, số lượng hàng hóa buôn bán với Trung Quốc chiếm 20,1%, so với 12,8 % đối với Hiệp Hội Các nước Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations - ASEAN), 12,6% đối với Hoa Kỳ, 12,6% đối với Hiệp Hội Âu Châu (European Union), 11,1% đối với Nam Hàn và 8,6% đối với Nhật. Ô. Lương Hoàng Thái, Vụ Trưởng Vụ Chính Sách Thương Mại Đa Biên thuộc Bộ Công Thương Việt Nam góp ý nhân có tin Trung Quốc trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam kể từ 2017 “chúng tôi muốn gia tăng xuất khẩu đến nhiều nước khác, chứ không chỉ Trung Quốc.”
Việt Nam buôn bán hàng hóa nhiều nhất với Trung Quốc vì hai lý do. Thứ nhất, hàng Trung Quốc rẻ vì chất lượng thấp, nhưng lại hợp với túi tiền của người Việt. Thứ hai, hai nước ở sát cạnh nhau. Về thương mại hàng hóa Trung Quốc là một đối tác quan trọng nhưng không ngự trị Việt Nam. Về lãnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng vậy như người ta sẽ thấy sau đây.
Những nguồn tài trợ
Tính đến 31-12-2016, tổng số vốn đầu tư nước ngoài đã được đăng ký và thuộc những dự án đang hoạt động là 293,7 tỉ Mỹ kim. Phần của Trung Quốc chỉ chiếm 3,6%, hơn con số của Hoa Kỳ là 3,5%. Nam Hàn đầu tư đáng kể ở Việt Nam với 50,5 tỉ Mỹ kim (17,2%). Tiếp theo là Nhật với 42,4 tỉ USD (14,4%), Singapore với 38,3 tỉ USD (13%), Đài Loan với 31,9 tỉ USD (10,9%) và Hồng Kông 17 tỉ USD (5,8%). Trung Quốc có 1.562 dự án đầu tư trực tiếp, chiếm 6,9% của tổng số 22.594 dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Như vậy, Trung Quốc chỉ giữ vai trò rất khiêm nhường trong lãnh vực đầu tư nước ngoài.
Theo số thống kê của Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (Organization for Economic Cooperation and Development - OECD), Việt Nam đã nhận được tổng số tiền đã được giải ngân 5,5 tỉ USD trong chương trình Trợ Giúp Phát Triển Chính Thức (Official Development Assistance - ODA) trong khoảng thời gian 2000-2016. Đây là một chương trình tài trợ với lãi suất thấp và điều kiện dễ dãi cho những nước nghèo. Quốc gia đóng góp vốn nhiều nhất là Nhật Bản. Tiếp theo là Nam Hàn, Pháp, Đức, Anh, Úc, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Canada, và Hoa Kỳ.
Theo Trung Tâm AidData Phát Triển Chính Sách (AidData for Development Policy), một cơ quan nghiên cứu tại Đại Học William & Mary, Việt Nam chỉ nhận được 4,3 tỉ USD, tiền tài trợ từ Trung Quốc trong những năm 2000-2013 trong đó có 350 triệu USD là tiền ODA. Số tiền còn lại là phần cho vay với lãi xuất và điều kiện bình thường. Do đó, phần của Trung Quốc chỉ chiếm khoảng dưới 5% trong tổng số nợ nước ngoài 91,2 tỉ USD của Việt Nam tính đến 31-12-2016. Trong khi đó, Trung Quốc cho các nước Á Châu khác vay tiền ODA nhiều hơn trong cùng một thời gian : Campuchia 8,7 tỉ USD, Nam Dương 9.3 tỉ USD, Lào 12 tỉ USD và Thái Lan 15 tỉ USD. Miến Điện, một nước bướng bỉnh, chỉ nhận được 2 tỉ USD nhưng vẫn còn lớn hơn phần dành cho Việt Nam.
Ô. Đinh Tiến Dũng, Bộ Trưởng Tài Chánh của Việt Nam, tường trình với Quốc Hội cách đây ít lâu rằng “Việt Nam vay tiền của Trung Quốc để thực hiện các dự án là không nhiều. Trong đó, đầu tư vào thị trường chứng khoán của Trung Quốc chỉ chiếm 0,33% quy mô giá trị của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trung Quốc có hai nhà đầu tư lớn đang đầu tư vào hai tập đoàn và công ty, nhưng không có gì đáng lo ngại, vì đây đều là những nhà đầu tư dài hạn”.
Đầu tư công cộng
Điều mà Việt Nam phải lo ngại là những công ty của Trung Quốc đã dễ dàng thắng những dự án đầu tư công cộng của Việt Nam qua thủ tục đấu thầu. Những công ty Trung Quốc đã trúng thầu và đã thực hiện 90% hợp đồng về xây cất, kỹ thuật và chương trình thu mua của nhà nước liên quan đến những nhà máy nhiệt điện, dùng nhân công và vật liệu của Trung Quốc. Tương tự như vậy, 23 trong số 24 nhà máy xi măng của Việt Nam do các nhà thầu Trung Quốc xây. Tình trạng này làm cho người Việt tức giận.
Ô. Lê Hồng Hiệp, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á (Institute for Southeast Asian Studies) nói rằng “Có hai lý do chính khiến cho những nhà thầu kỹ thuật Trung Quốc thắng lợi lớn tại Việt Nam. Thứ nhất là khi cho vay vốn ưu đãi các nhà thầu Trung Quốc đặt một số điều kiện. Thứ hai là các nhà thầu Trung Quốc áp dụng những chiến thuật kinh doanh uyển chuyển.” Tuy nhiên cần phải kể đến lý do thứ ba là giá đấu thầu của những công ty Trung Quốc khá thấp so với những giá thầu của những công ty khác. Những điều kiện để được vay vốn ưu đãi thường là Việt Nam phải dùng nhà thầu Trung Quốc, kỹ thuật, đồ trang bị, và dịch vụ của Trung Quốc.
Ông Đặng Ngọc Tùng, một đại biểu Quốc Hội, đã chất vấn Bộ Tài Chánh Việt Nam rằng “vì sao nhà thầu Trung Quốc thường xuyên không hoàn thành hợp đồng đúng hạn, chất lượng các công trình không bảo đảm, giá thành các công trình thường tăng cao hơn dự kiến, không sử dụng nhân công Việt Nam, song có tới 90% dự án phát triển nguồn điện và 80% dự án phát triển hạ tầng giao thông vẫn được giao cho các nhà thầu Trung Quốc ?”.
Nhiều thắc mắc tương tư như trên đã từng được báo chí, các cuộc hội thảo và các hội nghị thường xuyên mang ra bàn cãi, nhưng chưa được nhà nước Việt Nam trả lời. Có một vài lý do gây ra tình trạng đấu thầu bừa bãi này theo những ý kiến thâu thập từ các bài báo phổ biến trên Internet. Thứ nhất là các cơ quan quản lý, đặc biệt là các cơ quan cấp phép cho các dự án đã không hoàn tất trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện các dự án. Thứ hai, các nhà thầu Trung Quốc hối lộ những cơ quan quản lý dự án để được bao che. Do đó chính người Việt Nam làm hại chính đất nước của họ.
Những giải pháp khả thi
Việt Nam tham dự vào những hiệp định thương mại quốc tế giúp đa phương hóa thị trường và giúp bớt phụ thuộc vào Trung Quốc. Việt Nam đã ký kết Hiệp Định Thương Mại Song Phương với Hoa Kỳ (Bilateral Trade Agreement – BTA) vào 2001. Ngoài ra, Việt Nam còn gia nhập hiệp định thương mại song phương với một số quốc gia khác : Nhật (2008), Chile (2012) và Nam Hàn (2015). Về phương diện đa phương, Việt Nam đã gia nhập ASEAN Free Trade Area (AFTA) vào 1992, Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (World Trade Organization – WTO) vào 2007, Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN (ASEAN Economic Community – AEC) vào 2015 và Hiệp Định Thương Mại Tự Do Âu Á (Eurasian Economic Union Free Trade Agreement – EAEU FTA) vào 2017. Việt Nam hi vọng hiệp ước Thương Mai Tự Do đa phương giữa Liên Hiệp Âu Châu - Việt Nam (European Union – Vietnam Free Trade Agreement – EUV-FTA) sẽ sớm được phê chuẩn. Việt Nam cũng đang chờ đợi để hưởng những lợi ích của hiệp ước Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương Toàn Diện và Lũy Tiến (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership - CPTPP).
Trong một nền kinh tế thế giới mở, tất cả những quốc gia đều phụ thuộc lẫn vào nhau. Việt Nam không nên và sẽ không bao giờ trở nên hoàn toàn độc lập với Trung Quốc và ngược lại bởi vì hai nước ở sát cạnh nhau và Trung Quốc có một nền kinh tế lớn thư hai trên thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam có thể thâu hẹp cán cân thương mại thiếu hụt với Trung Quốc bằng cách cải tổ môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư nước ngoài có chất lượng để phát triển công nghiệp cao. Rất tiếc rằng gần đây Luật An Ninh Mạng được Quốc Hội thông qua và những cuộc biểu tình lớn tại nhiều thành phố từ Bắc vào Nam chống lại luật này và dự luật Đặc Khu Kinh Tế đã làm cho môi trường kinh doanh giao động, không phục vu cho mục tiêu này.
Áp lực của nợ công và ngân sách thiếu hụt gia tăng trong những năm vừa qua, ngoại trừ 2017 có triệu chứng thuyên giảm, chính phủ Việt Nam đã đặc biệt cố gắng thi hành một số biện pháp để cải tổ những công ty quốc doanh thua lỗ hay yếu kém. Nếu việc này thành công sẽ giúp Việt Nam cải thiện khả năng cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Người ta còn nhớ rằng chương trình cải thiện những công ty quốc doanh đã được bắt đầu bàn tới khoảng 20 năm trước đây, nhưng chưa bao giờ được xúc tiến một cách nghiêm chỉnh vì lợi ích của các phe nhóm trong chánh quyền. Cải tổ có nghĩa là một số viên chức sẽ mất việc làm và quyền lợi.
Tới lúc này chánh quyền không còn lựa chọn nào khác. Tư nhân hóa hoặc giải thể những công ty quốc doanh thua lỗ, thu nhỏ bộ máy của Đảng cộng sản Việt Nam và bộ máy cai trị cồng kềnh của chính phủ là những điều bắt buộc. Bán đất cho ngoại bang, một giải pháp cứu vãn cấp thời cho ngân sách và nợ công, không phải là một giải pháp có thể lựa chọn bởi vì nó sẽ đổ thêm dầu vào lửa, tạo thêm rối loạn, và “sẽ đốt cháy những người cộng sản ở Hà Nội” như tờ báo The Economist nhận định.
Nguyễn Quốc Khải
Nguồn : VOA, 23/7/2018
Tham khảo
1. BBC, “Tiền Chính Phủ Trung Quốc Tới Việt Nam Bao Nhiêu ?” October 12, 2017.
2. BBC, “Vén Màn Bí Mật ‘Tiền Viện Trợ’ Trung Quốc,” October 11, 2017.
3. IMF, “Vietnam – Selected Issues,” July 2018.
4. IMF, “Vietnam – 2018 Article IV Consultation – Country Report No. 18/215,” July 2018.
5. Nguyen Dieu Tu Uyen, “China Overtakes U.S. as Top Export Market in one More Nation,” Bloomberg News, April 18, 2018.
6. Nguyễn Quốc Khải, “Kinh tế Việt Nam : Làm sao để Giảm lệ thuộc vào Trung Quốc ?” 4/7/2014.
7. The Economist, “Vietnam and China : Through a border darkly,” August 16, 2014.
8. Voice of Vietnam, “Trung Quốc Trở Thanh Thị Trường Xuất Khẩu Lớn Nhất Của Việt Nam,” 19/4/2018.
9. Voice of Vietnam, “Economist Warns of Vietnam’s Over Dependence on China, “May 3, 2015.