Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Biển Đông và biển Hoa Đông : Những nguy cơ chiến tranh nào giữa Trung Quốc và Mỹ ?

Thứ Bảy, 29/05/2021, Philippines lại gởi công hàm ngoại giao phản đối "sự hiện diện và các hoạt động bất hợp pháp" của Trung Quốc tại Biển Đông. Trước đó hai hôm, ngày 27/05/2021, Nhật Bản và Liên Hiệp Châu Âu trong cuộc họp cấp cao trực tuyến, kêu gọi "duy trì hòa bình và ổn định tại eo biển Đài Loan". Căng thẳng gia tăng tại Biển Đông và biển Hoa Đông và ẩn sau đó là những rủi ro xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc.

nguyco1

Hàng không mẫu hạm Mỹ, USS Ronald Reagan (CVN 76) và USS Nimitz (CVN 68) tập trận tại Biển Đông, ngày 06/07/2020. AP - Petty Officer 3rd Class Jason Tarleton

Làm thế nào đánh giá được những rủi ro đó ? Nhà báo Joris Zylberman trên trang mạng RFI lần lượt phân tích những nguy cơ có thể dẫn đến đối đầu quân sự Mỹ - Trung tại ba điểm nóng ở Châu Á – Thái Bình Dương : Eo biển Đài Loan, biển Hoa Đông và Biển Đông.

Đài Loan và chiến lược mập mờ

Từ năm 2019, Trung Quốc không ngừng gia tăng sức ép không - hải quân đối với Đài Loan. Ông Tập Cận Bình và Đảng cộng sản Trung Quốc tuyên bố hạ gục "tỉnh nổi loạn" bằng cuộc chiến tiêu hao hay bằng vũ lực nếu thấy cần thiết. Đối với ông Tập, không thể để gánh nặng hợp nhất này cho thế hệ tiếp theo.

Kế hoạch tái chiếm có thể được hình dung theo hai bước. Đầu tiên là phá hủy các trung tâm chỉ huy, căn cứ không quân và hải quân sau khi tấn công tin học để vô hiệu hóa hệ thống phòng thủ và chiếm lấy kiểm soát không phận. Rồi tiếp đến mới cho đổ bộ.

Nhà nghiên cứu Mathieu Duchatel, giám đốc chương trình Châu Á, Viện Montaigne lưu ý trong cuộc chiến này Trung Quốc chưa chắc gì nắm lấy phần thắng. Đó sẽ là một cuộc chiến hao tốn nhân lực. Và nhất là Bắc Kinh chưa làm chủ được một yếu tố quan trọng : Phản ứng của Mỹ.

Thế nên, theo ông Mathieu Duchatel, "kịch bản khả dĩ nhất, chính là hai hay ba thời điểm khủng hoảng trong 10 năm, đưa Trung Quốc dần dần tiến đến mục tiêu của mình. Mỗi một cuộc khủng hoảng sẽ mang lại một chút lợi thế. Điều quan trọng là Bắc Kinh cần trắc nghiệm quyết tâm kháng cự của Đài Loan và Hoa Kỳ".

Nước Mỹ của Joe Biden sẽ làm gì ? Với đạo luật 1979, "Taiwan Relations Act", Hoa Kỳ cam kết cung cấp vũ khí để Đài Bắc có thể tự vệ trước những hành động gây hấn của Bắc Kinh, nhưng đồng thời vẫn tôn trọng "nguyên tắc một nước Trung Hoa duy nhất". Vậy khi Đài Loan bị xâm chiếm, liệu Mỹ có sẽ đến ứng cứu hay không ? Về điểm này, nước Mỹ vẫn tỏ thái độ nước đôi, đến mức có cả một chính sách : "Mập mờ về chiến lược"

Hiện tại, tổng thống Joe Biden không đoạn tuyệt với chính sách của Donald Trump. Ông cũng gởi các đặc sứ cấp cao đến gặp tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn. Tháng 4/2021, Joe Biden cho dỡ bỏ những hạn chế các cuộc tiếp xúc cấp cao với chính quyền Đài Bắc. Ông thậm chí còn vận động được G7 lên án "những hành động quấy rối của Trung Quốc nhắm vào Đài Loan". Phải chăng chủ nhân Nhà Trắng hiện nay sắp làm rõ chính sách của mình về Đài Loan ?

Đây cũng chính là những gì mà nhiều tướng lĩnh cấp cao Mỹ đòi hỏi từ ba tháng qua. Đối với cựu đô đốc James Stavridis, sự mập mờ về chiến lược "rất có thể dẫn đến những đánh giá sai lầm từ phía Trung Quốc (hay từ Đài Loan) và khơi dậy một cuộc xung đột diện rộng".

Thế nhưng, đó không phải là quan điểm của chính quyền Biden, nhất là với bà Avril Haines, giám đốc tình báo quốc gia (cố vấn của tổng thống về tình báo). Theo bà, "việc từ bỏ chiếc lược nước đôi có lẽ gây bất ổn sâu sắc cho Trung Quốc. Điều này sẽ còn củng cố ý tưởng của Trung Quốc cho rằng Hoa Kỳ quyết tâm ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc, kể cả thông qua sức mạnh quân sự. Điều này chắc chắn sẽ đẩy Bắc Kinh tìm cách gây cản trở các lợi ích của Mỹ trên toàn thế giới". Cũng theo bà Avril Haines, việc tỏ rõ lập trường còn thúc đẩy thêm những mầm mống tuyên bố độc lập chính thức của Đài Loan, vốn dĩ là một điều tối kỵ đối với Bắc Kinh.

nguyco2

Eo biển Đài Loan. © Wikipedia

Theo nhà nghiên cứu Antoine Bondaz, Quỹ Nghiên cứu Chiến lược (FRS), "với Đài Loan, những bảo đảm an ninh đó là không rõ ràng". Quan điểm này đã được ông Kurt Campbell, điều phối viên của Nhà Trắng về chính sách Ấn Độ - Thái Bình Dương khẳng định. Ông cho rằng Washington và Bắc Kinh chia sẻ cùng lập trường : Duy trì nguyên trạng xung quanh đảo này ở một mức độ nào đó, là nằm trong lợi ích của cả hai cường quốc.

Biển Đông và yếu tố Philippines bất định

Tại Biển Đông, vùng biển này có diện tích rộng bằng một nửa Châu Mỹ, có nhiều nguồn khoáng sản, dầu khí và còn là con đường giao thương huyết mạch, nơi trung chuyển của 1/3 thương mại toàn cầu, Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền đến 80% diện tích khu vực. Một đòi hỏi khó thể chấp nhận được đối với nhiều nước sở hữu và cũng có các đòi hỏi chủ quyền với nhiều đảo như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia.

Hồi tháng 2/2021, Trung Quốc ban hành một đạo luật mới cho phép "tầu tuần duyên Trung Quốc có trang bị vũ khí" được phép đáp trả "những sự cố bạo lực nghiêm trọng" tại những vùng lãnh hải mà Trung Quốc cho là có chủ quyền.

Bởi vì tầu chiến nước ngoài ngày càng hiện diện đông đảo. Hạm đội Mỹ đặc biệt còn tiến hành các chiến dịch "tự do lưu thông" ở Biển Đông, vì Washington không muốn để Bắc Kinh độc quyền kiểm soát cả một khu vực chiến lược rộng lớn.

Rủi ro xảy ra sự cố hiện hữu khắp vùng. Người ta còn nhớ vụ va chạm trên không giữa một tiêm kích Trung Quốc và chiếc máy bay trinh sát của Mỹ năm 2001 đã làm thiệt mạng một phi công Trung Quốc. Năm 2018, hàng không mẫu hạm USS Decatur và tầu khu trục hạm Lan Châu (Lanzhou) xuýt nữa va nhau khi chỉ cách có 41 mét.

Nhà nghiên cứu François-Xavier Bonnet, Viện Nghiên cứu về Đông Nam Á đương đại (Irasec), nhận định : "Rủi ro ở đây chính là một sai lầm. Nếu một tầu chiến Mỹ bị radar Trung Quốc chiếu sáng và một chiếc tên lửa được trực tiếp bắn đi sau khi bị rọi, Hoa Kỳ có thể có phản ứng. Chiến tranh cục bộ có thể trở nên lan rộng".

Ngoài ra, Hoa Kỳ còn phải đối mặt với một rủi ro khác : Bị lôi kéo vào một cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và một trong số các nước đồng minh của Mỹ, những nước đang có tranh chấp chủ quyền, đặc biệt là Philippines. Theo yêu cầu của Manila, Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye năm 2016 ra phán quyết cho rằng những đòi hỏi "chủ quyền lịch sử" của Bắc Kinh ở Biển Đông là không có cơ sở pháp lý.

Vì hy vọng thu hút nhiều đầu tư Trung Quốc, tổng thống Philippines đã gạt phán quyết của La Haye sang một bên, cho đấy chỉ là "một mớ giấy lộn" đáng "ném vào sọt rác". Thái độ nhún nhường này của ông Rodrigo Duterte cũng không ngăn cản được 200 tầu đánh cá Trung Quốc ngang nhiên neo đậu tại bãi Đá Ba Đầu hồi tháng 3/2021. Trên thực tế, đó là những đội tầu dân quân biển, có nhiệm vụ làm tiền đồn cho hải quân Trung Quốc.

Theo nhà địa lý học François-Xavier Bonnet, bãi Đá Ba Đầu là phần đông bắc của Cụm Sinh Tồn, "cụm đảo quan trọng nhất tại Biển Đông". Trung Quốc đã chiếm hai bãi đá ngầm và giờ nếu có được cả bãi Đá Ba Đầu, nước này có thể xây dựng một khu căn cứ hải quân lớn cùng với oanh tạc cơ, có khả năng tấn công đến đảo Guam của Mỹ.

Một điểm khác cũng khiến Hoa Kỳ lo lắng : Căn cứ không quân trên bãi đá Chữ Thập, trong quần đảo Trường Sa. Tại đây, Bắc Kinh cho xây dựng một đường băng dài 3.000 mét và đang chuẩn bị mở rộng thêm căn cứ. Từ điểm này, một chiếc oanh tạc cơ Trung Quốc cùng với máy bay tiếp liệu có thể đi tới các bờ biển của Úc.

Ông Francois-Xavier Bonnet tóm lược như sau :"Scarborough, Đá Chữ Thập (Fiery Cross), Cụm Sinh Tồn (Union Banks) và bãi Đá Vành Khăn (Mischief), khi nối tất cả các nhóm đảo này lại, Bắc Kinh có thể sẽ kiểm soát được Biển Đông, cả trên bình diện không quân, hải quân lẫn tầu ngầm".

Để hiểu rõ toàn cảnh vấn đề, chuyên gia Antoine Bondaz còn cho rằng người ta nên chú ý đến độ sâu của các vùng biển :"Biển Đông là vùng biển ngoại vi duy nhất của Trung Quốc có độ sâu lớn, ở đó người ta có thể làm cho các chiếc tầu ngầm không bị phát hiện, một điều quan trọng cho khả năng răn đe hạt nhân của Trung Quốc. Hiện tại, tầu ngầm tên lửa hạt nhân của Trung Quốc chưa thể đi tới đến bờ tây của nước Mỹ. Bởi vì, Trung Quốc còn phải đối mặt với một chuỗi các điểm không an toàn : nước này cảm thấy bị bao vây bởi hệ thống liên minh của Mỹ theo hình chữ "J" bắt đầu từ Nhật Bản, sang Đài Loan, Philippines rồi Úc. Do vậy, việc phá vỡ vòng vây này, thu hồi Đài Loan, cũng như biến Biển Đông thành một thành trì kiên cố là điều cần thiết".

Trước đà trỗi dậy mạnh mẽ về chiến lược của Trung Quốc, Washington mong muốn có thể dựa vào tất cả các đồng minh trong khu vực. Chính ở điểm này Philippines của ông Duterte lộ rõ là một yếu tố bất ổn. Vị tổng thống tính khí thất thường đe dọa hủy thỏa thuận thăm viếng quân sự (VFA) ký kết từ năm 1999.

François-Xavier Bonnetgiải thích : "Thỏa thuận này cho phép các binh sĩ Mỹ tiếp cận dễ dàng hơn các khu căn cứ quân sự Philippines mà không cần hiện diện thường trực vào lúc mà Hoa Kỳ đang dần triệt thoái khỏi Afghanistan. Hoa Kỳ còn có thể đối phó với một đòn tấn công mạnh tại khu vực trong trường hợp xung đột với Đài Loan".

nguyco3

Bãi Đá Ba Đầu, cụm đảo Sinh Tồn. © Wikipedia

Trong bối cảnh này, Hoa Kỳ đã đề nghị tái đàm phán thỏa thuận. Nhưng ông Duterte tìm cách cản trở tối đa. Đối với nguyên thủ Philippines, không có chuyện chọc giận Bắc Kinh và có nguy cơ dẫn đến một cuộc xâm chiếm phía bắc Philippines từ Trung Quốc.

Biển Hoa Đông : Vùng xám

Nhìn sang Biển Hoa Đông, cách nay vài năm, căng thẳng giữa Nhật Bản và Trung Quốc tưởng chừng đi đến một cuộc xung đột lớn. Việc chính quyền Tokyo mua lại quần đảo Senkaku – mà Bắc Kinh gọi là Điếu Ngư và có đòi hỏi chủ quyền – nhằm ngăn cản Shintaro Ishihara, thị trưởng Tokyo mang tư tưởng chủ nghĩa dân tộc mua lại quần đảo, đã làm cho mối quan hệ với Bắc Kinh trở nên xấu đi.

Từ đó, Trung Quốc không ngừng đưa tầu chiến xâm nhập vùng lãnh hải này và dẫn đến nhiều vụ chạm trán may thay không để lại các hậu quả. Đỉnh điểm căng thẳng là năm 2013. Hiện tại, tuy đã giảm hẳn nhưng các cuộc xâm nhập vẫn còn tiếp diễn.

Giả như xung đột xảy ra, Hoa Kỳ sẽ có phản ứng ra sao ? Theo đánh giá của ông Mathieu Duchâtel, mọi việc ở vùng biển này rõ ràng hơn ở những nơi khác : Hoa Kỳ công nhận quần đảo có tranh chấp là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Nhật Bản. Một hành động gây hấn của Trung Quốc sẽ tức thì kích hoạt Hiệp ước Phòng thủ Hỗ tương Mỹ - Nhật.

"Nguy cơ xảy ra sự cố giữa Mỹ và Trung Quốc ở biển Hoa Đông hiện nay là rất thấp. Khả năng răn đe của Nhật Bản là khả tín, dù rằng các cuộc xâm nhập của Trung Quốc vào vùng 12 hải lý ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư là một "thách thức vùng xám" khó kiểm soát vì đó là những lực lượng tuần duyên chứ không phải là hải quân Trung Quốc.

Thế răn đe của Nhật Bản đã được củng cố ang do lập trường rõ ang của Mỹ trong việc bảo đảm an ninh, được áp dụng cho cả quần đảo Senkaku. Chuyện đi lại của hải quân và không quân Trung Quốc tại eo biển Miyako ở giai đoạn này mới chỉ là một chủ đề song phương Trung – Nhật.

Nếu so với Biển Đông, trường hợp biển Hoa Đông cho thấy rõ Trung Quốc ít dám mạo hiểm hơn khi mối tương quan lực lượng rõ ang là bất lợi cho Trung Quốc. Đây chính là trường hợp liên minh Mỹ - Nhật".

Minh Anh

Nguồn : RFI, 03/06/2021

Additional Info

  • Author Minh Anh
Published in Diễn đàn

Trung Quốc dọa thiết lập "Vùng nhận diện phòng không" (ADIZ-Air Defense Indentification Zone) ở Biển Đông để chống ai ?

SONY DSC

Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng - Ảnh minh họa

Lời giới thiệu : Câu hỏi đang đặt ra ở Biển Đông là Trung Quốc có âm mưu gì khi bất ngờ gia tăng đe dọa và phủ nhận quyền chủ quyền của các nước có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei, vào lúc cả thế giới lo phòng, chống dịch nạn Vũ Hán, xuất phát từ Trung Quốc từ đầu năm 2020 (Coronavirus disease 2019-Covid-19).

Để trả lời cho thắc mắc này, cũng như liệu tranh chấp giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông có đưa đên nguy cơ chiến tranh hay không, xin mời bạn đọc theo dõi nội dung Cuộc phỏng vấn của tôi với Giáo sư ngoại hạng (Professor Emeritus), Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, người từng giảng dậy nhiều năm về Quan hệ Quốc tế tại Đại học George Mason, gần Thủ đô Hoa Thịnh Đốn.

Giáo sư Hùng là Học giả cao cấp bất thường trú của Trung tâm nghiên cứu Chiến lươc và quan hệ Quốc tế ở Washington, D.C. (Center for Strategic and International Studies, CSIS). Ngoài ra ông còn là Học giả vãng lai hai niên khóa 2015-2016 tại viện nghiên cứu nổi tiếng ISEAS-Yusof Ishak Institute, Tân Gia Ba.

Các bài nghiên cứu của ông, phần lớn về Châu Á và Đông Nam Á được đăng trên các Tạp chí chuyên môn (professional journals) như World Affairs, Asian Survey, Pacific Affairs, Global Asia, The Diplomat, Asia Pacific Bulletin và CogitAsia.

Phạm Trần

****

nmh02

Âm mưu thâm độc của Trung Quốc

Phạm Trần : Thưa Giáo sư, sau vụ Trung Quốc cho tầu Hải Dương 8 vào tận bãi Tư Chính, cách Vũng Tầu chỉ lối 370 cây số hướng Đông-Nam, để thăm dò dầu khí dài tới 113 ngày (4/7 – 14/10/2019), thì từ đầu năm 2020, Trung Quốc lại gia tăng các hoạt động đe dọa an ninh bất thường ở Biển Đông trong thời gian có bệnh dịch Covid 19 phát xuất từ Vũ Hán (Trung Quốc), trong đó có những việc cụ thể như : xây dựng thêm hai "trạm nghiên cứu" mới tại đá Chữ Thập và đá Subi (tháng 03/2020) ; tấn công tầu đánh cá của Việt Nam ngày 3/4 ; ra lệnh cấm đánh bắt 3 tháng, từ 1/5 đến khoảng 16/ 8 ; công bố thành lập 2 huyện Hoàng Sa và Trường Sa (18/4) ; đặt tên và định vị tọa độ cho 25 đảo, bãi đá ngầm cùng 55 thực thể địa lý dưới đáy biển ở Biển Đông ; phần lớn nằm trong quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

Xin ông nhận định về những sự kiện này, và liệu việc làm của Trung Quốc xẩy ra vào lúc cả Thế giới tập trung lo phòng và chữa dịch Vũ Hán có hậu ý gì khác ngoài chủ trương muốn chiếm thế thượng phong ở Biển Đông ?

Nguyễn Mạnh Hùng : Thưa ông, những người nghiên cứu chiến lược đều biết rõ rằng mục tiêu tối hậu của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, từng bước đẩy Hoa Kỳ ra ngoài, và giảm thiểu tối đa ảnh hương quân sự của Hoa Kỳ trong vùng biển quan trọng này. Chính sách để thực hiện mục tiêu đó có tính cách uyển chuyển và thời cơ. Tất cả những điều ông nói phản ánh chính sách này, mỗi khi có cơ hội Trung Quốc lại lấn thêm môt bước nhỏ quan trọng nhưng không đủ sốc để gây ra chiến tranh, nhằm tạo ra những "sự đã rồi"(fait accompli) trong việc thưc hiện mục tiêu tối hậu. Đại dịch Covit-19 khiến nhiều nước, nhât lá các nước trong khu vực và Hoa Kỳ phải tập trung vào việc đối đầu với nó đã tạo cho Trung Quốc cơ hội này. Thế thượng phong ở Biển Đông thì Trung Quốc đã tạo đươc từ năm 2017 qua việc tân tạo và quân sự hóa đá Chữ Thập, bãi Vành Khăn, và bãi Subi. Tam giác chiến lươc này cho Trung Quốc khả năng phóng chiếu sức mạnh quân sự đến tất cả các đá và bãi trên Biển Đông. Đô đốc Philip Davidson, Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, đã cảnh báo từ hai năm trước (2018) rằng Trung Quốc hiện có khả năng "kiểm soát" Biển Đông "trong mọi tình huống" trừ khi có chiến tranh vơi Hoa Kỳ.

nmh03

Tại sao đồng loạt chống Tầu ?

Phạm Trần : Cũng trong khoảng thời gian này Trung Quốc đã gửi Công hàm cho Liện Hiệp Quốc bác bỏ quyền chủ quyền ở Biển Đông của Phi Luật Tân và Mã Lai đồng thời tái khẳng định chủ quyền duy nhất của Bắc Kinh trong vùng Lưỡi Bò (hay còn gọi là dường 9 Đoạn, chiếm 3/4 tổng diện tích trên 3 triệu cây số vuông). Nhưng Việt Nam cũng gửi Công hàm tới Liên Hiệp Quốc để bác yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong khi đó thì Nam Dương, vào ngày 26/05/2020, cũng đã gửi Công hàm đến Liên Hiệp Quốc để khẳng định "bản đồ 'đường 9 đoạn' Trung Quốc dùng cho yêu sách chủ quyền ở Biển Đông là thiếu cơ sở pháp lý, vi phạm nghiêm trọng UNCLOS 1982".

Như vậy, thưa ông, lý do nào đã thúc đẩy 4 quốc gia Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Nam Dương và Việt Nam đã "cùng nhau đồng loạt" chống lại tham vọng chiếm trọn Biển Đông của Trung Quốc ?

Nguyễn Mạnh Hùng : Ngoài những hành động lấn lươt có từ trước, những hành động có tinh cách khiêu khích và thử thách gần đây -như việc chĩa súng radar vào tầu Philippines, đưa tầu khảo sát địa chất đươc hỗ trợ bởi hai tầu hải giám và môt tầu dân vệ biển đe dọa công ty khoan dầu West Capella hoạt đông trong vùng biển thuôc chủ quyên của Mã Lai Á, đánh chìm tầu đánh cá của Việt Nam, và tiếp tục cho ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trong khu vưc "ngư trường truyên thống" của họ bất chấp sư phản đối và xua đuổi của Indonesia- buộc các nước này phải lên tiếng.

Có hai điều đáng lưu ý trong trường hợp này.

Thứ nhất, các nước ASEAN tuy không cùng lên tiếng chung, nhưng các phản đối riêng lại xuất hiên gần như cùng một lúc và bênh vực lập truờng của nhau về chủ quyền biển đảo và ủng hộ Viêt Nam chống việc tầu Trung Quốc đâm chìm tầu cá Việt Nam.

Thứ hai, và có lẽ quan trọng hơn, là việc tầu sân bay và các tầu chiến của Hoa Kỳ đã có mặt để theo dõi tầu khảo sát của Trung Quốc, gián tiếp ủng hộ việc khai thác dầu khí của Mã Lai trong vùng biển mà họ có chủ quyền theo luật quốc tế và luật biển. Hai động thái này có ảnh hưởng hỗ tương. Sự hiện diên dồn dập của các tầu chiến Hoa Kỳ -USS Gabriel Giffords, USS Montgomery, USS Cesar Chavez, USS America, USS Bunker Hill, USS Barry, và USS Mustin- trong hai tháng 4 và 5, nhất là việc tầu chiến Hoa Kỳ lần đầu tiên hiện diện theo dõi tầu khảo sát của Trung Quốc khiến các quốc gia có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc mạnh dạn hơn trong việc cùng chống Trung Quốc. Ngược lại sự cương quyết của một số quốc gia ASEAN cùng lên tiếng chống sự lấn lướt của Trung Quốc khuyến khích Hoa Kỳ có phản ứng mạnh hơn, cụ thể hơn.

Mỹ và Biển Đông

Phạm Trần : Trước việc Hải quân Trung Quốc không ngừng phô trương sức mạnh quân sự đe dọa Đài Loan, một "thực thể đồng minh của Mỹ" ; tấn công đánh chìm một tầu đánh cá Việt Nam (04/2020) và gia tăng hành động nước lớn muốn "ăn hiếp" các nước nhỏ ở Đông Nam Á trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông và biển Hoa Đông (tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong vụ đảo Điếu Ngư (Senkaku), Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo, vào ngày 22/4/2020, đã tuyên bố cực lực phản đối Bắc Kinh và kêu gọi các Quốc gia khác buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về hành động của họ. Nhưng, trong khi đó thì Hải quân Mỹ cũng đã tuần tra "nhiều hơn" và "sát" hơn các vị trí biển-đảo mà Trung Quốc đã chiếm đóng ở Biển Đông.

Trong bối cảnh này, Giáo sư có nghĩ rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ đang muốn "phô trương sức mạnh" xem ai là cường quốc quân sự ở Châu Á hay hai nước đang có những động tác có thể dẫn đến nguy cơ chiến tranh ở Châu Á ? (1).

Nguyễn Mạnh Hùng : Phô trương sức mạnh (show of force) là biện pháp thông thường để răn đe, làm áp lực mà không gây ra chiến tranh. Sự hiện diện dồn dâp của các tầu chiến Hoa Kỳ và việc tầu sân bay USS America và USS Gabrielle Giffords theo dõi tầu khảo sát địa chất của Trung Quốc trong vùng biển thuôc chủ quyền của Mã Lai Á mà tôi nói ở trên thuộc dạng này. Tuy nhiên, phô trương sức mạnh theo kiểu tầu chiến và máy bay tác chiến kèm sát nhau tao ra căng thẳng. Tình trạng căng thẳng này dễ đưa đến những va chạm, đụng độ không cố ý, có thể leo thang lên chiến tranh. Nếu Trung Quốc lấn tới mà Hoa Kỳ không chịu lùi thì không thể coi thường nguy cơ chiến tranh ơ Biển Đông.

Ngoài ra, nếu Hoa Kỳ thực sự có quyết tâm ủng hộ ASEAN chống sự "bắt nạt" của Trung Quốc, thì Hoa Kỳ cần làm một số việc như sau :

Thứ nhất, tuyên bố ủng hộ quyền các quốc gia Đông Nam Á khai thác dầu khí trong vùng biển thuộc chủ quyền của họ theo luật quốc tế và luật biển.

Thứ hai, để hỗ trợ cho lời nói, Hoa Kỳ phải tiếp tục cho tầu chiến, như trường hợp USS Gabrielle Giffords và USS America, biểu dương lực luợng và theo dõi tầu khảo sát địa chất của Trung Quốc đi vào vùng tranh chấp để đe dọa và ngăn cản không cho các nước trong khu vực khai thác tài nguyên của họ.

Thứ ba, tái thương thuyết để gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP (Trans-Pacific Partnership Agreement), sau được đổi là Hiệp định Đối tác Toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP - Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership), môt cái neo kinh tế cho sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Á châu-Thái Bình Dương (2).

Thứ tư, phê chuẩn công ước về luật biển 1982 để có tư cách chính thống đòi hỏi Trung Quốc tuân thủ luật biển.

Nga và Biển Đông

Phạm Trần : Thưa ông, là một trong những chuyên gia hàng đầu về các vấn đề chính trị quốc tế ở vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ông lý giải thế nào về thái độ, có vẻ như muốn "đứng ngoài" của Nga, đặc biệt là của Tổng thống Vladimir Putin, một đồng minh của cả Trung Quốc và Việt Nam, trong vấn đề Biển Đông ?

Nguyễn Mạnh Hùng : Nước Nga dưới thời Putin không còn có sức mạnh và tham vọng của Liên Xô trong thời cực thịnh của nó. Ngày nay, Nga chỉ có thể là kẻ phá đám (spoiler) chứ không phải là siêu cường ngang hàng với Hoa Kỳ và Trung Quốc, Nga liên kết vơi Trung Quốc để chống lại thế độc tôn của Hoa Kỳ, nhưng cũng không muốn là đối tác hạng hai của Trung Quốc. Vả chăng, Biển Đông ở quá xa Nga và sát nách với Trung Quốc.

Là cuờng quốc hạng hai Nga không có quyền lợi chiến lược và khả năng hành động hiệu quả ở Biển Đông trong thế cạnh tranh Mỹ-Trung. Điều này có thể giải thích lập trường lấp lửng của Nga.

Lập ADIZ - Trung Quốc muốn gì ?

nmh4

Lập ADIZ - Trung Quốc muốn gì ?

Phạm Trần : Thưa Giáo sư, trong những ngày gần đây đã có tin, xuất phát từ báo South China Morning Post ở Hong Kong, nói rằng Trung Quốc sẽ công bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (Air Defense Indentification Zone-ADIZ) ở Biển Đông, bao trùm lên Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi Bắc Kinh đã làm như thế vào năm 2013 ở vùng Biển Hoa Đông tranh chấp với Nhật Bản (đảo Điếu Ngư/Senkaku).

Ông thấy quyết định này của Trung Quốc, trong tương lai, sẽ ảnh hưởng đến tình hình an ninh và giao thông trên không phận Biển Đông như thế nào ?

Nguyễn Mạnh Hùng : South China Morning Post đăng tin này như quả bóng thăm dò (trial balloon) của Trung Quốc. Vùng nhân dạng phòng không của Trung Quốc ở vùng biển Hoa Đông không được các máy bay quân sự ngoại quốc tôn trọng, nhưng nó buộc các hãng hàng không dân sự phải tuân thủ. Nếu Trung Quốc làm việc này ở Biển Đông, nó sẽ đặt các quốc gia có tranh chấp biển đảo vơi Trung Quốc vào một tình trạng khó xử. Chấp nhận có nghĩa là mặc nhiên công nhận đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc, nhưng chống lại thì không đủ sức. Ngược lại Trung Quốc cũng phải suy tính kỹ.

Một mặt, vùng nhận dạng phòng không phủ lên toàn thể đương lưỡi bò thì quá lớn chưa chắc không lực Trung Quốc có khả năng tuần tra, và phản ứng của Hoa Kỳ và các cường quốc khác sẽ rất mạnh khiến nó bị vô hiệu hóa.

Mặt khác,không làm được mà gây thù oán khiến nhiều nước và các cường quốc hợp lại với nhau để chống lại thì chưa chắc có lợi trong lúc này. Nếu họ chỉ tuyên bố vùng nhận dạng phòng không trên quần đảo Hoàng Sa thì lại là môt việc khác.

Nút thắt COC ở đâu ?

Phạm Trần : Như ông đã biết, cuộc thương thuyết về Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (Code of Conduct-COC) giữa Trung Quốc và ASEAN đã kéo dài gần 4 năm mà vẫn chưa có kết quả.

Xin ông có thể cho biết lý do và trở ngại ở "nút thắt" nào ?

Nguyễn Mạnh Hùng : Trở ngại chính là các nước ASEAN không đoàn kết và nhất trí vì quyền lợi bất đồng và bị Trung Quốc chi phối, trong khi đó Trung Quốc muốn kéo dài việc ký kết để có thời gian thực hiện các "việc đã rồi" hầu có thế thượng phong trong việc thương thuyết.

Ngoài ra trong khi ASEAN muốn bộ Quy tắc ứng xử có tính cách ràng buộc thì Trung Quốc không muốn thế. Việt Nam muốn bộ Quy tăc ứng xử áp dụng cho cả Trường Sa lẫn Hoàng Sa, điều mà Trung Quốc không muốn. Đó là chưa kể những bất đồng về cơ chế giải quyết tranh chấp và cách tiếp cận trong việc xử lý tranh chấp.

Phạm Trần : Thành thật cảm ơn Giáo sư.

Phạm Trần

(17/06/2020)

(1) Pompeo : "We've also seen that the Chinese Communist Party is exerting military pressure on Taiwan and coercing its neighbors in the South China Sea, even going so far as to sink a Vietnamese fishing vessel. We hope other nations will hold them to account". –State Department, 04/22/2020--

(2) Chú thích của Phạm Trần : Tài liệu của Bách khoa Toàn thư mở : Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh : Trans-Pacific Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp đinh/thỏa thuận thương mại tự do được ký kết giữa 12 nước vào ngày 4/2/2016 tại Auckland, New Zealand sau 5 năm đàm phán với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Thỏa thuận ban đầu được các nước Brunei, Chile, New Zealand và Singapore ký vào ngày 3 tháng 06, 2005 và có hiệu lực ngày 28/5/2006. Sau đó, thêm 5 nước đàm phán để gia nhập, đó là các nước Australia, Malaysia, Peru, Hoa Kỳ, và Việt Nam. Ngày 14/11/2010, ngày cuối cùng của Hội nghị thượng đỉnh APEC tại Nhật Bản, lãnh đạo của 9 nước (8 nước trên và Nhật Bản) đã tán thành lời đề nghị của tổng thống Mỹ Barack Obama về việc thiết lập mục tiêu của các cuộc đàm phán thuộc Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2011 diễn ra tại Hoa Kỳ. Vào cuối năm 2016, sau khi tổng thống Mỹ Donald Trump đắc cử, theo chính sách mới của Donald Trump, Mỹ đã chính thức rút khỏi hiệp định này.

Ngày 11/11/2017, các bộ trưởng TPP đã đạt được thoả thuận cơ bản cho hiệp định TPP-11, đồng thời thống nhất tên mới cho hiệp định là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP - Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership).

Additional Info

  • Author Nguyễn Mạnh Hùng, Phạm Trần
Published in Diễn đàn

Biển Đông : Làm sao giảm nguy cơ bùng nổ chiến tranh ? (RFI, 02/01/2020)

Biển Đông đang trở thành lò thuốc súng. Theo nhiều nhà quan sát, trong năm 2020, vùng biển này là một trong những điểm nóng nhất hành tinh, nguy cơ bùng phát xung đột vũ trang là nhãn tiền, đặc biệt giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ, giữa Bắc Kinh và một số quốc gia khu vực. Vì sao nguy cơ xung đột gia tăng, và làm thế nào để giảm nguy cơ bùng nổ chiến tranh ? Đó là câu hỏi ngày càng ám ảnh giới chuyên gia.

20201

Chiến hạm tên lửa dẫn đường USS Antietam (CG 54) của Mỹ tuần tra Biển Đông ngày 06/03/2016. Navy/Handout via REUTERS

Theo kết quả cuộc điều tra thường niên, công bố cuối tháng 12/2019, về những nguy cơ hàng đầu đối với nước Mỹ trong năm mới của Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại Hoa Kỳ (Council on Foreign Relations), một viện tư vấn về chính trị quốc tế có tiếng tại Mỹ, thì Biển Đông được xếp hạng khu vực thứ hai trên thế giới, mà "đụng độ vũ trang" có nguy cơ dễ dàng bùng nổ nhất, sau khu vực Trung Đông (với nguy cơ xung đột giữa Iran với Hoa Kỳ hoặc các đồng minh của Washington). Trong một bài viết trên trang mạng The National Interest, ngày 28/12/2019, chuyên gia về lịch sử hải quân Robert Farley thậm chí cảnh báo Biển Đông là một trong năm địa điểm trên thế giới có thể khiến Thế chiến Thứ Ba bùng phát trong năm 2020 đầy căng thẳng này.

Tại sao lại là Biển Đông ?

Bài "Trung Quốc gần hoàn tất chương trình (quân sự hóa) "nguy hiểm" tại Biển Đông", đăng tải ngày 02/01/2019, trên trang web hàng đầu nước Úc news.com.au, nhấn mạnh đến cuộc chạy đua vũ trang gia tăng tại Biển Đông, giữa một bên là Trung Quốc, bên kia là các quốc gia láng giềng đang bị Bắc Kinh đẩy vào chân tường, buộc phải tăng chi phí quốc phòng.

Khoảng 15 năm trở lại đây, chi phí quân sự tại khu vực tăng gấp đôi, chủ yếu để chuẩn bị cho "một cuộc chiến tranh quy ước với cường độ cao". Theo ghi nhận của một cựu chuyên gia tình báo Úc, tiến sĩ Mark Baily, sau gần 20 năm lấn dần từng bước một, Trung Quốc đã xây dựng, củng cố cơ sở quân sự trên các đảo nhân tạo, và dần dần bình thường hóa việc kiểm soát trên thực tế gần như toàn bộ vùng Biển Đông. Cựu chuyên gia tình báo Úc so sánh tình hình hiện nay tại Biển Đông với thập niên 1930, khi đế quốc Nhật bành trướng quân sự, trước khi dùng vũ lực đánh bật các đối thủ, để độc chiếm vùng biển chiến lược này. Đây là lần thứ hai trong lịch sử, một cường quốc có tham vọng nguy hiểm như vậy.

Ba đề xuất của học giả Trung Quốc

Trong bối cảnh nguy cơ xung đột nhãn tiền, trang mạng The Diplomat ngày đầu năm mới, đăng tải một bài phân tích đáng chú ý của học giả Trung Quốc, mang tựa đề "Ba chìa khóa để Hải Quân Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng tồn tại hòa bình". Giáo sư Hu Bo, giám đốc Trung tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Biển thuộc Viện Nghiên Cứu Đại Dương ở Bắc Kinh, thừa nhận nguy cơ "xung đột vũ trang ở quy mô nhỏ" tại Biển Đông, trong bối cảnh cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều sẵn sàng chuẩn bị cho những kịch bản tồi tệ nhất.

Tác giả đề xuất ba việc cần làm để giảm nguy cơ xung đột vũ trang. Đề xuất thứ nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc cần đạt được đồng thuận về việc chia sẻ quyền lực tại khu vực Tây Thái Bình Dương. Theo tác giả, tương quan lực lượng tại vùng biển này đang từ từ nghiêng về phía Bắc Kinh, với các đầu tư hiện đại hóa quân sự từ hàng chục năm nay, cho dù xét về sức mạnh tuyệt đối, hiện tại cũng như thời gian tới, Trung Quốc không thể nào sánh ngang nước Mỹ. Tuy nhiên, xét về lâu dài, Trung Quốc sẽ có sức mạnh quân sự áp đảo tại các vùng ven bờ, cụ thể là ở Biển Đông và biển Hoa Đông, và đây là điều mà tác giả khuyến cáo Washington nên chấp nhận như một thực tế. Như vậy, hai bên cần dàn xếp để duy trì đối thoại chiến lược về khu vực Tây Thái Bình Dương, nhằm hạn chế chạy đua vũ trang, tạo thế cân bằng lực lượng tại khu vực này. Và đây chính là khuôn khổ bảo đảm an ninh chung.

Đề xuất thứ hai mà tác giả khuyến cáo là hai đại cường cần nỗ lực triển khai thiết lập các quy tắc an ninh trên biển, nhằm duy trì ổn định tại khu vực. Tác giả nhấn mạnh Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) là một nền tảng quan trọng, nhưng không đủ để thiết lập trật tự và an ninh. Theo học giả Trung Quốc, do cả Bắc Kinh và Washington đều không đủ sức mạnh để đơn phương áp đặt trật tự, các quy tắc này phụ thuộc vào sự nhất trí của cả hai bên. Về vấn đề này, có hai bước cần tiến hành. Thứ nhất là xác lập các quy tắc để tránh va chạm ngoài ý muốn giữa Hải Quân và Không Quân hai nước tại vùng biển này. Và thứ hai là xác định các quy tắc chung cho các hoạt động quân sự nhằm tránh mọi xu hướng leo thang nguy hiểm.

Khuyến cáo Mỹ "trung lập" liệu có khả thi ?

Hai đề xuất nói trên của học giả Trung Quốc gián tiếp thừa nhận sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Biển Đông. Đề xuất thứ ba, và cũng là điểm đặc biệt đáng chú ý trong bài viết của học giả Trung Quốc là việc khuyến cáo Hoa Kỳ nên có lập trường "trung lập" về các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông. Tác giả cảnh báo mọi can thiệp của Hoa Kỳ, đứng về phía một hoặc các bên tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh, có thể dẫn đến "các phản ứng dữ dội" từ phía Trung Quốc. Lợi ích mà nước Mỹ thu được khi làm như vậy sẽ nhỏ hơn rất nhiều các thiệt hại, và thậm chí các can thiệp đó có thể dẫn đến đối thoại với Trung Quốc bị cắt đứt, trật tự do Mỹ tạo lập tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương "sụp đổ hoàn toàn".

Có thể nói đề xuất thứ ba này liên quan đến nguy cơ trực tiếp và chủ yếu dẫn đến bùng nổ xung đột vũ trang tại Biển Đông, khi Hoa Kỳ đứng về phía một quốc gia ven bờ không chấp nhận sự lấn lướt của Trung Quốc. Trong bảng xếp hạng các quốc gia có nguy cơ đụng độ vũ trang với Bắc Kinh của Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại Hoa Kỳ, Việt Nam xếp cuối theo trật tự abc. Tuy nhiên, trên thực tế, Hà Nội đang nằm ở tuyến đầu trong thế trận quốc tế đang dần dần hình thành, chống lại đà bành trướng Trung Quốc. Trong nửa cuối năm vừa qua, tuần duyên Việt Nam phải đối đầu liên tục trong bốn tháng với tuần duyên Trung Quốc, xâm nhập khu vực đặc quyền kinh tế, quấy nhiễu giàn khoan.

Nhà phân tích quân sự Derek Grossman, trung tâm tư vấn chiến lược Rand, chuyên về khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, phát biểu với báo Úc, ghi nhận Hà Nội đang nỗ lực phát triển mạng lưới hợp tác quốc phòng với nhiều nước ASEAN, cùng Úc, Nhật Bản và Ấn Độ - ba quốc gia trong Bộ Tứ đi đầu trong việc duy trì khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương "rộng mở và tự do", dựa trên luật pháp quốc tế. Washington cũng ủng hộ nỗ lực bảo vệ quyền chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, và chính thức bước đầu hỗ trợ Hà Nội về hải quân.

Xét trong bối cảnh như vậy, liệu khuyến cáo của học giả Trung Quốc, để Washington từ bỏ sự ủng hộ đối với các quốc gia Đông Nam Á đang bị Bắc Kinh lấn át, có thể nào là khả thi ?

Trọng Thành

*****************

Thế giới bước sang năm mới 2020 cùng nỗi lo khủng hoảng (RFI, 01/01/2020)

Năm 2020 đã đến với toàn thế giới. Sydney rồi Hồng Kông, Bắc Kinh, Đài Bắc, Paris cho đến New York, giao thừa được chào đón với pháo hoa tưng bừng. Dường như không khí lễ hội chỉ làm mọi người quên trong giây lát thực trạng khủng hoảng.

20202

Cảnh đón năm mới 2020 trên đại lộ Champs Elysées, Paris đêm giao thừa. AFP/Martin Bureau

Theo tường thuật của AFP, tại New York, quảng trường Times Square vẫn chật cứng người như mỗi năm chờ quả cầu thủy tinh trong niềm hứng khởi pha lẫn với thực tế, thận trọng nhìn về tương lai.

Trước đó, tại Paris, cuộc đình công kéo dài gần cả tháng qua phản đối cải cách hưu trí, phương tiên giao thông công cộng hầu như không phục vụ, nhưng khoảng 300 ngàn người vẫn tập trung trên đại lộ Champs Elysées để chào đón năm mới trong tiếng nhạc, ánh sáng và pháo bông. Đây cũng là nơi diễn ra những cuộc biểu tình bạo động gần như mỗi thứ Bảy của phong trào Áo vàng, chống chính sách xã hội của chính phủ Pháp.

Tại Hồng Kông, phong trào dân chủ đón giao thừa trong tinh thần tranh đấu bất bạo động nhưng cương quyết. Đêm qua, hàng chục ngàn người cùng nhau nối vòng tay lớn, bản nhạc dạo đầu cho cuộc biểu tình lớn chống Bắc Kinh vào ngày đầu năm.

Úc : cháy rừng đẩy hàng ngàn người ra bờ biển

Nhưng khẩn trương hơn nữa là thảm nạn cháy rừng tại Úc. Thần hỏa tiếp tục đe dọa hàng loạt thành phố duyên hải miền đông nam, giết chết ít nhất 8 người trong 48 giờ qua và đẩy hàng ngàn dân cùng du khách ra bờ biển.

Tình thế nguy ngập này buộc chính phủ Úc phải huy động phương tiện quân sự, máy bay, tàu chiến di tản 4000 người bị lửa bao vây.

Từ Sydney, thông tín viên Gregory Plesse tường thuật :

Năm mới chỉ mới bắt đầu tại Úc mà tổng kết thiệt hại đã vô cùng nghiêm trọng. Sáng nay, người dân Canberra thức giấc trong đám mây bụi mịt trời. Chất lượng không khí tại thủ đô có 300 ngàn dân hôm nay bị xem là xấu nhất thế giới. Khói mù đã bay đến tận bờ biển New Zealand cách xa Úc đến 2000 cây số.

Ở ngôi làng South Cost gần đó, hơn 200 căn nhà bị thiêu hủy, một người cha và đứa con trai bị thiệt mạng. Thi thể một nạn nhân thứ ba vừa được cảnh sát tìm thấy ở bang New South Wall.

Hằng trăm ngàn người phải qua đêm ở bãi biển nhưng không phải để uống rượu đón giao thừa mà vì để trốn lửa. Đó là trường hợp của 4000 dân ở Mallacuta, thuộc bang Victoria đang bị cô lập vì cháy rừng. Họ đã được quân đội tiếp tế bằng trực thăng.

Theo thông tin đầu tiên, ở bang Victoria có 50 ngôi nhà bị cháy. Thiệt hại chắc chắc còn nặng nề hơn khi có bản tổng kết trong ngày.

Tú Anh

Additional Info

  • Author Tổng hợp
Published in Quốc tế

Iran : Sự hiện diện của quân đội nước ngoài làm vùng Vịnh thêm mất an ninh (RFI, 22/09/2019)

Sau khi Hoa Kỳ quyết định đưa thêm quân đến Saudi Arabia, chính quyền Iran hôm 22/09/2019 cảnh báo sự hiện diện của các thế lực quân sự nước ngoài làm tăng nguy cơ bất ổn về an ninh.

gulf1

Tổng thống Iran Hassan Rohani phát biểu nhân Ngày Quân lực Iran. Ảnh tại Tehran, ngày 22/09/2019. Reuters

Phát biểu tại một cuộc duyệt binh ở Tehran, tổng thống Iran Hassan Rohani khẳng định Vùng Vịnh đang trong "một thời điểm nhạy cảm và có ý nghĩa lịch sử quan trọng". Tổng thống Iran nhấn mạnh : Các lực lượng quân đội và đồng minh càng ở xa khu vực này, thì khu vực sẽ an toàn hơn. Ngày 22/09 là dịp kỉ niệm 39 năm ngày chính quyền Iraq tấn công Iran, mở đầu cho cuộc chiến Iran-Iraq kéo dài 8 năm (1980-1981).

Tổng thống Iran cũng hứa, trong những ngày tới tại Liên Hiệp Quốc, phía Iran sẽ trình bày một kế hoạch hợp tác khu vực, nhằm bảo đảm an toàn Vùng Vịnh, eo biển Hormuz và biển Oman, với "sự hỗ trợ của các quốc gia trong khu vực".

Cho đến nay, Iran phản đối mọi cáo buộc của Washington cho rằng Tehran đứng sau các cuộc không kích ngày 14/09, nhắm vào một số cơ sở lọc dầu của Saudi Arabia.

Về phần mình, Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết đợt triển khai quân mới tại quốc gia đồng minh Saudi Arabia, chỉ thuần túy mang tính "tự vệ".

Anh : Ít có khả năng quân nổi dậy Houthi tấn công

Theo Reuters, ngoại trưởng Anh Dominic Raab, hôm nay, nhận định : theo các thông tin mà ông có được, rất ít có khả năng các cuộc không kích nhắm vào hai cơ sở lọc dầu của Saudi Arabia là do quân nổi dậy Houthi thực hiện, cho dù lực lượng này đứng ra nhận trách nhiệm. Trước đó hai hôm, ngoại trưởng Pháp Jean-Yves Le Drian đưa ra cùng nhận định, ông cho biết nên chờ đợi các kết quả điều tra quốc tế.

CNN dẫn lời ngoại trưởng Saudi Arabia Adel Al Joubeir, tố cáo việc các vũ khí sử dụng để tấn công được sản xuất tại Iran và do Iran cung cấp.

Trọng Thành

***************

Trung Quốc, Nga và Iran lên kế hoạch tập trận hải quân ? (RFI, 22/09/2019)

Một nguồn tin quân sự Iran, ngày 21/09/2019, cho biết Nga, Iran và Trung Quốc đang lập kế hoạch sớm tổ chức tập trận hải quân chung ngoài khơi biển Oman và phía bắc Ấn Độ Dương. Chính quyền Trung Quốc vẫn chưa có bình luận gì về thông tin này.

gulf2

Tàu chiến cao tốc Iran. Reuters

Nhật báo Hồng Kông, South China Morning Post, trích dẫn lời tướng Ghadir Nezami Pour, chuyên trách các hồ sơ quốc tế và đối ngoại quốc phòng của quân đội Iran cho rằng cuộc tập trận rất có thể sẽ diễn ra tại vùng biển quốc tế.

Hoạt động quân sự này có nhiều mục tiêu khác nhau, bao gồm trao đổi kinh nghiệm chiến thuật và quân sự, cũng như là tìm kiếm các mục tiêu chính trị nhằm chứng tỏ một sự đồng thuận giữa các bên tham gia.

Vẫn theo vị tướng này, các quan chức cấp bộ Quốc phòng và các lãnh đạo quân đội sẽ sớm đến Iran và hành động này phản ảnh rõ nền ngoại giao quốc phòng tích cực của nước Cộng Hòa Hồi Giáo.

Tuy nhiên, truyền thông Trung Quốc hoàn toàn im lặng về thông tin này. Theo chuyên gia về hải quân Lý Khiết (Li Jie) : "thời điểm cho cuộc tập trận có lẽ khá nhậy cảm và nhiều nước rất có thể sẽ cho đấy là một sự ủng hộ của Trung Quốc đối với Iran nếu có xảy ra bất kỳ một cuộc xung đột nào giữa các nước".

Thông báo này được đưa ra vào lúc Washington cáo buộc Tehran đứng sau vụ tấn công cơ sở sản xuất dầu lửa của Saudi Arabia và thông báo sẽ điều thêm quân đến vùng Vịnh theo đề nghị của Riyad. Chính quyền Tehran ngay lập tức cảnh báo mọi hành động quân sự nào từ Washington và Riyad đều có thể dẫn đến một "cuộc chiến toàn diện".

Minh Anh

******************

Tại sao người dân Iran ghét Macron và Putin hơn ai hết ? (RFI, 21/09/2019)

Đây là câu hỏi bà Mahnaz Shirali, chuyên gia về chính trị - xã hội học, giảng viên trường đại học Sciences Po tìm cách giải đáp trên trang Blog của báo mạng HuffingtonPost. Theo bà, việc nguyên thủ Pháp chìa tay với nước Cộng hòa Hồi giáo không phục vụ lợi ích của người dân Iran vì họ vốn dĩ hy vọng là các biện pháp trừng phạt của Donald Trump sẽ bóp nghẹt chế độ của các giáo chủ ayatollah. RFI Tiếng Việt xin giới thiệu.

gulf3

Nguyên thủ Pháp, Emmanuel Macron và đồng nhiệm Nga, Vladimir Putin tại buổi họp báo ở Brégançon, ngày 19/08/2019. Gerard Julien/Pool via Reuters

Vụ tấn công các cơ sở sản xuất dầu hỏa Saudi Arabia một lần nữa đã làm gia tăng căng thẳng giữa Iran và Hoa Kỳ. Sự kiện này tiếp nối các "vụ tấn công bí ẩn" nhắm vào các tầu dầu lớn trong vùng Vịnh Ba Tư và eo biển Hormuz cách nay vài tháng.

Nước Cộng hòa Hồi giáo phản bác mọi cáo buộc có liên can đến các vụ tấn công này, trong khi đó vào tháng 7/2019, ông Ali Akbar Velayati, cố vấn đặc biệt của Ayatollah Khamenei, đã tuyên bố : "Nếu Iran không thể xuất khẩu được dầu hỏa, thì không một nước nào khác có thể làm được". Các lãnh đạo Iran không có ý định hạ bớt thái độ cứng rắn và tiếp tục duy trì thế đối đầu trong khi không có mấy phương tiện để thực hiện.

Mười lăm tháng sau khi ông Donald Trump rút Hoa Kỳ ra khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran ký kết năm 2015 và áp đặt trở lại các biện pháp trừng phạt, người dân Iran giờ đang sống một trong những trang đen tối nhất trong lịch sử nước này : Nền kinh tế đất nước – vốn đã kiệt quệ do các trừng phạt – giờ hầu như hụt hơi, đồng nội tệ mất giá đến 75%, nghèo đói tàn phá đất nước, những vị ayatollah bị căm ghét hơn bao giờ hết, và trấn áp chính trị chưa bao giờ dữ dội như lúc này kể từ sau cuộc xâm chiếm của người Mông Cổ thế kỷ XIII. Mới đây, trong tuần vừa qua, vụ một thiếu nữ Iran tự thiêu sau khi bị kết án 6 tháng tù giam vì tội đến sân xem bóng đá đã làm rung chuyển cả nước.

Nếu nước Cộng hòa Hồi giáo có thể tỏ ra không khoan nhượng với Hoa Kỳ, tiếp tục theo đuổi các tham vọng bành trướng và đe dọa các nước láng giềng trong khu vực, đó là vì các nhà lãnh đạo không chú trọng đến những lợi ích quốc gia của người dân Iran. Thay vì phải bình định mối quan hệ của họ với cộng đồng quốc tế, những vị lãnh đạo này lại khép mình trong chính sách bài Mỹ và bài Israel.

Chính sách hiếu chiến này, vốn đã tàn phá đất nước, ngày nay đã mang lại cho Iran một vị thế anh hùng hơn bao giờ hết, không chỉ làm hài lòng một bộ phận công luận thế giới Ả Rập mà cả những người mang tư tưởng chống Mỹ và phe tả Châu Âu.

Các nhà lãnh đạo Iran, ý thức về sự thành công này – nếu không phải là với người dân Iran, thì ít nhất là với người nước ngoài – đang tìm cách kín đáo giải quyết những vấn đề của họ với Mỹ. Bởi vì, khó khăn của các ayatollah bắt đầu từ chỗ, lần đầu tiên từ 40 năm qua, họ phải đối mặt với một vị tổng thống Mỹ chỉ muốn đối thoại trước các ống kính camera.

Vì không thể phản bội lập trường bài Mỹ và không thể từ bỏ chính sách hiếu chiến, các ayatollah tìm cách lẩn tránh các lệnh trừng phạt, bằng cách vừa gây áp lực với Châu Âu, vừa trông cậy vào sự ủng hộ của người láng giềng nguy hiểm, ông Vladimir Putin. Nguyên thủ Nga đã thành công trong việc giành được các quyền kiểm soát vùng biển Caspi để đổi lấy sự ủng hộ của ông đối với chế độ ở Tehran. Sự ủng hộ này nhanh chóng tỏ ra là huyễn hoặc vì một năm sau, vào tháng 5/2019, Putin tuyên bố : "Nước Nga không phải là một đội cứu hỏa, chúng tôi không thể cứu hết tất cả mọi người".

Các ayatollah, hiện đang tìm cách kháng cự cho đến cuối nhiệm kỳ của ông Donald Trump, lại "tiền hậu bất nhất". Hôm nay, họ khẳng định sẵn sàng đàm phán với "bất kỳ ai". Ngày mai, họ lại áp đặt điều kiện tiên quyết để thương thuyết với Trump. Trong khi chờ đợi, các vị giáo chủ liên tiếp đàm phán với các nhà lãnh đạo Châu Âu, đứng đầu là nguyên thủ Pháp, Emmanuel Macron.

Tổng thống Pháp, đang tìm cách bảo vệ bằng mọi giá cái thỏa thuận hạt nhân 2015 "chết yểu", cố gắng tự đặt mình vào vai trò trung gian hòa giải giữa Mỹ với Iran, khi đề nghị một khoản vay 15 tỷ đô la cho nước Cộng hòa Hồi giáo. Khoản vay này có thể cứu rỗi các vị ayatollah bằng cách cho phép họ luồn lách các biện pháp trừng phạt của Mỹ.

Tuy nhiên, đề nghị này của ông Macron đã bị Ngân hàng Pháp từ chối, vì e sợ bị Mỹ trừng phạt, yêu cầu phải hỏi ý ông Donald Trump. Nguyên thủ Mỹ, trung thành với chính sách "áp lực tối đa" từ chối bất kỳ sự xin phép nào và đặt dấu chấm hết cho vai trò trung gian của Pháp.

Sự việc đã cho thấy rõ, không giống như đồng nhiệm Mỹ, tổng thống Pháp không có phương tiện để thực hiện các tham vọng của mình. Bí ẩn bao trùm lên các động cơ của ông đến giúp đỡ nước Cộng hòa Hồi giáo, một chế độ bị người dân phỉ báng. Có lẽ cũng nên nhắc lại rằng hiện tại không phải ông Donald Trump, tác giả của các lệnh trừng phạt nhắm vào các vị giáo chủ ayatollah, mà chính là Vladimir Putin và Emmanuel Macron, là những nhân vật người dân Iran căm ghét.

Trên các con phố tại Tehran, cũng như tại nhiều thành phố khác, các khẩu hiệu chống Nga và chống Pháp được dán khắp các bức tường và ảnh biếm họa Emmanuel Macron, đầu quấn khăn Ả Rập và mặc bộ áo của Yasser Arafat (người ủng hộ nhà nước Cộng hòa Hồi giáo nhiều nhất), được truyền tải trên các mạng xã hội.

Mệt mỏi vì 40 năm bất ổn, khủng hoảng và hỗn loạn, người dân Iran nhìn thấy lệnh trừng phạt của Mỹ như là một khả năng bóp nghẹt chế độ của các giáo sĩ ayatollah. Cho dù những lệnh trừng phạt này làm cho cuộc sống của họ thêm phần khó khăn, người dân Iran tự nhủ sẵn sàng chịu đựng để có thể nhanh chóng chấm dứt chế độc độc tài đen tối của ayatollah ; một chế độ độc tài chỉ mang đến cho họ chiến tranh và đói nghèo. Do vậy, mọi sự ủng hộ đối với các ayatollah chỉ làm kéo dài thêm nỗi thống khổ của một xã hội không còn muốn các nhà lãnh đạo của mình nữa.

Nhìn vào những sự kiện trong những ngày qua, việc đến giúp đỡ Cộng hòa Hồi giáo có lẽ sẽ trở nên khó hơn. Câu hỏi đặt ra : Các lợi ích tài chính của chế độ lãnh đạo tham nhũng tại Iran đối với nước Pháp lớn đến mức nào để mà ông Macron phải ủng hộ những nhà lãnh đạo nằm trong số những người bị ghét nhất trên thế giới ?

Tác giả kết luận : Hy vọng rằng trò chơi này "đáng đồng tiền bát gạo" và tổng thống Macron sẽ không làm lu mờ hình ảnh của nước Pháp trong con mắt người dân Iran chỉ vì những điều vô ích.

RFI tiếng Việt

*********************

Mỹ đưa thêm quân đến Vùng Vịnh theo đề nghị của Saudi Arabia (RFI, 21/09/2019)

Hôm 20/09/2019, Bộ quốc phòng Mỹ thông báo triển khai thêm lực lượng tại Vùng Vịnh, sau các vụ tấn công của nhắm vào các cơ sở dầu mỏ của Saudi Arabia. Trong khi đó, tổng thống Mỹ đe dọa sẽ có các trừng phạt "chưa từng thấy" nhắm vào Iran, quốc gia bị Washington cáo buộc đứng sau các vụ tấn công.

gulf4

Ảnh minh họa : Cơ sở dầu hỏa của công ty Aramco ở Saudi Arabia bùng cháy sau khi bị drone tấn công. Ảnh 14/09/2019. Reuters

Theo AFP, bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mark Esper thông báo với giới truyền thông : "Theo yêu cầu của Saudi Arabia và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, tổng thống đã phê chuẩn việc triển khai quân, về nguyên tắc đây các lực lượng có nhiệm vụ phòng ngự là chính. Lực lượng tăng viện chủ yếu là không quân và phòng không chống hỏa tiễn". Bộ trưởng quốc phòng Mỹ nhấn mạnh đây là "biện pháp đầu tiên" để đáp lại loạt tấn công ngày 14/09 của máy bay không người lái, và không loại trừ sẽ có thêm các đợt gửi quân mới trong tương lai. Về quy mô của đợt điều động này, tổng tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ, tướng Joseph Dunford, cho biết số lượng binh sĩ không lên đến con số hàng nghìn người.

Cho đến nay, tổng thống Mỹ ngày càng ít thiên về giải pháp can thiệp quân sự chống Iran, bất chấp tình hình căng thẳng tại Vùng Vịnh và áp lực từ "các thế lực diều hâu" trong nội bộ. Washington tiếp tục coi trừng phạt kinh tế là biện pháp chủ yếu để buộc Tehran thay đổi thái độ. Về các trừng phạt kinh tế nhắm vào Iran, theo bộ trưởng tài chính Mỹ Steven Mnuchin, hai đích ngắm chính là Ngân Hàng trung ương Iran và Quỹ Phát Triển Quốc Gia của Iran. Ông Mnuchin nhấn mạnh là các kênh chuyển tiền cho "Vệ binh cách mạng" - lực lượng tinh nhuệ của chính quyền Iran, bị Hoa Kỳ xếp vào danh sách tổ chức khủng bố - sẽ hoàn toàn bị cắt đứt.

Quân Houthi bất ngờ tuyên bố ngừng tấn công Saudi Arabia

Theo AFP, vào lúc áp lực dâng cao nhắm vào Iran, bị coi là chủ mưu của các vụ tấn công, lực lượng nổi dậy Houthi ở Yemen thông báo sẵn sàng ngưng tấn công Saudi Arabia. Tối hôm qua, nhân dịp kỉ niệm 5 năm ngày quân nổi dậy chiếm thủ đô Sanaa, thủ lĩnh của lực lượng nổi dậy - ông Mehdi Machat, chủ tịch Hội đồng chính trị của người Houthi - tuyên bố sẵn sàng ngừng "mọi cuộc tấn công" nhắm vào Saudi Arabia, với hy vọng là chính quyền Ryadh sẽ đáp trả tích cực trước cử chỉ thiện chí này, tiến hành "đàm phán nghiêm túc" để vãn hồi hòa bình.

Tuyên bố của lãnh đạo quân nổi dậy gây bất ngờ, vì chủ trương này hoàn toàn ngược lại với lập trường vốn có của lực lượng này. Cách đây ít ngày, quân Houthi còn đe dọa sẽ tiếp tục tấn công Saudi Arabia và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất. Lực lượng Houthi công khai nhận trách nhiệm đã tổ chức các cuộc tấn công ngày 14/09, nhắm vào các cơ sở dầu mỏ Saudi Arabia, khiến sản lượng dầu của nhà xuất khẩu dầu mỏ số một thế giới sụt giảm 50%.

Xung đột tại Yemen kéo dài từ năm 2015 đến nay, khiến hàng chục nghìn người chết, đa số là thường dân, đưa quốc gia nghèo nhất trên bán đảo Ả Rập vào "tình trạng thảm họa nhân đạo", theo Liên Hiệp Quốc. Liên quân do Saudi Arabia đứng đầu can thiệp can thiệp vào Yemen, sau khi quân nổi dậy tấn công chính quyền của tổng thống Abedrabbo Mansour Hadi, buộc tổng thống Yemen phải chạy sang Saudi Arabia tị nạn. Iran là đồng minh của quân nổi dậy Houthi.

Trọng Thành

Published in Quốc tế