Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Năng lượng là một trong những nền tảng của nền kinh tế. Chính sách và cơ chế hoạt động của ngành năng lượng có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy điều này rõ rệt qua ảnh hưởng của ngành năng lượng tới ngành dệt may của Việt Nam, một ngành chiếm 12% tổng kim ngạch xuất khẩu và 25% tổng lao động  trong ngành chế biến của nước này năm 2022.

xanh1

Một nhà máy sản xuất điện từ năng lượng mặt trời ở Quy Nhơn, Việt Nam - AP

Đối với ngành dệt may, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc và EU là bốn thị trường lớn nhất. Những năm gần đây, Châu Âu và Hoa Kỳ bắt đầu xúc tiến các quy định để làm cho nhiều sản phẩm công nghiệp, trong đó có dệt may, xuất khẩu vào thị trường của họ, phải tuân thủ yêu cầu giảm thiểu phát thải carbon trong quá trình sản xuất. Châu Âu công bố "Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon" năm 2020  và thông qua  luật vào tháng 10 năm 2023. Quốc hội Hoa Kỳ cũng đang theo bước  Châu Âu với nhiều dự luật tương tự đang được đặt lên bàn nghị sự. 

Vấn đề "xanh hóa" không chỉ là yêu cầu đối với ngành dệt may. Đó cũng là yêu cầu chung của hầu hết các ngành sản xuất chủ yếu của nền kinh tế, để Việt Nam có thể đạt mục tiêu giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050 như chính phủ nước này cam kết. 

Trung tâm Xúc tiến Nhập khẩu từ các nước đang phát triển (CBI) của Liên minh Châu Âu đã hướng dẫn  các nước đang phát triển quy trình "xanh hóa" công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp chiếm 10% phát thải carbon toàn cầu. Trong quy trình "xanh hóa" này, sử dụng "năng lượng xanh" được cho là một trong những giải pháp then chốt.

Giả sử Việt Nam muốn giảm thiểu phát thải carbon trong sản xuất dệt may nói riêng và các ngành sản xuất công nghiệp nói chung, tiếp tục giữ được những thị trường xuất khẩu chủ chốt, nước này phải làm gì và họ có làm được không ? 

Ngành năng lượng bị phân mảnh 

Có nhiều nguồn "năng lượng xanh" như điện mặt trời, điện gió, điện ngoài khơi… Ở đây chúng ta sẽ bàn về điện mặt trời vì thời gian qua, vấn đề này có nhiều khúc mắc, phản ánh những lỗi hệ thống do cơ chế gây ra. Câu chuyện ngành điện ở Việt Nam không chỉ là một vấn đề "kỹ thuật". Kỹ sư Nguyễn Khiêm, chuyên gia cao cấp về công nghệ và kinh doanh của một tập đoàn công nghệ tại Hoa Kỳ, cho rằng câu chuyện "xanh hóa" nền công nghiệp phản ánh những vấn nạn lớn nhất của thể chế ở Việt Nam.

"Vấn đề là chính sách năng lượng của Việt Nam bị phân mảnh, không có một chính sách phổ quát cho toàn đất nước. Ví dụ Việt Nam ở phía Nam 12 tháng có nắng nhưng không phát triển được ngành điện năng lượng mặt trời, dù doanh nghiệp đầu tư rất mạnh. Nếu Việt Nam có một chính sách rõ ràng và có tính chất khuyến khích, đầu tư vào năng lượng mặt trời sẽ phát triển được. 

Năng lượng mặt trời sẽ giúp giảm thiểu phát thải carbon phục vụ cho nhu cầu năng lượng trong sản xuất. Nếu Việt Nam có chính sách và cơ chế đúng đắn, Việt Nam sẽ làm được. Người dân sẵn sàng lắp đặt điện mặt trời trên mái nhà, nếu điều đó đem lại lợi ích kinh tế. Chỉ cần 10% hoặc 25% mái nhà ở Việt Nam được lắp đặt năng lượng mặt trời thì chỉ số phát thải carbon sẽ giảm rõ ràng. Tại sao Việt Nam không làm ?"

Trong khi đó, Bộ Công thương lại quy định người dân lắp điện mặt trời sẽ không bán được cho EVN nếu sản xuất thừa. Điện dư thừa có thể được đấu nối vào mạng lưới điện nhưng giá bán số điện đó sẽ là 0 đồng. Bình luận về vấn đề này, ông Nguyễn Khiêm nói :

"Việt Nam không tự sản xuất được tấm pin năng lượng mặt trời, phải nhập từ Trung Quốc. Nhưng nhập tấm pin năng lượng mặt trời từ Trung Quốc không phải là vấn đề vì mặt hàng tấm pin năng lượng mặt trời ở Trung Quốc hiện nay đã bị rớt giá rất mạnh. Việt Nam sẽ hưởng lợi nếu nhập khẩu từ đó chứ không có hại. Cái hại lớn nhất chỉ là sau khoảng 30 đến 40 năm sử dụng, các tấm pin năng lượng mặt trời sẽ cần được tái chế. Hiện nay người ta đã nghiên cứu công nghệ tái chế pin năng lượng mặt trời hết hạn sử dụng. Việc nghiên cứu công nghệ này không khó để thành công. Nhưng hiện Việt Nam không có động lực để nhập khẩu mặt hàng này do việc đầu tư vào năng lượng mặt trời bị xiết chặt. 

Nếu Việt Nam muốn nhận tài trợ  từ các nước phát triển khi tham gia vào chương trình giảm thiểu phát thải carbon thì một trong những hướng đi là mở rộng mạng lưới điện mặt trời. Nhưng chính sách năng lượng của Việt Nam bị phân mảnh nên không làm được". 

xanh2

Các tấm pin năng lượng mặt trời ở một trang trại điện mặt rời có tên Sao Mai ở tỉnh An Giang hôm 25/9/2022. AFP

Điện mặt trời : đầu tư vượt quy hoạch nhưng không giúp ích cho mục tiêu giảm thải carbon

Trên thực tế hiện nay Việt Nam phát triển điện mặt trời vượt xa "quy hoạch". Tuy vậy, vấn đề phát sinh lại là năng lượng điện mặt trời vượt xa quy hoạch nhưng không giúp nhiều cho mục tiêu giảm thải carbon trong quá trình sản xuất năng lượng. Vấn đề ở đây là : Bộ Công thương để cho ngành sản xuất điện mặt trời phát triển ồ ạt, nhưng không xây dựng cơ chế hợp lý để cho lượng điện này có thể đưa vào phục vụ nhu cầu. 

Một chuyên gia trong ngành năng lượng ở Hà Nội, không muốn nêu tên vì lý do an toàn, giải thích cho khán thính giả RFA về sự thất bại của cơ chế trong ngành năng lượng. Theo ông, cách quản trị ngành điện ở Việt Nam đã phá hỏng mọi loại "quy hoạch" ban đầu, dẫn tới ngành năng lượng bị bóp méo. 

Theo Quy hoạch Điện 7  bản điều chỉnh công bố năm 2016, Việt Nam sẽ "đưa tổng công suất nguồn điện mặt trời từ mức không đáng kể hiện nay lên khoảng 850 MW vào năm 2020", và khoảng 4000 MW vào năm 2025. 

Đến tháng 12 năm 2023, Thanh tra Chính phủ Việt Nam công bố kết quả thanh tra Bộ Công thương và EVN (Tổng Công ty điện lực Việt Nam, trực thuộc Bộ Công thương.) Theo kết luận thanh tra này, Bộ Công thương đã sai phạm khi phe phê duyệt 168 dự án điện mặt trời với tổng công suất 14.707 MW, cao cấp 17,3 lần mục tiêu 850MW năm 2020 của Quy hoạch Điện 7. Thậm chí công suất 14.707 MW này còn vượt xa mục tiêu 4000 MW vào năm 2025 như nói ở trên. Giải thích về hiện tượng này, vị chuyên gia ẩn danh nói : 

"Quy hoạch Điện 7 đã có từ 2016. Các địa phương đề nghị Bộ Công thương bổ sung tràn lan các dự án tại tỉnh mình. Bộ Công thương bổ sung tràn lan. Thủ tướng (RFA chú thích : Đó là giai đoạn ông Nguyễn Xuân Phúc) cũng ký duyệt những gì Bộ Công thương đưa lên. Thanh tra Chính phủ năm 2023 phê phán nhưng không nêu tên thủ tướng mà chỉ phê phán Bộ Công thương". 

Ngoài Bộ Công thương phê duyệt hầu hết các dự án mà các địa phương gửi lên, bất chấp quy hoạch quốc gia đã công bố, việc công ty EVN thuộc bộ này kiểm soát hoàn toàn ngành điện cũng gây ra những hậu quả lớn. Ngoài quyền lực gần như tuyệt đối của EVN với các chủ đầu tư tư nhân, "mê hồn trận" các thủ tục chồng chéo cho các cơ quan khác nhau trong hệ thống nhà nước từ trung ương đến địa phương cũng đưa chủ đầu tư vào mê hồn trận. Phần lớn các chủ đầu tư vẫn đang nằm trong mê hồn trận này mà chưa ra được. Vị chuyên gia ẩn danh ở Hà Nội nói :

"EVN sai ở các quy định hợp đồng mua bán điện, thủ tục thử nghiệm, vận hành thử, để đưa vào vận hành thương mại. Trong quá trình đàm phán giữa EVN và các chủ đầu tư về các thủ tục trên thì họ nhập nhằng với nhau, tức là chưa đủ thủ tục pháp lý vẫn cho nhà đầu tư phát điện. Tuy nhiên EVN nắm đằng chuôi. Trong hợp đồng mua bán điện, họ cài một câu là có những thủ tục không thuộc thẩm quyền của nó thì nó không quyết. Nếu bị các cơ quan khác đình chỉ thì chủ đầu tư phải hoàn tiền bán điện".

Vậy có bao nhiêu thủ tục mà doanh nghiệp buộc phải hoàn thành để được bán điện ? Vị chuyên gia chỉ ra là chủ đầu tư phải hoàn thiện 40 chủ tục pháp lý để có thể được phát điện. Ông liệt kê một số thủ tục tiêu biểu, từ giai đoạn giải phóng mặt bằng cho đến thuê đất nhà nước 50 năm, lệnh khởi công công trình, thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công. Ông cho biết mỗi một thủ tục, giấy tờ do một cơ quan khác nhau phê duyệt. Ví dụ chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư do Sở kế hoạch đầu tư của tỉnh cấp, còn giấy chứng nhận đầu tư thì còn tùy vào quy mô dự án mà do Bộ Công thương, Sở kế hoạch đầu của tỉnh hoặc UBND tỉnh cấp. Ông nói tiếp :

"Tất cả những thủ tục này, nếu người quản lý dự án cho chủ đầu tư làm không tốt thì "lủng", tức là làm thiếu thủ tục. EVN gài một câu trong hợp đồng mua bán điện là họ không quan tâm các thủ tục không do họ quản lý, do đó, họ vẫn mua điện nhưng nếu chủ đầu tư bị các cơ quan khác bị các cơ quan khác "thổi còi" thì chủ đầu tư phải hoàn tiền cho EVN. Hiện nay hầu hết các công ty điện mặt trời đều mắc một lỗi nào đó. Họ vẫn cố tình "đi đêm" với EVN để được bán điện. Họ cần bán điện để có dòng tiền vận hành. Khoảng 80% các chủ đầu tư bị rơi vào hoàn cảnh này". 

EVN không chỉ can thiệp vào việc đầu tư, mua bán điện, họ còn độc quyền nắm khâu phân phối điện. Vị trí độc quyền này cũng góp phần tạo ra môi trường không minh bạch trong ngành năng lượng Việt Nam. Vị chuyên gia ẩn danh phân tích cho RFA : 

"Ngoài ra EVN còn kiểm soát các chủ đầu tư bằng Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia. Họ cho rằng do hệ thống truyền tải không đủ năng lực để nhận hết công suất của tất cả các nhà máy, nên họ cấp phép sản lượng điện mà mỗi nhà máy có thể đưa lên hệ thống. Kết quả là chủ đầu tư nào muốn tăng lượng phát điện lên mạng lưới điện quốc gia thì phải "đi đêm" với EVN. Bức tranh là như thế. Đó là bức tranh đục nước béo cò". 

Theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS), "thích ứng mục tiêu đòi hỏi của thị trường toàn cầu về xanh hóa" sẽ là mục tiêu  của ngành này xuyên suốt năm 2024. Ông Nguyễn Khiêm nhấn mạnh với RFA rằng vấn đề xanh hóa ngành năng lượng để tiếp tục giữ những thị trường quan trọng như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản vượt ra ngoài khả năng của từng công ty, từng ngành sản xuất cụ thể mà cần một bàn tay mạnh để tái cấu trúc hệ thống.

Nguồn : RFA, 15/02/2024

Published in Việt Nam

Việt Nam cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để hướng đến mục tiêu đó, Việt Nam đã có nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển dịch năng lượng một cách hiệu quả, bền vững. Tuy nhiên, việc chuyển dịch năng lượng còn đối mặt nhiều khó khăn và cần các giải pháp ra sao.

RFA phỏng vấn Tiến sĩ Ngô Đức Lâm, chuyên gia năng lượng độc lập thuộc Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam ; nguyên Phó viện trưởng Viện Năng lượng.

nangluongxanh1

Bức ảnh này chụp ngày 30/5/2023 cho thấy các dàn điều hòa nhiệt độ ngoài trời trên một tòa nhà ở trung tâm Hà Nội. AFP

Diễm Thi : Thưa tiến sĩ, Việt Nam cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Theo ông, Việt Nam cần phải làm gì trước mắt ?

Ngô Đức Lâm : Năng lượng Việt Nam bây giờ đòi hỏi phải phát triển ở tốc độ cao và phụ thuộc nền kinh tế quốc dân. Tốc độ phát triển cao nhưng năng lượng Việt Nam luôn luôn ở trạng thái thiếu hoặc không kịp thời. Cái khó nhất của nhà nước hiện nay là phải làm sao đầu tư cho kịp với phát triển của nền kinh tế. Bởi năng lượng là cơ sở hạ tầng cho tất cả các nền kinh tế khác phát triển, bên cạnh giao thông và cơ sở hạ tầng. Nó đòi hỏi không những phải phát triển nhanh mà phải đi trước một bước. Năng lượng phải đón đầu thì mới phát triển kịp.

Diễm Thi : Để thực hiện được những cam kết với quốc tế, Việt Nam có gặp khó khăn trở ngại gì, thưa tiến sĩ ?

Ngô Đức Lâm : Khó khăn thì cũng nhiều. Khó khăn đầu tiên là phải huy động, đầu tư một khoản tài chính lớn. Dựa vào nguồn của nhà nước thì chắc là không đủ mà phải có xã hội hóa. Tức là phải có sự đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước thì mới có khả năng đáp ứng đủ tài chính cho phát triển.

Để đón được nguồn tài chính của nước ngoài thì phải có chính sách và luật pháp cho kịp thời và phù hợp để thu hút đầu tư. Đó là cái dầu tiên phải làm. Chủ trương thì có nhưng thực hiện thì khó khăn đầu tiên là vấn đề tài chính. Phải huy động sao cho đủ.

Cái thứ hai, ở Việt Nam xưa nay phát triển nền năng lượng hóa thạch là nhiều. Loại năng lượng ấy gây ô nhiễm đã đành, phát thải lại lớn. Nó trái ngược với hướng phát triển của quốc tế mà Việt Nam đã cam kết là chuyển sang năng lượng xanh. Do đó phải chuyển đổi năng lượng chủ yếu là năng lượng than. Hiện nay năng lượng từ than vẫn là nhiều, chiếm tỷ trọng lớn, ít nhất là 30 đến 40 phần trăm. Trong tương lai muốn phát triển năng lượng xanh thì phải đưa xuống khoảng 20 phần trăm thôi. Đến năm 2045-2050 thì phải gần như không còn nữa. Phải có nguồn năng lượng thay thế cho nguồn năng lượng than.

Diễm Thi : Chuyển đổi bằng cách gì, thưa tiến sĩ ?

Ngô Đức Lâm : Hiện nay Việt Nam đã chuyển dần sang năng lượng gió và mặt trời. Hiện đã chiếm tỷ lệ 15 đến 20 phần trăm. Trong tương lai gần phải nâng lên 30 tới 40 phần trăm thì mới được. Không thể đưa cao hơn nữa được vì năng lượng từ gió và mặt trời không ổn định. Nó luôn luôn thay đổi, phụ thuộc thời tiết rất nhiều mà hệ thống điều khiển trong nước Việt Nam hiện nay chưa theo kịp. Tức là phải đổi sang cái gọi là ‘lưới điện thông minh’. Cái này công nghệ Việt Nam hiện nay phải đón nhận được công nghệ quốc tế chuyển giao thì mới kịp.

Cái thứ hai là tập quán, thói quen của người dân cũng không phải dễ dàng thay đổi ngay được. Đó là một cái khó khăn nữa.

Như vậy nếu không làm nhiệt điện than, năng lượng tái tạo từ gió và mặt trời cũng ở mức độ nhất định, không thể hơn được. Hệ thống tích lũy năng lượng ban ngày để ban đêm sử dụng ở Việt Nam chưa lớn, phải phụ thuộc quốc tế, mà ngay cả quốc tế cũng đang trong giai đoạn chuyển đổi. Đó cũng là một khó khăn.

Do đó phải chuyển sang năng lượng khí và khí hóa lỏng. Từ bây giờ đến năm 2035, trong 10 năm, phải phát triển với tỷ lệ khá lớn. Phải nhập được khí hóa lỏng. Điều này cần bến cảng, kho bãi có khả năng nhập thì mới tiến hành được. Việt Nam hiện nay đang cực kỳ cố gắng để năm 2024, 2025 có tổ máy đầu tiên phát điện bằng năng lượng khí hóa lỏng.

Việt Nam đang hợp tác rất nhiều với nước ngoài như Nga, Hoa Kỳ, các nước Bắc Âu để thực hiện một loạt hệ thống đó, sao cho đến năm 2035 chiếm tỷ lệ khá cao. Tuy vậy tiến độ hiện nay cũng đang gặp khó khăn vì mình chưa có đủ cảng khí để nhập khí. Trước thì mình có cảng than. Bây giờ phải có tàu lớn, cảng sâu thì mới có khả năng nhập khí hóa lỏng được. Việt Nam cũng đang xây dựng nhưng lo tiến độ không kịp. Nếu tiến độ phát triển thì có khả năng đáp ứng những điều Việt Nam đã cam kết về năng lượng xanh.

Diễm Thi : Kế hoạch dài hạn Việt Nam cần thực hiện là gì, thưa tiến sĩ ?

Ngô Đức Lâm : Cái dài hạn là phải phát triển không dùng khí nữa mà phải dùng Hydro hoặc Amoniac. Loại năng lượng này còn sạch hơn nữa nhưng phải chờ công nghệ của quốc tế. Quốc tế phát triển và chuyển giao được thì Việt Nam cũng thay đổi. Có nghĩa là từ 2035 trở đi, có khả năng Việt Nam hoàn toàn áp dụng công nghệ mới để đến năm 2045 - 2050 phát thải sẽ bằng 0. Đó là điều rất tốt.

Đó là riêng hệ thống năng lượng. Nhưng để phát thải bằng 0 thì đó là một sự phát triển tổng hợp, hài hòa giữa các nguồn khác như phát triển rừng, bảo vệ rừng để hấp thụ được khí phát thải Cacbonic ra. Có như thề thì mới bảo đảm dòng phát thải bằng 0. Nông nghiệp cũng phải chuyển đổi hệ thống nông nghiệp xanh thì mới bảo đảm năng lượng xanh toàn bộ. Có nghĩa năng lượng xanh phải kết hợp với các hệ thống khác, kể cả giao thông như ô tô điện thay cho xăng dầu chẳng hạn. Hiện nay Việt Nam cũng đang huy động, phát triển một cách toàn diện.

Tóm lại, chủ trương của Việt Nam là tốt, quyết tâm cũng cao. Nhưng có những cái vượt quá khả năng của mình như tài chính, công nghệ, đào tạo nhân lực có khả năng tiếp thu nền công nghệ mới. Những khó khăn đó đôi khi phải phụ thuộc bước ngoài rất nhiều. 

Diễm Thi : Là một nước nhiệt đới, Việt Nam có lợi thế về điện mặt trời ra sao, thưa tiến sĩ ?

Ngô Đức Lâm : Việt Nam đang có chủ trương các gia đình sử dụng năng lượng mặt trời mái nhà. Tức là các gia đình, các cơ quan, các khu công nghiệp có thể sử dụng mái nhà lấy năng lượng mặt trời thì phải làm. Tôi gọi đó là ‘năng lượng điện tự tiêu’. Tự sản xuất ra và tự sử dụng. Nhưng hiện nay còn vướng mắc lớn nhất là khi dùng thừa thì phải đưa ra lưới để bán. Nhưng để chuyển điện từ trong Nam ra Bắc thì hệ thống đường dây truyển tải hiện nay chưa đủ khả năng, nên điện thừa phải bỏ đi chứ không thể chuyển được.

Đó là khó khăn nên hiện nay nhà nước đang cấp tốc làm thêm một đường dây 500 KV từ miền Trung ra tới Bắc Ninh, tới miền Bắc để tạm thời giải quyết lượng điện thừa ở khu vưc Nam Trung bộ, chứ chưa phải Nam bộ.

Nam Trung bộ là vủng rất nhiều bờ biển. Đang cố gắng chuyển điện mặt trời từ đây ra miền Bắc quan hệ thống đường dây 500 KV để giải quyết nạn thiếu điện cho mùa hè sắp tới. Cho nên, hệ thống điện thì không phải chỉ tới nơi phát điện, nhà máy điện mà còn phụ thuộc hệ thống truyền tải. Mà chuyển từ hệ thống đó đến từng nhà dân tốn rất nhiều tiền và không thể làm một lúc được. Do đó, chủ trương là có nhưng để làm được thì phải có thêm thời gian.

Diễm Thi : Cảm ơn Tiến sĩ Ngô Đức Lâm đã dành thời gian cho RFA.

Diễm Thi

Nguồn : RFA, 22/11/2023

Published in Diễn đàn

Bất chấp những ý kiến phản đối, ngày 02/02/2022, Ủy Ban Châu Âu công nhận nguyên tử và khí đốt là năng lượng "xanh", kèm theo một số điều kiện, góp phần vào việc chống biến đổi khí hậu.

nangluong1

Nhà máy điện hạt nhân ở Doel, Bỉ. Ảnh chụp ngày 01/02/2022.  Reuters – Johanna Geron

Tại cuộc họp hàng tuần vào sáng 02/02, các ủy viên Châu Âu thông qua danh sách các tiêu chí cho phép xếp loại "bền vững" các khoản đầu tư vào nhà máy điện hạt nhân hoặc khí đốt để sản xuất điện. Văn bản này sẽ giúp huy động nguồn vốn tư nhân vào các hoạt động giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính để đạt đến mục tiêu trung hòa khí thải vào năm 2050 của Liên Hiệp Châu Âu.

Văn bản, được giới thiệu đến báo chí vào chiều cùng ngày, quy định nhiều điều kiện nghiêm ngặt đối với việc đánh giá hạt nhân và khí đốt là năng lượng "xanh", trong đó có hạn chế về thời gian, cũng như bắt buộc sử dụng những công nghệ mới nhất.

Ví dụ, để xây dựng những nhà máy điện hạt nhân mới, các dự án phải nhận được giấy phép xây dựng trước năm 2045. Việc cải tiến giúp kéo dài tuổi thọ các nhà máy điện hạt nhân đang tồn tại phải được cấp phép trước năm 2040.

Liên quan đến khí đốt, Ủy Ban Châu Âu quy định mức tối đa khí thải CO2 : dưới 100 gram đối với mỗi kWh. Theo giới chuyên gia, đây là ngưỡng khó đạt được với những công nghệ hiện nay. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển đổi, các nhà máy sử dụng khí đốt để sản xuất điện nhận được giấy phép xây dựng trước ngày 31/12/2030 sẽ được phép vượt ngưỡng quy định trên, lên thành 270 gram khí thải CO2 đối với mỗi kWh, với điều kiện phải thay thế những cơ sở hạ tầng gây ô nhiễm nhất.

AFP nhắc lại đây là những chủ đề gây chia rẽ 27 nước thành viên Liên Hiệp Châu Âu, khiến nhiều tổ chức bảo vệ nhân quyền bất bình và gây nghi ngờ trong giới tài chính. Pháp, Ba Lan và Cộng Hòa Séc ủng hộ dự án vì Paris muốn tái khởi động ngành năng lượng hạt nhân, trong khi hai nước Trung Âu muốn thay thế các nhà máy nhiệt điện.

Một nhóm nhỏ gồm Áo, Luxembourg và Đức thì muốn loại điện hạt nhân và tập trung vào năng lượng tái tạo. Bốn nước khác, Áo, Đan Mạch, Hà Lan và Thụy Điển thì phản đối nhãn hiệu "xanh" đối với khí đốt.

Trong thời hạn bốn tháng kể từ ngày 02/02, Nghị Viện Châu Âu có thể bác văn bản này chỉ cần với đa số phiếu. Về lý thuyết, Hội Đồng Châu Âu cũng có quyền phản đối với điều kiện phải được 20 nước thành viên bỏ phiếu chống.

Thu Hằng

Published in Quốc tế