Lời giới thiệu :
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên rất vui mừng và bất ngờ khi nhận được một món quà quí và có ý nghĩa từ thân hữu Nguyễn Thành Sang với bản dịch hoàn thiện Dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai sang tiếng Trung Quốc. Đây là ‘công trình’ lao động miệt mài của bạn Nguyễn Thành Sang trong suốt một năm qua. Bạn Nguyễn Thành Sang là một trí thức trẻ, sống tại Bình Định và đang làm công việc phiên dịch tự do.
Như mọi người đã biết Dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai là một văn bản cụ thể hóa tư tưởng chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Trong dự án này chúng tôi đã trình bày rất đầy đủ và rõ ràng lộ trình tranh đấu cho dân chủ cũng như việc kiến thiết xây dựng lại Việt Nam trong tương lai. Bản hiện tại được cập nhật từ năm 2015 và chúng tôi vẫn đang tiếp tục cập nhật dự án chính trị này.
Mặc dù Dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai rất quan trọng, nó định hướng cho công cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước trong hiện tại và đề nghị một mô hình nhà nước cho Việt Nam trong tương lai của một tổ chức chính trị có tham vọng thay đổi dòng chảy của lịch sử… nhưng không phải người Việt Nam nào cũng biết, cũng đọc. Có nhiều lý do nhưng theo chúng tôi có một lý do chính đó là người Việt Nam không quan tâm nhiều đến tư tưởng chính trị. Việc thiếu vắng tư tưởng chính trị, theo chúng tôi đã là nguyên nhân dẫn đến sự tụt hậu và thua kém của Việt Nam ngày hôm nay.
Không chỉ mỗi Đảng cộng sản thiếu vắng tư tưởng chính trị mà đối lập dân chủ Việt Nam cũng vậy. Dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai là một tác phẩm tư tưởng chính trị hiếm hoi của người Việt. Những người Việt Nam quan tâm đến đất nước nên dành thời gian để đọc tác phẩm này. Có lẽ vì là một tác phẩm tư tưởng nên đa số người Việt Nam không muốn đọc vì… ngại. Đọc về tư tưởng chính trị và lý luận chính trị đòi hỏi người đọc phải có một sự quan tâm đến đất nước (yêu nước) hoặc phải có kiến thức về chính trị nếu không sẽ rất khó để tiếp thu.
Người đọc đã không nhiều, người hiểu và ‘giác ngộ’ được tư tưởng chính trị trong Dự án chính trị này lại càng ít hơn vì các thuật ngữ chính trị, dù được viết một cách trong sáng và rõ ràng vẫn là khó hiểu với không ít người Việt. Thế nhưng bạn trẻ Nguyễn Thành Sang không chỉ đọc kỹ mà còn dịch sang một ngôn ngữ rất phức tạp khác là tiếng Trung Quốc. Đây là một kỳ tích. Phải có một trí tuệ, một kiến thức khá lớn về chính trị và một đam mê với các tác phẩm tư tưởng chính trị mang tính khai phóng thì bạn Nguyễn Thành Sang mới có thể hoàn thành công việc buồn tẻ và khó khăn trong việc chuyển ngữ Dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai sang tiếng Trung Hoa.
Công trình của bạn Nguyễn Thành Sang có ý nghĩa rất lớn. Theo chúng tôi có ít nhất hai đóng góp quan trọng :
1. Giới thiệu về đối lập dân chủ Việt Nam với người dân Trung Quốc và cộng đồng Hoa ngữ
Dư luận thế giới nói chung và người dân Trung Quốc nói riêng biết rất ít về đối lập dân chủ cũng như phong trào đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam. Người dân Trung Quốc có một lịch sử và một số phận tương đồng với người dân Việt Nam. Cả hai dân tộc cho đến giờ vẫn chưa có dân chủ và vẫn đang chịu sự cai trị của Đảng cộng sản.
Do chính sách chia để trị của nhà cầm quyền nên có một số người dân Trung Quốc không có thiện cảm với người Việt Nam và ngược lại. Thực sự thì hai dân tộc Việt-Trung đã cùng nhau chia sẻ một nền văn minh và một nền văn hóa lâu đời. Trước khi người Trung Hoa đến thì dân tộc Việt đã tồn tại với một nền văn minh bản địa và một nền văn hóa riêng, gọi chung là Văn Lang.
Khi người Trung Hoa lục địa và tại khắp nơi trên thế giới hiểu được con đường tranh đấu của đối lập dân chủ Việt Nam, nghĩa là xây dựng một xã hội nhân bản, bao dung, tôn trọng lẽ phải, đề cao liên đới, hòa giải, đoàn kết và hợp tác… thì họ sẽ có cái nhìn khác. Họ sẽ thông cảm và ủng hộ chúng ta thay vì có cái nhìn thiếu thiện cảm. Một nước Trung Quốc dân chủ và tự do là mong muốn của người dân Việt Nam và ngược lại. Chỉ dưới thể chế dân chủ thì hai dân tộc mới có thể chung sống hòa bình và hợp tác toàn diện với nhau. Công cuộc dân chủ hóa Việt Nam rất cần sự ủng hộ của người Trung Hoa nói chung và người dân Trung Quốc nói riêng.
2. Phong trào dân chủ tại Trung Quốc có thể tham khảo giải pháp ‘dân chủ đa nguyên’ của đối lập Việt Nam
Dù nền văn minh Trung Quốc có hơn xa Việt Nam trong quá khứ nhưng không thể so sánh với phong cách sinh hoạt của văn hóa phương Tây, đặc biệt là trong lĩnh vực tư tưởng chính trị. Cho đến giờ Trung Quốc vẫn chưa có một nhà tư tưởng chính trị nào. Chính ông tướng Lưu Á Châu đã phát biểu : ‘Trung Quốc không có nhà tư tưởng, chỉ có nhà mưu lược... Tôi cho rằng mấy nghìn năm nay Trung Quốc chưa sản sinh được nhà tư tưởng nào’.
Một bằng chứng nữa cho sự thiếu vắng tư tưởng chính trị tại Trung Quốc đó là việc Bắc Kinh đã tôn vinh và dựng lên hàng trăm Viện Khổng Tử trên khắp đất nước mặc dù Khổng Tử đã mất cách đây… 2550 năm. Không chỉ mỗi Trung Quốc mà các nước Châu Á khác cũng không có nhiều các nhà tư tưởng chính trị, trừ Ấn Độ.
Việc chia sẻ và giới thiệu một Dự án chính trị chuyên chở một tư tưởng khai sáng của một tổ chức đối lập dân chủ Việt Nam có thể giúp người dân Trung Quốc tham khảo về con đường đấu tranh để chiến thắng độc tài và xây dựng dân chủ cho chính họ. Dự án chính trị này sẽ giúp người Trung Hoa nói chung và người Trung Quốc nói riêng hiểu biết hơn về tinh thần bất bạo động, bao dung và hòa giải dân tộc của phong trào dân chủ Việt Nam. Người dân Việt Nam không có lý do gì để thù ghét người dân Trung Quốc mà chỉ là không thích Đảng cộng sản Trung Quốc vì họ đã tiếp tay và hà hơi tiếp sức cho Đảng cộng sản Việt Nam…
Putin và nước Nga đang sa lầy tại Ukraine. Họ sẽ thất bại và nước Nga, một đế chế độc tài khép kín có thể tan rã để người dân Nga mở ra cánh cửa tự do và dân chủ, hội nhập vào dòng chảy của thế giới. Làn sóng dân chủ thứ Tư tiếp tục trào dâng và sẽ quét đi các chế độ độc tài còn sót lại. Một trang sử mới đang mở ra cho nhân loại. Chúng tôi trông chờ một phiên bản tiếng Nga của những người tình nguyện.
Xin chân thành cám ơn và ghi nhận sự đóng góp của bạn Nguyễn Thành Sang về công trình rất có ý nghĩa mà bạn đã miệt mài hoàn tất trong suốt một năm qua. Chúng tôi rất cảm động vì sự đóng góp của bạn hoàn toàn là một chiều. Bạn đã không đòi hỏi bất cứ điều gì từ chúng tôi.
Xin trân trọng giới thiệu Dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai phiên bản tiếng Trung Hoa với độc giả Thông Luận. Chúng tôi tha thiết đề nghị mọi người chia sẻ tài liệu này đến các bạn hữu người Trung Quốc cũng như cộng đồng Hoa ngữ trên khắp thế giới.
Việt Hoàng
(22/08/2022)
多元民主集合会
第二纪元的启蒙书
多元化民主政治预案
2015年
译者:阮成泷(2020年)
------------------------------------------------------------------------
目录
壹、历史使命 1
贰、第四轮民主浪潮与世界新秩序 5
一、第四轮民主浪潮 5
二、美国,中国和太平洋地区 9
三、全球化运动威胁着一切国家 11
四、意识形态联盟让位于发展合作 12
五、不发达国家与新的世界背景 13
叁、越南面临着重大历史转折 16
一、挑战 16
二、展望 19
肆、民主纪元的思想基础 23
一、国家:连带的空间和共同的未来预案 23
二、多元化民主 26
三、民族调解与和谐 30
四、接受并坚定地表达进步的价值观 33
五、在民主、市场经济和个人创见的基础上发展国家 35
伍、越南模式的主要方向 41
一、以自由为动力而发扬创造力和进取精神 41
二、弘扬志愿爱国主义 41
三、尊重和促进民间社会 42
四、将越南确定为建立在群区之间的国家 44
五、果断选择以民营企业为基础的市场经济 45
六、迈向工业服务经济 45
七、促进国内市场发展 47
八、不断警惕加强社会连带 47
九、奉行“小国主义” 49
十、实行与睦邻政策并行的和平与合作外交政策 50
十一、践行文明的人口调控政策 51
十二、在努力中建设优质民族幸福 52
陆、越南共和国的体制和宪法 54
一、关于政权的两个错误偏见 54
甲、多元民主与政治稳定 54
乙、统一和散权制 56
二、政治制度 58
甲、议会制:最稳定和民主的体制 58
乙、政府组织 59
丙、政党:国家的基本要素 61
三、越南共和国宪法 61
柒、争取建立多元化民主制 63
一、民主革命的四个充要条件 63
二、民主运动的五个阶段 65
甲、建设意识形态基础 65
乙、打造核心干部队伍 65
丙、对设施的建设和审查 66
丁、建设群众基础 66
戊、夺取政权的进攻 66
三、民主运动的内容 68
甲、唤醒群众对全国共同解决方案的必要性 68
乙、在思想理论上取得决定性胜利 68
丙、组建民主阵线及争取自由选举 72
一、过渡问题 76
二、政治措施 77
甲、把政府还归给人民 77
乙、实现民族调解与和谐 78
丙、颁布越南共和国新宪法并修改法律 79
丁、开端将散权制付诸实践 79
戊、为越南人民保留越南国土 80
二、社会文化措施 80
甲、加强安全秩序 80
乙、克服贪污和社会弊端 81
丙、彻底废除所有审查检阅政策和措施 82
丁、确保教育的客观性和所有公民的最低文化水平 82
戊、改善环境,把国家组织成大城市 83
三、经济措施 84
甲、剥离大部分国有企业和土地私有化 84
乙、最大限度地鼓励投资含来自国外的投资 84
丙、着力推进两项战略交通工程 84
四、复兴努力的资金来源 85
五、民主制过渡将成功,国家将崛起 86
玖、分享一个越南梦 87
壹、历史使命
我们在人口方面排名世界第十四位,因此,在这个地面上每一千人有十五位越南人。 越南人民被世界视为聪明和勤奋。得益于漫长而美丽的海岸,我们的地理环境十分优越,它靠近重要的交通轴,并且特别活跃的地区。 我们拥有一个大国和富国的潜力,为建设一个和平,繁荣和文明的世界作出了有价值的贡献。
尽管如此,我们现在是世界上最贫穷,最落后的国家之一。 我们的人均国民总产值远低于世界平均水平。 我们仍然没有高科技产业,在文化和艺术领域还落后很多。我们在所有关于人种社会和环境的国家排名表中均排名最低; 我们甚至缺乏最基本的人权。 这场痛苦而令人无法接受的冲突必须对每个越南人提出质疑。
天生的所有人,不论种族,都具有相同能力。种族发展水平和生活水平的差异是由于文化条件,地理,自然资源和社会组织法而造成的。在这些因素中,社会组织至关重要。社会组织的好坏,善拙可以完全改变一个国家的命运。因此,尽管土地狭窄,资源贫乏,许多国家仍在强劲崛起,而其他许多国家虽然受到自然的优惠,却仍在贫困中挣扎。在这种意识中,当前的屈辱势在必行,不仅迫使我们思考自己,为自己找到一条路,还使我们相信,如果我们适当地重组我国,那意味着基于正确的价值观,我们一定会摆脱贫困,并会坚强崛起。
我们错过了许多历史性机会。
在以十八世纪思想爆炸和十九世纪工业大革命为标志的新时代到来之际,我们和许多其他亚洲国家一样,并不意识到当时该是重新审视所有价值和规矩,彻底革新思维和组织方式的时候了。 几个世纪以来,我们一直对僵化的孔孟学说模范感到满意,失去了创造力并当场脚。 而西方人,由于他们的客观性和方法论,通过不断的修正和创新,已经比世界其余地区更强大。
由于无法像其他一些幸运的国家那样及时适应,我们把主权和被殖民地属丟掉了。 失去主权,我们总是失去了共同协商为本国寻找出路的能力,然后总是失去了解决分歧意见的对话精神。
进入二十世纪,我们已经同时解决两个难题:获得国家主权和适应新进文明。因为我们不同意一个新的国家预案,所以即使在每个越南人都希望重新获得自治的目标上,我们也存在冲突。第二次世界大战后殖民统治瓦解,我们错过了重新获得独立并崛起的机会。我们彼此分裂,相互谴责,相残相毁,使国家陷入内战并纷争,在遭受最不堪性破坏之后,最终结果是兜揽最荼毒的独裁政权之一;而其他国民,无论他们付出的代价是不浪费还是很少流血牺牲,都是获得独立的,在许多情况下甚至建立了民主。
目光浮浅使我们错过了1975年当和平时期恢复的重大机遇。胜利派系没有民族调解来医治战争的创伤,而是施加了极权主义,而极权主义在一个世纪前被遗弃在其策源地中,不久将在其中心地遭到拒绝,并被文明世界谴责为人类灾难。 浮浅空泛也使我们错过了共产主义和共产主义运动崩溃时的又一次巨大机会。
回顾过去,我们必须认识到,我国遭受的所有失败的原因是我们缺乏政治思想,没有投入足够的思维来清楚地了解自己面临的重大问题并寻求解决方案。在任何时刻,我们始终缺乏适合新时代和国家形势的政治预案。 我们最终相互残杀是因为我们无意识地吸收了借来的意识形态,并且比发起它们的民族更加痴狂地捍卫了它们。
我们迫切需要政治思想上的飞跃,以快速就社会组织的新基础价值达成共识。这种文化上的跃进必须与毅力和宽容相结合。当前的悲惨经历和自卑屈辱迫使我们就放弃急躁的心理,放弃对正义的垄断,克服痴狂心地来本着相互尊重的精神进行对话和妥协。没什么别个,因为所有越南人都在一个共同的身份下连属在一起:如果我国富裕发达,我们的生活将光荣,我们都将受到敬重;相反,如果我国贫穷落后,我们都会被鄙视,无论我们属于任何成分,任何倾向或如何主义。在当今悲苦的局势中,所有个人的最佳亦是每个人的最佳。
今天,我国大多数人民都处于穷乏,沮丧和愤懑的状态,我国陷于落后和僵局。经济,社会,环境,道德,教育,人剩等未解决的问题变得越来越尖锐,并达到了岌岌限度,如果这种崩消性势头没有迅速扭转,很快就不可能做出反应。然后可以将我国从拥有梦想在世界上有价值地位的民族清单中删除。我们必须断言,在这个共产主义政权下,这个国家是没有出路的。在其存在和统治的整个过程中,仅显示出不惜一切代价维持其对国家的统治,包括破坏国家,牺牲其民族利益和臣服外邦。这也是一个极度腐败的政权,每个民族的历史证明,它只能取代而不是改善一个腐败贪污的政府。我们这个时代的历史使命是迅速使人民摆脱极权专政的锁,并救国摆脱永远衰飒的危险。
永远衰飒的危险也就是亡国的危险,因为在这个时代,当国族意念遭到各方的攻击和反思时,没有带来幸福,自豪感和希望崛起的国家将早晚被解散。
我们摆脱僵局并崛起的出路是多元化的民主与人权,其基础是爱国之心,被认为是越南人民的爱与依恋。
民主将问题放在正确的位置,选择正确的解法和负责任的人员。 多元化以尊重所有差异,在血腥冲突后进行民族调解。人权以荣誉每个越南人并促进所有人的活力和创见的。 每个民族的经验表明,人权从未阻止任何人过上自己的生活,民主从未禁止过一个民族前进。 民主是前进,为发展启路,发展巩固并促进民主。 民主还是一个明智的选择,允许一个实力较弱的国家利用世界的情绪和支持来保护其权利和领土。
使国家民主化是一个显而易见的目标,但也充满了障碍。 共产党已经表明,它可以做一切事情来维持政治垄断,而大多数越南人不再关心这个国家,这种沮丧对于一个贪恶的政权来说持续了太久,变成了国家本身的沮丧。 因此,为民主而奋斗的人们必须同时抵抗共产党的顽固和群众的弃权心理。 民主运动还必须是试图恢复受到严重伤害的爱国主义; 这将需要大量的决心,勇气和坚毅。 但这是一场必要的斗争。
在人类走上自由上国家民主之路,我们已经很晚了。 到目前为止,尽管我们拥有悠久的历史,但实际上我们只有奴隶制。自主时代还意味着用本国奴隶制代替外国奴隶制。 民主运动是将人民从奴隶之黑暗中带入自由之光明的斗争,它开启了民主时代,即我国的第二历史纪元。 取决于当今人们的选择和态度,他们将被后代视为对我国历史上最伟大的革命做出了贡献,或者当国家最需要时害怕地逃避责任。
这项政治预案的雄心是为越南树立新的政治意识,并团结那些仍然有意志和信念去追求一个共同理想,即是一个越南今天值得其人民努力建设的国家,并以子孙后代继承为荣。这种团结是急切和必要的,因为政治斗争从来不是个人斗争,而只是有组织的斗争。
全球民主的新浪潮正在汹涌澎湃。 我们无权错过这个交运。
贰、第四轮民主浪潮与世界新秩序
我们处在充满展望的顺利世界背景中。 前无从来有可能结束极权统治体制并进入大民主时代大如此时。 新民主浪潮,是世界历史上第四轮民主浪潮,已经开始并继续上升,而独裁统治在威望,才智,信心及意志力方面已衰变和耗尽。
一、第四轮民主浪潮
人类历史可以看作是人类走向自由,摆脱愚昧,疾病,饥饿,艰辛,尤其脱离暴政的束缚的旅程。 事实证明,民主是组织社会自由行使的最合理方式,因此世界历史也是民主民族的旅程。
在那艰难的旅程中,民主遇到了统治权力的顽强抵抗。除了公然暴力之外,统治势力还运用意识形态武器。从悲观的哲理出发,认为人生是不值得命活,因此不值得斗争而对未来天堂的幻想来改善以出要求今天牺牲,通过统治者称自己为至上神代表并仅在该至上神之前负责任的神权政体;极端民族主义者;认为满足物质需求是唯一或最高优先事项的实用主义者;认为个人只有意味着为最上的祖国,教会,政党等集体之要素的集体主义。对民主的最阴毒迟延性的破击是将民主基础的个人主义跟自私主义同化,前提是民主导致离零和混乱。
这起伏有其原因。首先,因为民主的复杂性既难以实现,也难以维护。有证据表明,在人类要组织起来几千年生活之后,才有民主在希腊茁苗,然后熄灭了,不得不再等两千年,才能在欧洲的几个地方胆怯地重新出现,并且直到最近才有所强发。另一个重要原因是,民主生活把基础建在政党上,而在禁止和消灭反对党之后的独裁政权,但最终不得不垮台时,只会留下政治真空。可是民主是文明社会的自然性生活方式,因此,如果发生退位也不能破坏先前民主浪潮之成果,民主仍会随着社会发展而日趋成熟。在某种程度上,它足够强大,可以产生新一轮民主浪潮。现实表明,民主化运动是不可逆转。在20世纪初,即第一轮民主浪潮之后的一个多世纪,只有大约十个民主国家:美国以及一些西欧和北欧国家。既是,除了美国以外,这些国家亦未必是民主的,因为它们同时是在殖民地侵犯人权的殖民者。尽管经历了风风雨雨,但进入二十一世纪,世界上近两百个国家中有三分之二是民主的。目前,在2015年,这一比率超过四分之三,在被视为独裁国家中,只有少数几个国家敢于公开宣称实行一党制。世界上民主进程正在加速,世界新秩序正在完成。
直到二十一世纪首先年代,世界见证了三轮民主浪潮。
第一轮民主浪潮始于1776年美国独立战争和1789年法国大革命,其旨在推翻基于政教合一的绝对君主制,无论是基督教神权制,伊斯兰教神权制还是儒教。它迫使欧洲君主制放弃实权以其成为君主立宪制国家,从而摧毁了奥斯曼帝国以及俄罗斯和中国的君主制。
第二轮民主浪潮始同于第二次世界大战,旨在推翻沙文民族主义。在君主立国后出现并发展起来的这一主义,认为民族之间的冲突是自然而然,因为所有民族都必须保护和扩大其生存空间。第二轮民主浪潮拒绝了这种极端性民族主义,并确认了各族人民之间的平等与所有国族的自治权。结果是纳粹德国,意大利法西斯和日本军阀帝国皆所歼灭。德国,意大利和日本这三个国家都成为民主国家,日本成为亚洲第一个民主国家。大多数英国殖民地也成为民主国家。但是,此轮民主浪潮很快就停止了,并让位于当时资本主义和共产主义之间的冷战,被视为两个民主化的公式相互竞争。应该强调的是,共产主义运动是作为民主运动而诞生的,其已是在被利用为犯罪之前建立一种民主的错误公式。
第三轮民主浪潮旨在反对共产主义并消除冷战所产专政制度。它始于1974年一场革命,这场革命推翻了葡萄牙的萨拉查独裁统治,当时两个自称民主的公式为资本主义和共产主义之间的辩论定局了,民主概念内容足够肯定。共产主义公式的失败是相当明显,与资本主义国家相比,交通和通讯的进步暴露了与资本主义国家相比共产主义国家在精神和物质上的劣势。共产主义已经扫地了吸引力。民主国家不再恐虑共产主义的胜利,并且有足够自信以放弃反共专政制度,即使他们付出的代价将其暂时让位给共产主义制度。这一民主浪潮分为两个阶段。在早期阶段,它压低了葡萄牙,西班牙,希腊,菲律宾,南高丽,台湾,南越南以及亚洲,非洲和拉丁美洲许多其他国家的右翼专政制度。一些国家成为民主的,但其他国家进入了共产主义轨道,例如南越南,老挝,柬埔寨,安哥拉,埃塞俄比亚,也门,尼加拉瓜等。但不久之后,浪潮就泼洒了,使大多数共产主义政权垮台,包括苏维埃联盟为是马克思·列宁主义的圣地。
第三轮民主浪潮在1990年代中期停止,首先是柏林墙倒塌和冷战结束后的乐观主义,才是造成退潮的原因。人们认为,民主已经赢得了胜利,幸存的独裁政权将足够明智,可以将自己转变为民主国家。这种心态措手不及。后来,克林顿政府在美国和希拉克在法国推动了实用主义。就国际关系而言,这种主义奠权利而尤其奠经济权利为最上并每当权利与道德之间发生冲突时,就必须权利优先。促进民主和人权已不再是头等大事,且各国政府,无论是独裁和侵犯人权,仍然可以成为美国和欧洲及一般发达民主国家的伙伴。到21世纪初,世界陷入了反恐斗争,乐观主义心理虽然不再,但实用性对外政策得以延续,甚至在奥巴马总统任期初期中得到了推广。此外,实用主义的经济表现是一种通过鼓励消费来刺激经济增长的政策,即使与支付价格是贸易平衡被重洞穿,平行于房地产和证券投资。长期以来,这项政策在中国,越南和许多其他国家都支持着独裁暴政。这些政权实施了经济开放政策,以剥削贫困而由其本身造成的原因:最大程度地剥削工人以尽可能低贱地出口商品,得益于廉价旅游服务来吸引了游客。实用主义使幸存独裁政权包括中国和越南这样的共产主义残余继续生存,甚至增强经济实力。
最终,实用主义导致了危机,并迫使世界彻底修整对外政策和经济模式,即一方面在国际关系中捍卫民主和人权价值观。另一方面,把生产经济放在首位,而不是投机,要审慎地兼顾国家预算和贸易平衡。独裁制度不再得容忍侵犯人权,也无法依靠出口生存。 正是这一修整导致我们目睹了第四轮民主浪潮。实用主义已是人类历史上的一个括号。 括号即将封闭,独裁制度的宽恩限期已经结束。
第四轮民主浪潮,从2010年开始,旨在于经济开放的独裁政制。这些政权不能续存更长时间; 它们不是基于某种政治理想,即使有时那些枯燥无休无止地重复的口号,诸如"建设社会主义"等等。它们纯粹是非以某一种理想或政案之名义的盗贼制政权。它们甚至没拥抱幻想。它们完全靠压制而生存。一切它们都是残废的政府。在政治权力的两个必要方面、即正名和暴力,它们只有暴力,因此必须利用暴力。为了便于压制则统治集团必须强大,反之,群众必须软弱。剥削和不公正必须作为政制生存逻辑中的权利而增加。但这是一个自杀性逻辑,因为它对政权使人更加仇恨,而想要与否的则经济开放和媒体和交通的惊人进步也改变了人民,社会和力量相关性。人民边不再完全依赖政府在日常物质需求中,边足够的信息来清楚当权者的平庸和诡诈。他们还拥现代化的设施以相互交流,相互激励和相互合作。这些荒唐的政制之所以存在,是因为知识分子消极被动,但今天知识已经普及化,一支新鲜的知识分子队伍也应运而生。变革被迫必来,而且已经到来了。第四轮民主浪潮正在兴起。
在东亚,它已将形式性民主制度诸如在印度尼西亚,泰国,马来西亚,新加坡和菲律宾等转变为实质性民主制度,在缅甸造成了突然转向。
在拉丁美洲,它巩固了新生的民主国家,为土著人民提供了应有的立足点和发言权,并逐渐迫使古巴国开放。 在北非和中东,它挖掘了突尼斯,埃及和利比亚的长期独裁政权,并迫使其余独裁政权在民主化还是覆灭之间做出选择。 它还旨在解决了一个具有世界重要性的问题,即是将伊斯兰教脱离政治舞台,回到作为宗教的正确位置。
在美国和其他发达民主国家,它要求更健康和更有连贯性的的民主水平,优先考虑创造就业机会的生产活动,而不是为投机,为尊重环境人类和个人选择。清净环境,清净用水和清净空气被认为是人权的基本组成部分。
新一轮民主浪潮也正在推撞俄罗斯的虚假民主制度,以及越南和中国的幸存两个共产主义政制,在那里,这两个共产政党已将其转变为两个与愤怒感群众分开存在的剥削性阶级。 此外,中国和越南两政府都将面临巨大的困惑,因以出口为基础的经济政策不再符合危机后的经济秩序。
当今世界最大的特点是势力相关性发生了变化,其余的独裁政制不再对民主国家构成威胁。它们在科学和技术方面都非常落后,在政治意识形态上完全赤裸裸,没有欺骗的幻想,在军事实力上不如民主国家,经济比重不到世界经济的十五分之百。民主世界不再需要也不再害怕独裁政制。世界格局的一个重要变化是联合国的化身。联合国自成立以来的主要任务是缓解紧张局势,使冷战不会成为真正的武战。今天已经达成了这一使命,联合国必须找到一个新的使命,以便有理由继续存在。经过一段时间的探索,这一新使命越来越被确认为促进以人权为核心的普遍价值观并建立民主秩序。实用的对外主义时代(即不愿接受与暴政为了和平而共处和经济合作已经结束)。此外,除了少数微不足道的例外,其余的独裁政制严重依赖对外贸,无法挑战民主世界。它们过着最后的艰难日子。
第四次民主浪潮将继续加强,只有告终了在最后一党制政权并导致穆斯林国家的宗教和政治歧视之后才能完成。
我们面临着使本国民主化的非常有利的机会。
这第四次民主浪潮将把民主强加于一切国家。然后,每个国家面临的两个问题是,一方面,要了解自己的路线图,以了解全球化世界中的挑战和希望,另一方面,要不断批评自我民主制度要连连完善,因为民主作为一种社会组织方式的特征是可以而且应该不断改进的。
伴随着这一民主浪潮,世界正在完成向新纪元的重大转变。这是一个以创造先进国家力量的价值观为基础的纪元:和平,自由,民主,人权,平等,法治,对话,合作,利润,环境和连带。文化,艺术,科学,技术和经济等成就决定各国民族的位势和荣辱,前提是有稳定和康宁的民主体制以便继续存在。教育和培训将是一场新的世界大战,是所有民族的生存战线。
暂时之,世界领导地位仍主要属于美国和西欧,但多极化趋势将越来越强。日本成功地从使用现代技术的传统日本转变为各个方面真正现代的日本,开始了健康增长的新时代,并将发挥越来越重要的作用。俄罗斯,中国,印度,巴西,印度尼西亚和韩国等许多国家在世界重大问题上将拥有越来越重要的发言权和权重。在不久的将来,领导层的重要组成部分将转移到太平洋地区,其中有中国和俄罗斯,如果成功地实现民主转型,也将发挥领导作用。高位可能会改变,联盟也会改变,但处规不会改变,因为基础价值观不会改变。在此处规中,决定性武器是取得杰出成就的创造力。但创造力只是在自由人民,民主社会中才产生和发展。民族之间即将到来的竞争将是一场竞赛,以最大程度地组织同时具有知识,技能,自由,连带,纪律,活力和创造力的国家空间。不了解处规或不愿迅速适应新价值观的国家必须等待非常黑暗的未来。
二、美国,中国和太平洋地区
当今世界的突出浓点仍然是美国的压倒性角色。
尽管在一个越来越多的民族崛起或看到崛起方向的世界中,相对权重已经下降,并将继续自然下降,但美国在各个方面仍然是一个优越强国,尤其是在军事力量方面,它也是最具创造力和前进潜力的强国,因此美国的优势将持续到本世纪。几十年后,如果没有美国的协议,任何重要的国际问题都将难以解决。美国因此是一个世界问题,任何国家,无论它喜欢与否,都有它的美国问题。好消息是,凭借这种无与伦比的力量,美国也被证明是将民主和人权问题纳入外交政策的积极力量。令人担忧的是,美国人对了解世界的兴趣不大,经常以几乎纯粹的内部标准(有时是短期经济权益)选择领导层和要大取向。然而,随着全球化世界中竞争日益激烈的势力,美国人逐渐意识到,他们只有在民主世界中才能安全。所以美国对民主和人权价值观的积极捍卫从今起只能增加。
但是,如果全世界都有美国的问题,那么东南亚国家就会有更多的中国问题。通过与发达民主国家的交流,中国的经济实力大大雄强,军事实力显著加强。令人担忧的是,尽管中国迄今已变得强大,但它仍然是一个极权主义政权,公然否认民主和人权的价值观,不仅如此,而且还表现出利用其军事力量实施地区霸权政策的愿望。亚洲是当今世界上战争威胁最大的地区。中国既增加了军事力量,又暴露出了一些霸权野心,这一事实使世界,特别是亚太地区国家感到疑虑。对中国的疑虑导致该地区发生了代价高昂且危险的军备竞赛,使局势更加紧张。
在这种情况下,越南是与中国争端最多的国家,也是没有财政能力翻新武器和增强空军和海军这两个核心部队作战能力的国家。因此,我国(越南)明智而强制性的国防政策是坚定地民主化,以完全融入民主世界,并根据国际法受到民主国家的保护,同时获得恢复邻国柬埔寨和老挝的感情和团结,中国在包围和控制越南的战略中正当贿赂了该两国。这也是我国与中国和平友好相处的条件。
然而,未来的前景并不完全黑暗。中国还不是一个富裕的国家——人均产出远远低于世界平均水平——这一事实异常增加了军事成本及挑衅行为正在引起全球对中国的疑虑有可能成为反中国运动,如果中国不想孤立,它将迫使中国反思自己。包括除中国以外的太平洋地区所有国家的跨太平洋伙伴关系(TPP)之建立就反映了这种疑虑。已经有迹象表明,中国人民和一些领导人开始意识到中国不应该也不可能奉行的地区霸权政策的危险。我们有理由希望中国转向更有利于世界和自身的政策。越来越多的理由是,在各个方面都比中国强大的日本正在变得更强大,并肯定了其为保护该地区的民主秩序和国际法作出贡献的能力和意愿。
但世界和我们最大的疑虑是中国可能会发生什么。中国共产党政权选择了不顾人类和环境的狂野增长模式,为一场重大危机积累了足够的矛盾。近年来,在世界陷入经济危机的同时,中国通过增加信贷和公共成本来掩盖自己的困境,以维持伪造的增长。这种冒险政策可能会暂时推迟危机,但只会在不再拖延的情况下使危机更加严重。中国的危机迹象越来越明显,这场危机可能非常悲惨,持续很长时间,甚至可能导致中国陷入破乱。另一方面,对民主的渴望在中国人民中已经逐渐成熟,不能保证在强制性转型之后,中国将在目前的领土和人口中保存,并在民主方面不能再拖延太久了。因为到目前为止,中国的统一仅靠暴力维持。世界可能不需要担心中国会在尴尬的情况下发动战争来解决内部矛盾。由于其结构和历史证明,中国只有在拥有实力时才具有侵略性,而不是在遇到困境时才具有侵略性。可是,由于人口众多,中国的一切悲剧也是世界的悲剧。越南更容易受到影响,因为我国靠近中国,并且在许多方面都依赖中国。此外,我们自己也有发生重大危机的风险。
如果中国是一个担忧,那么日本正日益成为一个确保。日本已经完成了从传统日本社会到真正先进日本社会的也艰难也强制性的转变,与西方先进国家的生活方式和价值观保持一致。这种转变使日本困惑了近三十年,因为它不得不修正从生产结构到劳资关系的整个社会模式,以取代以“努力,生产和出口”为基础的经济转成了创新和优质的经济,从应用现代技术到发明新进技术。但是日本成功了,今天日本是一个真正,稳定和自信的民主国家,摆脱了危机,在文化科学和技术方面处于世界领先地位。日本在外交政策上越来越果断和大胆,以承担美国在太平洋地区平等盟友的角色,为确保该地区的民主,和平与合作做出了贡献。
日本的新力量强化了亚太地区日益猛烈的民主趋势。韩国和台湾这两个地区的民主先驱已成为先进国家。随着民主缅甸的转变成为东盟的共识,越南共产党政制成为该联盟中唯一的反民主国家,如果不及时适应,它将很快被孤立。
此外,印度是当今人口最多的民主国家,并且即将成为世界上人口最多的国家,印度的强劲崛起。印度正在增加其在全球和该地区的影响力。这种现有激发了民主倾向,只能有利于和平与合作。
三、全球化运动威胁着一切国家
需要适当意识到的现象是国家观念的全球性退化。许多国家在没有外国入侵的情况下被破裂,像许多非洲国家一样在混乱中被破裂,或者被分解为小国,如捷克斯洛伐克,南斯拉夫和埃塞俄比亚等。加拿大,英国和比利时等许多民主和繁荣国家的完整性也或多或少受到威胁。
民族国家观念正从四面六方被攻击。从外部看,由于区域性结合而产生的外部承诺比国家空间更大的活动空间;从内部看,由于要求自治的族裔社区而产生;以及从外内部看,由于跨国公司和交流的频仍和加速而产生。现代交通和通讯也使地球变小,使人们亲近在一起。
当前的压倒性趋势是全球化趋势。资本不再有国家范围。大公司在世界各地寻找投资机会,并在全球范围内制定生产,营销和分销计划。为了奋发寻找更大的权重和业务范围,诸公司越来越多地合并在一起,以创建具有出色地位的众综合体。许多综合体的生产总和大于许多国家的总产量加起来还要多。在一个和平的世界里,经济力量本身就是最重要的力量,但它也可能侵入政治力量。大型跨国公司的出现对国家和国家观念本身都是一个日益严峻的挑战。贸易规则正在迅速商定并适用于世界。人权日益被认为是普遍的,被视为国际法的第一步,并置于各国法律之上。通讯网络,特别是互联网网络,允许彼此远离的人们可以直接交流和工作。一个人可以在他居住的半个地球之外的机构工作。距离正在消失。虚拟存在正在变得真实,并且与现身的存在一样有效。公民可以永久居住在外国,并可以作为本国公民常期和定期地为其国家服务。整个“虚拟世界”的重要性迅速增长而形成。现在,通过互联网在这个虚拟世界中进行文化,科技,金融和商业交流非常重要的。在不远的将来,这个虚拟世界将压倒现实世界,使现实世界成为其表现形式之一。
这一伟大的转变——本质上是可喜的——在成为一个国家的公民之前,日益将每个人变成世界的人。国家观念是相对的,国家不再是神圣的终极,而是为民族和在民族中每个人而建立幸福的条件。在当前和即将到来的世界背景下,一个不被视为情感,共识,共同的未来预案和连带空间的国家将无法长期存在。一个不保证安全和尊严,不为其人民带来福利和自豪感的国家将不可避免地解体,如果将其国界视为阻止进步价值观的堵墙并为暴政集团提供安全的专行区,它就会更快,更悲惨地解体。在这个新时代,我们需要意识到,缺乏文化,缺乏远见的统治集团是国家存亡的祸害。暴虐的独裁政权杀害国家,它们越恶坏越残酷,则它们杀害国家的速度就越快。
四、意识形态联盟让位于发展合作
共产主义的崩灭结束了意识形态的争论。民主和人权已被视为普遍的价值观,即使其余的独裁政权也只是尴尬地争论以拖延而不是否认。因此,意识形态联盟不再存在。相反,出现了越来越多的合作联盟,最突出的是区域结合。世界正逐渐被划分为几个大的地理集合体,在这些集合体中,各国在与世界其他地区的比赛中既相互竞争又相互依赖。在这些集合体中,国家边界,关税壁垒越来越模糊;人员,货物和思想的流动越来越容易。外交和外贸之间的边界越来越难以界定。各国根据地理,宗教,语言,生产相似性等所有原因寻找所有机会,以加强邦交,建立合作关系,结成联盟。在当今世界,与世隔绝就是死亡。不愿意或不能参与或利用这些伙伴关系的国家被认为是绝望的,因为它们被排除在一个相互关联的世界之外。这些结合的一般规则越来越多地包括尊重民主价值观,例如正确和受尊重的法律,独立的工会,国家不干涉公司治理,信息自由,行动自由,明白度,公司之间的公平竞争等。这些结合隐含地强加了民主秩序。随着实用主义的破产,参与和操纵这些合作联盟的能力将越来越取决于对人类普遍价值观的尊重和表达。余下的暴政将日益被孤立。
五、不发达国家与新的世界背景
崛起或灭亡是落后国家的命运。不了解这一点的进展缓慢的国家肯定无法生存。崛起是至关重要的,但也是充满荆棘和陷阱的道路。
我们可以预见,在进入各个方面的竞争之前,世界将经历一个相当长的过渡期,一般来说,新开放的国家将生产大部分商品,物品和半成品等,而高度发达的国家则提供大部分资本,服务,高质量的商品和生产设备等。因此,对于开放程度较低的国家来说,几十年后,最激烈的竞争将是它们之间的竞争。对于最不开放或无法迅速适应局势的国家来说,这种竞争将非常险难。
第一个险难是对投资的激烈竞争,这可能使穷国成为人质和大型跨国公司的受害者。总会有一些国家接受更宽松的条件来利用投资资本:低工资,艰苦和无保障的劳动条件,宽松的环境标准等等。
情况变得更加险难,由于自动化,微电子和信息学等产业的巨大进步正在导致自动化趋势越来越高,使得廉价劳动力不再是一个本身足以说服吸引投资的因素;开放程度较低的国家正在把一种战略利器丟掉。因此,在2008年开始但尚未完全结束的最近危机之后,富强国家一方面尽一切努力将投资来源留在本国,另一方面,限制进口和平衡贸易。稳定政治,非腐败政府、诚信人民,和平社会,安全秩序,简单法律,温和税收,有利地理条件,庞大消费市场,熟练和有效的人力资源等是争取国际投资的战略利器。这些通常是开放程度较低的国家难以满足的因素。在这种困难的条件下,必须以最公正的方式分享所要求的牺牲,国家必须被人民视为一种情感,一个连带的空间和一个共同的未来预案,方才能被接受。否则,在教育和培训方面需要最昂贵投资的最精英分子将寻求向发达国家移民。如此,前提是要有真正爱国,有才华,有道德,知识渊博和有远见,具有深厚的民族感情并能够说服人民接受必要努力的领导层,即比发达国家的领导层更有能力。
反之,新的世界背境也具有开放程度较低的国家可以利用的优势:
其一,由于意识形态联盟,无论是公开的还是变相的独裁政体都将不再受到滋养,并将被淘汰。即使经过一段时间的摸索,人民也将被解开,更多的活力将被释放,国家也将得到更合理的治理。从现在起,他们将拥有使许多民族超越世界其他地区的主要武器:民主。独裁政体的淘汰对进展缓慢的国家来说是巨大的祝福。经验表明,一切独裁政体都是有毒的。独裁政权以优先发展经济,维护纪律和秩序为伎俩,只是腐败和滥权的藏身之处,允许流氓和堕落的集团控制人民,阻止一切进步,腐蚀国家。消除暴政比以前容易得多,但这也是落后民族在这场生存斗争中必须迅速做的事情。
其二,经济已成为所有国家的头等大事。在这个地位不断变化的世界中,富强国家之间的激烈竞争也导致大公司和开放国家寻找新的市场和新的投资机会。开放程度较低的国家,如果知道如何创造稳定的社会环境,有利的经济条件,如不受到指控和孤立,将能够找到非常有益的合作来源。
其三,由于通讯和运输的进步以及地球上人口的增多,世界变得越来越小,所有国家都变得相互连带依存。一种新的意识诞生了,地球是全人类的共同家园。每个国家都感到有必要生活在一个没有威胁的世界中。民族越富裕和发达,就越需要通过为一个和平与稳定的世界作出贡献来确保其成就。因此,无论如何,富强国家也不能让其他国家生活在贫困中。这不仅是人道主义的义务,而且是紧密联带的义务。一个具体的例子是自然环境问题。切尔诺贝利不仅是乌克兰国的灾难。中国的烟囱不仅污染了中国的空间,因此不仅是中国的问题,而且是世界的问题。亚马逊森林的破坏不是巴西国的问题。一个国家水域的污染是许多国家的问题。另一个例子是从穷国到富国的移民运动,这给富强诸国带来了一系列难题。这种连带迫使各国扩大和顺为条件以帮助发展缓慢的国家有机会发展。这种互助虽然主要源于发达国家不想生活在危险世界中的愿望,但也是劣等国家可以利用兴起的机会。
其四,开放民族对幸福和便宜的要求迅速增加,比其经济增长的速度要快一些。工作时间在减少,工资增加,老年人和退休人员的比例越来越高,关于社会,文化,艺术,健康和便宜等的公共支出将增加,从而导致税收增加。当然,新发明将不断出现,以降低成本和提高品质,但在当今的媒体世界中,这些发明如果出现在发达国家,也将很快传播到其他国家。最后,生活水平高的国家的总体趋势仍然是国民总产值的成本,回报率和再投资份额,与发展中国家相比,是不利的差距。在这种情况下,由于对便宜和消费的要求较少,开放程度较低的国家的人民将能够接受更多的牺牲和努力,从而有可能与开放国家进行有效竞争,前提是这些牺牲和努力得到公平分配,以免导致冲突。
叁、越南面临着重大历史转折
我民族(越南)正面临着建国以来最大的挑战之一,但与此同时,解除独裁枷锁、开启民主时代的前景也前所未有。
一、挑战
在有利的国际背景下,我们的处境非常悲惨,越南的未来非常风雨飘摇。
我们错过了起飞。当一个缓慢发展的国家通过融入世界经济而开始崛起时,成败主要在于能否造就一批真正、诚实、知识渊博、有领导力的企业家。一个不争的事实是,所谓的“创新”政策,在经济上开放但在政治上仍然封闭,在绝大多数情况下,它只是创造了通过贿赂权力和非法业务致富的假商人。我们也逐渐失去了年轻人的优势;处于工作年龄的人数已经停止并开始下降。
我们正在走向孤立。虽然原则上我国(越南)与所有国家都有正常关系,并且是东盟和许多地区组合的成员,但以一元论的名义顽固维护极权主义被谴责为犯罪、公然侵犯人权和公民权利、官僚主义和腐败、拒绝必要的兴革、国际交往中的粗鲁行为、日益明显和过度的依赖如果不及时改变方向,对中国的依赖有可能使越南陷入极大的孤立。越南几乎没有参加任何重大合作项目,在重要的国际市场中的存在微不足道。
越南的对外贸易虽然在客观上微不足道,但在国民经济中发挥着压倒性的作用,几乎是国民总产值的两倍,使我们严重依赖世界环境。越南加入国际贸易组织(WTO)后,投资一度强劲增长,为诚实融入世界创造了信心,但很快就稳步下降——由于弹压和贪污加剧,投资者感到失望——而其他国家则不断利用所有举措根据现有优势吸引国际资本。我们把一个大好机会丟掉,正处于严重危机的边缘。
该产业管理不善,但也受到主要来自中国的非法进口货物的非法竞争。大多数生产设备已经过时,包括腐败官员购买的新设备。国有企业被认为是经济活动的主流,被赋予了投资的主要部分,它们也是病态的企业,在大多数情况下,它们是由欺诈和无能的领导人控制的,这些领导人根据派系、贿赂和洗黑钱的标准任命的。
我们在数量和产品上都非常落后。我们今天的人均年产量,2015年,大约只有1500美元,是世界平均水平的15%,也就是七分之一。
在这种情况下,国家财产以极其不公平的方式分配,我们大多数人生活在极端贫困中。国家回报过低,加上不负责任的精神,导致政府放弃教育、基础设施、生产设备,甚至对人民的卫生和健康最起码的关注。教育和培训,如此崩溃,完全没有能力为青年在与世界的竞争中做好准备。绝大多数越南医院的状况是一种耻辱和犯罪。
必须直视现实,认清一个令人心碎的现状:我们是一个失败和陷入僵局的国家。虽然我们是世界第十四人口大国,但我们没有一项科技成果,没有一项发明,没有一家具有国际地位的公司,没有一流文学艺术作品,甚至没有一项体育成就为世界所知等。我们现在是一个微不足道的国家。越南人不仅贫穷,而且没有理由自豪。我们也是世界上最后一个仍然遭受极权主义枷锁和基本人权被剥夺的人民之一,例如言论自由、结社自由、选举和被选举权,包括土地所有权。数以百万计的上访者被掠夺了土地,他们的生活在愤怒中。
由于长期和灾难性的内战,我们的人性社会材料已经被撕裂,我们还没有完全意识到后果,由于这些战争所产生的不容忍和仇恨精神,由于共产党的歧视性政策,由于贫富差距太明显,由于人民对所有社会的基本价值观的全面怀疑,由于对作为占领军统治的残暴政府的无可奈何的怨恨而更加撕裂。
与此同时,国家最宝贵的资源——人——也在惨烈地退化。人们的健康因缺乏营养、药物和护理而恶化。危险的传染病在没有任何预防措施的情况下以惊人的速度传播。青少年大量辍学。随着教育系统的悲惨恶化,民族智力急剧下降。毒瘾、卖淫和抢劫正在增加。腐败社会中的艰难生活使人们越来越远离所有国家必须具备的基本价值观:道德、诚实、诚实、勤奋、纪律等等。谎言、欺诈、粗鲁等在社会关系中成为家常便饭。
在这种黑暗的情况下,有三个特别严重和紧迫的危险。
首先是贪污。人民和政府都同意腐化是国家问题,是摧毁国家的内部侵略者,但也许我们并没有充分意识到它的毒性,社会有一种倾向,接受它作为一种命运来生活。它正在成为一种规则并定制。但不能容忍腐败。它毁了一切。它把不称职的人放在重要岗位上,把大项目交给奸诈的利益集团。它损害了市场规则,庸俗化了人,把社会关系变成了虚张声势的竞赛。它抛弃了知识、研究和创造。它使每一个公共和私人的项目和计划都变得毫无意义和无用。它破坏了环境和基础设施,因为它掩盖了污染,允许欺诈性的建设和维护。一个例子是越南中部高地铝土矿项目和大规模建设核反应堆的决定;这两个项目都是不经济的,也威胁到国家的生命,但仍然被强加,因为它对贪污的领导层有很大的好处。另一个例子是道路和桥梁系统的迅速恶化,尽管它是不久前建造的。它威胁到国家安全,因为如果金钱可以买到一切,那么国家机器中的许多高级官员实际上是外国内部人员也就不足为奇了。在我国目前的水平上,它既使国家崩灭,又威胁到安全和主权,使国家和民族观念失去意义。如果不加以制止,它将很快摧毁这个国家。
第二个严重的危害是环境。几十年来,我们不断目睹我国(越南)历史上极其严重的悲剧:国家基础的迅速破坏。林木被砍伐,海岸、河流和水脉被严重污染,本国变得贫瘠,干旱接着洪水。水不能再喝了,空气不能再呼吸了。更不用说堆积如山的臭气熏天的垃圾,停滞不前的下水道。街上的城里人不得不戴着口罩,彼此变得陌生。污染已经达到了健康破坏的程度,对每个人,尤其是穷人,即大多数人来说都是悲惨的。它还会造成巨大的健康成本,降低劳动生产率,并有可能使游客远离我国,世界抵制我们的食物。这是一个可怕的灾难,必须立即停止。由于每平方公里可居住土地的人口密度为一千人,我们别无选择,只能将清洁环境作为国家的第一要务。境土首先是水土,如果国家境土贫瘠,污染严重到不能再居住,那我们就无话可说了。
该境土不仅遭到破坏,而且还被出售,许多具有战略经济价值的土地落入外国人手中,许多流域森林被长期租借,实际上处于外国控制之下。
第三个严重危险,也是国耻,是对中国的过度依赖。我们现在不再拥有事实上的主权。2013年6月21日的越中联合声明显示,共产党政府签署了许多将越南置于中国控制之下的隐性妥协,例如接受联合油气勘探(实际上是中国在越南专属经济区勘探石油和天然气),以便中国训练和训练越南军官和警察。最严重的是承诺参考中国——即在对外关系中接受中国的指示。越南不再拥有主权。越南人民不能接受。
这种依赖不仅是耻辱的,而且是危险的。自古以来,中国人总是用长辈的眼光看待包括越南在内的邻国,他们认为越南是一个国家。在农民渴望土地的文化中,他们对邻国的传统政策是兼并政策,要么是暴力,要么是移民。因此,接受对中国的依赖也是接受合并,这是我们的祖先几千年来为保卫国家而流了这么多血腥骨头。
“摆脱中国”也是我国(越南)崛起的强制性条件。我们需要摆脱儒家文化,这是我们与中国人和试图恢复的中国当局几千年来共有的一种奴役和智力异化的文化。我们在世界上有很多东西要学,但所有这些东西我们只能与其他民族一起正确、彻底和迅速地学习。中国和我们一样,但比我们更发达,我们生产的一切,他们都有,但更多更便宜。这就是为什么越南现在在很多方面已经成为贴着越南制造标签的中国商品的出口港口,并使对华贸易逆差越来越大的原因。
毕竟,中国越来越孤立。依赖中国意味着与中国一起被孤立的风险,加入跨太平洋合作集团将非常困难,甚至可能在东盟内部被孤立。世界越来越认识到中国是一个必须防范的危险。这种遏制政策将有可能使中国陷入衰退,因为中国经济严重依赖对外贸易。另一方面,经济增长是北京政权的唯一理由,经济放缓也意味着政权会摇摆不定。不管我们喜不喜欢,中国都将不再是归依处。
总之来说,国家处于危险之中,但政府并没有千方百计拯救国家,只是为了以一种被世界谴责为犯罪的主义的名义不惜一切代价保住权力。与人类并被越南人民视为当前悲惨局势的原因。共产主义国家在各个方面、各个领域都失败了,但作为对人民的挑战继续执政,不仅如此,还肯定了其无限期保持政治垄断的决心。2013年宪法规定武装部队必须绝对忠于越南共产党,在越南国家之前,这种傲慢达到了顶峰。共产主义政权因此是对人民的日常挑衅和灾难。那场灾难拖得太久,让人无助、厌烦,不仅痛恨政府,也逐渐失去对国家的信任。每个人都扭动着寻找个人问题的个人答案。今天许多越南人的梦想是离开越南,成为另一个国家的公民。国家逐渐失去了对强盗和歹徒的暴力垄断,并因走私和腐败而日益失去对税收的垄断。我们正朝着民族解体的方向迈进。我们必须发出警报。如果这种势头持续下去,民族观念有时会失去所有内容,分裂和自治的意图会出现和增长,外国势力会越来越多地支配我们,在一个民族观念受到质疑的世界里。国家本身的存亡越来越不确定。
亡国的祸殃从未像现在这样大。亡国是因为失去主权、失去民族认同,尤其是因为对瞬息万变的世界的适应缓慢。亡国的情景是自卑,主权和人权的缺乏,使越南的观念逐渐失去内容,变得乏味,意志和自豪感使越南人民逐渐消散,国家在真正消散之前在民心中消散。
二、展望
国家的处境虽然危险,但并不绝望。民主已经接近尾声,一旦国家有了民主,我们仍然有良好的基础,可以而且应该充分用于复兴。
我们拥有全国统一的语言,一种易于学习且足以承载所有文化、科学和技术知识的语言。我们也不会被压倒性的宗教所困扰。
我们有相当多的人口,近一亿人。虽然人口众多是提高生活水平的主要障碍,但由于我国的重要地位和越南人民勤劳高于平均水平,这也是一种力量。过去,我们已经展示了我们快速吸收最新科学和技术的能力;越南学生在世界各国的许多艰难的招聘比赛中取得了巨大而圆满的成功;越南工人很快学会了这个职业,并受到高度赞赏。撤离到国外的越南人也表现出极好的适应全新生活条件的能力。可以说,我们是一个相当精英的民族。这样的资本,即使被侵蚀——实际上已经衰落——也不可能在一两代人的时间内完全消失。如果找到一个合理的社会组织,越南人民就能恢复。而一旦越南人民康复,我们将拥有非常强大的人力资源。在努力崛起的过程中,当国家有民主可以合理组织的时候,我们也可以挖掘数百万大学和学院毕业但尚未获得机会的年轻人的巨大潜力,做出贡献的机会。虽然青年不再是越南的优势,但年轻且训练有素的人力资源仍然非常丰富。
在艰难的历史进程中,越南人民表达了保卫国家共同生活、建设越南共同未来的殷切愿望。越南人民的爱国主义虽然因为失望和沮丧而下降,但仍然能恢复。越南人民表现出非凡的活力,克服了许多艰巨的挑战。如果我们知道如何及时冷静下来,我们仍然有足够的力量克服今天的挑战并崛起。
我们有一个有利的地理位置。我们的土地虽然狭窄但肥沃,我们的农业如果经营得当,不仅能够为人民生产足够的粮食,而且能够出口。我们的海岸线漫长而美丽,我国紧邻许多重要的交通轴线,位于一个蓬勃发展的地区的中间,具有成为世界主要战略经济中心的所有前景。在旅游、工业和商业方面,我们拥有一个巨大国家的潜力。包括东南亚国家在内的世界各地涌动的民主浪潮也是一个新的积极因素,创造了一个日益健康文明的环境,对所有越南人民产生了激励作用。
我们生活在一个充满希望的思想转变中。肆虐国家的激烈战争让越南人民意识到暴力的危害。我们已经达成共识,即和平是所有价值中最宝贵的价值,内战是所有祸害中最大的祸害。历代奸诈独裁的经历,也给了我们对自由民主的强烈信念。我们也结束了关于经济模式的争论,认为只有以竞争和个人主动性为基础的市场经济才能成功。对一个暴力政府的普遍愤慨也起到了使我们忘记过去冲突的作用,明白有必要相互调解,团结起来共同解除独裁枷锁,解决共同问题,建设共同未来。我们也在头脑中、心中、皮肤中、肉体中了解了仇恨和分裂的悲惨后果。在许多基本点上,越南智慧已经开放。
我们之所以坚信不疑,最重要的原因是,几乎所有的问题,包括最严重的问题,都是本不该有的问题。它们都是共产党政权拥有的,因此一旦共产党政权结束,就会很快得到解决。
所以我们的核心问题是结束这个政权。但即使是这个棘手的问题也改变了参数。
共产党已经分裂了。它不再是凝聚党员的共同理想。此外,腐化、无能和无德也引起了全党甚至最高层的嫉妒和蔑视。政治局不再拥有最高领导权,因为它与中央执行委员会发生冲突,中央执行委员会是一个非常常设的机构,拥有任命和惩戒各级领导的最终权力。共产主义只是一个虚构。政权就像一艘没有船员的船,正在从政党独裁向个人独裁转变。这种转变是在非常不利的条件下发生的:党极度分裂,人民憎恨而没有一个有声望的人物。只能导致崩溃的情况。在亚洲历史上,政权垮台通常有两个主要原因。第一,直到与西方接触,因为统治者过度掠夺,尤其是从人民那里掠夺土地;第二,在与西方接触之后,因为政权顽固地奉行一种过时的意识形态。越南共产党政权同时具备这两个要素。它不可能存在。
这种制度之所以延续至今,有两个原因:
第一个原因是,大国,尤其是美国,自上世纪90年代中期以来近二十年所奉行的实用主义,纵容了剩余的独裁国家,尤其是中国和越南。但实用主义破产了,遭到了冷落,民主和人权价值获得了必须优先的立足点。
第二个原因,也是主要原因,是越南知识分子没有承担起引导群众的职能和责任。由于他们的文化和历史底蕴,他们要么缺乏痛的心,要么缺乏知的智慧,要么缺乏敢于斗争的勇气,要么过于看重所赋予的地位和权利。但旧的知识分子阶层已经过去,越来越多的新知识分子阶层已经加入,其中包括越南历史上从未有过的知识分子:政治知识分子。这些年轻人比老一辈人知识渊博,对共产主义和政权不再抱有任何幻想。他们不再努力寻找改善政权的方法,而是明确明白必须结束它。他们敢于做,决心做,知道如何做,并发现他们必须在一个团队中一起做;他们明白,政治斗争永远不是个人斗争,而必须始终是有组织的斗争。这个国家即将改变,因为它脱胎换骨了。
至目前为止,专制独裁政权的一个共同特点是,它们通常表现得非常稳固,直到突然崩灭。原因是他们的顽固和暴力需要一个断点,在那里量变已经积累到足以产生质变。由于新的民主浪潮,由于新的政治知识分子的出现越来越多,以及越来越明显的意识,特别是在警察和军队中,政权不能再持续下去,每个人都应该做出贡献,而不是帮助阻碍民主进程,成为必要的、必须的和即将到来的转变的代理人而不是受害者。民主任期可能非常接近。尤其是民主人士懂得以纯洁大度的情怀,以合理的斗争方式,以正确的预案,争取人民的信任和响应,重做、推进国家。
肆、民主纪元的思想基础
概主义和意识形态的时代结束了。从今以后,再也没有不能重置的真理了。然而,每个时期的政治集会仍然需要就一些基本判断达成共识。
在需要多样化和复杂的政策和措施来适应形势的巨大变化中,人们需要掌握根本选择,即什么是不变的,并解释措施和政策的原因。这是国家不迷失方向、人民了解并自觉为国家活动做出贡献的条件。我们是一个幅员辽阔的民族,要面对那么多严峻、棘手和紧迫的问题,我们的工作无疑是十分复杂的。正是这种复杂性要求政治组织确定理论选择,理论不是从意识形态或意识形态的意义上理解的,也不是具有理论结构的理论。复杂的理论,而是在相当长的时期内被认为是正确的、作为政策和措施基础的简单意见。
多元民主集合会的基本共识包括以下五点:国家必须被视为一种情感、一个共同的空间和一个共同的未来;越南的政治制度是多元民主;努力重建国家的指导精神是民族调解与和谐;越南社会组织必须真正表达进步的价值观;努力发展经济必须建立在市场经济和个人主动性的基础上。
一、国家:连带的空间和共同的未来预案
我越南国自古以来就形成了,有两千多年的历史。然而,就像所有其他国家一样,我们直到最近才知道国家的概念,即每个人都拥有的实体。原因是,国家概念本身也是一个非常新的概念,它与民主一起诞生。
在民主的概念出现之前,王国是一个君王的王国。领土和人民归君王所有,并置于君王的绝对和专属决策权之下。土地和人民可以根据君王之间的转让随意易手。在这种情况下,不可能有真正的国家。对祖先和熟悉的人的土地的天然依恋还不是民族精神或爱国主义。人民对国家没有任何权威,对国家也没有任何责任。民主意识将王国变成了国家,并成为国家或政府的基础,民有、民治、民享。
与随着时间的推移逐渐形成的王国不同,国家是一个由领土、政府、历史文化遗产和依附于该领土、接受该政府、分享该历史文化遗产以及最重要的是接受建设和分享共同未来的平等人民组成的实体。国家高于人民,属于众人。
伴随着国家作为众人的整体,也是每个人的整体的概念,出现了一种社区意识,每个人都不能完全解决自己的所有个人问题,相反,每个人的成败取决于每个人都有义务、权利和权力为保护和促进做出贡献的国家。这种社区意识反过来又创造了爱国主义,一种对亲人的爱,陪伴他们并与他们一起奋斗。这种爱国主义不能与狭隘民族主义的排外精神同化。
以国家观念为基础的民主国家,是17、18世纪人类最伟大的进步。这些国家——因为这些国家的组织是为了鼓励和接受人民的自由和自愿的响应,所以释放了全体人民的活力、意见和主动性,推动了所有科学、技术、哲学、文化和艺术等的进步,使西方国家远远超过了世界其他国家。往深里说,促使西方国家突然崛起的主要原因是国家观念的发现。
比许多其他民族幸运的是,由于特殊的地理条件,越南人有着长期稳定的共同生活传统。我们古老的陆地北部,北面和西面都被密密麻麻的悬崖所覆盖,而东面则背靠大海。由于这种孤立,我们的边界和人文结构几个世纪以来没有太大变化。因此,社区意识和对祖国的依恋非常高,能够成为非常强烈的民族和民族意识的基础。但是,由于缺乏政治意识形态,我们只是很晚才知道国家的概念,作为一个全体人民的整体。我们只有在外国主导的时候才知道国家的概念。从那时起,我们一直遭受战争——主要是内战——和独裁统治。我们从来没有民主这个民族和民族的根本要素,所以我们没有建立一个真正的国家,也没有发挥一个民族的真正力量。
如果说国家——民族已经是欧美国家强大和繁荣的原因,那么它们的缺席也解释了包括我们在内的许多国家的逊色和苦难。
强大而有益的国家,因为它们是正确构思的。民族是人民的,高于一切。国家,或政府,只有为国家服务的使命,因此必须在国家内部和国家之下。国家不是目的,而是工具,因此只需要在真正必要的水平上建立和维护。国家是目的,国家首先是自由平等的公民的集体。
国家没有自己的利益,只知道民族的利益,而民族的利益是全体人民对自由表达的个人意见作出正确总结后规定的。基本上,国家-国家是实现共识以建立自由人共同未来的工具。这就是为什么国家一方面鼓励每个人的贡献,另一方面确保每个人都能最大限度地发挥自己的能力,为共同福利做出最大贡献。
我们和许多其他不幸的国家一样,处于劣势,因为我们没有这样的国家。相比之下,到目前为止,我们只有一个统治集团而不是所有人的国家。那些国家有自己的利益,只知道自己的利益,所以他们只有不惜一切代价保住自己的权力,即使他们不得不给国家造成巨大的不利影响。这些是控制而不是服务民族的国家,将人民视为控制和使用的对象而不是保护和服务的对象的国家。
我们现在面临着特别严重的情况,因为我们还没有建立一个真正的国家,而国家的概念正在被重新审视和超越。因此,我们必须迅速建设一个真正意义上的国家,并与未来保持同步,这意味着在它必须拥有的意义上及时建设越南国家。
由于交通工具和通讯的爆炸式增长,同时伴随着交流的密集和新思想的扩张,民族民族精神的传统构成要素的相对分量发生了变化。
亲近中的安心感、对陌生者陌生人的恐惧感、血缘关系、对历史和传统文化的依恋感、对熟悉土地的依恋感、与具有相同习俗和生活方式的人交流的舒适感等。在一个允许地球两端的人们之间直接和即时的交流,包括共同工作的世界中,所有这些都变得不重要,并且越来越不重要,在这个世界中,人们每天都在移动和接触各种信息、图像和观点。地球已经是全人类共同的小家园,个人幸福成为最高价值。促成民族民族精神生成的传统情感越来越显露出其保守性和狭隘性。
另一方面,国家的作用和立足点也受到来自各方的破坏。从外部来看,随着区域组合创造了更大的活动空间,从内部来看,由于个人和种族社区的需求,以及由于跨国公司的迅速扩张而从内部和外部来看,跨国公司的作用和分量正在增加。
在这种背景下,将人们与国家联系在一起的原因当然必须改变,而且实际上已经改变。人们只因至少三个原因之一而与国家联系在一起:因为国家为他们提供了特殊的保护和利益,因为国家以简单的方式为他们提供了良好的自豪感。简单,因为国家是咱们的。
在构成国家的要素中,领土不再具有绝对价值,人们无论生活在哪里都可以爱国,为国家做出贡献。历史、文化和语言遗产的重要性也有所下降。政府也不重要。人们必须无条件地服从、尊重和服务的神圣祖国的概念更加过时。剩下的人和共同的未来预案,这两个国家的组成部分,其重要性正在增加。
因此,一个国家只有不是被想象成一个种族或过去,而是被想象成一个相互理解、相互尊重、相互合作以建设和分享共同未来的人之间的连带相互空间,才能存在。这样的国家主要是一个民间社会,有它的记忆,有它的问题,有它的未来计划。国家在国家内部和国家以下,以服务国家为使命,因此国家具有服务而不是控制公民社会的作用。
这样理解的国家仍然有能力将越南人民联系在一起,对每个人来说仍然是必不可少的,也是一个良好的合作环境。这个国家将使每个人受益,因为它将是每个人的自然发展环境。这个国家将成为支持我们所有人建立生活的源泉,同时联合建立共同的自豪感和增加共同的福利。那个国家也将成为每个人幸福和完整的情感支持。那个国家必须属于人民,而不是任何势力或政党。
这就是多元民主集团对越南的看法。多元民主政体的信念是,只有这样的民族观念才能让所有越南人有理由爱国,共同建设国家,即让越南生存和崛起。
二、多元化民主
为了摆脱目前的僵局,融入进步世界,能够有效调动所有民族力量,努力在国际社会中找到有价值的立足点,越南除了多元民主制度之外别无政治选择。
多元化民主不仅是越南的明显选择,也是世界的必然方向。
20世纪最激烈的争论是关于民主的争论。全世界有数千万人因这场争论引发的冲突而丧生。核心问题是如何让人民决定国家的命运,已经提出并检验了许多公式。
这场争论现在已经结束了。马列主义及其倡导的“社会主义民主”模式彻底瓦解。其余的共产主义政权只是纯粹的暴政独裁。以个人自由为基础的民主模式在理论上取得了胜利,在实践中也取得了胜利。民主国家的数量已经不堪重负,而且正在迅速增加。
许多人说,世界上大多数人民已经接受的西式民主是正确的,自然是多元的。这部分是正确的,但“多元化民主”这句话有其特殊的意义,尤其是对当前时期的越南人来说。它道出了一种精神、一种态度、一种理想。那种精神是一种宽容和宽容的精神,尊重每个人和所有意见。这种态度是对一切形式的独裁专政的直截了当的拒绝,包括,尤其是被称为“集权民主”或“社会主义民主”的虚张声势地“民主”,赋予一个国家和一个领导集团独特的地位。这个理想是建立一个为所有人都拥有有价值和平等地位的越南的理想。
如果不平等地看待所有趋势,多党就不是多元主义。在最专制和最教条的日子里,越南共产党政权有时有三四个政党,但这并不是它多元化的原因。多党只是多元化的必要因素,但不是充分的因素。多元是一种精神,而多党只是一种数字。
在与共产主义运动的英勇斗争中,西方国家做出了一个非常大胆的决定,不是拘泥于僵化的自卫纪律,而是最大限度地发展民主,最大胆的是尊重社会的所有差异,他们逐渐走向多元化民主。然而,许多西方资本主义制度并不是真正的多元民主国家。西方国家处于不同程度的多元化。
多元化民主是多元哲学在政治生活中的整合和运用。多元主义哲学的基础是宽容精神,承认和尊重社会中的所有差异。当然,多元存在于每个社会中,如果你想找借口,每个社会都是多元的,但独特的是多元哲学而不是将不同元素的存在视为必须的现实。承认和克服,并将其视为自然,需要鼓励和利用的丰富性。这是一种政治生活方式。多元化民主是民主,但不是所有的民主都是多元化民主。
多元化民主是一种新的政治制度,有其强制性的特点。我们可以强调五个特点:
其一,多元化民主承认并尊重所有社会背景、所有族裔、所有信仰和所有政治倾向的人的平等立足点和发言权。多元化民主谴责一切歧视,它强烈反对一党专政。具体而言,多元化民主制度的宪法不能包含任何政党、主义或宗教的提法。
其二,除了所有名副其实的民主都必须具有分权原则外,多元化民主要求散权以尊重地方差异。一个自由选举产生的政府,如果大部分权力集中在中央政府手中,就不是多元化民主的。在一个多元化的民主机构中,地方政府由当地人民选举产生,必须有广泛的法定权利,根据每个地区的具体情况组织生活。每个地区都必须有足够的面积和人口,才能成为足以自我管理和发展的实体。这样一些冲突的原因就会自然而然地得到解决。少数民族将在他们大量聚集的地方拥有相当大的发言权。在全国选举中没有获得多数席位的政党仍然可以在他们信任的地方掌权。多元化民主缓解了中央和地方两级的政府与反对派之间的紧张关系,消除了“胜者为王,败者为寇”的冲突。权力分散导致中央政府不直接统治,而只负责国防、外交、货币和地方协调任务的论点。中央政府的另一个作用是在全国范围内开展基础设施建设,并协助值得鼓励的地方方案。
其三,多元化民主奠定了公民社会的基础。除了政党、民族、地方和宗教社区外,公民协会还根据职业、利益、人生观、愿望、关切等组织起来。独立于政府运作,被视为重要的立足点,在日常生活和社会演变中拥有发言权和影响力。国家认为自己肩负着服务民间社会的使命,而不是控制民间社会,也不是代表民间社会决定日常活动。在经济上,这意味着国家经济必须把基础放在私营企业上,国有部门必须限制在最低限度,如果没有就更好。强大和多样化的民间社会是社会永久、自然和持续转型的最可靠保证,避免突然和破坏性的革命动荡。
其四,多元化民主尊重少数群体,总是寻求妥协。在一个多元化的民主制度中,少数服从多数的原则不是自动和机械地使用的,而是在尽一切努力达成共识后才使用的。多元化民主反对一切形式的专政,包括多数人的专政。在民主制度中,一个政府的合法性通常基于最终选举的结果,但在多元民主制度中,一个政府的合法性也取决于在所有重要决定中寻求共识的诚意。
其五,多元化民主本质上尊重民族的所有组成部分,不接受牺牲一个组成部分,不能允许一个组成部分剥削和践踏另一个组成部分。因此,多元化民主非常重视社会连带力,不能与俗称的“森林资本”齐头并进。社会连带也是培育和加强民族精神的必要条件,因为在生活水平、生活方式、利益和社会地位如此不同的人之间,同胞情谊最多只是一种理论。
消除一切差异、平摊、平分意义上理解的绝对社会公平,既不可能也不应该。可能的和必须的是一项社会联合政策,确保每个人在法律面前平等和平等的成功可能性,同时支持弱者或不幸者。
在多元化民主体制中,国家不再是绝对的统帅。国家的作用是承担三项职能:在社会各组成部分之间的关系中进行仲裁、制裁违法行为和调解民族之间相互矛盾的要求。国家调解而不是指挥国家是多元化民主的大胆特征。它将多元化民主与专制政体区分开来,但也使多元化民主与许多民主政体不同,在这些政体中,政府仍然雄心勃勃地代决定为公民社会。
在尊重所有差异的情况下,在由无数共同体、公民协会和企业组成的民间社会的基础作用下,在分散的政治组织下,多元化社会是无数相互联系的极其复杂的组合。这样一个复杂的社会只有在明确、透明和完全适用的法律下才能生存。多元化民主制度中的国家只能是法治国家。任何文明国家都必须是法治国家,但多元民主国家必须是完整的法治国家。法律要得到尊重,就必须是正确的,即由真正由人民选举产生的代表制定,只为共同利益服务;其目的在于规范个人自由在社会生活中的表达。
纵观越南的现实,如果有一件事我们可以肯定,那就是在当前仇恨堆积、信任危机和立场不统一的情况下,不可能强加任何力量,也不可能强加任何没有强烈反对的路线。未来的越南机构必须是一个尊重所有差异的机构,为每个人和每个人提供平等的立足点和发言权。该体制因此被要求成为一个多元化的民主体制。
不能以我国人民民主经验不足、纪律不严、人心分散等为借口。认为民主是越南的奢侈品。那么,我们是否必须暂时接受一定数量的独裁?要回答这个问题,我们只需要将民主国家的成就与共产主义政权的糟糕记录进行比较,看看右翼独裁政权给亚洲、非洲和拉丁美洲国家带来了什么。
但相反,不应误解民主的本质。民主并不能立即解决整个发展问题。任何政权的成功都需要正确的选择和有能力的人。民主不会带来食物和繁荣。民主不是选择和人民的替代品。但民主是一种生活方式,它允许正确地提出问题并正确地选择负责任的人。民主,尤其是多元化民主,也是一种社会组织方式,可以充分促进意见和倡议,这是进步的最基本动力。因此,民主程度决定了发展的上限。民主程度越高,发展的可能性就越大。
反而,独裁政权禁止意见和倡议,阻止社会的和平和持续演变,容忍腐败、不公正和滥用权力,从而阻止发展。我们需要警惕的是,不可能有明智的独裁,因为所有独裁的基础都是一个人或一群人的病态自大,他们认为自己足够聪明,可以代表整个民族思考。他们没有看到问题的复杂,也没有看到自身的浅薄。独裁者首先是个昏昏欲睡的人。此外,如果我们观察,我们可以看到大多数威权集团缺乏文化。
当然,多元化民主不能在糟糕的智力、社会和经济条件下提供其全部福利,但即使在这种情况下,多元化民主也远远超过独裁。
我们坚持:真正和立即的多元化民主。
为了真正的多元化民主,我们首先要做的是消除一个血腥的过去留下的、由一个歧视性政策无时无刻不助长的仇恨。民族调解是历史的必然。只有这样,我们才能相互接受,相互承认错误,相互原谅,才能共同生活,携手共建共同未来。如果不是多元化主义,最多只是由于未完成的力量比较而暂时相互容忍。这种没有民族调解的多元化主义只是病态的多元主义,只是为相互支付做准备。相反,多元化民主也是真正民族调解的必要条件。没有政治多元化的调解也只是虚张声势的调解,是被统治者向统治者屈服的调解,意味着不可能的调解。
我国不仅仅是战争留下的仇恨。还有无数分裂的原因,我们没有解决,因为我们不知道,或者因为情况不允许解决。宗教、地方、民族、贫富、人生观、政见等方面的差异不少,因为没有解决,所以越来越严重。多元化民主,由于其宽容精神和分权模式,是帮助所有民族都有立足点和发言权的解决方案,从而能够相互接受、团结、和谐,共同建设越南的共同未来。
没有人否认多元主义是一个美好的理想,美好到独裁政权,即使因此而苦不堪言,也不敢断然否认。
多元化民主正在成为我国走向未来的基本共识。这也是所有民族的必然方向。为多元化民主而奋斗的人有权为自己追求美好的理想而自豪,也有权为自己为某一必胜的立场而奋斗而乐观。
三、民族调解与和谐
四个多世纪以来,自16世纪初莫氏家族篡位黎氏王朝以来,我国不断从一场战争走向另一场冲突。本国在两个多世纪内多次分裂,被殖民并置于不同的行政制度下近百年。战争、内乱、复仇、怨恨、迫害等等是我们近代史上的永久元素。最激烈的是1945年至1975年的最后一场战争,在这场战争中,我们第一次在意识形态上相互冲突,然后胜利的一方实施了监禁和羞辱政策,以及无数的歧视措施。
由于历史的原因,我们公社的材料受到了严重的破坏。崩溃需要很长时间才能愈合,因此子孙后代所有政策的基本精神必须是民族调解与和谐。民族调解消除过去的仇恨和仇恨,走向民族和谐,努力建设共同的未来。
在当今瞬息万变的世界里,每个国家都受到无休止的干扰。一个行业前进而另一个行业衰退,一个行业扩张而另一个行业停滞不前。社会差距层出不穷,再完善的政策也不可能让所有人都满意。因此,每个国家、每个民族都必须不断调解,因为利益冲突和紧张局势总是发生。调解成为国家治理理念。
无论任何级别和历史,所有民族都必须调解。但越南人民是最需要调解的民族之一。
我们需要使整个民族社区与自开国以来一直在这个国家并在历史上一直受到践踏和排斥的少数民族调解。
我们需要调和宗教,特别是佛教和天主教,这两个宗教一直受到越南和外国统治者的迫害、压制、歧视并对抗。此外,仇恨是两种宗教都是受害者的历史环境的后果,有时会被夸大并用于非法野心。
我们需要调和和调和南北双方,南北双方经常分裂,处于相互竞争的地位,而且自1975年以来一直被一项无异于共产党占领的政策所分裂。
我们需要与海外越南共同体调解,他们不得不离开亲人、财产和祖墓,因为我们不能接受一个严厉的政府,因为海盗、风暴和警察而遭受痛苦和损失。
我们还需要让越南人民与越南国家调解。必须承认,作为越南人到目前为止是一件不幸的事情。国家只是一个牺牲。更有甚者,历任领导集团也以国家的名义犯下了非常严重的罪行。当然,国家不与统治者同化,但仍通过统治者表现出来。因此,当长期以来只有奸诈或暴政的统治者,或者既奸诈又暴政的统治者时,国家形象也会受到损害,爱国主义也会受到损害。让越南人民与越南民族调解是恢复爱国主义所必须做的事情,如果我们仍然希望越南的未来,这是不可或缺的因素。为此,作为国家代表的国家必须是一个谦虚、温和和诚实的国家。越南祖国必须被视为一种爱和共同的未来预案。
但最接近,也是最痛苦的,我们刚刚在一场持续了三十年的战争中互相屠杀。这场战争是一场内战,因为绝大多数倡导者、携带武器的人互相残杀,受害者都是越南人。一场耻辱的内战,因为交战的双方都接受了外国的命令和手段。越南共产党不承认这是内战的事实只会使内战更加激烈,因为他们甚至不承认眼前人民的同胞地位。应该意识到,内战比外国战争更具破坏性,因为除了生命和物质损失外,它还摧毁了民族精神和共同生活的意志,即国家的基础。到目前为止,没有一个民族在内战后的一两代人内恢复正常,即使经过努力调解,即使内战只持续了几年。我们的内战要长得多,还要激烈得多。那些仍在流血而非但没有愈合的伤口,却因随之而来的暴戾对待政策而恶化。
在最近的冲突中,我们没有一个好的选择。我们只是在坏事和我们主观认为更糟的事之间做出了痛苦的选择。我们只是忍受了,而不是控制了事件。很少有越南人真正为他们喜欢的东西而奋斗。在绝大多数情况下,越南人,无论是民族还是共产主义者,都只反对他们认为比他们所站的队伍更糟糕的一方。不能容忍国家政府腐败的人加入了共产主义者的行列,尽管他知道它的暴政性质,但他看到一个国家落入共产主义者手中是一个巨大的灾难,尽管他也厌恶它的坏处,但他加入了共产主义者的行列。兄弟姐妹、亲密的朋友只是因为轻重不同,或者只是被情况推着,甚至被迫,不得不背弃对方,互相残杀,互相开枪打死。因此,除了物质和生命的崩溃,每个越南人心中还有更大的崩溃。然后,有些人输掉了战斗,被监禁和羞辱,有些人意识到他们所有的牺牲都只是为了为摧毁国家的项目做出贡献。没有人有理由指责任何人,我们都遭受了耻辱性的失败。我们都是受害者。我们必须握手,重新创造历史。
摆在我们面前之谜是,一个对国家造成严重破坏的统治集团,在各个方面、各个领域都失败了,但仍然无限期地傲慢地赋予自己对国家的垄断地位,粗暴地压制一切反对的声音,即使是温和的。该组织采取一切措施阻止民族调解与和谐,因为他们知道,只有越南人民因仇恨和分裂而无能为力,才能维持他们的统治。他们不仅没有减轻战争的创伤,而且还扩大了对许多民族的敌意,并将仇恨延伸到刚刚通过政治镇压、民众分类和论资排辈而长大的一代人。
今天,绝大多数越南人民的愿望是民主。回首兄弟,取回朋友必须是一个新的民族聚会的指导精神,其中没有对错,只有平等的兄弟为国家感到难过,在民主运动中团结在一起。民族调解与和谐是孤立和击败顽固独裁集团的核心条件。
但超越一时的兴奋,民族调解与和谐也是打破困扰我们几个世纪,特别是半个世纪以来的仇恨和分裂恶性循环所必需的历史性决裂。这是一个非常艰难的历史突破,因为越南的政治实践中完全缺乏民族调解的概念。近八个世纪以来,自陈朝以来,斩草除根、诛夷三族、铲除一切,仍是统治者代替调解的手段。渐渐地,这种暴力的行为在集体心理中生根发芽,让调解的概念对越南人来说变得陌生。所以很多人说越南人民不需要调解,而我们实际上是最需要调解的人之一。正是由于缺乏调解精神,我们才被禁锢在仇恨之中。这种不公正的循环阻止了我们动员国家的所有力量崛起,并解释了为什么我们不得不永远在贫困和劣势中挣扎。
民族调解与和谐是当前民主运动取得胜利的必要条件,也是明天振兴国家的努力取得成功的必要条件。
实施民族调解不仅仅是一种情绪,还需要采取具体措施。未来的越南国家将把自由人作为最高的服务对象。未来的越南国家将把多元主义视为根本价值。精神、文化、政治、经济和社会等各个方面的多元化。未来的越南国家将严厉制裁对所有民族、所有社区、所有信仰和所有观点的所有侮辱性语言和态度。相反,国家将鼓励和全心全意地帮助所有倡议,努力使所有地区、所有民族、所有宗教、所有观点和政治观点的所有越南人民在精神上更加紧密地联系在一起,尊重所有差异。未来的越南国家将不得不恢复那些被羞辱的人的荣誉,必须赔偿受害者的损害,即使是不完整的,而不会产生新的受害者。消除仇恨意味着不会有政治案件,相反,会有一项法律禁止国家起诉任何人担任的职务,除非他们在任期间严重违反了现行法律。所有公民都有权谴责其所遭受的欺凌,国家将本着民族调解的精神,将此类诉讼作为法律面前平等的公民之间的诉讼处理。
这些措施是为了治愈历史留下的创伤而采取的,将有助于我们逐步走向民族和谐,努力建设和分享越南的共同未来。我们将关闭国家悲伤的历史,开启以民族自爱书写的新历史。民族调解与和谐必须成为我国几代人的坚定政策。
四、接受并坚定地表达进步的价值观
一个进步的社会必须建立在进步价值观的基础上。
西方列国之所以强大并超越世界其他地区,是因为他们的社会奠定了正确的基本价值观的基础。这些价值观是和平、自由、民主、平等、人权、法治、对话、合作、利润、环保和团结等。这些价值观不是西方人独有的,而是已经存在于所有社会和所有文明中。西方国家的优势在于,他们知道如何坚持和充分弘扬这些价值观的很大一部分,作为社会的基础。因此,他们获得了力量和繁荣。在与西方国家的接触中,各国都认识到了自己的劣根性,都在寻求与西方文明的妥协。然而,自然惯性导致大多数国家倾向于只接受西方社会的一部分元素,将其融入其传统,例如学习西方技术,同时保持旧的社会结构。但文明是由相互交织的价值观组成的整体,因此很难将一种文明的一个元素移植到另一种文明中。不能接受西方技术,同时拒绝产生和推动这些技术发展的基本价值观。各国的经验表明,这种半途而废的态度在导致危机之前只会取得有限的成功。俄罗斯虽然从17世纪末就开始了改革,但未能赶上西欧,出现分歧,最终成为共产主义政权,后果不堪设想;日本积累了矛盾,导致了自毁战争。今天,日本已经认识到这个错误,接受了二战以来进步世界的所有价值观,并刚刚完成了为期三十年的结构改革,以使社会适应这些价值观。俄罗斯也将别无选择,目前半民主半黑手党的政权已经开始摇摇欲坠。奉行“中国特色社会主义市场经济”政策和恢复孔教的中国也非常接近危机。
诚实和坚定地接受进步世界的政治、文化和社会价值观是先决条件。因为这样的选择,日本成为了世界领先的大国。一些亚洲国家,如南高丽和台湾,在过去的四十年里,效仿日本的模式也在强劲崛起。接受所有进步的价值观是我们必须做的选择,我们必须坚定地做。在该地区国家的犹豫和犹豫中,这一选择是我们赶上和超越他们的机会。
在这些价值观中,我们最需要的是和平。反对外国侵略的传统逐渐使我们将暴力视为解决冲突的自然方式。我们习惯于向有光荣壮举的英雄致敬,而忽视了默默建设的努力,这是一切进步的基础。从现在开始我们必须诅咒暴力,把和平提升为绝对价值。
让我们不要害怕接受新的价值观,这会让我们把民族魂粹丟掉。这些价值观在每个社会都有,包括我们自己的社会,只是遗憾的是,我们就没有如此充分地宣传它们,以至于像今天这样受尽屈辱和自卑。接受它们并不是否定我们自己,而只是意味着促进我们内在的美好。此外,前进和赶上世界是我们作为一个国家生存并保持我们的文化和民族特性的条件。
在共同价值观的基础上,西方列国根据每个国家的特点建立了许多不同的生活方式。英国社会不同于法国社会,德国文化不同于意大利文化,美国不像瑞典。在新价值观的基础上,日本和许多其他亚洲国家仍然保留着他们的传统。在进步价值观的基础上,越南仍将是越南,但会是一个更光荣的越南。
我们需要一场伟大的思想运动。我们的教育、我们的法律、我们的文化、社会和经济等活动都必须强调和尊重进步的价值观。学校除了以传授知识为核心使命外,还应该是一个以包容精神、责任感、自由客观的思维方式以及对国家、同胞、人类和自然的热爱认识青年的环境。体育运动也将特别努力促进客观头脑、和平竞争精神和尊重法律的精神。这场思想运动是所有努力中最重要的一次,因为这是建立新社会基础的努力。我们不仅要接受,而且要有志于作出补充和巩固普遍价值的贡献。这场思想运动也将帮助我们加强和提升国家急需的一类人,但我们才刚刚开始:政治知识分子,他们投入时间并努力了解国家的问题,敢于发表自己的意见,并愿意付出代价,为我们认为对国家正确的事情而奋斗。他们是群众的引路人,是民族的智慧。正是这种政治知识分子在整个历史进程中的缺位,使我国劣势,从一个错误漂移到另一个悲剧。
五、在民主、市场经济和个人创见的基础上发展国家
我们最痛苦的是落后和贫穷。因此所有国家努力的重点都必须放在发展上,透彻地看待发展问题极为重要。
人类仍有一半生活在贫困之中,近四分之一生活在极端贫困之中。两个世纪前,即使在最发达的国家,超过一半的人口在青春期前死亡。由于我们需要识别和把握一些特殊条件,这种发展在一些国家是一种非常新的现象。
首先,如何理解发展?
发展是一种持续的、持续的变化,可以更有效地利用资源和人力资源,为国家带来越来越大的回报,为人民提供越来越高的物质和精神生活。
发展是一个相对的概念。当一个国家在人均收入、教育、健康、住房和基础设施、经济活动、强大而现代的经济、清洁而优美的生活环境、丰富的交通、信息、学习和娱乐设施方面与世界其他地区相比取得了更高的成就时,它就被认为是发达的。
发展,即使有了上面的定义,也不是一切。一个国家的成功,除了发展,它也是一个事件,人们自愿参与努力建立一个共同的未来,每个人都感到自己是生活的主人,按照自己的意愿生活,在一个没有威胁的社会中受到尊重,享受他们努力的福利,有保障的机会得到公平的晋升,有理由相信明天会比今天好,你孩子的生活会比你自己的生活好。这就是我们想要达到的目标。
发展不仅仅是国民总产值的增加。因此,在教育和卫生系统完善、自然环境得到保护和改善、收入分配相对公平的情况下,国民总产值增长5%的水平必须被评估为比所有文化、社会和环境问题都被忽视的15%增长好得多。一个具体的例子是中国的情况。虽然增长率相当高,但如果转化为恢复成本,对环境造成的破坏甚至更高。贫富差距过大,地区差距越来越令人担忧,还有很大一部分人口成为游牧民,生活在城市的人行道上或郊区的意外集中区。我们不能接受这样的增长。我们寻求和谐与平衡的发展,因为只有这样的发展才能可持续,才值得被视为国家目标。
虽然发展不仅仅是经济发展,但经济发展是最重要的因素,也是实现综合平衡发展的关键。我们是最贫穷和进步最缓慢的民族之一,因此经济发展是我们最紧迫的目标。
需要立即击败灾难性的纥繨。
最大的政治骗局仍然是这样的论点,即一个快速发展的社会需要一个明智的独裁,需要暂停民主建设并牺牲一些基本自由。这个骗局是可怕地哀悼的原因。它在意大利、德国和日本创造和培育了法西斯军国主义政权。它帮助共产主义运动产生、发展和存在。它帮助维持了拉丁美洲和亚洲的前独裁统治。它仍然被包括越南在内的许多其他独裁国家用作理论支持。
这些制度只会带来可怕的结果。意大利、德国和日本的独裁政权积累了冲突,陷入僵局,不得不陷入自毁战争。苏联的共产主义政权破坏了自然资源和环境,折磨了人民,然后崩灭了。所有其他独裁国家都有同样的成就:贫穷、落后和压迫。
事实上,发展是自由和民主的结果。但由于发展本身也促进和促进自由和民主,很容易在错误的忍耐的后果和原因之间产生误解,即暂时接受独裁发展,然后发展就会带来民主。这种误解被独裁集团利用了。
各国人民的经验证明,民主与发展是相辅相成的。
在以民主为基础的社会建立后,欧洲和美国开始出现国家发展的现象。发展的原因是国家在日常生活中的分量减轻了,民主和稳定的宪法得到尊重,法律取代了统治者的任意决定,人民得到尊重和保护,经济按照市场规律运行,商业活动得到尊重,贸易和交流得到促进,意见和倡议得到鼓励和奖励,利润被提升到一个价值。
20世纪初唯一一个赶上西方国家的亚洲国家是日本,它是通过迅速接受西方经济活动而发展起来的。在一个完全脱离群众的傲慢骑士阶级的统治下,一个民主社会在绝大多数日本人中悄然形成,使日本早在18世纪就崛起了,然后从19世纪下半叶开始强势崛起。
意大利法西斯政权和德国纳粹政权在最初取得了一些进展,而日本军国主义政权在几十年内保持了发展,这一事实帮助我们确定了发展的另一个要素,即过去发展中存在的发展:民族共识。当时,这三个民族都对自己的劣势感到愤怒,都有足够有魅力的领导人将他们团结起来共同努力。
亚洲发达国家的经验需要正确看待,因为与一些人的肤浅判断和对独裁政权的狡猾解释相反,这些国家之所以发达,是因为它们比其他落后国家更民主、更自由,尽管它们可能尚未实现完全和真正的民主。
资源丰富的拉丁美洲国家在独裁统治下的落后中挣扎了一个半世纪,直到1980年代才通过民主崛起。
在欧洲,西班牙、葡萄牙和希腊这三个国家,因为与独裁政体纠缠不清,悲剧性地落后了;他们自70年代以来才通过摆脱独裁枷锁而崛起。
即使是最近在中国和越南取得的经济进步也不例外:它们是通过市场经济和更大程度的自由取得的。
各民族的经验证明:民主、私权、市场经济、轻国家是催生经济发展的因素。
但经验表明,同样的因素造成了不同国家经济发展的速度和强度不同,许多自然条件不利的国家比其他国家发展得更强大,也更民主,资源也更丰富。心理和文化因素起了决定性作用。
在观察了各国人民的历史之后,我们也可以用经济理论来处理发展现象。
经济发展需要三个既必要又充分的要素:人们有经商的愿望、会经商、有经商的手段。
为了做生意,人们需要一个有利的心理环境:商业活动受到社会的尊重,意见和倡议受到赞赏,风险接受受到尊重;他们还需要有理由乐观地相信业务将是有利可图的,而且回报将是他们的。换句话说,要做生意,加上乐观的经济环境,商人需要对做生意有利的社会心态和对私有财产的有力保障。这个发展的启动因素解释了为什么共产主义国家因为不尊重私有财产而崩溃。但更重要的是,它解释了为什么由于有利的社会心态,发展现象仅在少数国家存在。
为了能够做生意,企业家需要一个有序和安全的社会,需要法律的保障和行动的自由;他们不能被太多的法规所束缚,不能被一个坚硬的国家计划所束缚,不能缴纳过高的税收,不能被腐化的政府机构所骚扰。我们在这里看到需要一个民主的法治机构,需要一个市场经济而不是计划经济,需要一个轻量级的国家机构。但我们也再次看到了心理因素:道德和善良。贪污也是社会道德败坏的后果。
当然,商务人士也需要手段,即拥有必要的人力资源和必要的能力、良好的基础设施、投资资本和有效的银行信贷系统来调动流动资金。资金投入只是其中一个因素,并不是最重要的因素。资本少则投资少,利润生资本。再说,资本有自己的智慧和逻辑,尤其是在全球化的当下;有利可图的企业就会来到哪里。最重要的是人,老实、善良、熟练和有责任感的人。再次,心理和文化因素是核心。
一般来说,发展需要一个自由和民主的背景,主要是一个文化和心理问题。这就是为什么一些国家尽管资源匮乏,尽管遭到严重破坏,但仍然强势崛起。战败的德国和日本只用了几十年就成为最发达的国家。荷兰人挤在一小块自然资源微薄的土地上,也建设了世界上最繁荣的国家之一。正是由于发展首先是一个文化和心理问题,迄今仅限于少数国家。
要把心理和文化与智慧和知识区分开来。人天生具有同等或接近同等的智力能力,因此通过教育可以达到同等的知识水平。不同的是心理和文化,是社会所珍视和体现的价值观,是进取的头脑,是商业的冒险精神,是责任感,是集体生活中的行为方式。
为了发展,我们需要改变我们的社会和人民。
我们需要一个民主的社会,尊重人民,信任人民,让人民自由决定建设自己的生活。我们需要一个法治国家,有充分的法律,没有太多的程序,我们需要一个市场机制,而不是一个强加的计划。
我们需要自由、负责、诚实、对社区有依恋、进步和效仿的人,而不是嫉妒和破坏。我们需要热爱商业、渴望淳良致富的人。
我们需要一个没有强制力的经济机组。必须允许交易者按照商业和市场的客观规律自由行事。社会连带是一个体面政府的持续关注,但社会连带必须通过税收在国家收入分配阶段进行,而不是直接干预商业运作。
我们还需要一个稳定的法律环境,即宪法和法律,让人们可以安全地建设自己的生活并为未来制定计划,而不必担心规则的突然变化,突然损害我们的商业项目。
但宪法和法律稳定并不意味着政府稳定。在稳定的法律环境中,统治者的频繁更迭并没有阻止警察继续维护安全和秩序,也没有阻止法官继续审判,也没有阻止房屋机器继续运行。可能对经济活动有害的是颠覆一切的革命,以及国家法律和方向的突然变化。
进一步说,我们可以说,没有压倒多数的民主政府可以任意改变法律和政策,也可以确保法律环境的稳定,从而有利于发展。需要一个压倒性的、强大的政府来迅速决定变革,并实施一项国家发展计划。但国家计划是我们应该避免的。国家计划是一个意志的产物,世界时代的残余没有足够的智慧和经验来判断社会需要通过客观的市场规则来决定做什么、做多少以及如何做。经济计划是我们必须消除的发展障碍,我们需要的是国家的方向和每个问题的项目,特别是基础设施建设项目。当然,在困难和发展障碍的情况下,我们需要一个能够决定消除过去瓶颈所必需的选择的政府。但这种温和和民主政府的可能性仍然可以通过说服在一些基本选择上形成共识和支持来实现。
总之,要发展国家,首先是发展经济,我们需要民主制度、法治国家、市场经济活动、真诚尊重意见和个人创见、对人民的坚定信念。该机构将培养创造力、进步精神和责任感。但我们也需要一种重要的文化努力,以尊重进步的价值观,并将这种价值观引入人们的灵魂和反思。这些价值观是和平、自由、民主、人权、平等、法治、合作、利润、连带和环保。
建设多元化民主社会,弘扬进步价值观,我们就会有发展,尤其是经济发展。这是我们的发展理论。我们坚信,这样的社会和这样的价值观,即使想不发展,也是不可能的。反之,一个不民主的社会,或者没有进步的价值观,无论多么想和努力,都不会有发展,或者只有低水平的发展。自然资源和资本投资是次要因素。
在这样的发展理论中,国家的作用主要是维护和平与安全秩序,确保国防和正义,与国际社会建立良好的国家关系,调解和仲裁民间社会的诉讼。国家在经济中的作用将限于三个范围:税收、公共支出和货币量调节。税收,以便国家有预算来履行其职责并确保社会保障和团结。用于建设、维护和改善基础设施、促进和刺激某些职业的公共支出。流通货币量的调整,主要是通过设定基准利率和发行或收回债券,对价格、投资和增长产生直接影响。在所有这三个方面,国家也需要采取一切保留措施,以避免扰乱经济活动。稳定是商业的核心要素。在货币管理方面,我们必须避免政府根据短期政治要求行事的情况,委托一个来自政府但不受政府任意支配的中央银行机构。
再次,发展的需要迫使我们有一个调解和仲裁的国家,让民间社会来处理发展,而不是一个代表民间社会指挥和决定的国家。调解和仲裁在经济活动中的作用迫使国家放弃所有业务职能。国有企业不应该有,或者如果有,应该被认为是在一定时期内没有的限制。在我们的发展理论中,国家不与公民社会竞争,而是集中一切努力履行和履行国家的真正功能。
伍、越南模式的主要方向
为了在共产主义政权被摧毁掉后重建国家,我们必须彻底改革我们的政治、经济和社会制度,国家与人民的关系,以及我们国家与世界的关系。我们还必须审查民间社会的作用和教育的重要性,并为相互关联的社会、环境和人口问题选择长期解决方案。
在新提出的思想基础上,我们将按照以下主要方向重建国家。
一、以自由为动力而发扬创造力和进取精神
我民族有保卫国家的光荣传统,但作为回报,我们也花了太多的时间和精力来抗击外国侵略者。在这些艰苦的斗争中,我们必须始终坚持纪律和共识,始终搁置争议,处理紧迫的问题。那段奋斗的历史,一方面让我们对生活条件有很强的适应能力,但另一方面也让我们逐渐失去了长远的眼光、主动性、发明创造和冒险精神。
我们有漫长的海岸线和温和的海洋,但大海对我们几乎没有任何召唤。我们完全缺乏征服和利用海洋的决心。我们没有造船和航海技术,没有商船队,没有大型航海家。直到最近,我们只是作为一个大陆民族生活在陆地上。我们世世代代满足于孔孟之道统,却没有意识到儒家文化是一种奴役文化,它扼杀了智慧,腐蚀了人,首先是知识分子。这种专制和严厉的模式,在让我们取得最初的成就之后,在接下来的几个世纪里使我们原地踏步。
批判和创造力,冒险和进取精神是我们必须学习和习惯的。为此,我们必须鼓励和尊重思想和言论的自由。我们需要提出一个原则,即在未来的越南,不能有禁止讨论的问题,也不能提出禁止的意见。任何越南人都不能因他的生活方式或他的言论而受到惩罚,除非他直接呼吁暴力。
二、弘扬志愿爱国主义
在我们历史上的大部分时间里,我们只生活在绝对的君主制下,这些君主制认为国家是一个独立的君主制所有,若不是外国所归。我们的爱国主义因此没有发展的条件。当国家是每个人的,必须由每个人贡献的概念出现时,由于君王是天子,人民是奴隶的遗产,它很快就被绝对化了。祖国变得神圣化、至高无上、没有责任、不接受任何要求。那个国家被当作太多罪行的幌子。战争、哀悼、失望、长期忍受既糟糕又暴虐的独裁统治、不如其他民族的罪恶感严重损害了我们的爱国之心。正是因为爱国不强,我们才让共产党这个理想是为国际运动服务而不是为国家服务的政党,坚持主张消灭国家的主义,吸引了一大批同胞,控制了政治舞台。正是因为意志和爱国的消逝,今天我们没有像过去的君主一样对一个将国家视为自己的政党独裁政权做出足够激烈的反应,而全人类正在走向民主,我们自己也知道这个国家迫切需要民主。
但我们是越南人,我们的未来与越南的未来息息相关。我们别无选择,只能建立一个共同的越南未来。为了建立一个共同的未来,爱国之心仍然是必须的共同点。我们需要爱国主义的新力量。我们需要恢复和重明爱国主义。
我们需要将爱国主义定义为自由人民的自愿情感,紧密联系在一起,为我们自己和我们的子孙后代建立一个共同的未来。我们需要让每个人都以自己的方式爱国,我们不能让爱国之心被同化为一种主义的赞同。我们需要让越南人民与国家调解。我们需要一个和平而非凶猛的国家,一个有心而非张牙舞爪的国家,一个可爱而非可怕可恨的国家,一个鼓励而非禁止的国家,一个负责任的国家,一个与人民亲近的国家,而不是神圣到抽象和遥远,一个人权和民权的国家。
为此,代表祖国并代表祖国行事的政府,必须是一个诚实、谦虚、节俭、敬业的政府,尊重每个公民,让每个人都清楚地看到自己受到尊重。那个政府将消除所有仇恨,以国家连续性的名义道歉,恢复荣誉,并赔偿所有不公正的受害者。政府将保持警惕,以免任何民族感到被遗弃。那个政府不会强迫任何人爱国,相反,它会尽一切努力为每个人都爱国创造条件。
与民主、自由、意见和倡议一起,但最重要的是,爱国主义将是帮助我们接受共产党留下的遗产并携手征服未来的关键武器。
三、尊重和促进民间社会
一切文明国家都必须把基础建立在公民社会之上。我们悲剧性地落后于其他国家的主要原因之一是缺乏真正的公民社会。民间社会是指教会、协会、俱乐部、志愿组织、工会、合作社、公司和企业等。一般来说,它都是人民的组合,在政府之外建立起来,共同追求一些共同的目的,不以政治权力斗争为目标。
公民社会的概念与文明社会同时出现;在许多西方语言中,公民社会这个短语也有文明社会的意思。这些是将人们联系在一起并将人们与社会联系在一起的缠结绳索。这些相互交织的纽带创造了国家的丰富性和持久性。组成民间社会的公民组合也是意见、倡议和进步的摇篮。强大的公民社会确保新意见迅速产生,冲突被及时发现和解决,社会在和平与秩序中不断演变。更重要的是,一个健康的公民社会提供了我们可以称之为联合奇迹的东西。这是一种优势效应,即一种组合可以产生结构元素中不存在的全新特性和能力的现象。例如,基本粒子在不同特殊条件下的结合产生了原子;然后原子结合在一起产生分子,然后分子结合在一起产生生命。或者神经元的协调运动产生情绪和观点。独裁政体,特别是共产主义独裁,在扼杀公民社会的同时,使人民失去了这种卓越的能力。也许这就是民主社会优于独裁社会的原因。
在这个政治项目的社会模式中,公民社会将受到尊重和鼓励,更多的是被赋予一个重要的角色,以实现社会团结,帮助和捍卫弱者和不幸者。
每一种组合都会产生力量。公民社会的力量是一种协同作用,但绝不是统一的,公民组合有时彼此方向一致,有时彼此孤立,有时相互对立。民间社会的力量不时有机会与国家融合或反对国家,但总是影响国家,从来没有与国家竞争的野心,因为它没有也不可能有政治野心。
公民社会确保社会的活力,同时也确保自由、民主和人权,防止任何独裁意图。每一次暴政独裁都首先旨在摧毁公民社会。独裁政权的本质是依靠少数人来控制一个分裂的社会。暴君不需要人民信任和爱他们,只需要人民不要粘在一起,就没有抵抗力。没有什么比因分裂而无助的群众的冷漠和麻木不仁更能让专制集团满意的了。
相反,民主理念将公民社会视为国家的压倒性组成部分和基础;因此,国家的作用是使公民组合越来越多,不断进步和加强,为社会的繁荣做出积极贡献。多元民主国家将自己视为民间社会的工具,其使命是确保民间社会的健康运作,从而使民间社会为其公民创造幸福。这不是辞职,而是一个有信心信任公民的政府的新政治理念。在与民间社会的关系中,多元民主国家将自己视为民间社会愿望的仲裁者、协调者和表达者。国家服务而不是控制公民社会。
公民组合的建立和发展不会受到任何阻碍。特别是,非营利性协会只需申报成立,无需营业执照。具有文化和社会目的的协会也有权要求国家提供帮助。
四、将越南确定为建立在群区之间的国家
我国(越南)虽然历史悠久,但却是一个新的国家。中部地区自17世纪以来刚刚完成整合,南部地区自18世纪以来刚刚完成整合。我国在土地和种族方面得到了许多新的贡献。然而,我们的组织没有适应这些变化,仍然被错误地认为是一个单一群区的国家:京族群区。我们的历史就是京族的历史。我们的文化是京族的文化。道德、社会和法律的概念都以京族为基础,主要为京族服务。也许我们开国及护国的艰难过程并没有给我们时间和手段去认真思考一项群区政策,但事实是,我们在这一点上非常欠缺。纵观历史,除了少数几个例外,京族几乎从未承认对少数民族负有任何责任,而只是在必要时通过暴力强加他们的刻板印象。这种情况如果不明确识别,及时制定令人满意的政策,可能会导致非常有害的后果,尤其是在当前和即将到来的世界背景下。许多国家正在并将继续遭受少数族裔的狂热起义,这些起义要求他们自决权。如果我们不警惕这种情况的发生,本国北部山区和中部高地两大片地区可能会变得不稳定和不发达。
在一个被定义为群区国家的越南,诸群区必须受到同样的尊重。高棉越南人群区自古以来就生活在南部,为南方的开放做出了巨大贡献的越南华人群区在法律面前和民族感情上都必须被视为完全的越南人。
越南民族必须彻底摆脱同质化的意图,在差异中寻求共同进步。我们必须申明,越南不是由一个种族来定义的,而是由建设和分享共同未来的接受来定义的。
由于京族在整个领土上占多数,建立民族自治区不再可行,但权力分散将使民族在地方政府中拥有相当大的发言权。少数民族的文化和语言必须被视为国家负责保护的越南文化的组成部分。越南历史也必须被重新审视,并被视为联合组成越南国家的人民的历史。
尊重群区的精神也必须扩展到宗教社区、思想社区、职业社区和因各地生活方式不同而没有形成的群区。必须确保这些社区在国家活动中占有一席之地和发言权。
自1975年4月30日以来,我们有了一个新的重要群区:海外越南群区。这些越南人不得不离开他们的国家,因为他们无法忍受羞辱、迫害和歧视措施。越南民族必须向他们敞开怀抱和心扉。他们必须立即获得完全的公民身份,无论是对他们还是对在国外出生的孩子。
海外越南群区的形成是一个非常新的因素,也是国家的一大幸事。多亏了这个群区,越南人民熟悉了所有生活方式和文明,测试了所有社会组织模式,并潜入了所有科学和技术学科。这个群区,一旦与该国恢复正常关系,将确保越南成为一个开放的国家,摆脱所有偏执和偏见,永远走出死胡同。这个群区虽然规模不大,仍需加强,但有很大的潜力为国家做出贡献。海外越南人将成为越南国家无法创造的极其宝贵的科学、技术、文化和商业等桥头堡。经验表明,近年来快速发展的国家都归功于强大的海外社区的贡献。任何明智的越南政体都必须鼓励国内外交流,承认一个海外越南实体,并寻求所有举措,使海外越南群区变得更强大。
五、果断选择以民营企业为基础的市场经济
过去几十年的世界经验证明,集体和国有经济政策导致失败。经验也表明,自由市场是对生产最准确的指导,是有效分配最有力的保障。越南必须的经济选择是市场经济,以私营企业为基础,以商业头脑和创见为力量,以进步和致富的精神为动力,以利润为回报,以利润为奖励和兴奋剂。
这种选择意味着国家不会做私营部门可以做的事情。国家的主要经济作用是确保货币稳定,防止非法竞争,投资私营部门不敢或无法投资的有前途的行业,并承担一些必要的研究、研究和储备工作。国家也具有警惕有害的商业倾向和鼓励有益的经济活动的职能,但国家主要通过信息和支持而不是通过命令和禁止来履行这一职能。国家将尽一切努力维护领土完整,维护秩序和安全,维护正义,保护生活环境,促进有益的国际关系,建立和巩固国家共识,即正确履行国家功能。
为履行这一职能,保障市场经济的健康生活,国家必须本着实证的精神,从正确的基础出发,不断努力建设正确的法律体系,并在判例法的基础上不断补充。
六、迈向工业服务经济
越南耕地少但肥沃,农业潜力巨大。短期内的农业是振兴的杠杆,是经济发展的起点。因此,农业是我们当前的经济重点,在相当长的一段时间内也将是我们的经济重点。
然而,由于土地有限,人口众多,越南不能继续成为一个农业国。相反,我们的地位有利,我们的人力资源丰富而精锐。我们的自然功能是一个工业、商业、服务和海洋国家的功能。我们现在必须为那个未来做好准备,特别是那个改造,让许多不能用于农业的山区变成生活区,这意味着在现实中也有扩大国家的效果。
我们未来二十年的经济目标是从农业经济转变为工业、商业和服务经济。这意味着农业在国民总产值和人力资源协调中的比重将逐渐下降。这种转型努力的第一步是发展与农业相关的工业,如食品工业、化肥制造、农药、农业机械等,并提高其质量。同时努力寻找农产品的出口市场。这个转型时期的一个国家目标是,越南食品以其超高的质量而闻名于世界,越南农具和农业机械在品质/价格比上是冠军。
除了重点关注渔业和旅游业等前景明朗的行业外,我们还将特别关注两个新的前景:贸易港口服务和计算机信息学。这两个行业都需要全面、坦诚的对外开放政策。
由于我们优越的地理位置和海岸线,越南可以拥有非常大的贸易港口。我们将准备与外国综合体签署一些贸易港口的长期建设和运营合同。但吸引国际贸易服务的重要因素是安全局势必须稳定,政治机构必须开放,政府必须诚实,电信系统必须完整。
越南人在信息学方面相当有天赋。这是一个具有很大发展潜力的行业,仍然需要大量高价专业人士。信息学如果使用得当,也是一种客观的管理工具,可以消除许多腐败原因。我国目前对公共部门计算机化有很大的需求,希望得到国际机构的资助。我们可以以这些项目的实施为跳板,培养一支技术精湛、精益求精的信息学专家队伍。前景更高,因为通信的进步越来越多地允许在世界各地执行计算机合同而无需出国。
国家必须以将所有家庭连接到互联网为目标,以最大限度地利用该网络作为信息、学习、交流和销售的手段。
我们不会设立“出口加工区”等特殊地位的经济区,而是对全国各地的经济活动给予一切鼓励和便利,并制定全境共同的商业法。
我国有幸是一个沿海国家,人口稠密的地区离海岸不远,离好的港口也不远。基于这一优势,我们将在全境建立工业园区。这项政策需要对基础设施、交通和通信进行重要投资,但作为回报,它将节省更重要的移民成本,并避免在开放国家遇到的大城市发生满族受害者。需要强调的是,未来的任何政策都不是绝对强制性的。人口和劳动力的重新分配在所有国家,尤其是发展中国家都是永久性和自然的现象,但最好的办法仍然是让人们有选择职业和地点的权利,在充分了解机会后生活。是个人智慧与国家战略相辅相成、相互调适的方式。
这一重大转型成功的条件是与所有国家特别是发达国家保持良好关系,并在跨太平洋合作集团等大型合作集团中得到充分接受。
七、促进国内市场发展
我们将把国内市场作为前进的跳板。我国拥有近一亿人口,是一个非常大的市场,越南人民之间的交流本身就是一个非常重要的经济引擎。在任何经济体中,即使在全球化时代,除了石油出口国的非常特殊的情况外,国内市场总是比进出口活动更重要。国内市场在数量上既是重要的,也是出口的试验场,也是应对国际市场变化的必要仓库。如果国内市场强大,出口活动就可以发展。国内市场将受到所有商业执法的释放和重要公共项目的推动的刺激。农业、渔业、食品工业、纺织、服装、家用电器制造、建筑材料、设备和室内装饰等将成为我们国内市场的第一个跳板。
国内市场的发展必须与国内业务的发展齐头并进。我们没有大资本家,所以要积极推动、支持和鼓励个体企业和小公司,帮助他们繁荣壮大,逐步成为大资本家。
国内市场发展政策的当务之急是修复和加强道路和通信系统、运输和通信设施。
八、不断警惕加强社会连带
在多元民主国家的任务中,最重要的任务是确保社会连带。在其哲学基础上,多元主义尊重社会的所有组成部分,因此它不接受一个组成部分剥削和践踏另一个组成部分。我们尊崇利润作为一种价值观,追求利润主要是为了有实现社会连带的手段。此外,一个没有连带的民族不再是一个民族。我们不能抛弃弱者和失足者,就像一个文明社会不能拒绝残疾人的拐杖一样。我们承认社会中每个人的权利和尊严的平等,我们需要采取措施实现这种平等。
社会连带是保持社会基础持久性、确保每个人积极和兴奋地参与国家未来、避免可能破坏国家未来动力和导致骚乱的冲突的强制性条件。
现实中,经济发展往往催生和加剧社会差距。国家的主要任务是防止和减少发展不可避免地带来的紧张原因,因为它不可能完全平衡。
社会连带需要坚持不懈和谨慎地分配国家收入,以保护弱者。
社会连带需要一个社会保护制度,确保每个人对食物和健康的最低需求。
社会连带需要一个普遍和持续的教育和培训系统,以确保所有公民平等的晋升机会。
从短期来看,社会连带可能是国家的负担,也是经济发展的障碍,但从更长远和更明智的角度来看,这是经济发展势头继续下去的必要条件。社会连带也是确保民族自尊和民族凝聚力的必要条件。
国家当然承担着实现社会共同的任务。但国家也将特别鼓励民间社会通过志愿组织积极参与这项重要工作。社会预算的一部分将通过民间社会使用。志愿组织将根据其预算能力,与他们从公众那里筹集的用于社会工作的资源相比,获得资金。
公民社会的积极参与,试图实现社会团结,既有动员群众情感和物质贡献的作用,又有特殊的精神作用。在国家社会救济办公室面前,需要帮助的人可能只会遇到一个公务员,但在志愿机构,他们遇到了一个为信仰而志愿从事社会工作的人,他们遇到了一个人和一颗心,社会纽带和克服障碍的奋斗精神只能更加强大。
绝对的社会正义是不可能的。重要的是,国家将社会团结视为永久关注的问题。社会连带既是必要的,也是微妙的,我们必须非常小心地保护它,将其视为保卫国家的斗争。
但是,我们需要申明,社会团结是国家与民间社会合作的任务,而不是企业的责任。企业除了有尊重工人尊严、尊重国家法律和尊重与工人签订的合同的义务外,只有创造利润的职能,为社会的财富和财富做出贡献。向国家纳税,使国家有资源确保社会参与。我们坚持认为,社会连带不能干扰经济活动,成为企业的障碍。
九、奉行“小国主义”
我们现在是一个很落后的国家,我们最迫切的要求是发展,赶超开放的国家。因此,越南这一时期的基本政策必须是我们可以称之为“小国主义”的政策。
什么是小国主义?简单地说,就是要忍耐今天才能成长明天。
在国内,小国主义意味着我们不会在崇高的理论上分裂和冲突,我们会谦虚地承认国家的劣势,我们会尊重、爱和支持彼此,带领彼此走出僵局。国家将拒绝炫耀性支出,将所有资源和精力集中在努力摆脱劣势上。国家将尊重保护和保存已经取得的微薄成果。国家将强调教育和培训,并将首先投资于务实的教育。
在外交方面,我们不会争夺国际角色,除非捍卫人权、正义、道德和国际公法,否则我们不会在国际争端中采取态度。我们将努力塑造一个温和、谦虚的形象,被国际社会接受为一个绝对不会卷入国际冲突的可贸易国家。然而,谦虚并不意味着接受依赖。我们将审查共产党政府与外国签署的妥协,废除依赖或冒犯国家主权和利益的妥协,首先是越南人民没有得到通知的妥协。
现在令人担忧的是,我们生活在一个最容易造成紧张局势甚至冲突的地区。我们认为美国在该地区的积极军事存在是确保和平与稳定的必要因素,我们将鼓励这种存在。
我们认为与美国、日本和民主国家的合作是一项巨大的福利,不仅为我们开辟了巨大的市场,带来了宝贵的科技转让,而且帮助我们吸收了先进社会的组织、组织、思维和工作方式。我们将诚实地与他们合作,向他们学习。
有了温和与和平的外交政策,我们就不需要一支庞大的军队。有了尊重一切自由并以民族和解与和谐精神为基础的国内政策,我们将不需要庞大的安全机构。因此,军队和警察将被减少到最低限度,但足以履行保护领土、环境和安全秩序的非政治工具的职责。
小国主义的精神是承认自己的劣根性,调动一切资源和活力,把国家搞上去。越南人口众多,人民勤劳,地位优越,潜力巨大,如果知道如何坚持几十年,就有权在世界上占有一席之地。
十、实行与睦邻政策并行的和平与合作外交政策
在当今竞争激烈的世界中,良好的关系是必不可少的。我们将不放过一个机会,与世界上每一个国家,首先是与邻国建立和加强所有合作联系。
对于西方列国,特别是法国和美国,这两个曾经有着复杂和冲动关系的国家,我们不仅使外交关系正常化,而且使文化和情感关系正常化。我们有很多东西要向他们学习,也有很多东西要期待双边合作。我们还需要特别关注移民政策仍然宽松或前景宽松的国家,以发展尽可能大的海外越南社区,中期目标是十分之一的人。越南在民主发达国家有一个人。和平与谦虚的外交政策,以及利用庞大、成功的海外越南社区的贡献能力和对祖国的依恋,是我们外交努力的基础。
但最重要的是,我们必须巩固和加强我们在亚太地区,尤其是在东盟中心的立足点。在这个集团的核心,我们将积极为加强联系,逐步降低文化和贸易壁垒,促进自由交流区的真正形成做出贡献。我们需要努力加入跨太平洋合作集团,利用这个集团的一切机会,使我国能够崛起,逐步缩短延误。
最近,我们必须加强与老挝和柬埔寨这两个邻国的合作关系,老挝和柬埔寨越来越受到中国的影响。我们是法国殖民时期分而治之阴谋的受害者,今天我们必须打破它。两个多世纪以来,我们与这两个国家的边界一直保持不变。这些是世界上最稳定的边界,证明了越南、老挝和柬埔寨之间和平共处的可能性。但我们也需要大胆宣布真正的和平政策,并做出大量外交努力,以消除相对较新的过去留下的误解。我们需要向这两个邻国郑重宣布,我们绝对尊重现有的边界,并愿意在交通和贸易港口方面给予一切便利,以便它们能够向海洋开放。我们将要求他们合作建设通往大海的道路,并在可能的情况下达成一项自由行动和移民协议。老挝和柬埔寨都需要通过越南出海,因此如果他们坚信越南尊重他们的主权和领土,合作将是自然的。越南、老挝和柬埔寨有很多前景,可以形成一个平等的合作集团,三者都受益并发挥各自的经济优势。
对中国来说,我们需要本着友好的精神解决领海和岛屿争端,开启真正健康的合作阶段。两国边界漫长,文化相通,人文建设也有很多相似之处,合作是很自然的。现在令人担忧的是,中国一方面在增加军事力量,另一方面又在展示地区霸权政策。对中国来说,我们需要表现出谦虚、温和但坚决捍卫领土、海洋和岛屿主权的态度。我们有理由希望,美国在该地区的积极军事存在和日本新的坚持政策将是和平与安全的保障。我们也有理由相信中国会选择和平与合作的道路,但我们自卫能力的现代化也是鼓励中国走这条好的道路的一个因素。短期内,在中国与台湾关系不明朗的情况下,我们将特别重视发展与台湾的经济合作关系。
我们需要认识到日本在亚洲的重要经济作用,必须将越日关系置于国家发展政策的首位。
对于东欧和前苏联国家,我们终究需要一个明智而现实的判断。这些国家是潜在的市场,我们在其中有许多朋友、关系和理解需要利用。
十一、践行文明的人口调控政策
我们现在有近一亿人口,世界排名第十四位,面积非常狭窄,三十三万平方公里。而且,我们真正可耕种和可居住的土地比例很低,只有三分之一。与此同时,我们的人口继续以每年超过一百万的速度增长。另一方面,我们的经济能力和工业和服务业转型水平不允许在扩大居住用地方面进行大量投资。尽管近年来人口增长有所下降,但仍有一个大问题需要清醒地看待。一方面,虽然人口仍在大幅增长,但在不久的将来,人口增长率不可能突然下降,而不会因年幼比例的逆转而造成经济负担。另一方面,迄今为止,人口增长的下降主要是以高昂的代价实现的,使我们成为世界上堕胎率最高的国家之一,对人口增长、心理和社会产生了灾难性的后果。
越南和中国共产党政府的经验表明,残酷的限制生育政策只会贬低人,不会减少人口。问题需要从其文化和人生观的根源来解决。在学校和宣传教育中,要普及节育知识和男女关系正常化,把结婚生子与满足生理需要分开。
生育过多还有另外两个需要克服的原因,即女性的文化水平和社会角色不佳,以及老年焦虑。提高妇女的文化水平,积极地使妇女融入社会经济活动,是制止人口增长的必要投资。世界上所有的经验都证明,女性受教育程度越高,参与经济活动越积极,就越容易限制自己生育。经验还表明,确保所有文明社会都必须为老年人提供最低回报,这将大大限制人口增长,因为在缺乏社会保障的国家,大量儿童首先是老年人的保障。如果我们不想接受太多我们无法抚养和教育的孩子,我们必须照顾老人。这项政策将创造一种安全的心态,肯定会降低生育率,特别是相信随着经济的发展,老年的保障收入会增加。
毕竟,我们有权利相信,在一个不尊重男人和女人的文明社会中,人口增长的势头会下降,以至于我们必须生男孩,一个信息充足、每个人都有晋升机会的社会。一旦有足够的乐观来规划他们的未来,夫妇们自然会发现他们必须限制孩子的数量。
十二、在努力中建设优质民族幸福
共产党统治者说今天的越南是一个中等收入国家,这是非常谎言的。事实恰恰相反。我们非常贫穷,非常低于世界平均水平。今年,即2015年,世界人均产出接近11,000美元/年,我国适度估计接近1,500美元,仅为世界平均水平的15%。我们悲惨地落后了。即使我们从现在开始实现比世界高2%的稳定增长,这是一个积极的成就,我们也需要一个世纪才能真正成为一个中等国家。但是,在沮丧和失望使国家解体之前,我们有那个时间吗?当然,我们没有那个时间,我们必须赶上一代人的延迟。这是一个巨大之谜。
难谜更大,因为所有因素都是不利的。社会腐败,人心失落分离,民族精神很低,环境污染,道德沦丧,犯罪团伙猖獗而公民社会缺位。共产主义政权的遗产是可怕的。我们将不得不鼓励我们在各个方面做出巨大的努力,同时我们将长期生活在贫困和劣势中。
在这种情况下,我们别无选择,只能在越南和全国范围内建立以质量为核心的幸福,同时努力实现繁荣。这是一种我们可以称之为优质国民幸福的幸福。特别是,这种幸福体现在一个和平和令人兴奋的国家环境中,在这个环境中,人们虽然不富裕,但在一个和谐、和平和相互关联的社会中拥有充分的自由、尊重和安全、尊严和权利、健康和晋升机会,友好的环境。它是人们能够接受当前的困难并努力崛起的条件;付出的努力越大,就越需要平等分享,人们就越需要鼓励。越南社会必须有一个幸福家庭的形象,因为和谐与幸福,合理分享牺牲和成就,在简单但干净的屋檐下,整洁,相信明天会比今天更好。
最重要的是可以立即完成的事情,因为它不需要很大的成本。是为了改善环境、景观和公共场所。由于传统文化,我们没有意识到环境的重要性,尽管问题已经很严重,直接影响到每个人。短视导致历任领导人都没有意识到,只有保护环境,发展,包括经济发展才能可持续。污染工厂对社会造成的长期损害比其产生的短期回报大许多倍。腐败是环境破坏的主要原因;公民社会的缺席是另一个原因。令人震惊的情况是,到目前为止,我国还没有一个环保协会,尽管环境已经被破坏到了危急的地步,而且还在继续被破坏,而在富裕的文明国家,强大的环保已经成为无数协会的目标,包括那些将环境作为最高关注的政党。对当今世界来说,环境已经成为一个根本的政治问题。
我们不能以经济利益的名义,容忍那些没有烟尘和废物处理的工厂。我们还必须禁止砍伐森林和填满和侵占池塘和湖泊。公共卫生设施必须齐全。排水系统必须完善。施工必须有规划,每个区域只能按照几种颜色的几栋房子建造。必须增加公共交通工具,对汽车和摩托车征收环境税,鼓励使用自行车;禁止在市中心和拥挤地区使用汽油发动机的车辆;严惩弄虚作假施工的路桥施工企业。我们将取消中部高地铝土矿项目,暂停核电项目,甚至在建项目,淘汰核电,直到找到满意的废料处理技术,我国完全有能力确保反应堆的绝对安全。虽然这些措施可能会暂时减少一些公司的利润,但毕竟有很大的经济效益,因为它们保护和鼓励了许多其他行业,特别是旅游业的投资,更重要的是保护健康和安乐生活。污染是对人权的严重侵犯,因为干净的水、新鲜的空气和安静的空间是最基本的人权。
建立一个和谐、和平和相互联系的社会并不像许多人所认为的那样需要超出国家能力的巨大成本。与贪官掠夺国家的钱财相比,它们微不足道,廉政才有手段。它所要求的是我们即使不富裕也能做到的事情。这是绝对诚实、透明和受尊重的法律。这是一个决心不向腐败妥协的政府,由知识渊博、有远见、以报效国家为人生理想的人管理,一个不能被怀疑是欺诈的政府。越南人民已经习惯了牺牲和苦难,所以他们可以接受非常非凡的努力;他们也可以原谅错误,前提是他们相信领导者是错误的,但他们不是无知和狡猾的人,而是错误的,因为每个人都可能在困难和复杂的决定上犯错。我们可以有这样的领导者,但他们没有机会,因为他们没有团队的集中力量。过去、现在和未来,多元民主集合会的主要努力是发现、重新集中和培养更多国家需要的人。
陆、越南共和国的体制和宪法
政治制度的选择不能是纯粹的理论选择,更不能是对在另一个国家取得成功的现有模式的复制,无论我们多么欣赏各国人民在走向民主和繁荣的道路上的经验。
我们选择符合国家基本要求的政治制度和宪法:
-诚实和不可逆转地建设民主,以坚定地融入民主世界;
-进行真正和果断的民族和解与和谐,鼓励所有的思想、所有的心和所有的手努力崛起,建设越南的共同未来;
-按照以自由和创造力为动力的市场经济模式发展国家;
-散权制,允许地区在统一的越南中充分利用其特殊优势,同时尽量减少地区之间的差距;
-促进民间社会并满足民族和宗教社区的合法愿望;
-实现真正的国家统一,即民族共识。
根据这些基本要求,我们选择了议会制与散权制的民主政治。
一、关于政权的两个错误偏见
在讨论越南合理合理的政治制度之前,我们需要消除两种偏见,这也是越南人民不正确但非常普遍的担忧。
甲、多元民主与政治稳定
第一个担忧是,多元和多党制可能会导致政党分散,在这种情况下,没有一个政党获得多数席位来夺取政权,从而引发政治动荡。人们可能担心政府会随着临时联盟的解散而不断变化。
这种担忧是毫无根据的,它源于许多越南人成为受害者的中毒宣传引起的误解。
该事件是否有或多或少的政党,是否有一个政党在国民议会中获得稳定多数,主要取决于投票形式,而不是政治自由度。简单地说:单名和一轮投票导致两党制,因为小党被淘汰,而比例投票导致多个政党的出现。
单名和一轮选举是指每个选举单位选出一名议员,候选人以个人合法身份参选,即使可能打上政党的烙印,得票最多者当选。这种选举有利于大政党,淘汰小政党,确保永久存在多数,以建立和稳定管理政府,相反,它不允许少数倾向在议会中拥有发言权。事实上,它经常导致两党政权。因此,单名和单轮投票是对建立一个稳定的政府而不限制合法政治自由的担忧的技术回答。
比例选举意味着全国或每个地区的一般投票,在政党之间,每个政党的民选议员的数量将与他们的选票成比例,例如该党获得20%的选票,原则上也有20%的代表。这种投票方式非常民主,因为它允许所有趋势在议会中拥有发言权和立足点,但反过来,它有可能导致一个分散的议会,在这个议会中,没有任何政党拥有足够的多数来执政。
最佳解决方案是这两种投票方式之间的协调,以确保民主和政府的相对稳定。从技术上讲,可以有无数的公式,包括两轮单名投票,其效果是在第二轮中合并有相同倾向的政党。
这些言论使我们可以断言,以政治稳定为借口限制政党活动是毫无根据的。在未来的越南,不需要也不可能有任何限制建立和发展政党的权利。
还需要结束对稳定的欺骗。
稳定有两层含义。
第一个含义是公民稳定,即每个公民的生活稳定,确保他们不会受到迫害、没收财产、禁止经商,也不会成为突然和频繁的法律变化或政府武断决定的受害者。这种稳定性对于经济发展至关重要,因为只有这样人们才能放心地预测和规划他们的活动。这种稳定需要民主、人权和法治。
第二个含义是统治集团的稳定,或者换句话说,一个拥有相同统治者的政府的延长。这种延长,如果不是由于自由选举,而是由于专制独裁,与内定非常矛盾,因此与发展完全矛盾,因为人们总是生活在恐惧中,不敢也无法制定长期的商业计划。
经验表明,民间稳定对发展至关重要,而执政集团的稳定则完全没有必要,甚至会产生不利影响,因为政府任期过长几乎肯定会导致滥用权力和腐败。在日本,自二战以来,很少有政府能持续两年。在意大利,政府的平均寿命要短得多。尽管这两个国家的经济都在快速增长,但它们都是最发达的七国集团的成员。而越南、古巴、朝鲜等政府长期存在的国家以及非洲和拉丁美洲的许多国家则非常停滞不前和落后。
当独裁公司——就像越南共产党的领导层——说需要稳定才能发展时,许多人同意他们的观点,因为他们将其理解为公民稳定,而他们在稳定的意义上表现为第二,即统治集团的稳定。这是一种应该谴责的欺诈行为。
乙、统一和散权制
第二个担忧是,权力的分散是否会损害领土的统一和军阀地位的重建。
肯定的答案是否的。
地区不是国家,自治不是独立的代名词。地区法律不能与国家法律相抵触。
也应该有更健康的统一观,超越行政化、沉重化、案头化的统一。统一,主要是人心的统一。当每个人、每个地方都感到在民族社区中有一席之地和发言权,而自己的特色仍然受到尊重时,他们就会更加融入民族,民族和谐就会更加强烈。相反,在当今纷繁复杂的世界中,在一个拥有近一亿人口的国家中,中央集权的中央政府无法决定一切,地方实际上仍然是自治的,但非法自治,即始终处于合理但非法的冲突中。与中央政府,从而与民族共同体。中央集权因此被带到军阀而不是统一。由于其民族团结的效果,散权制既需要在国家层面上进行,也需要在每个地区的组织内部进行。
散权制是这个时代压倒性的趋势,是地球上两个世纪民主实验的结论。令人惊讶的是,各民族花了这么长的时间才发现一个简单的道理:一个内阁只能由少数人组成,少数人不可能为一个人口众多、居住在不同地理和人文条件土地上的大国决定一切。
散权制具有明显的优势:它鼓励地方政治活动,它为每个人带来民主,它避免了漫长而复杂的日常行政路线,从而导致人口过度集中。人口进入大城市,它刺激了当地的文化和新闻活动,它允许每个地方选择最适合其特点的生活方式,从而发展起来。
贫困地区将有一个专门的政府,把所有的注意力都放在区域发展上,并将区域提升到全国的发展水平,而不是被一个忙于处理发达和活跃地区紧迫问题的中央政府所遗忘。没有人像一个以区域发展为唯一使命的区域政府那样真诚而准确地惊动一个区域的困境。
散权制也有助于国家的稳定和民主。一方面,它抵消了政变阴谋(推翻中央政府,然后对地方政府做什么?)。另一方面,它避免了不应该在中央一级出现的危机,因为问题可能在不同的时间在每个地方出现。散权制的另一个非常重要的优点是它减少了政治冲突,因为一个政党可能会在中央一级失败,但仍然可以在一些他们信任的地方掌权。所以,政府与反对派的冲突将不那么激烈。在越南目前的历史形势下,散权制可以避免一切皆有可能,失去一切的局面,为民族和解与和谐做出积极贡献。
散权制允许少数群体、宗教和少数族裔在他们大量存在的地方拥有相当大的政治影响力,从而缓解不满情绪和分裂和自治的意图。
散权制的另一个重要优点是,由于地方政府,每次政府更迭,在中央掌权的人都不是学徒,但至少在地方一级有经验。
然而,为了使散权制具有其真正的内容和效果,地区必须有一个能够生存和发展的区域和可能的人口。
我国现在有超过九千万人口,当人口增长势头停止时,我们的人口在1.1亿人口左右会有一定的稳定。我们可能有十到十五个地区,每个地区有五到一千五百万人。
为了避免行政麻烦,特别是在公民身份方面,这些地区将是几个现有省份的组合。将各省集中在一个区域将基于民族结构、经济功能、自然资源和交通标准。
每个地区都有自己的议会,有权任命地区政府,制定不与国家宪法和法律相抵触的地区法律,对某些税收的水平进行投票,并对地方预算进行投票。
地区政府由地方议会选举产生,执行地方议会表决通过的政策。
地区无权拥有军队,无权发行自己的货币,无权拥有外交代表,无权与其他国家签订条约,无权拥有具有商业目的的公司,无权举行具有政治目的的公投。任何选举和全民投票都必须事先得到中央政府的同意,并在事后承认其结果才有效。
各地区不得相互签署条约。地区之间的协调以及涉及多个地区或涉及国家安全的案件由中央政府管辖。
每个公民都有权选择在全境居住的地方。地区无权禁止移民进入该地区,而仅有权在法律调查状态下限制公民的流通范围。
地区警察的人数不得超过中央政府规定的国家警察人数的比例。
中央政府有权为每个教育级别分配一个最低限度的内容。允许自由执业的资格必须由中央政府批准。
省级和省级以下的政府机构将根据散权制的原则由国家法律规定。
二、政治制度
甲、议会制:最稳定和民主的体制
我们的决心是以最有效的方式实行民主制,防止任何形式的独裁回归。我们根据这一决心选择政治制度。首先要做的是在三个公式中选择一个:总统制、半总统制和议会制。
首先,我们断然取消总统制,即由人民通过普选直接选举产生一人,并完全掌握行政权的政权。这种模式有许多不可接受的缺陷。我们可以说出两种最常见的缺陷。
第一个缺陷是投票给一个人而不是政党的形式。这种选举方式阻碍了政党的发展,因为掌权的主要条件是一个有吸引力的选民,所以核心条件是有一个好的竞选委员会,而不是一个好的竞选委员会。党的机器。他或她可能会因为肤浅的原因而当选,例如年轻漂亮,走路优雅,说话雄辩,等等。而不是因为他党的威信和他的政治能力。这个候选人,一旦被选为,将压倒该党,而不是该党。经验表明,在包括美国在内的所有总统制中,都没有像议会制那样强大的政党,这是一个巨大的损失,因为政党既是培养关键人才的熔炉,也是生产和筛选意见的环境。对国家提出的重大问题。
第二个缺陷是它在预先规定的时间内为一个人保留了太多的权利。在一个没有民主传统的国家的情况下,很容易导致滥用权力和独裁,导致镇压、骚乱甚至内战。此外,如果总统在任期内因任何原因失去信誉,则国家活动将在剩余时间内陷入危险的僵局,因为总统无法更换。
从纯粹的角度来看,总统制理论的优点是确保一个强大的政府能够迅速做出必要的战略选择,但现在的现实是战争的危险已经消失,即使冷战已经结束,需要一个强大的政府迅速做出重要决定不再存在。此外,总统可以做的,一个得到议会多数支持的总理也可以做。历史事实是,到目前为止,除美国外,世界上所有的总统制都失败了,要么导致个人独裁,就像大多数国家一样,要么导致行政和立法之间的僵局。
正是总统制的失败导致了“准总统制”的出现,即既有总统又有总理。总统既是国家元首,也是宪法规定的行政权力的一部分,在大多数情况下,总理对国民议会负责。总统是由普选直接选举产生的,因此威望很大,即使在宪法权利可能不同的情况下,也与纯总统制的总统相提并论。这种威望是政治稳定的保证,类似于总统制,一方面抵消了总统制的一些缺点,另一方面抵消了总统和总理之间不可避免的行政内部权威冲突。
准总统制通过调和议会制来减少总统制的弊端。曾经有过几次成功的准总统政权。然而,准总统制是一个非常复杂的政权,政权的性质和内容可能会因偶然因素而异:总统和总理是同一党还是不同党,总统和总理的任期相同或不同。总统和国民议会是短是长,最近选出的总统或国民议会等。
在议会制中,行政权力掌握在由议会选举产生并对议会负责的总理手中。因此,在选举国民议会时,人们也间接选择了总理。议会制的优点是,人民首先投票给一个政党的政治项目,而不是一个人,然后从与他们关系密切的候选人中选出一名国会议员,他们有评估条件;通过他们的议员,他们也有能力永久地监视和控制政府的活动。
议会是最民主的体制,也是最正确的机构,前提是它不会导致政党通货膨胀和议会瘫痪,因为它在许多对立的倾向之间存在分歧。这一条件,正如经验所证明的那样,可以通过以单名和一轮选举的方式选举全部或多数议员来满足。
我们选择议会制是因为它的简单性和高度民主。
乙、政府组织
一个散权制的机构导致两个议会在中央一级的存在。参议院代表地区,而国民议会代表群众。在每个地区,只有一个议会在地方一级发挥议会的作用。
参议院仅在中央一级可用。每个地区都有相同数量的参议员,由整个地区的选民直接选举产生,海外越南共同体也将有代表。参议院的作用为:确保跨区域的国家统一与和谐,提出法案,在必要时上诉国民议会表决的法律,就政策和高级人员的任命向政府提出建议和建议。参议院有权要求各级政府官员作证。国民议会由议员组成,绝大多数议员将通过单名和一轮投票选举产生,其余议员将按比例选举产生。在一个拥有一亿人口的越南,国民议会可由约五百名议员组成,其中约四百五十名是由单名和一轮选举产生的,这是一个分散的机构,导致两个国家的当然存在。中央一级的议会。参议院代表地区,而国民议会代表群众。在每个地区,只有一个议会在地方一级发挥议会的作用。参议院仅在中央一级可用。每个地区都有相同数量的参议员,由整个地区的选民直接选举产生,海外越南社区也将有代表。参议院的作用是:确保跨区域的国家统一与和谐,提出法案,在必要时上诉国民议会表决的法律,就政策和高级人员的任命向政府提出建议和建议。参议院有权要求各级政府官员作证。
国民议会由议员组成,绝大多数议员将通过单名和一轮投票选举产生,其余议员将按比例选举产生。在拥有一亿人口的越南,国民议会可由约五百名议员组成,其中约四百五十名由单名和一轮选举产生,其余在全国范围内按比例选举。多数通过单名和一轮选举产生,这保证了不会出现政党膨胀,并且会有多数(由一个政党或几个有相同倾向的政党组成的联盟)来组建政府。按比例选举的少数群体允许所有政党都参加议会,也允许具有国家地位的政党的领导人不必在地方选举中竞选,并集中精力处理全国问题。
在每个地区,按比例选举的议员的份额可以更高,议员可以按比例选举一半,单轮选举一半。
为了限制政党的数量,有必要设定一个通过比例选举进入国民议会或地区议会的最低水平,例如5%。
在行政方面,在中央一级,总理由国民议会选举产生,对国民议会负责。部长由总理任命。在各地区,行政部门掌握在由地区议会选举产生并对地区议会负责的总督手中。
国家元首总统可以由中央一级的所有国会议员和参议员组成的选举团选举产生。这位国家元首,因为他是由一个强大的选举人团选举出来的,所以会有很高的威望。总统不拥有任何特定的权力,而是真正的国家元首,站在立法、行政和司法之外并在其之上,发挥着确保国家连续性、稳定性和团结性的作用。
最高法院由法学家中选出的法官组成,任期约十年,由总统、参议院议长和国民议会议长各任命三分之一。最高法院有权裁定法律的合宪性或违宪性,仲裁权力机构之间的诉讼,审判高级领导人,审查国家和地方法院的判决。
丙、政党:国家的基本要素
在这样的机构中,可能会有很多政党,但由于中央一级的选举制度——绝大多数议员是单轮选举产生的——只有少数主要政党。在每个地方,除了具有全国性地位的政党外,也只有有限数量的地方政党。
所有真正的民主制都必须尊重党的活动。没有政党就没有严肃的政治生活。在我国的情况下,经过多年所有政治活动都受到压制的专制统治,政党不仅是必要的,而且需要诞生、鼓励和培育。政党是国家不可或缺的元素,因此国家不仅不能被禁止,而且必须支持政党的活动。
政党必须首先通过党员和同情者的贡献来资助自己,但有影响力的政党将由预算资助。作为回报,所有其他金融方式,包括接受公司和企业的财政支持,都将受到法律的严厉制裁。大约1%的国家预算将在中央一级用于资助政党,在地区一级也将有同样的比例。中央和地方的资金来源分为两部分:一部分根据国会议员或议员的人数分配给政党;按各政党总票数划分的份额。为了避免政党通货膨胀,有必要设定一个最低限额——根据国会议员、议员或选票的数量——来获得福利。这个政党的成本当然很大,很多人可能认为太大了,但当政党因为没有资金而成为寡头势力的人质或不得不通过非法手段获取资源时,它会避免我们遭受更严重的损失。一旦国家社区资助了政党,作为回报,国家社区也有权要求政党具有模范的纯洁性。政治活动将受到尊重,民主制也将更加健康。
三、越南共和国宪法
越南共和国宪法将上述政治制度正式化,同时表明了按照基本思想和主要方向所包含的社会模式建设民主制的决心。
越南共和国将在序言中庄严地宣布,它将联合国《世界人权宣言》及其所附公约视为其宪法的组成部分,并将民族和解与和谐作为所有政策的主要精神。
即使在第一章中,也会有东西确认越南国内不能有禁止的意见,也不能有禁止的话题;越南人民和国家谴责内战和任何使用暴力实现目标或解决冲突的企图;越南政府不赞成并废除死刑。
在关于国家机器组织的章节和条款之后,宪法还将有专门的章节,其中包括旨在强调伟大国家目标的条款:越南作为贸易和工业国、服务和旅游的职能;越南竭尽全力与各国本着友好合作的精神共同生活,为巩固地区和世界和平作出贡献;保护和不断改善环境、空气、树木、海岸、大陆架、领海等等是越南人民和国家的特别重要责任。
自宪法起制定法律,我们选择经验性的方法,即颁布或修改以保留最初简单但准确和透明的基本法律,然后根据判例法处理类似案件,同时修补法律。
柒、争取建立多元化民主制
摆在我们面前的重大问题,是在最短的时间内,在最好的条件下,结束党治专政。越南共产党对我国来说是一场灾难。它是三十年内战的罪魁祸首,这场内战使国家四分五裂,数百万人丧生。在对共产主义的狂热中,它还犯下了可怕的罪行,有计划地屠杀了数十万爱国者或无辜的人。它不遗余力地夺取政权,夺取政权后又在各个地区、各个方面都失败了,使我国一贫如洗,悲惨地落后于世界。我们是地球上最后一个仍然被剥夺基本人权的民族之一。而且,我国仍然依赖外国,失去了土地、海洋和岛屿。共产主义政权纯粹靠暴力和镇压来维持自己。
任何人都不能以一切手段,包括以暴力手段,否定反对这样一个暴政的权利。但是,我们坚决拒绝以智慧和爱国主义的名义进行暴力。越南也遭受了太多的破坏,无法接受新的内战,我们甚至不能接受共产主义后的混乱时期。最近的世界历史也证明,非暴力斗争是赢得民主制的最合适和最有效的方法。这就是我们选择的方法。
今天这个国家最大胆的特点是,所有越南人都同意党治独裁是祸害,争取建立多元化民主制是民族共识。然而,越南共产党仍然顽固地坚持专制主义,不仅完全错误,而且被谴责为对人类的犯罪,而且还肆无忌惮地赋予自己无限时间的统治权。共产主义政权的延续是对所有逻辑和越南民族荣誉的巨大挑战。越南的后代将无法理解这段历史,也不知道如何评价今天的人们。这个悖论有一个我们必须确定的原因,那就是缺乏政治知识阶层。由于儒家传统,我们只有具有政府工具功能的专业学者,而没有敢于和能够独立思考国家问题、敢于接受挑战为自己的立场而战的人,即政治知识分子。正是政治知识分子的缺失,使我们没有意识到结束独裁和建立民主是我国历史上最大的革命,没有看到要使这场革命取得成功必须具备或必须创造的条件。由于这种缺席,我们无法就民主运动的路线图以及每个阶段必须做的事情达成一致。
一、民主革命的四个充要条件
古往今来各国重大政治运动的历史表明,革命——从积极意义上理解为政权和国家方向的全面性变革——取得成功,有四个既必要又充分的条件:
第一个条件是,该国所有人都同意现有政权很糟糕,必须改变。第二个条件是,执政党或阶级,因为失去了对共同理想的共识,或者因为癌症,已经分裂、分裂,失去了一个组织的自我生存本能。
第三个条件是绝大多数人就新政权和新国家目标达成共识。
第四个条件是有一个符合全体人民意愿的政治集会,作为创新愿望的汇合点。
当然,从来没有一个条件是百分之百完成的,但在某种程度上,我们可以认为一个条件已经实现。
从我国目前的情况来看,可以肯定的是,前两个条件已经具备。全民已经厌恶了政权,迫不及待地等待着变革。人民对民主制的渴望越来越高;此外,民主转型越来越被视为自然和强制性的,它越拖延,对国家的损害就越大。不仅是人民,而且一大批共产党干部和党员也对共产党领导的惰性失去了耐心。
另一方面,共产党也被瓦解了。党的干部对社会主义失去了一切信心,把党的领导看成腐败的寡头,反之,党的领导也把广大党员评价为奸诈,能力素质不足。高层之间发生了非常严重的冲突。党内的统治心态是争强好胜,大家都活。共产党失去了一个联合体的意志和活力。现在的三百万共产党员,已经不是一个政党,而是一个分裂的统治阶级。
第三个条件也接近实现。包括共产党员在内的大多数群众都同意,越南未来的政治制度必须是一个多元化民主制,为每个人和每个人提供平等的立足点。大家一致认为,越南的经济必须是以私营为基础、以竞争为动力、以利润为兴奋剂的市场经济。此外,我们也意识到,这场民主革命必须本着民族和解的精神,以非暴力的方式进行。我们只缺少一个清晰透明的政治预案,它提出了国家的重大问题和解决方案。本着这种精神,这项政治工程是一项贡献。
我们终于看到了重要的联合努力的出现。一些来自不同政治历史的斗争面孔也逐渐为彼此和群众所熟悉。越来越多的人也认识到有组织斗争的必要性。民主力量聚集的条件越来越有利。
因此,剩下的工作是完成第三个条件,即就政治预案达成共识,并建立第四个条件,即形成强大的民主组合。可以说,我们已经走过了民主之路的四分之三。但剩下的道路,即建立一个政治集会作为民主愿望的聚集地,也是最困难的道路。原因是,我们遇到了一个强有力的联盟,一方面是一个极其顽固的执政党的严厉镇压政策,另一方面是一个在经历了如此多的失望和伤害之后已经分崩离析的民族的被动,这种被动是由于缺乏一个强大的民主组合而助长的。
二、民主运动的五个阶段
我们如何建立这个民主集会?各国和时代的历史也证明,一切革命斗争要取得成功,都必须经过五个不同的阶段。民主运动虽然在精神上是宽容的,在方法上是非暴力的,但仍然是一场革命斗争,因为它旨在改变政治制度和社会组织。因此,我们也必须通过这五个阶段的路线图,这是一条漫长而艰难的路线图,需要多年的不懈努力。
甲、建设意识形态基础
政治结合的意识形态基础,除了那些令人钦佩和尊重的价值观外,还包括一个政治预案,为预案中的选择辩护的理论,以及对战略斗争的共识。该预案必须是对国家背景的认真判断和时代最正确思想的精心综合。一个想要成功的政治运动需要建立在强大的意识形态基础上。意识形态的基础必须是一个足够美丽和可行的理想,既可以将所有志友们团结在一起,又可以为运动争取支持。当有一个被国家最有智慧的组成部分认为是严肃和可行的政治预案时,意识形态基础建设阶段可以被视为暂时完成。
乙、打造核心干部队伍
争取对政治预案的支持,组织人力资源和手段,使斗争取得成功,是核心干部的工作。在目前的民主运动中,我们面临着很大的困难,即政治上有能力的人既少又散。这样一个主要的努力应该是,一方面,千方百计地聚集那些稀有的元素,另一方面,努力培养新的核心干部。这项工作虽然难度很大,但也不能回避,因为任何政治斗争毕竟是干部之间的较量。一个政治组织必须始终尊重核心干部和成员总数之间的一定比例。健康比体质更需要。质量比数量更需要。在现代媒体允许一小部分人直接、频繁接触群众的当今时代,核心干部的作用更加重要。
丙、对设施的建设和审查
任何想要成功的斗争都需要设施。设施不仅仅是物理设施。媒体可以是组织、成员和同情者的贡献,也可以是联盟组织的贡献,还可以是动员国际组织、媒体、人权和新闻自由组织、特定背景下知名人士支持的能力。媒体可以以多种形式出现,来自各种来源。重要的是要预测和计划他们的准备情况。制定和审查手段至关重要,因为在政治斗争中,要么必须有必要的设施来实现他们的路线,要么必须很少执行提供手段的人的路线。
丁、建设群众基础
群众基础首先要理解为核心干部以外的集体成员。一个成员属于核心或基础团队的事实可能是由于政治资格,但也可能是由于其他原因:健康和可能花在斗争上的时间,以及一次家庭和个人情况。群众基础也是朋友的集体,特别是有声望的朋友。毕竟,群众基础也是组织争取的同情资本。努力建立群众基础主要是为了两个目的而进行的宣传努力:一是让群众相信需要为国家的共同解决方案做出贡献,但每个人都不能自己解决。个人问题通过个人解决方案;一是争取群众对组织的认同。当群众基础强大到足以成为大城市组织和人民之间的传递带时,就可以被认为是积极的。
戊、夺取政权的进攻
只有在上述四个阶段都已实施之后,即表示组织已足够强大,才可以思考夺取政权的前进方向,决定夺取政权的方法。事实上,越南民主人士必须从一开始就明确放弃武装解决方案,因为暴力夺取政权需要发动内战,这是所有越南人都必须明确谴责的。没有什么能用内战来摧毁一个国家,任何人都无权以任何名义发动内战。文明世界已经放弃了暴力作为政治斗争的手段,越南人民在经历了最近内战时期的痛苦经历后,不得不更加果断地拒绝暴力。越南民主派的战略是和平发展。那个战略意味着由于来自社会的压力,民主的胜利将到来。这种压力主要表现为两种形式;一是人们思维方式和行动方式的转变,让政权处于可笑的越位位置,政府的官方语言成了笑柄,各级领导为自己的职务而羞愧;一是群众逐渐放下恐惧,越来越能被鼓励参与大游行;在某个时候,政府将不得不做出选择,要么做出让步,要么因为群众站起来而被推翻。当然,我们希望共产党政府做出让步并参与民主化进程。
但如何激励群众。所有的研究和经验都表明,无论多么不满的群众,只有在满足三个条件的情况下才会反抗:
其一,每个人都有一种共同的命运,只能有共同的出路,但每个人都无法找到个人的解决方案;另一方面,人们一致认为,共同的悲剧来自一个明确的集体。换句话说,必须有两个明确的群体的意识,一个“我们的集体”是“敌人的集体”的受害者。在越南的情况下,这种情况意味着越南群众意识到共产党是造成当前糟糕局面的原因,全国只能有一个共同的解决方案,但每个人都无法找到个人解决方案。
其二,有动员和领导群众的组织;组织的核心作用是保持斗争的气氛,避免令人沮丧的错误。群众没有耐心。如果有不同的组织提出不同的呼吁,或者如果领导机构内部存在分歧,动员群众的努力就会失败。
其三,领导组织要足够强大,让群众坚信胜利。群众不浪漫。
在过去的几年里,发生了许多反对中国入侵或政府掠夺土地的抗议活动。所有这些抗议活动,如果目标是政权更迭,都远远低于必要的水平,即使是为了取得相对结果,因为它们都是错误的。群众动员只能是上述五个阶段中的最后一个阶段。此外,这些抗议活动不具备动员群众所需的三个条件中的一个。
五个阶段必须按顺序进行,但不一定是前一阶段必须完成,下一阶段才能开始。相枕。五阶段进程是指导行动的公式,它是必要条件,但不是充分条件。走错这个过程肯定会失败,但遵循正确的过程不一定会成功。成功与否取决于许多定量因素:思想基础有多大,干部有多有少,能力有多强,手段有多丰富。
一个非常重要的观察是,前两个阶段,即建立思想基础和形成核心干部,占据了一场革命的大部分时间和功劳。需要几十年的时间才能拥有一个正确、健康、群众共享的思想历史,一支几百人、几十人的干部队伍是真正的核心干部,掌握了基础。思想、领导、决心、技术和战斗纪律。但一旦这两个因素到位,本组织就可以依靠一个发展非常迅速的历史机遇,在几年甚至几个月内赢得主动。
我多元民主集合会的判断是,目前的民主运动只是在第一阶段和第二阶段的开始之间。但并不是因为这样,就可以悲观地得出民主胜利遥遥无期的结论。
三、民主运动的内容
从以上分析来看,本会努力争取结束独裁统治和民主制建设,将重点做好以下几方面的重点工作。
甲、唤醒群众对全国共同解决方案的必要性
巨大的潜力与民族的悲惨现状之间、广泛的民主愿望与极权统治的长期挑战之间令人愤慨的矛盾有一个主要原因:这是一种心态,为个人问题寻找个人解决方案。这种心态是几千年来人们完全没有发言权的历史文化遗产,不得不像命运一样忍受政府,并想方设法适应自己生存。扭动求生,一方面迫使人们接受做不诚实的事情,助长社会的腐败,另一方面使人们向政权妥协,为政权做出贡献,从而帮助政权生存,这是没有人想要的。
民主派的头一、重要和艰巨的用功是唤醒人民,必须有一个共同的解决方案,即政权更迭,但每个人都不能四分五裂,以个人解决方案解决个人问题。这种成功只会是微不足道的少数,如果有的话,成功也是暂时的,充满不确定性。
首先要推翻扭动主义,弘扬诚实、有价值、负责任地生活的意志。只要公众不相信所有越南人都在共同的命运中团结在一起,因此需要一个共同的解决方案,民主运动就不会成功,独裁政权就会存在,或者如果它因自身的崩溃而崩溃,它只会让位于比独裁政权更糟糕的无政府状态。
这场心理革命的主要困难在于它既需要推理又需要刺激,因此只有政治组合才能有效地动员起来。研究人员、思想家,甚至有声望的人物,如果有的话,也无能为力,因为他们独自站立的事实并不多,很少表明他们选择个人解决方案并使他们对常识的劝告失去了很多作用。我多元民主集合会了体会其在这一心理突破中的责任和作用。
乙、在思想理论上取得决定性胜利
在革命斗争中,思想理论的胜利迟早会导致政治胜利;相反,一个无话可说的政府也会被淘汰。目前,共产党政府在意识战线上已经完全混乱,但越南的民主相对诸派并没有取得决定性的胜利。多元民主的集合将继续在意识形态斗争中作出积极贡献,以彻底打破有利于独裁统治的谬论,并解除人民和部分民主人士之间仍然存在的干扰。这场意识形态斗争非常重要,即使在民主已经建立之后也是如此,因为它是改变思维和行动方式的核心运动,即改变历史的方向。
我们必须打破民主会导致混乱的论点。我们需要证明,民主是确保没有混乱的基本条件,是让社会在秩序中不断进化和创新的生活方式。我们需要申明,如果不打击腐败,国家就无法崛起,因为腐败破坏了所有计划、项目和工作。但世界上每个国家的经验都证明,一个人无法改善一个腐化的政府,只有一个解决办法,那就是用另一个政府取代腐化政府。民主是允许政府更迭而不引起混乱的制度;所以,对于像越南这样腐败严重的国家来说,民主是一个强制性的解决方案。
我们必须打破发展需要纪律、纪律需要牺牲民主、限制自由和人权的论点。需要向越南人民解释清楚,除了宪法和法律之外,没有任何国家纪律。越南人民还需要相信,民主、自由和人权不仅不是健康、持续和可持续发展的障碍,而且是不存在的条件;中国和越南等一些专制国家的初步进展只是部分放宽自由和部分取消专制管理的结果,如果没有真正的民主变革,很快就会达到极限。事实上,这两个国家的发展势头已经停止,因为中越两国政府拒绝进一步推动民主化改革。
我们必须打破认为东方社会不同于西方社会,因而不能接受个人自由、民主、人权等西方价值观的论调。自由、民主、人权是全人类的普世价值,并非西方独有。这些价值观存在于所有文明中,包括越南。西方国家的优势在于他们知道如何大力弘扬这些价值观,从而繁荣并超越世界其他国家。我们需要推动这些价值观向前发展。因为我们迟到了,所以我们需要大力和果断地推动它。
我们需要揭露亚洲文化价值观比西方文化价值观更有利于发展这一论调的谬误。在这种煽动性论点的背后,是为独裁政权辩护的意图。中国共产党政权试图恢复儒孔思想并非巧合,如果越南共产党政权做出回应也就不足为奇了。我们必须警惕挫败这个宣传计划。当然,亚洲文化有很多积极的一面,但消极的一面越来越严重。最发达的亚洲国家是通过接受西方人的民主思维、组织方式和办工方式而发展起来的,而不是通过否定西方、突出自身特色而发展起来的。此外,亚洲国家的文化和习俗差异很大,因此不能笼统地谈论东方或亚洲的价值观。
我们需要意识到,这些不仅仅是理论辩论。在为独裁政权辩护的诡辩背后,是严酷的监狱,是国家最宝贵的人民遭受的残酷迫害,而强大的少数人却肆意掠夺国家资源。
我们还需要强烈反对包括越南共产党政府在内的一些政府以否认或限制自由、民主和人权为借口的“经济主义”。经济不是一切,即使在纯经济领域,增长率也不是一切。十分之百的经济增长记录不允许一个政府沾沾自喜,然后将独裁政权强加于人民,尤其是当这种增长只是部分缩短自己造成的滞后时、并国家在文化、道德和环境等方面付出了非常沉重的代价时。我们努力让全体越南人民共享的国家目标是一个繁荣的社会,高度文化,合理分配国家收入,众人都有公平的晋升机会,人与人之间以及人与国之间的连带,每个人的自由和尊严都有保障,有能力不断崛起,自然环境得到保护和不断改善。
另一个非常重要的发奋是让所有共产党员和国家官员相信,他们绝对没有充分的理由牵掣党治独裁的终结,相反地,他们完全有理由为民主的胜利感到高兴。他们的荣誉、尊严和合法权利将得到尊重。更重要的是,他们摆脱了支持一个糟糕和欺诈的政权的罪恶感。他们将自豪地为推动国家前进做出贡献,为包括自己在内的每个人提供越来越多的福利。
试图争取共产党干部的回应在理论上并不难,因为他们中的大多数人也是政权的受害者,也非常不满。困难在于战争留下的心理遗产和共产党的粗暴统治。许多人不相信仇恨可以轻易消除,而无意识和不负责任的少数人的极端调门儿主张引起了更多的关注。因此,民主运动一方面必须坚决肯定民族和解与和谐的精神,另一方面必须雄辩地承诺不会有任何歧视措施。为此,民主队伍必须将所有政治历史的人聚集在一起。一个政治集会,无论多么善意和正确的路线,只由来自前国家主义派或前共产主义派之一的人组成,都是不可收拾的。
为了在思想理论战线上取得决定性的胜利,民主人士必须有正确的思想理论。第一个也是最重要的努力是让那些想为民主运动做出贡献的人、知识分子和群众相信,政治斗争永远不能是个人斗争,而永远只能是有组织的斗争。结束党治专政和建立民主制的斗争是一场非常艰难的政治斗争。它必须有组织,组织不能很快成型,它需要这么多年的聪明和坚持不懈的发愤。但组织建设是不可挽救的。专家、批评家、作家和艺术家等可以作为个人贡献有利于民主运动的信息、理论和情感,但他们不能击败独裁制,而独裁制与否在民主组织中。我们欣赏这些贡献,但也必须认识到它们的局限性。反过来说,这些人也需要看到自己的局限性,看到组织的必要性,即使他们有自己的理由不加入任何组织。不加入任何组织的政治斗争必须被视为例外,而不是惯例。
问题是,现时仍有很多人认为根本不加入组织便可以争取民主。有些人甚至为自己不属于任何组织而感到自豪,认为这是客观和正确精神的标志。应该提醒他们,这是一种非常错误的态度,对民主运动有害,也与他们自己的愿望相抵触。他们需要明白,个人政治斗争只有在极少数人拥有非常高的声望和资历或非常特殊的地位的情况下才真正有效,在几乎所有情况下,正面的效果都不等于负面的效果,即分散对最正确和最必要的努力的注意力,即建立民主组织。
另一个需要警惕的重大错误是,认为一个政治组织可以很快建立起来。这种轻率的信念导致了一种非常熟悉的情况,即每当政治环境对民主运动有利时,许多人就急于建立组织,最终结果是由于分散了对严肃努力的注意力而错失了机会。对革命成功的条件和必须经过的阶段的分析表明,一个严肃的政治组织只能是从完整的政治思想开始的多年聪明、持续和坚持不懈的努力的结果。实践经验也表明,在过去的四十年里面,成千上万的组织已经萌芽起来,但几乎都消失了,不仅如此,就连贡献了很多牺牲和赢得了很多声望的老牌政党,但也因为没有更新政治思想而消亡。缔造这样一个政治组织需要大量的智慧、努力和时间,包括运气。因此,不应鼓励建立新组织而不是为现有组织做出贡献的冲动。
同样重要的是要警惕一种误解,即只需要集中所有努力建立公民社会组织。诚然,公民社会的缺失一直是我们不如世界,使我们的人民对暴政独裁无能为力的主要原因。没有人否认公民社会的必要性,但必须正确看待其作用。每个真正的公民社会组织只能特别关注一个社会问题,因此在这个问题上拥有信誉的声音,但相反,它并不能完全了解所有的社会问题,也不能有政治野心。每个组织揭露独裁政权的错误,并对其特别感兴趣和经历过的地区施加压力,因此拥有权威的声音。公民社会组织的力量在于它们有明确的目标。它们是民主运动的宝贵支持,但它们没有领导民主斗争的功能。这就是政治组织的功能。
丙、组建民主阵线及争取自由选举
结束独裁制和建立民主制的斗争需要统一的领导,才能争取世界的支持,带来胜利的信心,并动员群众。特别是,如果民主运动分散到只有相互矛盾的呼吁和指示,动员群众的工作肯定会失败。
统一领导可能是一个在力量和威望上超越其他组织的组织,迫使其他组织合作,因为别无选择。其实,这种可能性几乎不存在。真正的解决办法是一个把真正的民主组织聚集在一起的民主阵线。
没有一个民主人士没有意识到需要一场强大的民主阵线或民主联盟。
这场民主阵线是越南民主相对诸派作为可靠的替代方案出现在世界眼中所必需的,避免了组织竞相争取政府和组织支持的情况。国际形象是一个分散和缺乏自尊的越南反对派。
这场阵线也是给予群众胜利信心的必备条件,从而能够动员群众,进而能够带领群众为共产主义政权而战。
这场阵线之所以能够建立,是因为时间已经过滤了意见,今天的意见分歧很小。
力争组建这场民主阵线的第一步是本着尊重的精神,就国际背景和国家现状、未来的基本选择、未来、需要解决的紧迫问题以及如何解决这些问题进一步促进直接接触和交流。正是通过这些交流,才能达成共识,才能找到赢得共识所需的人。
这一运动阶段应在国内外进行,同时努力向群众广泛传播多元化民主的理想。它旨在找到志同道合的人来结合行动。它还旨在了解和比较所有政治立场,以确定那些虽然意见不完全相同但仍然可以协调行动的政治组织。同样重要的是,它允许发现共产党为破坏民主运动而设立的冒充性民主组织。
这种民主阵线的结合必须超越过去留下的所有分离,本着诚实和完全民族和解的精神,完全面向未来。这种结合的力量主要建立在对斗争的目的和方法的共识以及相互信任的基础上。只要真诚地分享多元民主的理想,真诚地赞同民族和解与和谐的精神,并坚决拒绝暴力,这种结合就必须对所有背景的所有个人和组织开放。任何其他异议都可以妥协。
我们申明,这个民主阵线是反对一切形式的独裁制的阵线,其中共产主义独裁制只是一个,反对压迫,反对邪恶和欺诈。这个民主阵线绝不是过去冲突的延伸,而是一个面向未来的组合。它对所有政治过去和所有岗位的所有民主人士开放。但相反,它只对真正的民主人士开放。
为了发挥作用,与所有政治联盟一样,民主阵线将需要一个成员组织作为确保稳定的火车头。有了这个判断,我多元民主集合会,一方面会努力发展自己,使自己能够发挥主导作用,但另一方面将愿意将领导作用让给另一个比自己更有优势或相等的民主组织。
然而,认识到需要一个领导组织不能使我们忘记,占上风的伎俩只会使一个本身就很困难的局面进一步恶化。每个组织都必须将其努力视为对民主胜利的贡献。每个组织,包括由多个组织组合而成的大型组织,都必须将各个视为一个成分,一个组合的阶段越来越大。我多元民主集合会承诺始终遵循这一座右铭。
形式、战术和领导将根据情况灵活。当共产党政府做出让步并接受民主规则时,运动将是公开的,前线的领导机构将设在国内。只要共产党政府顽固地继续其镇压政策,国内的行动就会不起眼,领导机构就会设在海外。
在这两种情况下,我们都需要在全国和每个地区都有积极的存在。我们将利用每一个漏洞,抓住每一个机会,与每一个想要更新国家的人交朋友,以创造和繁殖越来越活跃、越来越公开的反对机构。一方面,我们努力打开共产党政府的隐蔽之门,利用国内外交流的流动,另一方面,我们利用一切举措,对政权施加越来越强烈和多方面的压力,在各条战线上攻击前共产主义集团,阻止其所有出路,除了真正民主的出路。
民主阵线的使命是争取民主和自由选举。在第一次真正自由的选举之后,这项任务被认为已经完成。是否继续,如有,如何继续,由成员组织决定。
这次自由选举将不能由共产党政府单独决定,单独举行。选举哪个定制、何时投票、如何投票、谁有权投票、谁有权参选,是越南民主相对诸派必须有发言权的决定。
唯有在所有基本政治自由都得到正式和庄严确认,与政治自由相抵触的法律被废除的情况下,才能进行自由选举。
自由选举必须本着民族和解的精神进行,超越现政府或环境造成的所有行政障碍。具体来说,在选举之前,必须释放所有政治罪犯并恢复其完全公民身份,必须消除政治犯罪记录,也必须承认海外越南人具有越南国籍、男性和选举权和被选举权。
自由选举也必须由一个有资格被视为有能力确保公平和诚实选举的政府举行。本届政府将欢迎公正的国际观察员在自由选举中不受限制地存在。
上述要求虽然很温和,也很合理,但肯定会遭到共产党政府的反对,因此必须在各个领域施加一切群众和国际压力,迫使共产党屈服,参与民主化进程。其实共产党别无选择。民主已经成为世界共同的游戏规则,新的民主浪潮正在汹涌而起,而中国这个最后的支撑已经动摇。他们只能选择成为不可避免底过渡的代理人或受害者。
自由选举的结果并不重要。即使共产党或它的化身以不同的名义获胜,它也不能再是一个专制的执政党;民主制已经建立,民主运动已经成功,大赢家仍然是越南人民。然而,随着国家的悲惨局势和共产党的责任——错误和罪行——通过民主讨论暴露出来,我们可以毫不畏惧地预测,共产党将在第一次自由选举中失败,甚至可能被抹去。此外,完全有可能的是,选举不会发生在共产党和民主组织之间,而是发生在共产党的剩余成员和民主力量之间,因为一旦原则上接受民主和自由选举,就可以肯定,相当一部分共产党员,包括共产党的一些基层,将脱离并加入民主的行列。
在争取自由选举和通过自由选举获胜的斗争中,我多元民主集合会始终主张消除仇恨,尊重每个人和所有政治观点,相互合作,一并建设越南的共同未来。这种民族调解与和谐的精神不能被同化为愿意与任何人勾结和同谋的态度。本会的态度非常透明。本会有明确的目标和路径,本会有执着的追求。本会将尽一切努力赢得自由选举。如果获胜,本会将与盟军政治组织一起在国家面前分担责任。如果不幸的是胜利掌握在其他立场的力量手中,本会将继续以一个正确和负责任的相对派的立场进行斗争。
与所有政治运动一样,这场斗争将需要许多妥协。非暴力抗议意味着接受通过阶段性妥协取得最终胜利。本会会接受阶段性的妥协,但不会害怕把自我丟掉,因为它已经有了根本的思想和大方向作为指导。本会将接受缩短民主路线图的阶段性妥协,但不会在三个基本立场上妥协:多元民主的理想、民族调解与和谐的精神以及非暴力抗议的方法。
捌、成功的民主过渡
一、过渡问题
在党治独裁统治结束后,我们将经历一个极其困难的过渡时期。在大约五年的时间内,我国将必须作出非常非凡的努力,克服极其艰巨的考验,才能成为一个正常国家,真正融入国际社会。
我们将不得不从一元论、中央集权、专制体制过渡到多元、散权和分权的体制。
我们必须用以私营企业为动力的市场经济取代以国有企业为基础的计划经济。
我们必须将腐败的政府机构、官僚主义、办公桌和党的工具转变为一个有效、负责任、健康、为公共利益服务的国家。
我们将不得不通过决议和指令结束任意管理,以建立一个真正的民主法治国家。
我们将不得不用公安秩序、安全和公民权利的公安机构取代被构想和组织为共产党镇压工具的公安机构;用独立的法院取代被视为公安延伸臂的法院,这些法院仅以表达法律为使命。
我们将不得不用客观、自由和优质的教育来取代宣传、灌输和缺乏质量的教育。我们认为教育培养是国家的生存之战。
我们继承了一个全面衰落的国家,抢劫猖獗,腐败已经成为一种制度,谎言和欺诈已经成为全国的反思,传染病肆无忌惮地蔓延,青少年文盲失学,民众情绪低落悲观郁闷,贫富差距暴露挑战,数以千万计的民众生活在赤贫之中,数以百万计的上访者多年来生活在愤怒之中,土地被剥夺后仅以征收价格补偿,生态环境遭到破坏和污染,主权甚至土地大量流失给外国人。我们将不得不把那个国家变成一个诚实和健康、纪律严明、拥有充分主权、信任、相互联系、具有经济韧性和吸引外国投资的国家。
我们继承了一个由战争和歧视政策留下的仇恨堆积如山的国家。我们将不得不在不造成新的崩溃的情况下修复崩溃。我们必须在不冒犯他人的情况下恢复被冒犯者的荣誉,在不制造新受害者的情况下赔偿受害者。
越南社会正处于严重的信任危机之中。人们有充分的理由将政治同化为统治,将商业同化为牟取暴利。过渡时期必须是持续努力使群众与政治和商业和解的坚定和令人信服的第一步。它必须开辟一种新的政治运作哲学和新的经商方式,政治家是选择服务社会而不是致富的人,企业家是知识渊博、富有创造力、敢于和敢于冒险的人。
我们需要确定:问题不是找到一个可以使国家富强的神秘公式,没有这样的公式。问题是从国家的现实和世界背景中找出需要优先解决的问题并提出答案。
这个过渡时期的目标是为一个诚实和负责任的民主政府奠定基础,在五年内将国民产出翻一番,同时改善环境和社会关系,消除一切仇恨嫌隙,缓解心理堵塞,真正使和谐的越南走上进步的轨道。这一目标是可以落实的,而且必须通过不与所概述的主要方向相抵触的政策和措施来实现。
我们有太多严重和紧迫的社会和文化问题需要解决,但我们只有非常有限的资源。如果我们在这些问题上花费太多资源,我们将没有资源用于经济发展,我们将陷入饥饿。反之,有如此厉害的社会和文化问题,如果不解决,所有的经济努力都将被摧毁。我们必须认识到一个残酷的现实,即我们将不得不在许多年内生活在极端贫困中。在预算紧张的情况下,我们将不得不确定问题的优先次序。指导性精神是紧急解决对民族调解、社会安全和经济发展至关重要的问题,其他问题将在经济能力允许的情况下尽快以不同的优先顺序加以解决。
二、政治措施
甲、把政府还归给人民
所有爱国和明智的越南人都必须希望民主制转型在和平与秩序中进行,本着民族调解与和谐的精神。我们将尽一切努力让共产党参与民主化进程。但在任何情况下,过渡时期都将从《越南共和国临时宪法》开始,该宪法将政府交还人民,并隆重地确认基本自由,包括言论和新闻自由、建立和加入组织的自由、选举和被选举权以及土地所有权。该临时宪法将概述建设多元化民主制越南的主要方向所包含的原则,并将指导过渡政府的所有行动,直到越南共和国新宪法通过表决并生效。
要做的第一件具体事情是将政府、军队和公安的机器非政治化。出差人和武军人有权加入政治组织,但不得从事政治活动。在国家的一切行政、安全和军事机关中,一律禁止党的活动。行政、军队和公安等机构必须是非政治工具,完全独立于所有政党,绝对尊重宪法,绝对服从所有民选政府。军队和警察将回归保卫国家、维护秩序和安全的崇高使命,因此需要与所有商业活动完全分开。目前由军队和警察拥有的公司将被剥离撤出。在这些公司工作的人,如果愿意,可以退伍继续工作。
军队将在装备和训练方面进行现代化改造,同时也将精简军队。国防预算将主要优先加强海军和空军。
共产党为冒充和控制民间社会而设立的外围组织——无论是以阵线、工会还是协会的名义——将失去所有官方角色和利益,如果继续存在,将只是在法律面前与任何其他民间社会组织平起平坐的普通协会。
乙、实现民族调解与和谐
必须立即开始并持续多年的一项努力是执行民族调解与和谐的路线。民族调解与和谐是过渡时期的国策,也将是越南此后的政治理念。民族调解与和谐需要公平对待过去,尊重未来。
任何政治罪犯都将被释放并立即恢复公民身份。
由于政治原因、资产阶级斗争政策、土地改革或作为南方公务员被监禁或羞辱的人将恢复荣誉,并至少象征性地获得损害赔偿。
国家将以国家连续性的名义为过去的错误承认,特别是对那些在任何级别、任何时期都枉死去的人。
因政治原因被没收财产的人,由国家偿还,真正的偿还将根据国家的经济能力随着时间的推移逐步执行。
如有证据表明他们受到不公正的审判,所有公民都有权要求国家审查他们或他们的亲属作为受害者的判决。被证明背弃法律和职业良知故意作出命令不公正判决的法官,不得再执业法官,严重者可被起诉。
所有被剥夺土地的公民都有权要求政府审查其案件,以便或归还土地或获得更适当的补偿;他们也有权举报滥用公共利益名义强行低价卖地牟利的行为。
如果他们愿意,海外越南人将被承认为越南国籍,给予他们以及他们在国外出生的孩子。
将设立一个专门的部级机构来执行民族调解政策,特别是接收和处理人民的投诉和索赔。议会的一个委员会将负责确保所有法律和条例不与民族调解与和谐的国家政策背道而驰。将设立一个独立于政府并由政党代表、宗教代表、族裔代表和民间社会知名人士组成的民族和解与和谐理事会,以监督民族调解与和谐的实施。
国家将禁止任何报复性报复和歧视行为。所有越南人,无论过去如何,在义务和权利方面都受到平等对待。原则上,所有公务员和军事人员都将保留在他们目前的职位上。任何人事变动都必须有客观和正当的理由。
民族调解与和谐的实施将需要很长时间。国家的一切措施都必须始终表现出善意,真正弥合过去留下的裂痕,让所有越南人都满意地握手建设国家。
为了使民族调解与和谐政策有正当的基础和力量,将起草一项关于民族和解与和谐的法律,供全体人民通过全民投票进行表决。
丙、颁布越南共和国新宪法并修改法律
这部宪法将由制宪会议投票,制宪会议是第一个选举产生的机制。本宪法符合选定和提出的多元化、议会制和散权政体,不得包含任何主义、宗教或政党的提法。它还将肯定越南果断和全面融入国际社会;联合国《世界人权宣言》及其所附公约应被视为越南宪法的组成部分。死刑将被废除,因为它是反文明的,它实际上没有其野蛮性可能误导我们的效果。“叛国罪”将在越南法律语言中删除。在新宪法表决通过后,立法议会——在情况允许的情况下,甚至可能是制宪会议本身——将对基本法律进行表决。起草这些基本法律的指导精神是简单、明亮、易于理解和在国家背景下受到尊重。最初的法律不一定是完整的。重要的是为国民生活奠定健康的基础,然后法律将得到补充,使其越来越完整和完整。将审查现行法律;一些新的法典可能来自现有的法律,因为它删除了对社会主义和共产党的提及,以及反民主或违反宪法自由的规定。
丁、开端将散权制付诸实践
紧接着,有必要将权力分散到政治活动中。这意味着需要一项领土组织法,规定各地方的权限、各地方的数目、各地方的边界以及选举和建立地方政府的历程。指导原则是,这些地方将包括彼此接壤的现有省份,在地理、交通、种族结构和经济功能方面必须相当同质,并且必须有足够的面积和人口,才能成为生存和发展的实体。民主党政府寻求并努力通过分权政策实现的一个重要目标是显着减少目前河内和西贡两个城市的过度人口集中。
戊、为越南人民保留越南国土
多年来,共产党政府视而不见,甚至故意让许多具有战略价值的土地落入外国人手中。这种土地买卖,有时是通过应名儿所有者的越南人的中介进行的,对国家来说是一个巨大的损失。许多具有高度战略意义的流域被政府长期租借给外国,几乎成为越南领土上的外国地区。许多几乎是外国人自己的生活区也在实践中形成。这种情况是不能容忍的。有必要审查土地转让,以防止向外国人出售黑幕土地。非法转让的土地予以收回,情节严重的,可以无偿没收。
一项既能调和吸引资本又能为越南人保留越南领土的措施是,不仅允许而且鼓励拥有越南国籍的海外越南人购买房屋和土地。这也是将海外越南人与祖国联系起来的一项措施。
更重要的是审查共产党和国家与外国签署的条约,特别是内容尚未公布的条约。仅越南共产党与外国签署的条约将立即宣布无效;由共产党国家代表签署但未经国民议会批准或向人民宣布的条约也将被否定。只有符合国家利益的条约才能在必要时重新谈判后得到维护。
二、社会文化措施
摆在国家面前的最严峻和最紧迫的问题不是经济问题,而是社会文化问题。
甲、加强安全秩序
尽管没有内战和内乱,但今天的越南实际上正逐渐成为世界上最不安全的国家之一。第一个安全威胁是共产党和其政府。非法逮捕、监禁和残酷殴打等已成惯例。缺乏安全也是由于流氓分子越来越多和越来越猖獗,在许多情况下有公安力量的掩护。当然,社会弊端是当前社会僵局的自然产物,肯定会随着希望和信念的回归而减少,但无论如何,我们的国家仍然会不稳定。新成立的民主政府。确保安全和秩序并不意味着限制自由,而是真正自由的强制性条件。
法律应该是严格的,而不是苛刻的,尤其不应该是暴力的。
每个成年后的越南人都获得身份证和旅行证件,有权随心所欲,在领土或国外自由行动。
法律不明确也是犯罪的一个原因。未来,我们国家需要一部非常简单、易于理解和尊重但对违法行为也非常严格的法律。
政府现在有很多公安,但公安人士主要用于保护共产党的政治垄断,而不是保护秩序安全,用于压制民主和自由的愿望,而不是防止社会弊端。所以,即使在过渡时期,很大一部分情报和政治保护警察机构也将转移到保护秩序、安全和环境的力量。这种安全秩序的加强主要是对安全机器的改革。这种改革不仅不花钱,而且可以为预算节省很多。一个真正民主的、不需要镇压反对派的越南政府,可以减少安全预算,同时大大加强社会秩序。
乙、克服贪污和社会弊端
我们目前正在目睹共产党政府与被国家官员掩盖的非法商业团伙之间的模糊关系。走私、逃税、非法经营成为常态。这种情况必须停止,因为它是对国家的挑战,是对预算的巨大损失,也是对正当商业的危险障碍。
反贪污将是过渡时期的最高优先事项,因为如果不打击贪污,任何国家政策,无论多么完整,都将失败。今天的腐败贪污已经达到令人窒息的程度。贪污的主要原因首先是官员任免完全不受群众和民意支配的极权专制的本质。此外,国家机器铺天盖地、臃肿不堪,规则繁琐、矛盾,允许主观、偏颇、武断的解释,助长官官相护的帮派勾结。
共产党政府是腐败贪污的根源,因此一旦民主政府取代共产党政府,就会迎来打击贪污的有利时期。过渡政府的问题是给贪污以致命的打击,之后不让它卷土重来。腐化是对公权力的滥用,因此,要打击腐败贪污,首先要减轻国家权力的重量,也就是说,要用轻国家、有限权力取代沉重的、全能的国家机器。然后需要一个简单、透明的法律,让人们确定他们可以做什么,不能做什么,不再是国家官员的人质。为了标志着民主政府的新阶段,它必须采取令人印象深刻的措施,例如绝对禁止公务员在任何情况下接受礼物,强制所有公务员每年申报资产,迫使 所有机构定期审查以击防贪污的结果等。
民主制政府将打击歹徒。他们在任何情况下都不会因任何原因受到任何宽容。
打击腐败,打击走私等社会弊端,需要决心,更需要全民的信任和支持。在这场艰苦的战斗中,我们的盟友之一是言论自由。在一个真正自由的政权中,腐败贪污和对人民的压迫,如果不彻底消除,也必须减少到低水平。对自己所有权利了如指掌的自由公民的痛斥,是最有效的反腐武器。
任何倡议都将受到欢迎,以争取全体人民对使这个国家健康的努力的积极响应。
丙、彻底废除所有审查检阅政策和措施
临时宪约和新宪法随后将庄严承认书籍、报纸和文化产品等的创作和出版自由,并禁止任何具有审查性质的法律。在未来的越南,言论自由不会有任何限制。法律只会制裁公然呼吁暴力、侮辱公民或公民组织的荣誉和权利并被这些个人或组织起诉的言论。这种公民协会将在保护文化健康方面发挥关键作用。我们不要忘记,公民社会是多元化民主体制的基础。
丁、确保教育的客观性和所有公民的最低文化水平
不会出现国家强加官方教科书的问题。编写教科书的权利不受限制,选择教科书的权利完全属于教师。一个独立于政府的机构,来自教师,将起草第一批教科书,然后有权向教师介绍但不向教师强加合格的书籍,足以用作教学书籍。教育是国家非常昂贵的战略投资,必须纯粹以传播知识、拓展智慧为目标,不能用于单向宣传。
特别注重越南语教学。这是我们无法挽救的,因为最低限度的文化水平和最低限度的沟通能力既是经济发展的必要条件,也是社会稳定、人民之间和平的必要条件。
多年来,共产党政府几乎完全放弃了教育的所有努力。我们失去了很多学生,各级教育的质量严重下降,特别是自从共产党政权实行狂野的市场经济政策以来。必须强制教育和免费教育至少到高中第三年级结束。预算很可能不允许招聘所需的教师,在这种情况下,我们需要发起一场全国性的文化运动,学生帮助教学生,高年级继续教低年级。自愿或象征性的报酬。还应看到,教育行业的悲惨现状并非难以克服。目前教育的恶化主要是由于共产主义国家的政策。教育被视为为国家赚钱的服务,而不是对未来的投资。共产主义国家也不区分教育和宣传。学生被灌输了教师和学习者都知道是错误和无用的知识。此外,经济僵局和社会腐败使青少年和家长不知道该学什么。所有这些事业都将在一个尊重自由、尊重人民并将教育培养视为国家生存斗争的政权下消失。
戊、改善环境,把国家组织成大城市
我们是一个遭受如此多破坏的国家,因此我们必须谨慎地保管和维护我们的历史遗迹和景点。这些是宝贵的资产、自豪的源泉和将越南人民联系在一起的纽带。这些古迹的修复成本不会很高,因为数量很少,对国家来说也可能不会太高。我们将把一些具有旅游价值的古迹和景观的开发权和维护义务招标给越南私营公司,并将一些宗教古迹委托给教会。
我们国家地广人稀,所以必须像大城市一样构思和组织起来,即干净、美丽、安全,基础设施、行政、法律、文化、教育机构,医疗保健遍布全境,而不是像今天一样专注于大城市——尤其是河内和西贡,森林被照顾成公园、聚会场所和平等公民的娱乐场所。
要规范并严格执行施工标准,防止不安全施工或乱建破坏景观。旅游业将是一项重要的经济活动,如果我们的国家不美丽,我们很难想象旅游业会成功。
目前无组织的捕捞政策严重减少了我们的海产品资源。我们需要立即制定简单、透明和彻底适用的法规来拯救海洋和海鲜资源。滥砍滥伐和出售木材的运动——仍在继续——有可能使我们国家变得荒芜;这一运动必须立即停止。恢复林木既需要大量资金,也需要定期保护和照料,因此国家预算可能负担不起。有必要研究将每个林区和每片森林承包给越南私营公司进行恢复和开发的解决方案,并有明确的利益和承诺。
在努力发展工业的同时,还必须对如何处理废料有明确的规定。
立即永久暂停中部高地的铝土矿开采项目。
在没有找到安全的废物处理技术并且越南无法确保工厂运营的绝对安全之前,暂停核电站的建设项目。
三、经济措施
在经济上,一个民主政府必须做的首先件事是结束其通过决议、公告、决定和指示的统治,代之以明确、粲然和稳定的法律。一套新的商业法是必不可少的,也是迫不及待的。同时,我们需要将国家努力集中在紧迫的问题上。
甲、剥离大部分国有企业和土地私有化
国家没有生产车辆、销售服装、开办旅行社和食品商店、管理旅馆和迪斯科舞厅的职能。国有公司和国有农场破坏了冒险精神,停滞了主动性,失去了责任感。我们将自营职业视为国民经济的基础,因此剥离国有企业和土地私有化是过渡时期的一项核心政策。市场经济转型国家的经验表明,撤资必须提高警惕,避免投机、分散国家资产、恶化需要撤资的企业。
我们将立即剥离所有可以剥离的国有公司和企业,即在没有国防机密的行业正常运营,为经济注入新的活力。
我们将立即按照将所有权归还给在我们土地上耕种的人的原则推进田地私有化,视情况而定,将国家分配的土地无偿或转售给农民。明确取消国家统一土地管理政策。
国有剥离和土地私有化政策的指导原则是,私人能做的,国家不会做。该政策将在五年后基本完成。
乙、最大限度地鼓励投资含来自国外的投资
逐步废除现行的投资和企业法,因为它们过于束缚,而且由于它们赋予外国人越南人所没有的权利,它们也将国内居民与居住在国外的人区离间起来。未来,外国投资者将拥有他们拥有的所有权利,并将拥有比今天更多的自由,但将无法拥有越南人民没有的权利。完成所有公司设立程序的时间不会超过一周。有必要意识到投资支持法的相对价值。如果特权是短期的,投资法只能吸引表面的投资,如果投资特权是长期的,投资法将倾向于成为常态。此外,投资决策很少取决于激励措施,在很大程度上取决于政治和经济背景。
丙、着力推进两项战略交通工程
在加强和改善基础设施的努力中,我们必须立即开始并必须持续多年、分多个阶段的两个重大工程是按照标准进行现代化和扩建的工程。连接河内和西贡的《跨越高速公路》。这些工程既对经济活动至关重要,又具体化了国家的统一,并在整个领土上创造了许多就业机会。与我国的需求相比,目前对这两个工程的预期仍然很低,但大部分活动都集中在这条交通轴线上。这两个工程的扩建和现代化对于金兰港的建设和运营项目也是必不可少的,这是我们将大力开展多年的重点工程,为国家和中部地区带来经济实力,该国最有前途的地区由于其沿海位置,但目前是最不开放的地区。
凭借我国非常特殊的形状以及最近艰难的历史时期,跨越高速公路必须既是主要的交通轴线,又是一个伟大的景观,是国家良好和可持续统一的象征。
四、复兴努力的资金来源
再谦卑的复兴计划也需要大量的费用。过渡时期的目标也非常雄心勃勃。我们会有很多困难,但我们也会有资金来源。
首先,结束共产党政府造成的浪费,其中最大的浪费是越南共产党自己造成的。目前,数十万人只为共产党的机构工作而获得报酬。数以千计的房屋和房间被非法占用为党的细胞的总部和办公室。腐败的干部和党员利用他们的权力,侵吞了国民总产值的重要组成部分。在共产党必须接受与其他政党平等的正常立足点的未来,国家将节省大量预算,释放大量人力资源并收回大量资产。
第二个资金来源是国家安全预算减少。我们无意征服任何国家,反之亦然,我们不再担心被军事征服。边境、海洋和岛屿的防御也不需要像今天这样庞大的步兵部队,而是一支精锐的机械化部队,主要是空军和海军。共产党国家目前的公安机构——官方和辅佐——可能由超过二百万人组成,但首先是为了保护共产党和压制民主愿望。一个真正的民主制国家不仅可以降低成本的重要组成部分,还可以提高其保卫领土和维护安全秩序的能力。
第三个资金来源是国有企业的剥离。如上所述,四合院政策的主要目的是使经济活动合理化和健康化。然而,剥离计划也将提供重要的资源。
第四个资金来源是在建立真正的民主政权后,海外越南社区更积极地做出贡献,符合海外同胞的深切愿望。拥有超过三百万人口的海外越南人,其中大部分居住在发达国家,年收入超过五百亿美元,每年可节省一百亿美元。但海外越南社区不仅是一个投资来源,而且可以在文化、科学和技术方面做出其他重要贡献。一旦与国家的关系正常化,海外越南社区将成为国家发展的重要杠杆。
但最重要和越来越丰富的资金来源是经济发展本身。目前,许多职业瘫痪,许多人才因被禁止或骚扰而被淘汰。在真正的民主和法治的保障下,将真正的商业自由还给人民,我们已经释放了许多新的活力,可以等待新的贡献。这种正确和诚实的经济政策也将能够调动人民中剩余的财政资源。没有什么力量比我们将通过释放和调动一个近一亿勤劳的民族的活力而拥有的力量更大。我们有权等待迅速和巨大的成就。在过渡期的五年内实现国民总产值翻一番的目标需要每年十五分之百的增长率,但这是一个触手可及的目标,因为我们是一个沿海国家,地理位置优越,人民勤劳,吸引外资的能力很大。这是即使是中国沿海省份在共产党统治下也能达到的比例。而且,我国还有很多未开发的潜力。我们落后不是因为客观困难,而是因为共产党政府的糟糕和腐化。
五、民主制过渡将成功,国家将崛起
我们有希望和乐观的权利。我国虽然跌跌撞撞,但仍有爬起来走过来的能力。
我们不需要期待奇迹或恩典。我们可以为自己创造奇迹,我们可以简单地给自己恩典。
使越南人民之间的关系正常化。郑重确认国家属于每个人,而不是单一政党或主义。承认所有个人和每个人的平等地位。解开仇恨和不容忍的枷锁,像兄弟一样互相凝视。为一个诚实和善良的国家带来乐观和信心。为私有财产权和经营权提供明确、可靠的保障。严格执行诚实讨论和规定的法律。决心铲除正在破坏国家肌体腐败和社会弊端。所有这些我们都可以做到,而且可以马上做到。然后我们会看到这个国家变了,然后我们会看到这个民族站起来征服未来。我们将发现自由、民主、国家和谐等非常简单的价值观的奥秘。即使在困难的技术、文化、社会和人事等条件下,我们也会看到一个成功的法治民主,因为它具有自我调整和改进的能力。国家一定会站起来,挺身而出,非常有力地前进。
玖、分享一个越南梦
如果我们能在建设共同未来的事业中调动所有的心、所有的脑、所有的手,我国就有能力成为一个强大国家。然而,可悲的现实是,今天我们仍在努力争取大多数民族已经拥有的东西:民主制。
这场斗争比我们想象的要长,因为除了已经确定的困难之外,还有一个原因:这是我国历史上一场全新的斗争。到目前为止,我们只有主权国家之间的内战,或者反对外国侵略者的战争,其目的毕竟是用外国奴隶制换取本土奴隶制。我们从来不是一个自由的民族。这一次,我们为开启一个新时代、我国历史的第二个纪元、自由越南人民和民主越南国的纪元而奋斗。
这是一场将越南人民和越南国家从奴隶制和贫困的黑暗中带入自由和繁荣之光的斗争。我们第一次有一场真正值得打的战斗。因此,今天的越南人民需要意识到,他们正面临着创造最大、最光荣的历史事件的机会,这是子孙后代无法拥有的机会。
我们面前的考验是巨大的,但激励我们的希望是更大的,因为这场斗争不仅是值得的和光荣的,而且是必然的。我们被全球民主思潮和一个逐渐从创伤中恢复过来的人民的共同愿望所承载和推动。我们得到了新一代人的支持,他们解放了自己,决心成为自由人。障碍的背后是光明的未来。
我们一定会成功的。越南民族在为仇恨和分裂、对权势的垄断、对暴力的狂热和崇拜付出了沉重的代价后觉醒了。我们用鲜血和泪水理解并接受了简单而神秘的价值观,例如自由、民主、和平、正义、宽容和努力等等。我们在自卑的普遍屈辱中,灌输了民族情怀。我们已经认识到,所有越南人都有着共同的命运。我们拥有自我们老祖宗开国以来最大的民族共识。这种共识将成为帮助我们克服所有障碍的不可战胜的武器。
世界历史最大的教训是,一个民族想要崛起,只需要三个因素:自由的社会、勤奋的人民和民族共识。我们是一个勤奋的民族,已经有了民族共识,即将拥有自由。我们要上去了。我们有权利在通往未来的旅途中保持乐观。
乐观和自豪,因为我们的斗争是纯洁的。它不是为了摧毁或羞辱任何人,而是为了尊重每个人、尊重作为我们人民应得的伟大民族的人权和享受幸福的权利而进行的斗争。
这次独裁制将是越南末后的独裁制。摆脱它,我们将永远进入一个新时代,一个自由、民主、宽容、关怀的时代,一个共同努力、共同成功的光辉时代。
让我们手牵手,举起一个咒愿:
越南将成为一个大国。
到目前为止,做越南人是一种不幸,在不久的将来做越南人将是一种喜悦、一种幸运和一种自豪。
世界已经知道越南是仇恨和分裂的受害者,是对权势的垄断,世界将来必须知道越南是宽容的土地,是成功的典范。从残败和废墟中恢复的兄弟情谊的成功。
那是我们这个时代的理想。那是我们留给后代的遗产。这是我多元民主集合会的志友们今天和明天共同追求并希望与国内外所有越南人民分享的越南梦想。
Ngày 1/9/1858 Pháp nổ súng tấn công Việt Nam tại Đà Nẵng với 14 tàu chiến và 3000 quân (trong đó có 500 quân Tây Ban Nha). Nhà Nguyễn dồn quân về chống đỡ và cầm cự được 5 tháng. Quân Pháp quay vào Nam tấn công thành Gia Định. Quân nhà Nguyễn thua và kết quả ngày 5/6/1862 vua Tự Đức phải ký hòa ước với Pháp đồng ý cắt 3 tỉnh là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường cùng quần đảo Côn Lôn cho Pháp. Các thương gia Pháp, Tây Ban Nha được tự do buôn bán, đi lại, truyền đạo, nhà Nguyễn phải bồi thường chiến tranh 4 triệu đồng bạc (khoảng 300 nghìn lạng bạc)..
Việt Nam đã tụt hậu hàng trăm năm khi người Pháp nổ súng xâm lược nước ta.
Chúng ta cũng không quên hai lần Pháp đánh thành Hà Nội năm 1873 và 1882. Quân Pháp chưa đến 200 người và một ít lính đánh thuê đã dễ dàng đánh bại quân giữ thành chỉ trong một giờ đồng hồ. Đáng nói hơn nữa là chỉ một viên sĩ quan Pháp và 7 người lính cũng lấy được thành Ninh Bình.
Chúng ta cũng từng nghe câu chuyện đi Pháp của sứ bộ của nhà Nguyễn vào năm 1863 do Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản dẫn đầu. Sau khi về nước họ đã kể lại cho triều đình Huế nghe nhiều chuyện lạ tại Pháp trong đó có chuyện "đèn treo ngược vẫn sáng" (có lẽ đây là đèn chụp thắp bằng gas), nhưng không ai tin và cho rằng đoàn sứ bộ đã bị "mê hoặc"…
Kể lại những câu chuyện lịch sử này để thấy Việt Nam đã tụt hậu như thế nào khi người Pháp đặt chân đến nước ta. 80 năm sau, dù được người Pháp "khai phá văn minh" cho rất nhiều nhưng có một lĩnh vực người Việt Nam vẫn không theo kịp đó là lĩnh vực chính trị. Chỉ có một người duy nhất là Phan Châu Trinh nhận ra rằng không thể dùng vũ lực để chống lại Pháp vì quá chênh lệch về trình độ và lực lượng. Tất cả những người khác đều chủ trương dùng bạo lực để đánh Pháp từ Phan Bội Châu đến Hồ Chí Minh.
Năm 1945 Đảng cộng sản dành được chính quyền nhờ một vận hội lớn là phe đồng minh chiến thắng phe phát xít trong chiến tranh thế giới II. Một trật tự thế giới mới được hình thành với việc chấm dứt chế độ thực dân, trao trả độc lập cho các thuộc địa. Đảng cộng sản vì không có kiến thức về chính trị nên đã tiếp tục "kháng Pháp, chống Mỹ" thêm 30 năm (1945-1975) để thống nhất đất nước.
75 năm dưới chế độ cộng sản, kiến thức chính trị của người Việt Nam tiếp tục bị giam hãm và kìm nén thay vì được giải phóng và khai sáng để bắt kịp với dòng chảy của thời đại. Cho đến bây giờ, dù Đảng cộng sản đã vấp phải hết sai lầm này đến sai lầm khác và dù nhiều người đã nhận ra rằng Đảng cộng sản không còn là một giải pháp cho đất nước… Tuy nhiên Đảng cộng sản vẫn tiếp tục tồn tại một cách thách đố, tại sao như vậy ? Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (Tập Hợp) đã đưa ra câu trả lời từ rất lâu nhưng vẫn không được trí thức Việt Nam chia sẻ. Lý do : Người dân nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng đã tụt hậu rất nghiêm trọng về chính trị.
Không chỉ người Việt Nam trong nước mà ngay tại Mỹ thì tình trạng đó cũng không khá hơn bao nhiêu. Theo khảo sát của một cuộc thăm dò tại Mỹ (của APIA Vote, AAPI Data, và Advance Justice-AAJC) trong hai tháng 7 - 9/2020 với nhóm cử tri người Mỹ gốc Á về sự ủng hộ đối với hai ứng cử viên tổng thống Mỹ trong cuộc bầu cử ngày 3/11 tới đây thì có 48% người Mỹ gốc Việt ủng hộ Donald Trump trong khi đa số các quốc gia khác đều ủng hộ ông Joe Biden. Cũng theo cơ quan thăm dò này vào năm 2018 thì có đến 64% người Mỹ gốc Việt ủng hộ cho Donald Trump. Cộng đồng người Việt tại Mỹ đi ngược lại với tất cả các sắc dân khác đang sống tại Mỹ. Điều này minh chứng cho sự tụt hậu về chính trị của người Việt Nam.
Hiểu biết chính trị của người Việt tại Mỹ ngược lại với tất cả các sắc dân Châu Á khác đang sống tại đây.
Chính trị là "việc chung" của đất nước mà mọi người đều có trách nhiệm tham gia, đặc biệt là tầng lớp trí thức. Trách nhiệm của trí thức ở đâu và thời nào cũng vậy đó là phải "hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng". Trí thức Việt Nam bị tụt hậu về chính trị nên hệ quả kéo theo là sự tụt hậu của quần chúng. Tụt hậu lớn nhất của trí thức Việt Nam là thiếu kiến thức về chính trị (do không muốn, không chịu học hỏi) vì thế họ không hiểu gì về đấu tranh chính trị. Từng có ý kiến cho rằng Tập Hợp không làm gì, không có "hành động" gì mà chỉ nói, viết và... "há miệng chờ sung", điều đó không đúng. Chúng tôi ít ra cũng đã xây dựng được một dự án chính trị để làm kim chỉ nam cho các hoạt động của tổ chức vừa để trình bày cho người Việt Nam biết được chúng tôi đề nghị những gì. Chúng tôi cũng đang tìm kiếm và xây dựng đội ngũ cán bộ nòng cốt cho tổ chức song song với việc bền bỉ thuyết phục, vận động quần chúng Việt Nam ủng hộ cho dự án chính của chúng tôi bằng các bài viết thường xuyên được đăng trên các kênh truyền thông của Tập Hợp. Trong gần 40 năm qua chúng tôi chưa từng nói dối hay lừa gạt bất cứ một ai và cũng chưa từng nhận tiền tài trợ của bất cứ tổ chức nào. Các nhận định và phân tích về thời cuộc của Tập Hợp chưa bao giờ sai. Không ít lần chúng tôi còn đi trước cả dư luận thế giới…
Trí thức Việt Nam, đa số chỉ biết chỉ trích chế độ cộng sản và họ xem đấy là "khai dân trí". Họ lập luận rằng dân trí cao thì mới có dân chủ, hay dân trí trước - dân chủ sau. Chẳng có gì đảm bảo và chứng minh cho lập luận này cả. Nước Anh có dân chủ vào năm 1645. Nước Mỹ dân chủ ra đời năm 1776. Hà Lan có dân chủ từ năm 1848… Chẳng lẽ người dân các nước đó vào thời điểm cách đây hàng trăm năm lại có "dân trí cao" hơn người dân Việt Nam hiện nay? Thực sự là các nước đó có dân chủ vì trí thức của họ xuất sắc, còn Việt Nam chưa có dân chủ là vì trí thức Việt Nam kém. Đừng đổ lỗi cho người dân. Dù chính trị là "việc chung" nhưng trách nhiệm chính là thuộc về tầng lớp trí thức.
Một số trí thức Việt Nam khác thì chỉ biết năn nỉ và van xin chính quyền. Họ hy vọng là có vị lãnh đạo nào đó nghe được đề nghị của họ rồi thay đổi đất nước cho tốt hơn. Điều này vừa vô ích vừa bất khả thi vì chính ông Boris Yeltsin, cựu tổng thống Nga thời hậu cộng sản Liên Xô đã nói "chế độ cộng sản chỉ có thể đào thải chứ không thể sửa chữa".
Boris Yeltsin, cựu tổng thống Nga thời hậu cộng sản Liên Xô đã nói "chế độ cộng sản chỉ có thể đào thải chứ không thể sửa chữa".
Cũng có một số trí thức khá hơn thì vạch ra một vài lộ trình dân chủ cho đất nước. Chưa nói đến việc những lộ trình này khả thi hay không thì chỉ riêng một việc quan trọng mà họ không đề cập đến khiến mọi đề nghị của họ đều dẫn đến bế tắc đó là việc "xây dựng lực lượng". Nếu phong trào dân chủ không có lực lượng thì đừng bao giờ mơ có dân chủ cho Việt Nam kể cả khi Đảng cộng sản tự sụp đổ. Tập Hợp đã trình bày rất nhiều lần rằng đấu tranh chính trị là giữa các tổ chức với nhau. Đảng cộng sản là một tổ chức chính trị nên muốn chiến thắng nó thì đối lập dân chủ cũng phải có một tổ chức chính trị ngang tầm hoặc trên tầm. Một cậu bé bị đám bạn bắt nạt và ức hiếp thì nó cũng biết chạy đi và tập hợp đám bạn của nó, đến khi đủ người rồi mới quay lại kiếm đám kia để nói chuyện phải quấy. Trong tranh đấu dù là đánh lộn với đám bạn hay tranh đấu cho dân chủ thì "tương quan lực lượng" là yếu tố quan trọng quyết định cho sự thắng thua.
Có ý kiến cho rằng Tập Hợp làm chính trị "sa lông", đây là nhận xét hời hợt do thiếu hiểu biết về chính trị, không hiểu sức mạnh của tư tưởng chính trị và sự quan trọng của tương quan lực lượng. Hiện tại Tập Hợp chưa mạnh vì chưa đủ lực lượng nên không thể kêu gọi biểu tình hay "hành động" này nọ. Bài học năm 1946 vẫn còn đó, hai đảng Việt Quốc và Việt Cách được Việt Minh "cho không" 70 ghế trong quốc hội nhưng vẫn không giữ được vì không có lực lượng quần chúng và trí thức Việt Nam hậu thuẫn. Khi lực lượng chống lưng cho họ là quân Tưởng rút khỏi Việt Nam thì họ cũng phải "bỏ của chạy lấy người".
Những tổ chức chủ trương "đi sâu, đi sát vào quần chúng" để vận động người dân đứng dậy suốt 45 năm qua đều đã thất bại. Không thể khác được vì quần chúng rất thực tiễn, không kiên nhẫn và không lãng mạn. Họ chỉ đứng dậy khi được một tổ chức động viên và lãnh đạo. Tổ chức đó phải hùng mạnh và có uy tín để họ thấy được chiến thắng là tất yếu và không thể đảo ngược. Việc xây dựng một tổ chức dân chủ đối lập hùng mạnh và có tầm vóc là công việc rất quan trọng và không thể tiết kiệm. Chừng nào trí thức Việt Nam hiểu được điều đó thì ngày Đảng cộng sản rút lui vào lịch sử ắt sẽ đến.
Việc "khai dân trí" quan trọng nhất hiện nay là làm cho người dân hiểu rằng đấu tranh chính trị cần có tổ chức và như thế thì trí thức phải làm gương. Rõ ràng là trí thức Việt Nam chưa làm được việc này. Cần nói không với lối hoạt động chính trị kiểu nhân sĩ. Việc trí thức Việt Nam luôn đứng một mình đã khiến sự kêu gọi đoàn kết của họ trở nên vô lý và vô ích. Trí thức có đoàn kết đâu mà đòi người dân đoàn kết?
Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh quan trọng của lịch sử. Một trật tự thế giới mới đang được thiết lập sau đại dịch Covid-19. Trung Quốc, Nga và các nước độc tài còn lại đang bị nhìn nhận như là mối đe dọa cho hòa bình thế giới và đó là điều mà người Việt Nam hiểu rõ hơn ai hết trước sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông. Một "trật tự dân chủ mới" sẽ không có chỗ cho các nước độc tài. Mọi dễ dãi và ưu đãi của thế giới dành cho Việt Nam sẽ chấm dứt hoặc chỉ dừng ở mức thấp nhất nếu Việt Nam không chuyển hóa về dân chủ. Các công ty lớn của thế giới sẽ không đến Việt Nam vì họ lo lắng và không biết cuộc cách mạng dân chủ đường nào cũng phải xảy ra ở Việt Nam sẽ như thế nào. Trật tự dân chủ mới đó sẽ khiến Đảng cộng sản dù muốn dù không cũng phải chấp nhận dân chủ hóa đất nước. Nếu trí thức Việt Nam không ủng hộ cho một giải pháp mới của một tổ chức dân chủ thì cuộc chuyển hóa về dân chủ sẽ diễn ra trong hỗn loạn và mất kiểm soát, đất nước sẽ mất đi một cơ hội lớn để hội nhập với thế giới.
Chán ghét chế độ cộng sản chưa đủ mà phải ủng hộ cho một tổ chức dân chủ đối lập nào đó để cô lập và tẩy chay Đảng cộng sản. Người dân không đủ kiên nhẫn và hiểu biết để nhận ra đâu ra một tổ chức dân chủ đứng đắn, đâu là một "tổ chức ma" vì vậy trí thức Việt Nam phải làm công việc đó. Dự án chính trị của Tập Hợp chỉ có 200 trang và gần như là duy nhất hiện nay nhưng trí thức Việt Nam vẫn không chịu đọc và tìm hiểu thì có lẽ sự hời hợt và nóng vội vẫn còn quá lớn ở nhiều người tranh đấu.
Trí thức Việt Nam cần hiểu rằng, chúng ta tranh đấu cho tương lai người dân Việt Nam nhưng phải khác với người Việt Nam, nếu muốn chiến thắng.
Việt Hoàng
(20/09/2020)
"Lịch sử loài người có thể được nhìn như là cuộc hành trình của con người về tự do, để tự giải phóng khỏi sự ngu dốt, bệnh tật, đói khổ, nhọc nhằn và nhất là khỏi ách thống trị của các chế độ bạo quyền và vì dân chủ đã chứng tỏ là phương thức tổ chức xã hội hợp lý nhất để thực hiện tự do nên lịch sử thế giới cũng là cuộc hành trình của các dân tộc về dân chủ”.
(Chương 2, Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai)
Theo phân tích của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (Tập Hợp) thì đã có ba làn sóng dân chủ diễn ra trong lịch sử nhân loại và chúng ta đang ở trong làn sóng dân chủ thứ tư. Các chế độ dân chủ được hình thành theo các làn sóng dân chủ đó.
Làn sóng dân chủ lần thứ nhất diễn ra với cuộc Cách mạng Hoa kỳ năm 1776 và Cách mạng Pháp năm 1789 nhằm lật đổ các chế độ quân chủ dựa trên thần quyền. Một số quốc gia dân chủ non trẻ đã hình thành như Anh, Mỹ, Pháp, Hà Lan… Mỹ là quốc gia khá đặc biệt, ra đời khi chưa có lịch sử, với nhiều di sản văn hóa khác nhau và dân trí còn thấp tuy nhiên họ rất may mắn khi được các nhà cách mạng đồng thời cũng là các nhà tư tưởng chính trị lãnh đạo và dẫn dắt. Họ được gọi là những người Cha Lập Quốc (Founding Fathers).
Hoa Kỳ là quốc gia dân chủ được thiết lập bởi những nhà cách mạng đồng thời cũng là các nhà tư tưởng chính trị…
Làn sóng dân chủ thứ hai bắt đầu với thế chiến Hai nhằm đánh đổ chủ nghĩa sô-vanh và chủ nghĩa dân tộc quá khích để khẳng định sự bình đẳng giữa những con người thuộc mọi chủng tộc và quyền tự quyết của các dân tộc. Các chế độ thực dân bắt buộc phải trả lại độc lập cho các nước thuộc địa, nhờ thế mà nhiều nước thuộc địa đã thiết lập được dân chủ.
Làn sóng dân chủ thứ ba nhằm bác bỏ chủ nghĩa cộng sản và các chế độ độc tài sản phẩm của chiến tranh lạnh. Nó bắt đầu từ năm 1974 với cuộc Cách mạng Hoa cẩm chướng lật đổ nhà độc tài Salazar tại Bồ Đào Nha. Làn sóng dân chủ này đã bị khựng lại từ giữa thập niên 1990 sau khi bức tường Berlin sụp đổ và chiến tranh lạnh chấm dứt. Chủ nghĩa thực tiễn lên ngôi ở Mỹ và các nước Phương Tây với việc đặt quyền lợi, nhất là quyền lợi kinh tế lên trên hết. Dân chủ và nhân quyền không còn là quan tâm hàng đầu của các chính quyền. Trung Quốc và các nước độc tài đều là đối tác của các nước phát triển nhất là Mỹ. Hậu quả là Trung Quốc trở nên hùng mạnh và trở thành mối đe dọa cho trật tự và hòa bình thế giới.
Làn sóng dân chủ thứ tư bắt đầu từ năm 2010 nhằm vào các nước độc tài mở cửa về mặt kinh tế. Bản chất của các chế độ này đơn thuần là cướp bóc chứ không hề có tư tưởng hay một dự án chính trị nào. Chúng tồn tại dựa trên sự đàn áp vì thế không thể tiếp tục.
Dựa trên các làn sóng dân chủ đó mà chúng tôi đưa ra vài nhận định về sự hình thành các chế độ dân chủ theo những cách khác nhau:
1. Do lực lượng bên ngoài áp đặt
Sau chiến tranh thế giới lần hai các nước thực dân như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan…buộc phải trả độc lập cho các nước thuộc địa như Ấn Độ, các nước Châu Á, Nam Mỹ và Châu Phi. Hai chế độ dân chủ tại Nhật và Đức cũng bị áp đặt dân chủ sau khi thua trận. Ấn Độ trở thành nước dân chủ sau khi được người Anh trao trả độc lập và nhờ sự kiên trì lẫn viễn kiến của Mahatma Gadhi. Các nước bị áp đặt dân chủ thường là thành công trong quá trình thiết lập dân chủ vì trước khi trao trả độc lập cho các nước đó, lực lượng chiếm đóng nước ngoài đã loại bỏ các thế lực độc tài và cực đoan. Họ ủng hộ cho các lực lượng dân chủ, là những người có uy tín trong dân chúng và không thù địch với họ.
Đức, Nhật đã trải qua một thảm kịch quốc gia rất kinh khủng do chế độ phát xít và quân phiệt gây ra nên sau đó họ đã nhanh chóng đạt được đồng thuận lớn giữa tầng lớp trí thức và dân chúng là đoạn tuyệt với các chế độ độc tài và lựa chọn dứt khoát thể chế dân chủ. Nhờ thế họ đã trỗi dậy một cách ngoạn mục và mạnh mẽ.
Ấn Độ đã thiết lập được dân chủ sau khi được Anh quốc trao trả độc lập nhờ sự sáng suốt của Mahatma Gandhi.
2. Các chế độ độc tài tự thay đổi
Có hai trường hợp, một là chính quyền thật tâm và thành thực chuyển đổi về dân chủ như trường hợp Đài Loan và Nam Phi. Tưởng Kinh Quốc, con trai Tưởng Giới Thạch (chủ tịch Quốc dân Đảng, đảng độc quyền lãnh đạo Đài Loan) đã chủ động dân chủ hóa đất nước bằng cách cho phép đối lập hoạt động và tranh cử tự do. Đảng Dân Tiến đối lập ra đời năm 1986 và chủ tịch đảng hiện tại là bà Thái Văn Anh. Lý do chính khiến Đài Loan thành thật và quyết tâm dân chủ hóa đất nước vì họ cần có dân chủ để đương đầu với Trung Quốc.
Nam Phi cũng thành công trong việc chuyển hóa về dân chủ khi chính quyền trả tự do và cho phép ông Nelson Mandela (1918-2013) được ra tranh cử và trở thành tổng thống đầu tiên bằng một cuộc bỏ phiếu tự do sau 27 năm bị cầm tù vì chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
Trường hợp thứ hai là các chế độ độc tài dân chủ hóa một mình và thất bại như Liên Xô. Đối lập dân chủ vắng mặt và sự chấm dứt của chế độ độc tài đã nhường chỗ cho sự hỗn loạn và sau đó thay thế bằng một chế độ maphia.
3. Do đảo chính nội bộ
Khi các chế độ độc tài không còn lý do để tồn tại thì chúng phải bị đào thải ngay cả khi không có đối lập. Tuy nhiên vì không có lực lượng đối lập nên sự thay đổi đã đến bằng các cuộc đảo chính ngay trong nội bộ chính quyền. Sự chuyển hóa này mở ra một thời kỳ hỗn loạn và sự thiết lập dân chủ đã rất khó khăn sau đó. Rumania, các nước Châu Phi, Nam Mỹ hay Việt Nam Cộng Hòa là những ví dụ. Nạn nhân chính là các cựu quan chức của chế độ cũ vì các chính quyền mới muốn lấy lòng dân chúng. Bỏ tù và trừng phạt thật nặng các “đồng chí” của mình là cách mị dân tốt nhất, dễ nhất và hiệu quả nhất.
4. Dưới áp lực của các cuộc cách mạng đường phố
Như một trái cây đã chín hay một đồng cỏ đã quá khô…chỉ cần một một cơn gió nhẹ hay mồi lửa nhỏ là trái chín phải rụng và đồng cỏ sẽ bốc cháy. Sự kiện một anh sinh viên bán hàng rong tự vẫn vì bị cảnh sát hành hạ tại Tunisia đã thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng với tên gọi Mùa Xuân Ả Rập tại các nước như Tunisia, Algeria, Ai Cập, Lybia…Người dân Ả Rập vùng dậy sau một biến cố. Chính quyền đàn áp nhưng không được vì khí thế và số lượng quần chúng tham gia quá lớn. Quân đội không ủng hộ chính quyền, giữ thái độ im lặng hoặc ủng hộ phong trào nổi dậy của quần chúng. Các lãnh đạo độc tài thất thế nên bỏ chạy và một chính quyền mới được lập nên.
Cũng như trường hợp thứ ba, vì không có đối lập dân chủ nên các quốc gia đó chỉ có thể thay thế chế độ độc tài bằng các chế độ dân chủ nửa vời, các quyền con người bị hạn chế đến mức tối đa.
5. Các chế độ độc tài chủ động đối thoại và thỏa hiệp với đối lập dân chủ
Đây là cách thiết lập dân chủ tại các nước Đông Âu sau khi bức tường Berlin sụp đổ như Ba Lan, Séc và mới đây là tại Myanmar. Các cuộc chuyển hóa về dân chủ theo phương thức này rất thành công và diễn ra trong hòa bình. Không có chuyện thanh trừng các quan chức chế độ cũ, không đổ máu và không gây ra những vết thương mới cho dân tộc. Đây cũng là cách thức thiết lập dân chủ mà Tập Hợp mong muốn cho Việt Nam.
Xin nhắc lại, cứu cánh (mục tiêu cuối cùng) của Tập Hợp là dân chủ hóa đất nước chứ không phải chỉ mỗi đánh bại đảng cộng sản. Nhiều người tranh đấu trong đó có những khuôn mặt khá nổi tiếng đều cho rằng chỉ cần đánh đổ cộng sản cái đã, mọi chuyện sau đó tính sau. Chính vì sự hời hợt và thiếu viễn kiến nên các nhân sĩ luôn cho rằng có thể đánh bại chế độ cộng sản mà không cần tổ chức. Họ chống cộng bằng sự phẫn nộ nên không có lộ trình hay một kế hoạch nào. Họ cũng không ủng hộ cho bất cứ một tổ chức nào. Thất bại và bế tắc là đương nhiên.
Câu hỏi đặt ra cho những người thật sự quan tâm đến đất nước là sau chế độ cộng sản sẽ là cái gì? Là sự hỗn loạn hay một đất nước chuyển tiếp thành công về dân chủ trong hòa bình và trật tự?
Đấu tranh thiết lập dân chủ là dự án lớn nhất của dân tộc ta từ xưa đến nay vì thế phải có lộ trình, phương pháp và tổ chức. Nếu chỉ để bày tỏ sự tức giận thì sẽ không đi đến đâu. Người dân cần được biết dự án chính trị của các tổ chức chính trị để biết tương lai và chỗ đứng của mỗi người trong đó. Thiết lập dân chủ không phải là trò chơi hay xổ số, không thể trông chờ vào sự may rủi mà phải tạo ra sự đồng thuận dựa trên một tư tưởng chính trị được cụ thể bằng một dự án chính trị đúng đắn và khả thi. Xây dựng dân chủ chưa bao giờ là chuyện dễ dàng và muốn có được ngôi nhà tốt thì móng phải vững. Dự án chính trị chính là nền móng của ngôi nhà dân chủ đó.
Các nước Bắc Âu là mẫu mực thành công về dân chủ.
Các nước Bắc Âu (Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển và Iceland) là mẫu mực thành công của dân chủ vì họ quan niệm đúng đắn về chính trị và các hoạt động chính trị. Họ xem hoạt động chính trị là một sự hy sinh và cống hiến cho một lý tưởng quảng đại chứ không phải để tìm kiếm thành công cá nhân. Thủ tướng các nước Bắc Âu đi làm bằng xe đạp và có một cuộc sống cá nhân khá khiêm tốn. Chỉ số hạnh phúc ở Bắc Âu luôn đứng đầu thế giới. Ngoài GDP ra thì còn nhiều chỉ số khác để đánh giá một quốc gia hạnh phúc và phát triển đó là sức khỏe người dân, số người béo phì hay bị tâm thần, tuổi thọ người dân, tỉ lệ tội phạm, tỉ lệ li dị, tỉ lệ tốt nghiệp đại học, số người chết vì nghiện ngập, khả năng vươn lên của tầng lớp dưới…Để làm tốt những việc đó thì chính phủ phải gọn nhẹ, minh bạch, tôn trọng tự do, dân chủ, và đề cao sự liên đới xã hội. Không đâu mà liên đới xã hội cao như Bắc Âu và đó cũng là mô hình lý tưởng mà các nước đều muốn vươn tới kể cả Hoa Kỳ.
Việt Nam đã chín muồi cho sự thay đổi. Chuyển hóa về dân chủ là lựa chọn tất yếu và duy nhất cho Việt Nam. Dù vậy cách thức thiết lập chế độ dân chủ cho Việt Nam trong tương lai như thế nào thì lại rất phụ thuộc vào sự cố gắng và nỗ lực của đối lập dân chủ và các đảng viên đảng cộng sản còn ưu tư với đất nước. Nếu không chuẩn bị và bàn thảo về một giải pháp đúng đắn và khả thi cho đất nước trong giai đoạn chuyển tiếp về dân chủ thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng.
Nhóm bỏ cuộc (hay bỏ chạy) khỏi Việt Nam của các quan chức cộng sản như đại biểu quốc hội Phạm Phú Quốc vừa bị tố cáo bỏ 2,5 triệu USD mua quốc tịch đảo Síp…luôn là một thiểu số rất ít vì không phải đảng viên cộng sản nào cũng giàu có đến như vậy. Đa số chúng ta đều gắn chặt cuộc đời và số phận với đất nước Việt Nam vì vậy phải có giải pháp chung cho cả dân tộc chứ không thể luồn lách bằng các giải pháp cá nhân.
Việt Hoàng
(31/08/2020)
Khai sáng kỷ nguyên thứ hai
Dự án chính trị dân chủ đa nguyên
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
******************************
I. Nhiệm vụ lịch sử
Chúng ta đứng hàng thứ 13 trên thế giới về dân số, trên mặt đất này cứ 1000 người thì có 15 người Việt Nam. Người Việt Nam được thế giới nhìn nhận là thông minh và cần mẫn. Địa lý của chúng ta khá thuận lợi nhờ bờ biển dài và đẹp, nằm sát các trục giao thông quan trọng, trong một vùng đặc biệt năng động. Chúng ta có tiềm năng của một nước lớn và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào việc xây dựng một thế giới hoà bình, thịnh vượng và văn minh.
Mặc dầu vậy hiện nay chúng ta chỉ là một trong những nước nghèo và lạc hậu nhất thế giới. Tổng sản lượng quốc gia trên mỗi đầu người của ta chưa bằng một phần năm mức trung bình thế giới. Chúng ta vẫn chưa có một công nghiệp kỹ thuật cao nào và còn tụt hậu bi đát hơn nữa so với thế giới về văn hóa và nghệ thuật ; chúng ta đứng tốp cuối trong mọi bảng xếp hạng các quốc gia về con người, xã hội và môi trường ; và chúng ta thiếu ngay cả những quyền con người cơ bản nhất. Mâu thuẫn đau lòng và không thể chấp nhận đó phải chất vấn mọi người Việt Nam.
Bẩm sinh mọi con người, dù thuộc chủng tộc nào, đều có những khả năng như nhau. Những chênh lệch về trình độ phát triển và mức sống của các dân tộc là hậu quả của điều kiện văn hóa, địa lý, tài nguyên thiên nhiên và cách tổ chức xã hội. Trong những yếu tố đó tổ chức xã hội có tầm quan trọng vượt hẳn. Tổ chức xã hội tốt hay xấu, khéo hay vụng có thể thay đổi hẳn số phận của một dân tộc. Chính vì thế mà nhiều quốc gia mặc dầu đất đai chật hẹp, tài nguyên ít ỏi vẫn vươn lên mạnh mẽ trong khi nhiều quốc gia khác tuy rất được thiên nhiên ưu đãi mà vẫn quằn quại trong nghèo đói. Trong nhận thức đó sự thua kém hổ nhục hiện nay vừa bắt buộc chúng ta suy nghĩ về mình để tìm một lối đi cho mình vừa cho phép chúng ta tin tưởng rằng nếu tổ chức lại đất nước một cách hợp lý, nghĩa là đặt nền tảng trên những giá trị đúng, chúng ta chắc chắn sẽ thoát khỏi cảnh nghèo đói và sẽ vươn lên mạnh mẽ.
Chúng ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội lịch sử.
Vào buổi rạng đông của thời đại mới, đánh dấu bởi sự bùng nổ của tư tưởng trong thế kỷ 18 và cuộc cách mạng kỹ nghệ trong thế kỷ 19, chúng ta, cũng như nhiều nước Châu Á khác, đã không ý thức được rằng đã đến lúc phải xét lại toàn bộ các giá trị và tập quán, phải đổi mới hoàn toàn cách suy nghĩ và tổ chức. Trong nhiều thế kỷ chúng ta đã hài lòng với khuôn mẫu Khổng Mạnh xơ cứng, bỏ mất óc sáng tạo và dẫm chân tại chỗ ; trong khi người Phương Tây, nhờ óc khách quan và phương pháp, nhờ biết xét lại và đổi mới không ngừng đã tiến lên mạnh mẽ và hơn hẳn phần còn lại của thế giới.
Vì không biết thích nghi kịp thời như một số quốc gia may mắn khác, chúng ta đã mất chủ quyền và bị ngoại thuộc. Mất chủ quyền, chúng ta đã mất luôn khả năng hội ý với nhau để cùng nhau tìm một lối thoát cho đất nước, rồi mất luôn tinh thần đối thoại để dàn xếp những bất đồng.
Bước vào thế kỷ thứ hai mươi, chúng ta phải giải quyết cùng một lúc hai vấn đề khó khăn : giành chủ quyền dân tộc và thích nghi với một nền văn minh mới. Vì không đồng ý được với nhau trên một dự án quốc gia mới nên chúng ta đã xung đột với nhau ngay cả trên mục tiêu mà mọi người Việt Nam đều ao ước là lấy lại quyền tự chủ. Chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội để giành lại độc lập và vươn lên khi chế độ thực dân sụp đổ sau Thế Chiến II. Chúng ta đã chia rẽ, lên án nhau, mạt sát nhau và tiêu diệt nhau, khiến đất nước bị nội chiến và phân tranh, với kết quả sau cùng là phải chuốc lấy một trong những chế độ độc tài độc hại nhất sau khi đã phải chịu đựng những tàn phá kinh khủng nhất ; trong khi các dân tộc khác dù không tốn hay chỉ tốn rất ít xương máu cũng đã được độc lập, và trong nhiều trường hợp còn xây dựng được cả dân chủ.
Sự thiển cận đã khiến chúng ta lỡ mất một cơ hội lớn khi hòa bình được tái lập năm 1975. Thay vì hòa giải dân tộc để hàn gắn những vết thương do chiến tranh để lại phe thắng trận đã áp đặt một chủ nghĩa toàn trị đã bị vất bỏ từ một thế kỷ trước ngay tại cái nôi của nó và chỉ ít lâu sau cũng sẽ bị chối bỏ ngay tại trung tâm của nó, đồng thời bị cả thế giới văn minh lên án như một tai họa cho nhân loại. Sự thiển cận cũng đã khiến chúng ta bỏ lỡ một cơ hội lớn khác khi chủ nghĩa cộng sản và phong trào cộng sản sụp đổ.
Nhìn lại đoạn đường đã đi qua ta phải nhìn nhận rằng nguyên nhân của mọi đổ vỡ mà nước ta đã phải chịu đựng là chúng ta đã rất thiếu tư tưởng chính trị và đã không đầu tư đủ suy nghĩ để nhìn rõ những vấn đề trọng đại đặt ra cho mình và để tìm ra hướng giải quyết. Ở mỗi thời điểm, chúng ta luôn luôn thiếu một dự án chính trị thích hợp với thời đại mới và hoàn cảnh đất nước. Cuối cùng chúng ta đã tàn sát nhau vì những ý hệ vay mượn mà chúng ta tiếp thu một cách sơ đẳng và bảo vệ một cách cuồng nhiệt hơn cả những dân tộc đã khởi xướng ra chúng.
Chúng ta cần khẩn cấp một bước nhảy vọt về tư tưởng chính trị để nhanh chóng đạt tới đồng thuận trên những giá trị nền tảng mới cho tổ chức xã hội. Bước nhảy vọt văn hóa này phải đi đôi với kiên trì và bao dung. Những kinh nghiệm lịch sử bi thảm và sự tủi nhục vì thua kém hiện nay buộc chúng ta rút ra một bài học dứt khoát là phải từ bỏ tâm lý nóng vội, từ bỏ óc độc quyền lẽ phải, chế ngự lòng đam mê để đối thoại và thỏa hiệp với nhau trong tinh thần tương kính. Không thể khác bởi vì mọi người Việt Nam đều ràng buộc với nhau trong một thân phận chung : nếu đất nước chúng ta giàu mạnh và tiên tiến cuộc sống của chúng ta sẽ vinh quang và tất cả chúng ta đều được kính trọng ; ngược lại nếu đất nước chúng ta nghèo khổ và lạc hậu, tất cả chúng ta đều bị coi thường, bất luận chúng ta thuộc thành phần nào, khuynh hướng nào, hay theo chủ nghĩa nào. Trong hoàn cảnh bi đát hiện nay, điều tốt nhất cho mọi người cũng là điều tốt nhất cho mỗi người.
Ngày hôm nay đại bộ phận nhân dân ta cơ cực, chán nản và phẫn uất, đất nước ta tụt hậu và bế tắc. Các vấn đề kinh tế, xã hội, môi sinh, đạo đức, giáo dục, nhân mãn, v.v... chồng chất không được giải quyết càng ngày càng trở nên gay gắt hơn và đã đạt tới mức độ nguy ngập, chẳng bao lâu nữa có thể sẽ không còn giải đáp nếu đà băng hoại này không được đảo ngược nhanh chóng. Nước ta lúc đó có thể bị xóa tên khỏi danh sách các dân tộc có quyền mơ ước một chỗ đứng xứng đáng trên thế giới. Chúng ta phải khẳng định rằng sẽ không thể có lối thoát cho đất nước dưới chế độ cộng sản này. Trong suốt quá trình tồn tại và cầm quyền nó đã chứng tỏ chỉ có ưu tư duy nhất là duy trì ách thống trị trên dân tộc bằng mọi giá, kể cả tàn phá đất nước, hy sinh lợi ích dân tộc và thần phục ngoại bang. Nó cũng là một chế độ cực kỳ tham nhũng, và lịch sử mọi dân tộc đều đã chứng tỏ rằng chỉ có thể thay thế chứ không thể cải thiện một chính quyền tham nhũng. Nhiệm vụ lịch sử của thời đại chúng ta là nhanh chóng giải thoát dân tộc khỏi ách độc tài toàn trị và cứu đất nước khỏi nguy cơ bị thua kém vĩnh viễn.
Nguy cơ thua kém vĩnh viễn cũng là nguy cơ mất nước bởi vì trong thời đại này, khi ý niệm quốc gia dân tộc đang bị công phá từ mọi phía và đang bị xét lại, những quốc gia không đem lại được hạnh phúc, niềm tự hào và hy vọng vươn lên không sớm thì muộn cũng sẽ bị giải thể.
Con đường ra khỏi bế tắc và vươn lên của chúng ta là dân chủ đa nguyên và nhân quyền, trên nền tảng của lòng yêu nước được quan niệm như tình yêu và sự gắn bó giữa người Việt Nam.
Dân chủ để đặt những vấn đề một cách đúng đắn và chọn một cách đúng đắn những giải pháp và những người trách nhiệm. Đa nguyên để tôn trọng mọi khác biệt, và để thực hiện hòa giải dân tộc sau những xung đột đẫm máu. Nhân quyền để tôn vinh mỗi người Việt Nam và để phát huy sinh lực và sáng kiến của mọi người. Kinh nghiệm của mọi dân tộc đều đã chứng tỏ nhân quyền chưa bao giờ ngăn cản ai xây dựng đời mình và dân chủ chưa bao giờ cấm đoán một dân tộc nào tiến lên. Dân chủ đi trước và mở đường cho phát triển, phát triển củng cố và phát huy dân chủ. Dân chủ cũng là chọn lựa khôn ngoan cho phép một nước chưa mạnh tranh thủ cảm tình và hậu thuẫn của thế giới để bảo vệ quyền lợi và lãnh thổ .
Dân chủ hóa đất nước là mục tiêu hiển nhiên nhưng cũng đầy trở ngại. Đảng Cộng Sản đã chứng tỏ họ có thể làm tất cả để duy trì độc quyền chính trị trong khi đa số người Việt Nam không còn quan tâm tới đất nước nữa, sự thất vọng kéo dài quá lâu đối với một chính quyền tồi tệ đã biến thành sự chán nản với chính đất nước. Như vậy những người đấu tranh cho dân chủ phải chống lại cùng một lúc sự ngoan cố của Đảng Cộng Sản và tâm lý bỏ cuộc của quần chúng. Cuộc vận động dân chủ cũng đồng thời phải là nỗ lực phục hồi lòng yêu nước đã bị thương tổn trầm trọng ; nó sẽ đòi hỏi rất nhiều quyết tâm, dũng cảm và kiên trì. Nhưng nó là cuộc đấu tranh bắt buộc.
Lịch sử nhân loại xét cho cùng là cuộc hành trình về tự do, và vì dân chủ là công thức tổ chức xã hội phù hợp nhất để bảo đảm tự do nên lịch sử nhân loại cũng là cuộc hành trình của các quốc gia về dân chủ. Chúng ta đã rất chậm trễ trong cuộc hành trình này. Cho đến nay dù có lịch sử khá dài chúng ta đã chỉ có những chế độ nô lệ ; các giai đoạn tự chủ cũng chỉ có tác dụng thay thế ách nô lệ ngoại bang bằng ách nô lệ bản xứ. Cuộc vận động dân chủ chính là cuộc đấu tranh để đưa dân tộc từ bóng đêm của nô lệ vào ánh sáng của tự do, mở ra kỷ nguyên dân chủ, giai đoạn lịch sử thứ hai của nước ta. Tùy theo chọn lựa và thái độ của những con người hôm nay mà họ sẽ được các thế hệ mai sau đánh giá là đã đóng góp cho cuộc cách mạng trọng đại nhất trong lịch sử nước ta hay đã khiếp nhược trốn trách trách nhiệm vào lúc đất nước cần nhất.
Dự án chính trị này có tham vọng đóng góp vào một ý thức chính trị mới cho Việt Nam và kết hợp những người còn ý chí và niềm tin để theo đuổi một lý tưởng chung là một đất nước Việt Nam xứng đáng để những con người hôm nay phấn đấu xây dựng và các thế hệ mai sau tiếp nối trong niềm tự hào. Sự kết hợp này là cần thiết và bắt buộc bởi vì đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân cả mà chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức.
Một làn sóng dân chủ toàn cầu mới đang trào dâng. Chúng ta không có quyền bỏ lỡ vận hội này.
II. Làn sóng dân chủ thứ tư và một trật tự thế giới mới
Chúng ta đang ở trong một bối cảnh thế giới thuận lợi đầy triển vọng. Chưa bao giờ khả năng chấm dứt chế độ độc tài toàn trị và bước vào kỷ nguyên dân chủ lớn bằng lúc này. Một làn sóng dân chủ mới, làn sóng dân chủ thứ tư trong lịch sử thế giới, đã bắt đầu và đang tiếp tục dâng lên trong khi chế độ độc tài đã rã rượi, cạn kiệt về cả uy tín, trí tuệ, lòng tin và ý chí.
1. Làn sóng dân chủ thứ tư
Lịch sử loài người có thể được nhìn như là cuộc hành trình của con người về tự do, để tự giải phóng khỏi sự ngu dốt, bệnh tật, đói khổ, nhọc nhằn, và nhất là khỏi ách thống trị của các bạo quyền ; và vì dân chủ đã chứng tỏ là phương thức tổ chức xã hội hợp lý nhất để thực hiện tự do nên lịch sử thế giới cũng là cuộc hành trình của các dân tộc về dân chủ.
Trong cuộc hành trình khó khăn đó dân chủ đã gặp sự chống trả ngoan cố của những quyền lực thống trị. Ngoài bạo lực trắng trợn các thế lực thống trị còn vận dụng cả những vũ khí ý thức hệ. Từ những triết lý bi quan coi cuộc đời là không đáng sống và do đó không đáng đấu tranh để cải thiện đến những ảo tưởng về một thiên đường tương lai đòi hỏi những hy sinh hôm nay, qua những chế độ thần quyền trong đó kẻ cầm quyền tự xưng là đại diện của một đấng tối cao và chỉ chịu trách nhiệm trước đấng tối cao đó, những chủ nghĩa dân tộc cực đoan, những chủ nghĩa thực dụng coi thỏa mãn những nhu cầu vật chất là ưu tiên duy nhất hoặc cao nhất, những chủ nghĩa tập thể coi con người chỉ có ý nghĩa như là thành tố của một tập thể được coi là trên hết như tổ quốc, giáo hội, đảng v.v. Đánh phá thâm độc và dai dẳng nhất nhắm vào dân chủ là đồng hóa chủ nghĩa cá nhân, nền tảng của dân chủ, với chủ nghĩa vị kỷ, với hệ luận là dân chủ dẫn đến rời rạc và hỗn loạn.
Vì những chống phá đó dân chủ đã không tiến một cách đều đặn mà theo từng đợt mà chúng ta có thể gọi là những làn sóng dân chủ. Mỗi làn sóng dân chủ nhắm bác bỏ một chủ nghĩa chuyên chính và sau đó đánh đổ một số chế độ độc tài đặt nền tảng trên chủ nghĩa đó. Tiếp theo là một giai đoạn trong đó dân chủ khựng lại, thậm chí có thể lùi bước, do sự phản công của các thế lực chống dân chủ lợi dụng những sai lầm và lúng túng không tránh khỏi của các chế độ dân chủ mới thành lập trong những ngày đầu khó khăn.
Sự thăng trầm này có lý do của nó. Trước hết là vì dân chủ vừa khó đạt được lại vừa khó gìn giữ do sự phức tạp của nó. Bằng cớ là phải nhiều ngàn năm sau khi con người biết sống có tổ chức dân chủ mới ló dạng tại Hy Lạp rồi tắt lịm, phải đợi thêm hai ngàn năm nữa nó mới xuất hiện trở lại một cách rụt rè tại một vài nơi tại Châu Âu và mới chỉ phát triển mạnh gần đây. Một lý do quan trọng khác là bởi vì sinh hoạt dân chủ đặt nền tảng trên các chính đảng trong khi các chế độ độc tài sau suốt quá trình cấm đoán và tiêu diệt các đảng đối lập chỉ để lại một khoảng trống chính trị khi cuối cùng chúng phải sụp đổ. Nhưng dân chủ là cách sinh hoạt tự nhiên của xã hội văn minh nên sự thoái bộ nếu xẩy ra cũng không thể triệt tiêu những thành quả của làn sóng dân chủ trước đó, dân chủ vẫn chín muồi dần với đà tiến hóa của xã hội và tới một mức độ nào đó nó đủ mạnh để tạo ra một làn sóng dân chủ mới. Trào lưu dân chủ hóa không thể đảo ngược như thực tế đã chứng tỏ. Đầu thế kỷ 20, hơn một thế kỷ sau làn sóng dân chủ đầu tiên, chỉ có khoảng mười nước dân chủ : Mỹ và một vài nước Tây và Bắc Âu. Đã thế, trừ Hoa Kỳ, các nước này cũng chưa hẳn là dân chủ bởi vì đồng thời cũng là những nước thực dân vi phạm nhân quyền ở các thuộc địa. Mặc dù những thăng trầm, bước vào thế kỷ 21 hai phần ba trong tổng số gần hai trăm quốc gia trên thế giới đã có dân chủ. Hiện nay, năm 2015, tỷ lệ này là hơn ba phần tư và trong số các nước bị coi là độc tài cũng chỉ có vài nước dám công khai khẳng định chế độ độc đảng. Cuộc hành trình của thế giới về dân chủ đang gia tốc, một trật tự thế giới mới đang hoàn tất.
Cho tới năm đầu thế kỷ 21 thế giới đã chứng kiến ba làn sóng dân chủ.
Làn sóng dân chủ đầu tiên bắt đầu với cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ năm 1776 và Cách Mạng Pháp 1789 và nhắm lật đổ các chế độ quân chủ tuyệt đối dựa trên thần quyền, dù là thần quyền Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo hay Khổng Giáo. Nó đã buộc các chế độ quân chủ Châu Âu phải từ bỏ thực quyền để trở thành quân chủ lập hiến, đã đánh gục đế quốc Ottoman và các chế độ quân chủ tại Nga và Trung Quốc.
Làn sóng dân chủ thứ hai đã bắt đầu cùng với Thế Chiến II và nhắm đánh đổ chủ nghĩa quốc gia sô vanh. Chủ nghĩa này, xuất hiện và phát triển sau sự sụp đổ của các chế độ quân chủ, coi xung đột giữa các dân tộc là tự nhiên vì mọi dân tộc đều phải bảo vệ và mở rộng không gian sinh tồn của mình. Làn sóng dân chủ thứ hai bác bỏ chủ nghĩa dân tộc quá khích này và khẳng định sự bình đẳng giữa những con người thuộc mọi chủng tộc và quyền tự quyết của mọi dân tộc. Kết quả là các chế độ Quốc Xã Đức, Phát Xít Ý và Quân Phiệt Nhật bị tiêu diệt ; cả ba nước Đức, Ý và Nhật đều trở thành dân chủ, Nhật trở thành nước dân chủ đầu tiên tại châu Á ; hầu hết các thuộc địa của Anh cũng trở thành những nước dân chủ. Tuy nhiên làn sóng dân chủ này đã nhanh chóng khựng lại và nhường chỗ cho chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản được nhìn vào thời điểm đó như hai công thức dân chủ hóa cạnh tranh với nhau. Điều cần được nhấn mạnh là phong trào cộng sản đã ra đời như một phong trào dân chủ, nó đã là một phương thức xây dựng dân chủ sai lầm trước khi bị khai thác để trở thành một tội ác.
Làn sóng dân chủ thứ ba nhắm bác bỏ chủ nghĩa cộng sản và loại bỏ các chế độ độc tài sản phẩm của chiến tranh lạnh. Nó bắt đầu năm 1974 bằng cuộc cách mạng đánh đổ chế độ độc tài Salazar tại Portugal vào lúc cuộc tranh luận giữa hai công thức tự nhận là dân chủ, tư bản và cộng sản, đã ngã ngũ và khái niệm dân chủ đã có nội dung đủ chắc chắn. Sự thất bại của công thức cộng sản đã khá rõ rệt, các tiến bộ về giao thông và truyền thông đã phơi bày sự thua kém tinh thần cũng như vật chất của các nước cộng sản so với các nước tư bản. Chủ nghĩa cộng sản đã mất hết sức quyến rũ. Các nước dân chủ không còn lo ngại một thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản nữa và đã đủ tự tin để bỏ rơi các chế độ độc tài chống cộng ngay cả nếu cái giá phải trả là chúng sẽ nhất thời nhường chỗ cho những chế độ cộng sản. Làn sóng dân chủ này đã diễn ra trong hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu nó xô ngã các chế độ độc tài cánh hữu tại Portugal, Espana, Hy Lạp, Philippines, Nam Cao Ly, Đài Loan, Nam Việt Nam và nhiều nước khác ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Một số trở thành những nước dân chủ, nhưng một số khác rơi vào quỹ đạo cộng sản, như Nam Việt Nam, Lào, Campuchia, Angola, Ethiopia, Yemen, Nicaragua. Nhưng ngay sau đó nó đã tràn tới làm sụp đổ hầu hết các chế độ cộng sản, kể cả Liên Bang Xô Viết, đất thánh của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Làn sóng dân chủ thứ ba này đã khựng lại từ giữa thập niên 1990. Nguyên nhân của sự suy thoái này trước hết là tâm lý lạc quan sau khi bức tường Berlin sụp đổ và chiến tranh lạnh chấm dứt. Người ta nghĩ rằng như thế là dân chủ đã thắng và các chế độ độc tài còn sót lại sẽ đủ khôn ngoan để tự chuyển hóa về dân chủ. Tâm lý này đã làm mất cảnh giác. Sau đó là chủ nghĩa thực tiễn được đẩy mạnh bởi các chính quyền Clinton tại Mỹ và Chirac tại Pháp. Về mặt quan hệ quốc tế chủ nghĩa này đặt quyền lợi, đặc biệt là quyền lợi kinh tế, lên trên hết và mỗi khi có mâu thuẫn giữa quyền lợi và đạo đức thì quyền lợi phải được dành ưu tiên. Thăng tiến dân chủ và nhân quyền không còn là quan tâm hàng đầu nữa và mọi chính quyền, dù độc tài và vi phạm nhân quyền, vẫn có thể là đối tác của Hoa Kỳ, Châu Âu và các nước dân chủ phát triển nói chung. Sang đầu thế kỷ 21 thế giới bị cuốn hút vào cuộc chiến chống khủng bố, tâm lý lạc quan tuy không còn nhưng chính sách đối ngoại thực tiễn vẫn tiếp tục và còn được đẩy mạnh trong nhiệm kỳ đầu của Obama. Thêm vào đó thể hiện kinh tế của chủ nghĩa thực tiễn là chính sách kích thích tăng trưởng kinh tế bằng cách khuyến khích tiêu thụ, ngay cả với cái giá phải trả là cán cân thương mại thâm thủng nặng, song song với đầu cơ bất động sản và chứng khoán. Chính sách này trong một thời gian dài đã hỗ trợ các chế độ độc tài bạo ngược tại Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước khác. Các chế độ này đã có thể thực hiện chính sách mở cửa kinh tế để khai thác sự nghèo khổ mà chính chúng là nguyên nhân : bóc lột tối đa công nhân để xuất khẩu thật nhiều với giá thật rẻ, lôi kéo du khách nhờ dịch vụ du lịch rẻ. Chủ nghĩa thực tiễn đã cho phép các chế độ độc tài còn lại, kể cả các tàn dư của chủ nghĩa cộng sản như Trung Quốc và Việt Nam, tiếp tục tồn tại thậm chí mạnh lên về kinh tế.
Sau cùng chủ nghĩa thực tiễn đã dẫn tới khủng hoảng và buộc thế giới phải xét lại một cách triệt để cả chính sách đối ngoại lẫn mô thức kinh tế, nghĩa là một mặt cảnh giác bảo vệ các giá trị dân chủ và nhân quyền trong quan hệ quốc tế và mặt khác dành ưu tiên cho kinh tế sản xuất thay vì đầu cơ và thận trọng giữ thăng bằng cả ngân sách quốc gia lẫn cán cân mậu dịch. Các chế độ độc tài không còn được dung túng trong những vi phạm nhân quyền nữa và cũng không thể sống nhờ xuất khẩu như trước nữa. Chính sự xét lại này đã dẫn đến làn sóng dân chủ thứ tư mà chúng ta đang chứng kiến. Chủ nghĩa thực tiễn đã là một ngoặc đơn trong lịch sử nhân loại. Ngoặc đơn đó đang khép lại, thời gian ân huệ của các chế độ độc tài đã chấm dứt.
Làn sóng dân chủ thứ tư, bắt đầu từ năm 2010, nhắm vào các chế độ độc tài mở cửa về mặt kinh tế. Các chế độ này không thể tồn tại lâu hơn ; chúng không dựa trên một tư tưởng chính trị nào cả, ngay cả nếu đôi khi những khẩu hiệu nhàm chán, như "xây dựng chủ nghĩa xã hội", được nhắc lại một cách gượng gạo. Chúng thuần túy là những chế độ cướp bóc không nhân danh một lý tưởng nào hay một dự án chính trị nào. Chúng không có ngay cả một ảo tưởng. Chúng hoàn toàn dựa trên đàn áp để tồn tại. Tất cả đều là những chính quyền què quặt. Trong hai vế cần thiết của quyền lực chính trị, sự chính đáng và bạo lực, chúng chỉ có bạo lực và vì thế phải tận dụng bạo lực. Và muốn đàn áp dễ dàng thì tập đoàn cầm quyền phải mạnh và ngược lại quần chúng phải yếu. Bóc lột và bất công phải gia tăng vì nằm ngay trong logic tồn tại của chế độ. Nhưng đây một logic tự sát, vì nó càng khiến chế độ bị thù ghét hơn trong khi dù muốn hay không sự mở cửa kinh tế và những tiến bộ ngoạn mục của các phương tiên truyền thông và giao thông cũng đã thay đổi hẳn con người, xã hội và các tương quan lực lượng. Người dân vừa không còn hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền trong những nhu cầu vật chất hàng ngày vừa đủ thông tin để biết rõ sự tầm thường và gian trá của những người cầm quyền. Họ còn có những phương tiện hiện đại để trao đổi với nhau, động viên nhau và phối hợp với nhau. Các chế độ vô lý này đã tồn tại được nhờ sự thụ động nhu nhược của trí thức, nhưng ngày này sự hiểu biết đã được đại chúng hóa, một đội ngũ trí thức mới cũng đã nhập cuộc. Sự thay đổi bắt buộc phải đến, và đã đến. Làn sóng dân chủ thứ tư đang trào dâng.
Tại Đông Á nó đã biến các chế độ dân chủ hình thức tại Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Singapore và Philippines thành các chế độ dân chủ có thực chất, tạo ra sự chuyển hướng đột ngột tại Myanma.
Tại Châu Mỹ La Tinh nó đã củng cố các nền dân chủ non trẻ, đem lại chỗ đứng và tiếng nói xứng đáng cho người bản địa và dần dần ép buộc Cuba phải mở cửa. Tại Bắc Phi và Trung Đông nó đã quật ngã ba chế độ độc tài lâu đời tại Tunisia, Ai Cập và Lybia và đang buộc các chế độ độc tài còn lại chọn lựa giữa dân chủ hóa hoặc sụp đổ. Tại đây nó cũng nhắm giải quyết luôn một vấn đề có tầm quan trọng thế giới là đưa Hồi Giáo ra khỏi chính trị để trở về vị trí đúng của một tôn giáo.
Tại Hoa Kỳ và các nước dân chủ phát triển khác nó đòi hỏi một mức độ dân chủ lành mạnh hơn và liên đới hơn, dành ưu tiên cho hoạt động sản xuất tạo công ăn việc làm thay vì cho đầu cơ, tôn trọng môi trường, con người và các chọn lựa cá nhân. Môi trường trong sạch, nước sạch và không khí trong lành được coi là thành phần nền tảng của những quyền con người.
Làn sóng dân chủ mới này cũng đang xô đẩy chế độ dân chủ giả dối tại Nga và hai chế độ cộng sản còn lại tại Việt Nam và Trung Quốc, nơi mà hai đảng cộng sản đã biến thành hai giai cấp bóc lột sống tách biệt với quần chúng phẫn nộ. Ngoài ra các chính quyền Trung Quốc và Việt Nam sẽ còn gặp bối rối lớn vì chính sách kinh tế dựa trên xuất khẩu không còn phù hợp với trật tự kinh tế hậu khủng hoảng.
Nét đậm nhất của thế giới hiện nay là tương quan lực lượng đã thay đổi, các chế độ độc tài còn lại không còn là một đe dọa cho các nước dân chủ nữa. Chúng đều rất tụt hậu về mặt khoa học kỹ thuật, hoàn toàn trần trụi về tư tưởng chính trị, không có cả một ảo tưởng để lừa mị, kém hẳn các nước dân chủ về sức mạnh quân sự và chỉ có một trọng lượng kinh tế chưa bằng 15% của kinh tế thế giới. Thế giới dân chủ không cần và cũng không sợ các chế độ độc tài nữa. Một thay đổi quan trọng trong bối cảnh thế giới là sự hóa thân của Liên Hiệp Quốc. Sứ mạng chính của Liên Hiệp Quốc từ ngày thành lập là làm dịu những căng thẳng để chiến tranh lạnh đừng trở thành chiến tranh thực sự. Sứ mạng đó ngày nay đã đạt được, Liên Hiệp Quốc phải tìm một sứ mạng mới để tiếp tục có lý do tồn tại. Sau một thời gian dò dẫm sứ mạng mới đó ngày càng được khẳng định là để phát huy những giá trị phổ cập mà cốt lõi là nhân quyền và để áp đặt trật tự dân chủ. Thời đại của chủ nghĩa đối ngoại thực tiễn –nghĩa là miễn cưỡng chấp nhận sống chung và hợp tác kinh tế với các chế độ bạo ngược vì hòa bình- đã chấm dứt. Đã thế, trừ một vài ngoại lệ không đáng kể, các chế độ độc tài còn lại đều lệ thuộc nặng nề vào ngoại thương và không dám thách thức thế giới dân chủ. Chúng đang sống những ngày khó khăn cuối cùng.
Làn sóng dân chủ thứ tư sẽ còn tiếp tục mạnh lên và chỉ hoàn tất sau khi đã dứt điểm các chế độ độc đảng cuối cùng và đưa tới sự phân biệt tôn giáo và chính trị tại các nước Hồi Giáo.
Chúng ta đứng trước một cơ hội rất thuận lợi để dân chủ hóa đất nước.
Làn sóng dân chủ thứ tư này sẽ áp đặt dân chủ trên mọi quốc gia. Sau đó hai vấn đề đặt ra cho từng quốc gia là, một mặt hiểu rõ lộ trình của chính mình để hiểu những thử thách và hy vọng của mình trong một thế giới toàn cầu hóa, hai là không ngừng tự phê bình chế độ dân chủ của mình để liên tục cải tiến bởi vì đặc tính của dân chủ, hiểu như là phương thức tổ chức xã hội, là có thể và cần được liên tục cải tiến.
Cùng với làn sóng dân chủ này thế giới đang hoàn tất một cuộc chuyển hóa trọng đại để bước vào một kỷ nguyên mới. Đó là kỷ nguyên đặt nền tảng trên những giá trị đã tạo ra sức mạnh của các nước tiên tiến : hòa bình, tự do, dân chủ, nhân quyền, bình đẳng, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp tác, lợi nhuận, môi trường và liên đới. Những thành tựu văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật và kinh tế quyết định chỗ đứng và sự vinh nhục của các dân tộc, với điều kiện có thể chế dân chủ ổn vững và lành mạnh để tiếp tục tồn tại. Giáo dục và đào tạo sẽ là cuộc thế chiến mới và là mặt trận sống còn của mọi dân tộc.
Trong nhất thời, vai trò lãnh đạo thế giới vẫn chủ yếu thuộc về Hoa Kỳ và Tây Âu nhưng khuynh hướng đa cực sẽ ngày càng mạnh thêm. Nhật đã thành công trong cuộc chuyển hóa khó khăn từ một nước Nhật truyền thống sử dụng những kỹ thuật hiện đại thành một nước Nhật thực sự hiện đại về mọi mặt, đã bắt đầu một kỷ nguyên tăng trưởng lành mạnh mới và sẽ có vai trò ngày càng quan trọng hơn. Nhiều quốc gia, như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Indonesia, Hàn Quốc sẽ có tiếng nói và trọng lượng ngày càng quan trọng trong những vấn đề lớn của thế giới. Trong một tương lai không xa một phần quan trọng của vai trò lãnh đạo sẽ chuyển sang khu vực Thái Bình Dương trong đó Trung Quốc và Nga, nếu chuyển hóa thành công về dân chủ, cũng sẽ vươn lên giành một vai trò quan trọng hàng đầu. Ngôi vị có thể thay đổi, các liên minh cũng sẽ thay đổi, nhưng luật chơi sẽ không thay đổi vì các giá trị nền tảng sẽ không thay đổi. Trong luật chơi này vũ khí quyết định là sự sáng tạo để có những thành tựu vượt trội. Nhưng sự sáng tạo là điều chỉ nảy sinh và phát triển nơi những con người tự do, trong những xã hội dân chủ. Cuộc tranh đua sắp diễn ra giữa các dân tộc sẽ là cuộc thi đua tổ chức những không gian quốc gia có cùng một lúc tri thức, kỹ năng, tự do, liên đới, kỷ luật, năng động và sáng tạo ở mức tối đa. Các quốc gia không hiểu luật chơi này, hoặc còn do dự không chịu mau chóng thích nghi với các giá trị mới, phải chờ đón một tương lai rất đen tối.
2. Hoa Kỳ, Trung Quốc và khu vực Thái Bình Dương
Nét đậm nổi bật của thế giới hiện nay vẫn là vai trò áp đảo của Hoa Kỳ.
Dù trọng lượng tương đối đã sút giảm và sẽ còn tiếp tục sút giảm một cách tự nhiên trong một thế giới mà ngày càng nhiều dân tộc vươn lên hoặc nhìn thấy hướng vươn lên, Hoa Kỳ vẫn vừa là cường quốc vượt trội về mọi mặt, nhất là về sức mạnh quân sự, đồng thời cũng là cường quốc sáng tạo nhất và có nhiều tiềm năng tiến lên nhất, do đó thế thượng phong của Hoa Kỳ sẽ còn kéo dài trong thế kỷ này. Trong vài thập niên nữa sẽ khó có vấn đề quốc tế quan trọng nào có thể giải quyết được nếu không có sự thỏa thuận của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ vì vậy là một vấn đề thế giới, và quốc gia nào dù muốn hay không cũng có vấn đề Hoa Kỳ của mình. Điều đáng mừng là cùng với sức mạnh vô địch đó Hoa Kỳ đồng thời cũng tỏ ra là cường quốc tích cực đem các vấn đề dân chủ và nhân quyền vào chính sách đối ngoại. Điều đáng lo là người Mỹ ít quan tâm tìm hiểu thế giới và thường chọn các cấp lãnh đạo cũng như các định hướng lớn trên những tiêu chuẩn gần như thuần túy nội bộ, đôi khi trên những quyền lợi kinh tế ngắn hạn. Tuy nhiên với thế lực ngày càng bị cạnh tranh trong một thế giới toàn cầu hóa người Mỹ đang dần dần ý thức rằng họ chỉ có thể an toàn trong một thế giới dân chủ. Vì vậy sự tích cực bảo vệ các giá trị dân chủ và nhân quyền của Hoa Kỳ từ nay chỉ có thể tăng lên.
Nhưng nếu cả thế giới có vấn đề Hoa Kỳ thì các nước Đông Nam Á lại có thêm vấn đề Trung Quốc. Nhờ trao đổi với các nước dân chủ phát triển Trung Quốc đã mạnh lên nhiều về mặt kinh tế và nhờ đó đã gia tăng đáng kể sức mạnh quân sự. Điều đáng lo ngại là dù đã mạnh lên Trung Quốc cho tới nay vẫn là một chế độ độc tài toàn trị phủ nhận trắng trợn các giá trị dân chủ và nhân quyền, không những thế còn tỏ ra muốn sử dụng sức mạnh quân sự của mình cho một chính sách bá quyền khu vực. Châu Á là khu vực có nhiều hiểm họa chiến tranh trên qui mô lớn nhất trên thế giới hiện nay. Sự kiện Trung Quốc vừa gia tăng sức mạnh quân sự vừa để lộ một số tham vọng bá quyền đã làm thế giới, nhất là các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, lo ngại. Mối quan tâm đối với Trung Quốc đã là nguyên nhân cho một cuộc chạy đua võ trang tốn kém và nguy hiểm trong vùng, làm cho tình hình căng thẳng thêm.
Trong tình huống đó, Việt Nam là nước có nhiều tranh tụng nhất với Trung Quốc lại cũng là nước không có khả năng tài chánh để tân trang vũ khí và tăng cường khả năng chiến đấu về không quân và hải quân, hai binh chủng cốt lõi trong thời đại này. Như vậy chính sách quốc phòng khôn ngoan và bắt buộc của nước ta là quả quyết dân chủ hóa để hội nhập triệt để vào thế giới dân chủ và được sự bảo vệ của các nước dân chủ theo luật pháp quốc tế, đồng thời để tranh thủ lại cảm tình và sự liên đới của hai nước láng giềng Campuchia và Lào đang bị Trung Quốc mua chuộc trong chiến lược vây bọc và khống chế Việt Nam. Đó cũng là điều kiện để chúng ta có thể sống chung hòa bình và hữu nghị với Trung Quốc.
Viễn ảnh tương lai tuy vậy không hoàn toàn đen tối. Sự kiện Trung Quốc tuy chưa phải là một nước giầu -sản lượng trên mỗi đầu người còn kém xa mức trung bình thế giới- mà đã gia tăng một cách không bình thường chi phí quân sự và các hành động khiêu khích đang tạo ra một mối lo ngại toàn cầu đối với Trung Quốc có nguy cơ trở thành một phong trào bài Trung Quốc và buộc Trung Quốc phải xét lại mình nếu không muốn bị cô lập. Việc thành lâp Khối Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) bao gồm tất cả các nước trong khu vực Thái Bình Dương trừ Trung Quốc phản ánh mối lo ngại này. Đã có những chỉ dấu là nhân dân Trung Quốc và một số lãnh đạo bắt đầu ý thức được sự nguy hiểm của chính sách bá quyền khu vực mà Trung Quốc không nên và cũng không có khả năng theo đuổi. Chúng ta có lý do để hy vọng Trung Quốc sẽ chuyển hướng về một chính sách có lợi hơn cho thế giới và cho chính họ. Càng có lý do vì Nhật, vốn đã mạnh hơn Trung Quốc về mọi mặt, đang mạnh lên và khẳng định khả năng cũng như ý chí đóng góp bảo vệ trật tự dân chủ và luật pháp quốc tế trong khu vực.
Nhưng mối lo ngại lớn nhất của thế giới và chúng ta là những gì có thể sắp xẩy ra tại Trung Quốc. Chế độ cộng sản Trung Quốc đã chọn mô hình tăng trưởng hoang dại bất chấp con người và môi trường và đã tích lũy đủ mâu thuẫn cho một cuộc khủng hoảng lớn. Trong những năm gần đây trong khi cả thế giới lâm vào khủng hoảng kinh tế Trung Quốc đã che đậy những khó khăn của mình bằng cách gia tăng tín dụng và chi phí công cộng để duy trì mức tăng trưởng giả tạo. Chính sách phiêu lưu này tuy trong nhất thời có thể trì hoãn cuộc khủng hoảng nhưng chỉ làm cho nó trở thành nghiêm trọng hơn khi không còn trì hoãn được nữa. Những dấu hiệu khủng hoảng của Trung Quốc đang trở thành rõ rệt và cuộc khủng hoảng này có thể rất bi đát và kéo dài rất lâu, thậm chí có thể khiến Trung Quốc tan vỡ trong bạo loạn. Mặt khác khát vọng dân chủ đã dần dần chín muồi trong nhân dân Trung Quốc và không có gì bảo đảm Trung Quốc sẽ còn tồn tại với lãnh thổ và dân số hiện nay sau cuộc chuyển hóa bắt buộc và không thể trì hoãn lâu nữa về dân chủ bởi vì cho tới nay sự thống nhất của Trung Quốc đã chỉ được duy trì bằng bạo lực. Thế giới có thể không cần lo ngại rằng Trung Quốc sẽ gây chiến tranh để giải quyết những mâu thuẫn nội bộ trong hoàn cảnh bối rối. Do cấu tạo của nó và như lịch sử đã chứng tỏ Trung Quốc chỉ gây hấn khi có sức mạnh chứ không phải khi gặp khó khăn. Tuy vậy, do dân số của nó, mọi thảm kịch của Trung Quốc cũng là thảm kịch cho thế giới. Việt Nam càng dễ bị ảnh hưởng vì chúng ta ở sát Trung Quốc và tùy thuộc Trung Quốc trên nhiều mặt. Hơn nữa chính chúng ta cũng đang đứng trước nguy cơ của một cuộc khủng hoảng lớn.
Nếu Trung Quốc đang là một mối lo âu thì ngược lại Nhật đang ngày càng trở thành một bảo đảm. Nhật đã hoàn tất cuộc chuyển hóa khó khăn nhưng bắt buộc từ một xã hội Nhật truyền thống sang một xã hội Nhật thực sự tiên tiến đồng điệu với nếp sống và các giá trị của các nước tiên tiến phương Tây. Cuộc chuyển hóa này đã khiến Nhật bối rối trong gần ba thập niên vì phải xét lại toàn bộ mô hình xã hội, từ cấu trúc sản xuất đến quan hệ công nhân – công ty để thay thế một nền kinh tế đặt nền tảng trên cố gắng, sản xuất và xuất khẩu sang một nền kinh tế sáng tạo và phẩm chất, từ chỗ ứng dụng những kỹ thuật hiện đại đến chỗ phát minh những kỹ thuật mới. Nhưng Nhật đã thành công và ngày nay Nhật đã là một nước dân chủ chân chính, ổn vững và tự tin, đã ra khỏi khủng hoảng và đứng hàng đầu thế giới về văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Nhật tỏ ra ngày càng quả quyết và mạnh dạn trong chính sách đối ngoại để đảm nhiệm vai trò của một đồng minh bình đẳng của Hoa Kỳ trong khu vực Thái Bình Bương, góp phần quyết định bảo đảm dân chủ, hòa bình và hợp tác trong vùng.
Sức mạnh mới của Nhật củng cố một khuynh hướng ngày càng mãnh liệt là khu vực Châu Á Thái Bình Dương đang tiến một cách quả quyết về dân chủ. Hàn Quốc và Đài Loan, hai nước dân chủ tiên phong trong khu vực, đã trở thành những nước tiên tiến. Với sự chuyển hướng của Myanma dân chủ trở thành đồng thuận của ASEAN, chế độ cộng sản Việt Nam trở thành nước chống dân chủ duy nhất trong khối và sẽ nhanh chóng bị cô lập nếu không thích nghi kịp thời.
Thêm vào đó phải kể đến sự trỗi dậy mạnh mẽ của Ấn Độ, nước dân chủ đông dân nhất hiện nay và sắp trở thành nước đông dân nhất thế giới. Ấn Độ đang gia tăng sự hiện diện trên khắp thế giới và trong khu vực. Sự hiện diện này kích thích khuynh hướng dân chủ và chỉ có thể có lợi cho hòa bình và hợp tác.
Hiện tượng cần được ý thức đúng mức là sự xuống cấp toàn cầu của ý niệm quốc gia. Nhiều quốc gia tan vỡ mà không hề bị ngoại xâm, tan vỡ trong hỗn loạn, như tại nhiều nước Châu Phi, hay tan vỡ thành những quốc gia nhỏ, như Tiệp Khắc, Nam Tư và Ethiopia. Sự toàn vẹn của nhiều nước dân chủ và phồn vinh, như Canada, Anh và Bỉ, cũng ít nhiều bị đe dọa.
Ý niệm quốc gia dân tộc đang bị công phá từ mọi phía. Từ bên ngoài do những kết hợp khu vực hứa hẹn một không gian hoạt động lớn hơn không gian quốc gia, từ bên trong do các cộng đồng sắc tộc đòi tự trị, và từ cả trong lẫn ngoài do những công ty đa quốc và những trao đổi dồn dập và ngày càng gia tăng vận tốc. Các phương tiện giao thông và truyền thông hiện đại cũng đã làm cho trái đất nhỏ lại và đem con người tới gần nhau.
Khuynh hướng áp đảo hiện nay là khuynh hướng toàn cầu hóa. Tư bản không còn tổ quốc. Các công ty lớn tìm cơ hội đầu tư trên khắp thế giới và lập các kế hoạch sản xuất, tiếp thị, phân phối trên qui mô toàn cầu. Trong cố gắng tìm trọng lượng và địa bàn hoạt động lớn hơn, các công ty ngày càng sáp nhập với nhau tạo ra những tổ hợp với tầm vóc vĩ đại. Nhiều tổ hợp có tích sản lớn hơn tổng sản lượng của nhiều quốc gia cộng lại. Trong một thế giới hòa bình, quyền lực kinh tế tự nó đã là quyền lực quan trọng nhất, nhưng nó cũng có thể xâm lấn quyền lực chính trị. Sự xuất hiện của những công ty đa quốc gia khổng lồ là một thách đố ngày càng lớn cho các quốc gia và cho chính ý niệm quốc gia. Các qui luật thương mại đang nhanh chóng được thỏa thuận và áp dụng cho cả thế giới. Các quyền con người ngày càng được nhìn nhận là phổ cập, được coi như bước đầu của luật pháp quốc tế và được đặt lên trên luật pháp của các quốc gia. Các mạng lưới truyền thông, đặc biệt là mạng lưới Internet cho phép những con người ở rất xa nhau trao đổi và làm việc trực tiếp với nhau. Một người có thể làm việc cho một cơ quan cách nửa vòng trái đất nơi mình cư trú. Khoảng cách đang biến mất. Sự hiện diện ảo đang trở thành thực và có tác dụng không kém sự hiện diện thân xác. Một công dân có thể thường trú ở nước ngoài mà vẫn phục vụ được đất nước mình một cách thường trực và đều đặn như một người trong nước. Cả một "thế giới ảo" đã hình thành với tầm quan trọng gia tăng nhanh chóng. Ngay lúc này những trao đổi văn hóa, khoa học, kỹ thuật tài chính và thương mại trong thế giới ảo này, qua mạng lưới Internet, đã rất quan trọng. Trong một tương lai không xa thế giới ảo này sẽ lấn át thế giới thực, biến thế giới thực thành một trong những biểu hiện của nó.
Cuộc chuyển hóa vĩ đại này -về bản chất đáng mừng- ngày càng biến mỗi người thành một con người của thế giới trước khi là công dân của một nước. Ý niệm quốc gia dân tộc bị tương đối hóa. Quốc gia không còn là một cứu cánh thiêng liêng mà phải là một điều kiện để xây dựng hạnh phúc cho dân tộc và cho mỗi cá nhân trong dân tộc. Trong bối cảnh thế giới hiện nay và sắp tới, một quốc gia không được quan niệm như một tình cảm, một đồng thuận, một dự án tương lai chung và một không gian liên đới sẽ không thể tồn tại lâu dài. Một quốc gia không đảm bảo an ninh và nhân phẩm, không đem lại phúc lợi và niềm tự hào cho người dân chắc chắn sẽ tan rã, càng tan rã nhanh hơn và bi đát hơn nếu biên giới quốc gia được coi như tường thành ngăn cản các giá trị tiến bộ và qui định một vùng lộng hành an toàn của các tập đoàn bạo ngược. Trong thời đại mới này, chúng ta cần ý thức rằng các tập đoàn cầm quyền thiếu văn hóa và thiếu tầm nhìn là những tai họa cho sự tồn vong của các quốc gia. Các chế độ độc tài bạo ngược giết chết các quốc gia, càng tồi dở và độc ác bao nhiêu chúng càng giết chết nhanh chóng các quốc gia bấy nhiêu.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản đã chấm dứt cuộc tranh luận ý thức hệ. Dân chủ và nhân quyền đã được nhìn nhận như những giá trị phổ cập mà ngay cả các chế độ độc tài còn lại cũng chỉ biện luận lúng túng để trì hoãn chứ không dám phủ nhận. Các liên minh ý thức hệ vì thế không còn lý do tồn tại. Thay vào đó đã xuất hiện ngày càng nhiều những liên minh hợp tác, nổi bật nhất là các kết hợp khu vực. Thế giới đang dần dần được phân chia thành một số tập hợp địa lý lớn trong đó các quốc gia vừa cạnh tranh với nhau vừa nương tựa lẫn nhau trong cuộc thi đua với phần còn lại của thế giới. Trong lòng các tập hợp này các biên giới quốc gia, các hàng rào quan thuế càng ngày càng mờ nhạt đi, sự di chuyển của người, hàng hóa và tư tưởng ngày càng dễ dàng. Biên giới giữa ngoại giao và ngoại thương ngày càng khó xác định. Các quốc gia tìm mọi cơ hội, dựa vào mọi lý do địa lý, tôn giáo, ngôn ngữ, đồng dạng về sản xuất, v.v... để thắt những mối bang giao, tạo những liên hệ hợp tác, thành lập các liên minh. Trong thế giới ngày nay cô lập là chết. Các quốc gia không muốn hay không thể tham gia hoặc vận dụng những liên hệ hợp tác này kể như tuyệt vọng, vì bị gạt ra ngoài lề sinh hoạt của một thế giới liên lập. Luật chơi chung của các kết hợp này ngày càng bao gồm sự tôn trọng các giá trị dân chủ, như luật pháp đúng đắn và được tôn trọng, công đoàn độc lập, nhà nước không can thiệp vào việc quản trị của các công ty, tự do thông tin, tự do di chuyển, sự minh bạch, sự cạnh tranh bình đẳng giữa các công ty. Một cách mặc nhiên các kết hợp này áp đặt một trật tự dân chủ. Với sự phá sản của chủ nghĩa thực tiễn, khả năng tham gia và vận dụng các liên minh hợp tác này sẽ ngày càng tùy thuộc vào sự tôn trọng và thể hiện các giá trị phổ cập của nhân loại. Các chế độ bạo ngược còn lại sẽ ngày càng bị cô lập.
Trỗi dậy hoặc tiêu vong là định mệnh của các nước tụt hậu. Các quốc gia chậm tiến không hiểu điều này chắc chắn sẽ không thể tồn tại. Vươn lên là bắt buộc sống còn nhưng cũng là con đường đầy chông gai và cạm bẫy.
Chúng ta có thể tiên liệu rằng, trước khi đi tới cạnh tranh về mọi mặt, thế giới sẽ trải qua một giai đoạn chuyển tiếp khá dài trong đó, nói chung, các nước vừa mới mở mang sẽ sản xuất phần lớn hàng hóa, vật dụng và bán thành phẩm trong khi các nước đã đạt tới mức phát triển cao cung cấp phần lớn tư bản, dịch vụ, hàng hóa phẩm chất cao và thiết bị sản xuất. Cho nên đối với những quốc gia kém mở mang, trong một vài thập niên nữa, sự cạnh tranh gay go nhất sẽ là sự tranh đua giữa chính họ với nhau. Sự tranh đua này sẽ rất khó khăn đối với các nước hoặc kém mở mang nhất, hoặc không thích nghi thật nhanh với tình thế.
Mối nguy đầu tiên là sự tranh giành gay go những nguồn đầu tư có có thể biến các nước nghèo thành con tin và nạn nhân của các công ty đa quốc lớn. Sẽ luôn luôn có những nước chấp nhận những điều kiện dễ dãi hơn để tranh thủ vốn đầu tư : mức lương thấp, những điều kiện lao động nhọc nhằn và thiếu bảo đảm, những chuẩn mực lỏng lẻo về môi trường v.v.
Tình trạng càng khó khăn hơn vì những tiến bộ dồn dập và trọng đại trong các ngành tự động, vi điện tử và tin học đang đưa tới một trào lưu tự động hóa càng ngày càng cao khiến cho nhân công rẻ không còn là một yếu tố tự nó đủ sức thuyết phục để lôi kéo đầu tư nữa ; các nước kém mở mang đang mất dần đi một vũ khí chiến lược. Đã thế sau cuộc khủng hoảng gần đây, bắt đầu năm 2008 và vẫn chưa chấm dứt hẳn, các nước giầu mạnh cũng dồn mọi cố gắng để, một mặt, giữ các nguồn đầu tư ở lại trên đất nước họ và, mặt khác, để giới hạn nhập khẩu và giữ thăng bằng cán cân mậu dịch. Chính trị ổn vững, chính quyền không tham nhũng, con người lương thiện, xã hội yên bình, trật tự bảo đảm, luật pháp giản dị, thuế khóa nhẹ nhàng, những điều kiện địa lý thuận lợi, thị trường tiêu thụ lớn, nguồn nhân lực có kỹ năng và hiệu năng là những vũ khí chiến lược phải có để tranh thủ đầu tư quốc tế. Đó lại thường là những yếu tố mà các nước kém mở mang khó hội đủ. Trong điều kiện khó khăn đó những hy sinh bắt buộc phải được chia sẻ một cách công bình nhất, quốc gia phải được người dân cảm nhận như một tình cảm, một không gian liên đới và dự án tương lai chung mới có thể được chấp nhận. Nếu không những phần tử tinh hoa nhất và đã đòi hỏi những đầu tư tốn kém nhất về giáo dục và đào tạo sẽ tìm cách di chuyển sang các nước phát triển. Như thế, điều kiện tiên quyết là phải có những cấp lãnh đạo thực sự yêu nước, tài giỏi, đạo đức, có kiến thức cao và tầm nhìn xa, có tình cảm dân tộc sâu đậm và có khả năng thuyết phục nhân dân chấp nhận những cố gắng cần thiết, nghĩa là hơn cả lãnh đạo của những nước tiên tiến.
Ngược lại, bối cảnh thế giới mới cũng có những lợi điểm mà các nước kém mở mang có thể vận dụng.
Một là, các chế độ độc tài, dù công khai hay trá hình, sẽ không còn được dung dưỡng vì những liên minh ý thức hệ nữa và sẽ bị đảo thải. Các dân tộc sẽ được cởi trói, nhiều sinh lực sẽ được giải tỏa, các quốc gia sẽ được quản trị một cách hợp lý hơn, dù là sau một thời gian dọ dẫm. Từ nay họ sẽ có vũ khí chính đã khiến nhiều dân tộc vượt hẳn phần còn lại của thế giới : dân chủ. Sự đào thải của các chế độ độc tài là may mắn rất lớn cho các nước chậm tiến. Kinh nghiệm đã cho thấy mọi chế độ độc tài đều độc hại. Dưới những chiêu bài dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, duy trì kỷ luật và trật tự, các chế độ độc tài chỉ là những sào huyệt tham nhũng và lạm quyền, cho phép những tập đoàn lưu manh, thoái hóa kềm kẹp nhân dân, ngăn cản mọi tiến bộ và làm đất nước lụn bại. Loại bỏ các chế độ bạo ngược là điều dễ hơn nhiều so với trước đây nhưng cũng là điều các dân tộc tụt hậu phải làm thực nhanh trong cuộc phấn đấu sống còn này.
Hai là, kinh tế trở thành mối ưu tư hàng đầu của mọi quốc gia. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước giàu mạnh với nhau trong một thế giới mà ngôi vị thay đổi không ngừng cũng khiến các công ty lớn và các nước đã mở mang luôn luôn phải tìm những thị trường mới và những vận hội đầu tư mới. Các nước kém mở mang nếu biết tạo một bối cảnh xã hội ổn vững, những điều kiện kinh tế thuận lợi, nếu không bị lên án và cô lập sẽ có khả năng tìm được những nguồn hợp tác rất có lợi.
Ba là, do những tiến bộ về truyền thông và giao thông vận tải, cũng như do dân số trên trái đất càng ngày càng đông, thế giới đã nhỏ lại và các quốc gia đều trở thành liên thuộc với nhau và lệ thuộc lẫn nhau. Một ý thức mới đã ra đời theo đó trái đất là quê hương chung của cả nhân loại. Mọi quốc gia đều cảm thấy nhu cầu được sống trong một thế giới không bị đe dọa. Càng giàu có và phát triển các dân tộc càng thấy cần phải đảm bảo những thành tựu của mình bằng cách đóng góp cho một thế giới an bình và ổn vững. Do đó dù muốn dù không, các nước giàu mạnh cũng không thể để mặc các quốc gia khác sống trong sự bần cùng. Đây không phải chỉ là một bắt buộc do lòng nhân đạo, mà còn do thế liên thuộc mật thiết. Một thí dụ cụ thể là vấn đề môi sinh. Chernobyl không phải đã chỉ là một tai họa của riêng Ukraine. Các ống thoát khói tại Trung Quốc không phải chỉ ô nhiễm không gian của Trung Quốc, do đó không phải chỉ là vấn đề của Trung Quốc mà là vấn đề của cả thế giới. Sự phá hủy rừng Amazon không phải là vấn đề riêng của nước Brazil. Những ô nhiễm của vùng biển của một nước là vấn đề của nhiều nước. Một thí dụ khác là phong trào di dân từ các nước nghèo sang các nước giàu, đặt cho các nước giàu mạnh hàng loạt những vấn đề nan giải. Thế liên thuộc này bắt buộc các nước mở mang tạo điều kiện giúp các nước chậm tiến có cơ hội để phát triển. Sự tương trợ này, dù xuất phát trước hết từ nguyện vọng của các nước phát triển là khỏi phải sống trong một thế giới quá nhiều hiểm họa, cũng là cơ may mà các nước thua kém có thể lợi dụng để vươn lên.
Bốn là, những đòi hỏi về hạnh phúc và tiện nghi của các dân tộc đã mở mang tăng lên mau chóng, có phần nhanh hơn cả đà phát triển kinh tế của họ. Số giờ làm việc ngày càng giảm đi, lương bổng ngày càng tăng thêm, tỷ lệ người lớn tuổi và đã nghỉ hưu ngày càng cao, các chi tiêu công cộng về xã hội, văn hóa, nghệ thuật, sức khỏe và tiện nghi sẽ tăng cao kéo theo sự gia tăng về thuế khóa. Dĩ nhiên những phát minh mới sẽ không ngừng xuất hiện để hạ giá thành xuống và nâng phẩm chất lên, nhưng trong thế giới truyền thông hiện nay các phát minh này nếu xuất hiện ở các nước đã phát triển cũng sẽ mau chóng được phổ biến sang các nước khác. Cuối cùng khuynh hướng chung tại các nước có mức sống cao vẫn là giá thành, tỷ lệ lợi nhuận và phần tái đầu tư của tổng sản lượng quốc gia chênh lệch một cách bất lợi so với các nước đang phát triển. Trong tình trạng này, nhân dân các nước kém mở mang, vì ít đòi hỏi về tiện nghi và tiêu thụ hơn, sẽ có khả năng chấp nhận những hy sinh và cố gắng hơn hẳn, do đó có triển vọng cạnh tranh hữu hiệu với các nước mở mang, với điều kiện là những hy sinh và cố gắng này được phân chia một cách công bình để không đưa tới xung đột.
Dân tộc ta đang sống một trong những thử thách lớn nhất từ ngày dựng nước nhưng đồng thời triển vọng tháo bỏ ách độc tài và mở ra kỷ nguyên dân chủ cũng lớn như chưa bao giờ thấy.
Trong một bối cảnh quốc tế thuận lợi thực trạng của chúng ta rất bi đát và tương lai của Việt Nam rất bấp bênh.
Chúng ta đã lỡ giai đoạn cất cánh. Khi một nước chậm tiến bắt đầu vươn lên nhờ hội nhập vào sinh hoạt kinh tế thế giới thì sự thành công hay thất bại chủ yếu là ở chỗ có tạo ra được hay không một lớp doanh nhân đúng nghĩa, lương thiện, có kiến thức và có bản lãnh. Sự thực không thể chối cãi là chính sách gọi là "đổi mới", mở cửa về kinh tế nhưng vẫn khép chặt về chính trị, đã chỉ tạo ra, trong tuyệt đại đa số, những doanh nhân giả làm giầu nhờ hối mại quyền thế và kinh doanh bất chính. Chúng ta cũng mất dần ưu thế dân trẻ ; số người trong tuổi lao động đã khựng lại và bắt đầu sút giảm.
Chúng ta đang đi dần vào thế cô lập. Mặc dầu trên nguyên tắc nước ta đã có quan hệ bình thường với mọi quốc gia và đã là thành viên của ASEAN và nhiều kết hợp khu vực, nhưng sự duy trì ngoan cố chế độ độc tài toàn trị nhân danh một chủ nghĩa đã bị lên án như một tội ác, những vi phạm trắng trợn về nhân quyền và dân quyền, tệ quan liêu và tham nhũng, sự từ chối những cải tổ cần thiết, cách cư xử thô vụng trong những giao thiệp quốc tế, sự lệ thuộc ngày càng lộ liệu và quá đáng vào Trung Quốc đang có nguy cơ khiến Việt Nam lâm vào một thế cô lập lớn nếu không chuyển hướng kịp thời. Việt Nam vắng mặt trong hầu hết mọi chương trình hợp tác lớn và chỉ hiện diện một cách không đáng kể trong những thị trường quốc tế quan trọng.
Ngoại thương của Việt Nam dù không đáng kể về tầm vóc khách quan nhưng lại có vai trò áp đảo trong kinh tế quốc gia với trọng lượng gần gấp hai lần tổng sản lượng quốc gia và khiến chúng ta lệ thuộc nặng nề vào bối cảnh thế giới. Đầu tư có lúc đã khởi sắc rất mạnh mẽ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (WTO) tạo ra niềm tin vào một sự hội nhập thành thực vào thế giới nhưng ngay sau đó đã sút giảm liên tục –như là hệ quả của đàn áp và tham nhũng gia tăng gây thất vọng cho các nhà đầu tư- trong khi các quốc gia khác không ngừng vận dụng mọi sáng kiến để thu hút tư bản quốc tế dựa trên ưu thế sẵn có. Chúng ta đã mất một cơ hội lớn và đang đứng bên bờ một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.
Công nghiệp đã bị quản lý một cách thô vụng lại còn phải chịu sự cạnh tranh bất chính của hàng nhập cảng lậu thuế chủ yếu từ Trung Quốc. Phần lớn các thiết bị sản xuất đã lỗi thời, kể cả những thiết bị mới mua bởi các quan chức tham nhũng. Các doanh nghiệp nhà nước được coi là chủ đạo của sinh hoạt kinh tế và được dành phần chính của đầu tư lại cũng là những doanh nghiệp bệnh hoạn, trong đa số điều khiển bởi các cấp lãnh đạo vừa gian trá vừa bất tài được chỉ định theo tiêu chuẩn phe đảng, hối lộ và chia chác.
Chúng ta tụt hậu một cách bi đát về cả lượng lẫn phẩm. Sản lượng bình quân mỗi năm trên mỗi đầu người của chúng ta hiện nay, năm 2015, chỉ sấp sỉ 1500 USD, nghĩa là 15%, hay một phần bẩy mức trung bình thế giới.
Đã thế tài sản quốc gia lại được phân phối một cách cực kỳ bất công, đại bộ phận nhân dân ta sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực. Lợi tức quốc gia quá thấp cùng với tinh thần vô trách nhiệm đã khiến chính quyền bỏ rơi giáo dục, cơ sở hạ tầng, thiết bị sản xuất và ngay cả những ưu tư tối thiểu về vệ sinh và sức khỏe cho dân chúng. Giáo dục và đào tạo, quá suy sụp, hoàn toàn không có khả năng chuẩn bị tuổi trẻ trong cuộc cạnh tranh với thế giới. Tình trạng của đại đa số các bệnh viện Việt Nam là một sự hổ nhục và một tội ác.
Phải nhìn thẳng vào sự thực và nhìn nhận một hiện trạng đau lòng : chúng ta là một nước lụn bại và bế tắc. Tuy là nước đông dân thứ 13 trên thế giới nhưng chúng ta không có được một thành tựu khoa học kỹ thuật nào, không một phát minh, không một công ty tầm vóc quốc tế, không một tác phẩm văn học nghệ thuật hay ngay cả một thành tích thể thao nào được thế giới biết đến. Chúng ta hiện là một nước không đáng kể. Người Việt Nam không chỉ nghèo khổ mà còn không có lý do nào để tự hào. Và chúng ta cũng là một trong những dân tộc cuối cùng trên thế giới vẫn còn phải chịu đựng ách độc tài toàn trị và bị từ chối những quyền con người cơ bản, như quyền tự do ngôn luận, tự do kết hợp, tự do bầu cử và ứng cử, kể cả quyền sở hữu đất. Hàng triệu dân oan bị cướp đoạt đất sống lây lất trong uất hận.
Chất liệu nhân xã của chúng ta đã bị rách nát do những cuộc nội chiến tương tàn kéo dài và thảm khốc, do tinh thần bất dung và thù hận mà những cuộc chiến này đẻ ra, do chính sách phân biệt đối xử mà Đảng Cộng Sản thi hành trong một thời gian dài, do chênh lệch giàu nghèo quá lộ liễu và do sự nghi hoặc toàn diện của dân chúng đối với các giá trị cơ bản của mọi xã hội, lại càng rách nát hơn vì sự phẫn uất bất lực trước một chính quyền tàn bạo cai trị như một lực lượng chiếm đóng.
Đồng thời tài nguyên quí nhất của quốc gia là con người cũng bị xuống cấp một cách thê thảm. Sức khỏe của nhân dân suy nhược vì thiếu dinh dưỡng, thuốc men và chăm sóc. Các chứng bệnh truyền nhiễm nguy hiểm lan tràn một cách báo động mà không có biện pháp ngăn chặn. Thanh thiếu niên bỏ học hàng loạt. Trí tuệ dân tộc suy giảm nặng với sự xuống cấp bi đát của hệ thống giáo dục. Tệ nghiện hút, mại dâm, trộm cướp ngày càng gia tăng. Cuộc sống khó khăn trong một xã hội băng hoại làm con người càng ngày càng rời xa các giá trị căn bản phải có của mọi quốc gia : đạo đức, lương thiện, thật thà, cần cù, kỷ luật, v.v. Dối trá, lừa đảo trở thành nền tảng của quan hệ xã hội.
Trong thực trạng đen tối đó đang nổi bật ba hiểm họa đặc biệt nghiêm trọng và khẩn cấp.
Trước hết là tham nhũng. Cả nhân dân lẫn chính quyền đều đồng ý rằng tham nhũng là quốc nạn và là giặc nội xâm tàn phá đất nước nhưng có lẽ chúng ta chưa ý thức được một cách đầy đủ sự độc hại của nó và trong xã hội đang có khuynh hướng chấp nhận đành sống với nó như một định mệnh. Nó đang trở thành một luật chơi và một định chế. Nhưng tham nhũng không thể dung túng. Nó làm hư hỏng tất cả. Nó đưa những người bất xứng vào những chức vụ quan trọng, trao những dự án lớn cho những nhóm lợi ích gian trá. Nó làm hỏng qui luật thị trường, lưu manh hóa con người và biến liên hệ xã hội thành một trò thi đua bịp bợm. Nó loại bỏ kiến thức, nghiên cứu và sáng tạo. Nó khiến mọi dự án và kế hoạch công cũng như tư trở thành vô nghĩa và vô dụng. Nó tàn hại cả môi trường và cơ sở hạ tầng vì bao che những ô nhiễm và cho phép những thi công xây dựng và bảo trì gian trá. Một thí dụ là dự án Bô-xit Tây Nguyên và quyết định cho xây ồ ạt những lò điện hạt nhân ; cả hai dự án này đều phi kinh tế và còn đe dọa sinh mệnh đất nước nhưng vẫn được áp đặt vì có lợi lớn cho các cấp lãnh đạo tham ô. Một thí dụ khác là sự xuống cấp nhanh chóng của hệ thống cầu đường dù mới xây cách đây không lâu. Nó đe dọa cả an ninh quốc gia bởi vì nếu tiền mua được tất cả thì không có gì lạ nếu nhiều quan chức cao cấp trong bộ máy nhà nước trên thực tế là những nội ứng của nước ngoài. Ở mức độ hiện nay của nước ta nó vừa làm đất nước lụn bại, vừa đe dọa an ninh và chủ quyền, vừa khiến các ý niệm quốc gia, dân tộc mất hết ý nghĩa. Nếu không bị chặn đứng nó sẽ nhanh chóng hủy diệt đất nước.
Hiểm họa nghiêm trọng thứ hai là môi trường. Từ vài thập niên qua, chúng ta liên tục chứng kiến một thảm kịch cực kỳ nghiêm trọng trong lịch sử nước ta : đó là sự hủy hoại nhanh chóng ngay chính nền tảng của đất nước. Cây rừng bị chặt phá, bờ biển, sông ngòi và các mạch nước bị ô nhiễm nặng, đất nước trở thành cằn cỗi, hạn hán tiếp theo lũ lụt. Nước không còn uống được, không khí không còn thở được. Chưa kể rác rưởi hôi thối chồng chất, cống rãnh ứ động. Người thành phố ra đường phải đeo khẩu trang bịt mặt và trở thành xa lạ với nhau. Ô nhiễm đã đạt tới mức độ tàn phá sức khỏe gây thảm kịch cho mọi người nhất là người nghèo, nghĩa là đa số nhân dân. Nó cũng gây tốn kém lớn về y tế, làm giảm năng suất lao động và có khả năng khiến du khách xa lánh nước ta, thế giới tẩy chay thực phẩm của ta. Đây là một tai họa kinh khủng phải chặn đứng ngay. Với một mật độ dân số một nghìn người trên một kilômét vuông đất sống được và còn lại để cư trú chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là đặt môi trường lành sạch làm ưu tiên quốc gia số một. Đất nước trước hết là đất và nước, nếu đất nước cằn cỗi và ô nhiễm đến độ không còn sinh sống được nữa thì chúng ta cũng chẳng còn gì để nói với nhau.
Đất nước không những chỉ bị hủy hoại mà còn bị đem bán, rất nhiều vùng đất có giá trị kinh tế chiến lược đã vào tay người ngoại quốc, nhiều khu rừng đầu nguồn đã bị cho thuê dài hạn và trên thực tế đã thuộc quyền kiểm soát của nước ngoài.
Hiểm họa nghiêm trọng thứ ba, đồng thời cũng là một quốc nhục, là sự lệ thuộc quá đáng vào Trung Quốc. Chúng ta hiện không còn chủ quyền trên thực tế. Tuyên bố chung Việt - Trung ngày 21-06-2013 cho thấy chính quyền cộng sản đã ký rất nhiều thỏa hiệp ngầm đặt Việt Nam trong thế khống chế của Trung Quốc, như chấp nhận thăm dò chung dầu khí (trên thực tế là để Trung Quốc thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam), để Trung Quốc huấn luyện và đào tạo sĩ quan quân đội và công an Việt Nam. Trầm trọng hơn cả là cam kết tham khảo Trung Quốc -nghĩa là nhận chỉ thị của Trung Quốc- trong quan hệ đối ngoại. Việt Nam không còn chủ quyền. Nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận.
Sự lệ thuộc này không chỉ hổ nhục mà còn nguy hiểm. Người Trung Quốc từ ngàn xưa luôn luôn nhìn các dân tộc láng giềng, kể cả Việt Nam, với con mắt kẻ cả, họ coi Việt Nam như một thuộc quốc. Với văn hóa nông dân thèm đất chính sách truyền thống của họ đối với các nước lân cận là chính sách sáp nhập, bằng bạo lực hoặc bằng di dân. Chấp nhận lệ thuộc Trung Quốc vì vậy cũng là chấp nhận bị sáp nhập, điều mà trong hàng nghìn năm tổ tiên ta đã đổ biết bao xương máu chống lại để giữ nước.
Thoát Trung cũng là điều kiện bắt buộc để nước ta có thể vươn lên. Chúng ta cần thoát khỏi văn hóa Khổng Giáo, một văn hóa nô dịch và tha hóa trí tuệ mà chúng ta đã chia sẻ trong hàng ngàn năm với người Trung Quốc và chính quyền Trung Quốc đang cố gắng phục hồi. Chúng ta có rất nhiều điều để học ở thế giới nhưng tất cả những điều đó chúng ta chỉ có thể học một cách đúng đắn, thấu đáo và nhanh chóng với các dân tộc khác. Trung Quốc cũng giống chúng ta nhưng phát triển hơn chúng ta, tất cả những gì chúng ta sản xuất được họ đều có, nhưng nhiều hơn và rẻ hơn. Đó là lý do khiến Việt Nam hiện nay trên nhiều mặt đã trở thành cảng xuất khẩu hàng hóa Trung Quốc mang nhãn made in Vietnam và khiến thâm thủng mậu dịch với Trung Quốc ngày càng nặng hơn.
Sau cùng Trung Quốc đang ngày càng bị cô lập. Lệ thuộc vào Trung Quốc là rước lấy nguy cơ bị cô lập cùng với Trung Quốc, sẽ rất khó gia nhập khối Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương và còn có thể bị cô lập ngay trong khối ASEAN. Thế giới ngày càng nhận ra Trung Quốc là một mối nguy cần phải ngăn chặn. Chính sách ngăn chặn này sẽ có khả năng khiến Trung Quốc suy thoái bởi vì kinh tế Trung Quốc tùy thuộc nặng nề vào ngoại thương. Mặt khác tăng trưởng kinh tế là biện minh duy nhất của chế độ Bắc Kinh, kinh tế khựng lại cũng có nghĩa là chế độ sẽ chao đảo. Dù muốn hay không Trung Quốc cũng sẽ không còn là một chỗ dựa.
Nói chung thực trạng đất nước đang nguy ngập, nhưng chính quyền thay vì dồn mọi cố gắng để cứu nước lại chỉ có mục đích giữ lấy quyền lực bằng mọi giá nhân danh một chủ nghĩa đã bị thế giới lên án như một tội ác đối với loài người và bị nhân dân Việt Nam coi là nguyên nhân của tình trạng bi đát hiện nay. Nhà nước cộng sản đã thất bại trên mọi phương diện và trong tất cả mọi địa hạt, nhưng vẫn tiếp tục cầm quyền như một thách đố với nhân dân và không những thế, còn khẳng định quyết tâm giữ độc quyền chính trị vô thời hạn. Sự xấc xược đã đạt tới tột đỉnh với hiến pháp 2013 qui định các lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng Sản Việt Nam, trước cả nhà nước Việt Nam. Chế độ cộng sản vì vậy là một khiêu khích hàng ngày đối với nhân dân và một tai họa. Tai họa đó kéo dài quá lâu đã khiến người dân, bất lực và chán chường, không những chỉ ghét chính quyền mà còn dần dần mất cả lòng tin vào đất nước. Mỗi người tự luồn lách để tìm những giải đáp cá nhân cho những vấn đề cá nhân. Mộng ước của rất nhiều người Việt Nam ngày hôm nay là được rời khỏi Việt Nam và làm công dân của một nước khác. Nhà nước mất dần độc quyền bạo lực về tay các băng đảng trộm cướp và xã hội đen, và ngày càng mất độc quyền thu thuế do tình trạng buôn lậu và tham nhũng. Chúng ta đang tiến dần tới sự giải thể quốc gia. Chúng ta phải thét lên tiếng thét báo động. Nếu đà này tiếp tục, ý niệm quốc gia có lúc sẽ mất hết nội dung, các ý đồ ly khai, tự trị sẽ xuất hiện và tăng trưởng, các thế lực ngoại bang sẽ ngày càng có điều kiện khuynh loát chúng ta, trong một thế giới mà ý niệm quốc gia dân tộc đang bị chất vấn. Sự tồn vong của chính đất nước ngày càng không chắc chắn.
Chưa bao giờ mà hiểm họa mất nước lớn bằng lúc này. Mất nước vì mất chủ quyền, mất căn cước dân tộc và nhất là vì chậm thích nghi với một thế giới thay đổi dồn dập. Kịch bản mất nước là sự thua kém và thiếu cả chủ quyền lẫn nhân quyền khiến ý niệm Việt Nam mất dần nội dung và trở thành nhàm chán, ý muốn và niềm tự hào làm người Việt Nam tan biến dần, đất nước giải thể trong lòng người trước khi giải thể thực sự.
Tình trạng đất nước tuy nguy ngập nhưng không tuyệt vọng. Dân chủ đã đến gần và chúng ta vẫn có những căn bản tốt có thể và cần được sử dụng triệt để cho cố gắng phục hưng một khi đất nước đã có dân chủ.
Chúng ta có một ngôn ngữ đồng nhất trong cả nước, một ngôn ngữ dễ học và khá đầy đủ để chuyên chở mọi kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật. Chúng ta cũng không bị vướng mắc vào một tôn giáo áp đảo nào.
Chúng ta có một dân số khá đông đảo, gần 100 triệu dân, đứng hàng thứ 13 trên thế giới. Dân số đông đảo này tuy là một trở ngại lớn cho cố gắng nâng cao mức sống nhưng cũng là một sức mạnh nhờ vị trí quan trọng của nước ta và bởi vì người Việt Nam ta về bản chất cần mẫn trên mức trung bình. Trong quá khứ chúng ta đã chứng tỏ khả năng tiếp thu mau chóng các khoa học và kỹ thuật mới nhất ; sinh viên Việt Nam đã thành công đông đảo và mỹ mãn trong nhiều cuộc thi tuyển khó khăn tại mọi quốc gia trên thế giới ; công nhân Việt Nam học nghề mau chóng và được đánh giá cao. Những người Việt Nam di tản ra nước ngoài cũng đã chứng tỏ một khả năng thích ứng xuất sắc với điều kiện sinh hoạt hoàn toàn mới. Có thể nói chúng ta là một dân tộc khá tinh anh. Một vốn liếng như vậy dù có bị soi mòn –và trên thực tế đã bị sa sút- cũng không thể mất hẳn trong vòng một hai thế hệ. Nếu tìm ra được tổ chức xã hội hợp lý con người Việt Nam có thể phục hồi được. Và một khi con người Việt Nam đã được phục hồi chúng ta sẽ có một tài nguyên nhân lực rất hùng hậu. Trong cố gắng vươn lên, khi đất nước đã có dân chủ để được tổ chức một cách hợp lý, chúng ta cũng có thể khai thác tiềm năng to lớn của khối hàng triệu thanh niên tốt nghiệp đại học và cao đẳng nhưng chưa được có cơ hội để đóng góp. Tuổi trẻ tuy không còn là một ưu thế của Việt Nam nhưng nguồn nhân lực trẻ và có đào tạo vẫn còn rất dồi dào.
Trong suốt dòng lịch sử khó khăn người Việt Nam đã biểu lộ một nguyện vọng tha thiết muốn giữ nước để sống chung với nhau và xây dựng một tương lai Việt Nam chung. Lòng yêu nước của người Việt dù đã rất suy giảm vì thất vọng và bực bội vẫn còn có thể khôi phục. Dân tộc Việt Nam đã chứng tỏ một sức sống phi thường, đã thắng được nhiều thử thách cam go. Chúng ta vẫn còn đủ sức để vượt qua thử thách hôm nay và vươn lên nếu biết kịp thời trấn tĩnh.
Chúng ta có một địa lý thuận lợi. Đất đai của ta tuy hẹp nhưng phì nhiêu, nông nghiệp của ta nếu hoạt động một cách hợp lý không những có khả năng sản xuất đủ lương thực cho dân chúng mà còn có khả năng xuất cảng. Bờ biển của ta dài và đẹp, nước ta nằm ngay sát nhiều trục giao thông quan trọng và ở ngay giữa một vùng đang phát triển mạnh mẽ có tất cả mọi triển vọng để trở thành một trung tâm kinh tế chiến lược lớn của thế giới. Chúng ta có tiềm năng của một quốc gia rất lớn về du lịch, công nghiệp và thương nghiệp. Làn sóng dân chủ đang trào dâng trên khắp thế giới kể cả các nước Đông Nam Á cũng là yếu tố tích cực mới, tạo ra một bối cảnh ngày càng lành mạnh và văn minh, có tác dụng thôi thúc đối với mọi người Việt Nam.
Chúng ta đang sống một thay đổi tư duy mang rất nhiều hy vọng. Những cuộc chiến khốc liệt tàn phá đất nước đã khiến người Việt Nam ý thức cái tai hại của bạo lực. Chúng ta đã đạt tới đồng thuận rằng hòa bình là giá trị đáng quí nhất trong mọi giá trị, nội chiến là tai họa lớn nhất trong mọi tai họa. Kinh nghiệm các chế độ độc tài gian trá kế tiếp nhau cũng đã đem lại cho chúng ta thâm tín vào tự do và dân chủ. Chúng ta cũng đã chấm dứt được những bàn cãi về mô thức kinh tế để nhận định rằng chỉ có một nền kinh tế thị trường lấy cạnh tranh và sáng kiến cá nhân làm nền tảng là có thể thành công. Sự phẫn nộ chung trước một chính quyền tham bạo cũng đã có tác dụng khiến chúng ta quên đi những xung đột trong quá khứ và hiểu rằng cần phải hòa giải với nhau, đoàn kết với nhau để chung sức tháo bỏ ách độc tài, giải quyết những vấn đề chung và xây dựng một tương lai chung. Chúng ta cũng đã thấu hiểu trong óc, trong tim, trong da, trong thịt những hậu quả bi đát của hận thù và chia rẽ. Trên rất nhiều điểm cơ bản, trí tuệ Việt Nam đã được khai thông.
Lý do quan trọng nhất để chúng ta vững lòng tin là hầu như tất cả mọi vấn đề, kể cả những vấn đề nghiêm trọng nhất, đều là những vấn đề đáng lẽ không có. Chúng đều do chế độ cộng sản mà có và vì thế cũng sẽ có giải pháp nhanh chóng một khi chế độ cộng sản đã chấm dứt.
Như vậy vấn đề cốt lõi của của chúng ta là kết thúc chế độ này. Nhưng ngay cả bài toán gai góc này cũng đã thay đổi thông số.
Đảng Cộng Sản đã phân hóa. Nó không còn một lý tưởng chung để gắn kết các đảng viên. Đã thế tham nhũng, bất tài và vô đạo đức còn gây sự ganh ghét và khinh thường lẫn nhau trong toàn bộ đảng, kể cả ở cấp cao nhất. Bộ chính trị không còn quyền lãnh đạo tối cao vì mâu thuẫn với ban chấp hành trung ương, một định chế không thường trực nhưng lại có thẩm quyền tối hậu trong việc chỉ định và kỷ luật các cấp lãnh đạo. Đảng Cộng Sản chỉ còn là một hư cấu. Chế độ như một con tầu không còn đoàn thủy thủ và đang chuyển hóa từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân. Sự chuyển hóa này diễn ra trong những điều kiện rất bất lợi : đảng phân hóa cùng cực, nhân dân thù ghét trong khi không có một nhân vật nào có uy tín. Tình trạng chỉ có thể dẫn tới sự sụp đổ. Trong lịch sử Châu Á thường có hai nguyên nhân chính đưa tới sự sụp đổ của các chế độ. Một là, cho tới khi tiếp xúc với phương Tây, vì lớp người thống trị cướp bóc quá đáng, nhất là cướp đất của người dân ; hai là, sau khi tiếp xúc với phương Tây, chế độ ngoan cố theo đuổi một hệ tư tưởng đã quá lỗi thời. Chế độ cộng sản Việt Nam có cả hai yếu tố đó. Nó không thể tồn tại.
Chế độ này đã kéo dài cho tới nay vì hai lý do :
Lý do thứ nhất là chủ nghĩa thực tiễn mà các cường quốc, đặc biệt là Hoa Kỳ, theo đuổi trong gần hai mươi năm từ giữa thập niên 1990 đã dung dưỡng các chế độ độc tài còn lại, đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng chủ nghĩa thực tiễn đã phá sản và bị gạt bỏ, các giá trị dân chủ và nhân quyền đã dành được chỗ đứng ưu tiên phải có.
Lý do thứ hai, cũng là lý do chính, là vì trí thức Việt Nam đã không đảm nhiệm chức năng và trách nhiệm của mình là hướng dẫn quần chúng. Do di sản văn hóa và lịch sử họ đã thiếu trái tim để đau, thiếu trí tuệ để biết, và thiếu sự dũng cảm để dám tranh đấu, hoặc đã coi quá trọng những địa vị và quyền lợi được ban phát. Nhưng lớp trí thức cũ đã qua đi và một lớp trí thức mới đã nhập cuộc, trong đó có một thành phần trí thức mà trong suốt dòng lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có : những trí thức chính trị. Những người trẻ này hiểu biết hơn hẳn các thế hệ đàn anh và không còn một ảo tưởng nào về chủ nghĩa và chế độ cộng sản. Họ không còn loay hoay tìm cách cải tiến chế độ mà đã hiểu dứt khoát là phải chấm dứt nó. Họ dám làm, quyết làm và biết làm và đang khám phá ra rằng phải kết hợp với nhau trong một đội ngũ để làm ; họ đã hiểu rằng đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân cả mà luôn luôn phải là đấu tranh có tổ chức. Đất nước sắp thay đổi vì đã thay da đổi thịt.
Cho đến nay một đặc tính chung của các chế độ độc tài bạo ngược là chúng thường tỏ ra rất vững chắc cho đến khi đột ngột sụp đổ. Lý do là vì sự ngoan cố và hung bạo của chúng đòi hỏi một điểm đoạn tuyệt ở đó những thay đổi về lượng đã tích lũy đủ để tạo ra một thay đổi về chất. Điểm đoạn tuyệt đó đang đạt tới, nhờ làn sóng dân chủ mới, nhờ sự xuất hiện ngày càng đông đảo của thành phần trí thức chính trị mới và nhờ ý thức ngày càng rõ rệt, đặc biệt ngay trong thành phần công an và quân đội, rằng chế độ không thể kéo dài lâu nữa và mọi người nên đóng góp thay vì tiếp tay cản trở tiến trình dân chủ, để làm tác nhân thay vì nạn nhân của một chuyển hóa cần có, bắt buộc phải có và sắp đến. Hạn kỳ dân chủ có thể rất gần. Nhất là nếu những người dân chủ biết tranh thủ lòng tin và sự hưởng ứng của nhân dân bằng một tình cảm trong sáng và quảng đại, bằng những phương thức đấu tranh hợp tình hợp lý và bằng một dự án đúng đắn để làm lại và thăng tiến đất nước.
Thời đại của các chủ nghĩa và ý thức hệ đã chấm dứt. Từ nay không còn những chân lý không thể đặt lại. Tuy vậy, một tập hợp chính trị trong mỗi giai đoạn vẫn cần đồng thuận trên một số nhận định nền tảng.
Giữa những thay đổi dồn dập đòi hỏi những chính sách và biện pháp đa dạng và phức tạp để thích nghi với tình thế, mọi người cần nắm vững những chọn lựa nền tảng, nghĩa là những gì không thay đổi và giải thích cái tại sao của các biện pháp và chính sách. Đó là điều kiện để đất nước không mất phương hướng và để người dân có thể hiểu và đóng góp một cách có ý thức vào sinh hoạt quốc gia. Chúng ta là một dân tộc đông đảo và phải đương đầu với rất nhiều vấn đề trầm trọng, gai góc và khẩn cấp, công việc của chúng ta chắc chắn là rất phức tạp. Chính sự phức tạp đó đòi hỏi các tổ chức chính trị phải minh định những chọn lựa có tính chủ thuyết, chủ thuyết được hiểu theo nghĩa không phải là chủ nghĩa hay ý thức hệ, cũng không phải là những học thuyết với cấu trúc lý luận phức tạp, mà là những ý kiến đơn giản được coi là đúng và được lấy làm căn bản cho các chính sách và biện pháp trong một giai đoạn khá dài.
Đồng thuận căn bản của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên gồm năm điểm sau đây : đất nước phải được quan niệm như một tình cảm, một không gian liên đới và một tương lai chung ; thể chế chính trị cho Việt Nam là dân chủ đa nguyên ; tinh thần chỉ đạo của cố gắng làm lại đất nước là hòa giải và hòa hợp dân tộc ; tổ chức xã hội Việt Nam phải thể hiện một cách thật quả quyết những giá trị tiến bộ ; cố gắng phát triển kinh tế phải đặt trên nền tảng kinh tế thị trường và sáng kiến cá nhân.
Nước Việt Nam ta đã hình thành từ ngàn xưa và đã có hơn hai ngàn năm lịch sử. Tuy vậy, cũng như mọi nước khác, chúng ta mới chỉ biết đến khái niệm quốc gia, hiểu theo nghĩa một thực thể thuộc quyền sở hữu của mọi người, gần đây thôi. Lý do là vì chính ý niệm quốc gia cũng là một ý niệm rất mới, được khai sinh ra cùng với dân chủ.
Cho tới khi ý niệm dân chủ ra đời, các vương quốc chỉ là của một nhà vua. Lãnh thổ cũng như người dân thuộc quyền sở hữu của vua và bị đặt dưới quyền quyết định độc quyền và tuyệt đối của vua. Đất cũng như dân có thể đổi chủ một cách tùy tiện theo sự chuyển nhượng giữa các vua chúa. Trong bối cảnh đó không thể có các quốc gia đúng nghĩa. Sự quyến luyến tự nhiên với mảnh đất của tổ tiên và những người quen thuộc chưa phải là tinh thần dân tộc hay lòng yêu nước. Người dân không có thẩm quyền nào trên đất nước thì cũng không có trách nhiệm nào đối với đất nước. Ý thức dân chủ đã biến các vương quốc thành những quốc gia và đã là nền tảng cho một nhà nước, hay chính quyền, của dân, do dân và vì dân.
Khác hẳn với các vương quốc đã dần dần hình thành với thời gian, quốc gia là một thực thể bao gồm một lãnh thổ, một chính quyền, một di sản văn hóa lịch sử và những con người bình quyền gắn bó với lãnh thổ đó, chấp nhận chính quyền đó, chia sẻ di sản lịch sử và văn hóa đó và, quan trọng hơn hết, chấp nhận xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung. Quốc gia ở trên mọi người và là của chung mọi người.
Cùng với ý niệm quốc gia như là một thực thể của chung mọi người nhưng cũng là của mỗi người đã xuất hiện một ý thức cộng đồng theo đó mỗi người không thể hoàn toàn tự giải quyết lấy mọi vấn đề cá nhân của mình, trái lại sự thành công hay thất bại của mỗi người còn tùy thuộc vào một quốc gia mà mỗi người từ nay vừa có bổn phận vừa có quyền lợi lại vừa có thẩm quyền đóng góp để bảo vệ và thăng tiến. Ý thức cộng đồng này đến lượt nó tạo ra lòng yêu nước, một tình yêu đối với những người thân thuộc, đồng hành và cùng phấn đấu với mình. Lòng yêu nước này không thể bị đồng hóa với tinh thần bài ngoại của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
Nhà nước dân chủ, đặt nền tảng trên ý niệm quốc gia, đã là tiến bộ vĩ đại nhất của loài người trong các thế kỷ 17 và 18. Những nhà nước - quốc gia này vì được tổ chức để khuyến khích và đón nhận sự hưởng ứng tự do và tự nguyện của mọi người đã giải tỏa sinh lực, ý kiến và sáng kiến của toàn dân, đã thúc đẩy mọi tiến bộ khoa học, kỹ thuật, triết học, văn hóa và nghệ thuật và đã khiến các nước phương Tây vượt xa hẳn phần còn lại của thế giới. Trong chiều sâu, lý do chính đã khiến các nước phương Tây đột ngột gia tăng sức mạnh là sự khám phá ra ý niệm quốc gia.
May mắn hơn nhiều dân tộc khác, người Việt Nam có một truyền thống sống chung lâu dài và ổn vững do điều kiện địa lý đặc biệt. Phần đất lâu đời của chúng ta, miền Bắc, được vách núi dầy dặc về phía Bắc và phía Tây bao che trong khi phía Đông tựa lưng ra biển cả. Nhờ tình trạng biệt lập đó mà biên giới cũng như cấu tạo nhân văn của ta đã không thay đổi bao nhiêu trong nhiều thế kỷ. Do đó mà ý thức cộng đồng và sự quyến luyến với quê cha đất tổ rất cao và đã có thể làm nền tảng cho một ý thức quốc gia và dân tộc rất mạnh. Nhưng do sự thiếu hụt tư tưởng chính trị, chúng ta đã chỉ biết đến ý niệm quốc gia, như là một thực thể của chung mọi người dân, một cách muộn màng. Chúng ta chỉ biết đến ý niệm quốc gia vào lúc đang bị ngoại bang thống trị. Từ đó đến nay chúng ta liên tiếp chịu đựng những cuộc chiến -phần lớn là nội chiến- và những chế độ độc tài. Chúng ta chưa bao giờ có dân chủ, yếu tố nền tảng của quốc gia và dân tộc, do đó chúng ta chưa xây dựng được một quốc gia đúng nghĩa và cũng chưa vận dụng được sức mạnh thực sự của một dân tộc.
Nếu các nhà nước - quốc gia đã là nguyên nhân tạo ra sức mạnh và sự phồn vinh của các nước Âu Mỹ thì sự thiếu vắng của chúng cũng giải thích sự thua kém và những đau khổ của nhiều nước trong đó có chúng ta.
Các nhà nước - quốc gia mạnh và có ích lợi lớn vì chúng đã được quan niệm một cách đúng đắn. Quốc gia là của mọi người và ở trên tất cả. Nhà nước, hay chính quyền, chỉ có sứ mệnh phục vụ quốc gia, do đó phải ở trong và ở dưới quốc gia. Nhà nước không phải là cứu cánh mà chỉ là công cụ và vì thế chỉ cần được tạo dựng và duy trì ở mức độ thực sự cần thiết. Quốc gia mới là cứu cánh, mà quốc gia trước hết là tập thể những người công dân tự do và bình đẳng.
Nhà nước không có quyền lợi của riêng mình mà chỉ biết quyền lợi của quốc gia, trong khi quyền lợi của quốc gia do toàn dân qui định sau một đúc kết đứng đắn của những ý kiến cá nhân được bày tỏ một cách tự do. Về cơ bản nhà nước - quốc gia là dụng cụ để thực hiện đồng thuận xây dựng tương lai chung của những con người tự do. Chính vì thế mà nhà nước ấy một mặt động viên được sự đóng góp của mọi người và, mặt khác, bảo đảm để mọi người phát huy tối đa khả năng của mình và đóng góp tối đa vào phúc lợi chung.
Chúng ta, cũng như nhiều dân tộc không may khác, đã thua kém bởi vì chúng ta không có được những nhà nước như thế. Ngược lại, cho đến nay chúng ta đã chỉ có những nhà nước của riêng một tập đoàn cầm quyền thay vì của mọi người. Những nhà nước đó có quyền lợi của riêng mình và chỉ biết quyền lợi của riêng mình cho nên chỉ có ưu tư giữ lấy quyền lực của mình bằng mọi giá ngay cả nếu phải gây những thiệt thòi lớn cho dân tộc. Đó là những nhà nước khống chế thay vì phục vụ quốc gia, những nhà nước coi dân chúng là đối tượng để kiểm soát và sử dụng thay vì là những đối tượng để bảo vệ và phục vụ.
Chúng ta hiện đang đứng trước tình trạng đặc biệt nghiêm trọng bởi vì chúng ta chưa xây dựng xong một quốc gia đúng nghĩa trong khi ý niệm quốc gia đang bị xét lại và vượt qua. Như thế chúng ta vừa phải nhanh chóng xây dựng một quốc gia đúng nghĩa lại vừa phải đúng hẹn với tương lai, nghĩa là xây dựng kịp thời quốc gia Việt Nam theo nghĩa mà nó sẽ phải có.
Do sự bùng nổ của các phương tiện giao thông và truyền thông, đồng thời với những trao đổi dồn dập và sự bành trướng của những tư tưởng mới, các yếu tố cấu tạo truyền thống của tinh thần quốc gia dân tộc đã thay đổi trọng lượng tương đối.
Cảm giác yên tâm trong sự gần gũi, sự lo sợ cái lạ và người lạ, liên hệ huyết thống, sự ràng buộc với lịch sử và văn hóa cổ truyền, sự quyến luyến với mảnh đất quen thuộc, sự thoải mái trong việc giao tiếp với những người cùng một tập quán và nếp sống, v.v... tất cả đều trở thành không quan trọng và ngày càng không quan trọng trong một thế giới cho phép sự trao đổi trực tiếp và tức khắc, kể cả làm việc chung, giữa những con người ở hai đầu trái đất và trong đó con người di chuyển và tiếp xúc thường xuyên, thu nhận hàng ngày đủ loại thông tin, hình ảnh và ý kiến. Quả đất đã là quê hương bé nhỏ chung của cả loài người và hạnh phúc cá nhân đã trở thành giá trị cao nhất. Những tình cảm truyền thống đã đóng góp tạo ra tinh thần quốc gia dân tộc ngày càng bộc lộ tính thủ cựu và hạn hẹp của chúng.
Mặt khác vai trò và chỗ đứng của quốc gia cũng bị công phá từ mọi phía. Từ bên ngoài, với những kết hợp khu vực tạo ra một không gian hoạt động lớn hơn, từ bên trong do những đòi hỏi của các cá nhân và các cộng đồng sắc tộc, và từ cả trong lẫn ngoài do sự bành trướng nhanh chóng của các công ty đa quốc mà vai trò và trọng lượng ngày càng gia tăng.
Trong bối cảnh đó, những lý do ràng buộc con người với đất nước dĩ nhiên phải thay đổi và trên thực tế đã thay đổi. Con người chỉ còn ràng buộc với đất nước vì ít nhất một trong ba lý do : vì đất nước bảo đảm cho mình những che chở và quyền lợi đặc biệt, vì đất nước đem lại cho mình một nguồn hãnh diện hay, một cách giản dị, vì đất nước là của mình.
Trong các yếu tố cấu tạo ra quốc gia, lãnh thổ không còn giá trị tuyệt đối, con người có thể yêu nước và đóng góp cho đất nước dù sống ở bất cứ nơi nào. Di sản lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ cũng đã giảm tầm quan trọng. Chính quyền cũng không quan trọng. Quan niệm một tổ quốc thiêng liêng mà mọi người phải phục tùng, tôn kính và phục vụ một cách không điều kiện lại càng lỗi thời. Còn lại những con người và dự án tương lai chung, hai yếu tố cấu tạo của quốc gia mà tầm quan trọng ngày càng tăng lên.
Như thế, một quốc gia chỉ có thể tồn tại nếu được quan niệm không phải như một chủng tộc hay một quá khứ mà như một không gian liên đới giữa những con người hiểu nhau, quí trọng nhau và hợp tác với nhau để xây dựng và chia sẻ một tương lai chung. Quốc gia như thế chủ yếu là xã hội dân sự với ký ức của nó, với những vấn đề phải giải quyết của nó và với những dự định tương lai của nó. Nhà nước ở trong và ở dưới quốc gia với sứ mạng phục vụ quốc gia cho nên nhà nước có vai trò phục vụ chứ không khống chế xã hội dân sự.
Một đất nước được hiểu như thế vẫn còn khả năng để ràng buộc người Việt Nam với nhau và vẫn rất cần thiết cho mọi người, đồng thời cũng là môi trường thuận lợi cho những hợp tác. Đất nước ấy sẽ có lợi cho mọi người bởi vì đó sẽ là môi trường phát triển tự nhiên cho mỗi người. Đất nước ấy sẽ là nguồn yểm trợ để mọi người chúng ta xây dựng đời mình đồng thời cùng nhau xây dựng một niềm tự hào chung và gia tăng phúc lợi chung. Đất nước ấy cũng sẽ là một chỗ dựa tình cảm cho mỗi người để hạnh phúc được toàn vẹn. Đất nước ấy phải là của mọi người chứ không phải là của riêng của một thế lực hay đảng phái nào.
Đó là quan điểm của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên về đất nước Việt Nam. Niềm tin của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là chỉ có một quan niệm về quốc gia như vậy mới có thể đem lại cho mọi người Việt Nam lý do để yêu nước và chung sức dựng nước, nghĩa là mới cho phép Việt Nam tồn tại và vươn lên.
Để thoát khỏi bế tắc hiện nay và hội nhập vào thế giới tiến bộ, để có thể động viên một cách hữu hiệu mọi sinh lực quốc gia vào cố gắng vươn lên mưu tìm một chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam không có chọn lựa chính trị nào khác hơn là một thể chế dân chủ đa nguyên.
Dân chủ đa nguyên không những là chọn lựa hiển nhiên cho Việt Nam mà còn là hướng đi tất yếu của loài người tiến bộ.
Cuộc tranh cãi gay go nhất trong thế kỷ hai mươi đã là cuộc tranh cãi về dân chủ. Hàng chục triệu người trên khắp thế giới đã thiệt mạng vì những xung đột gây ra bởi cuộc tranh cãi này. Vấn đề cốt lõi là làm thế nào để người dân quyết định vận mệnh đất nước, và nhiều công thức đã được đề ra và thử nghiệm.
Cuộc tranh cãi này hiện nay đã chấm dứt. Chủ nghĩa Mác-Lênin và mô hình "dân chủ xã hội chủ nghĩa" mà nó đề xướng đã hoàn toàn sụp đổ. Các chế độ cộng sản còn lại chỉ còn là những chế độ độc tài bạo ngược thuần túy. Mô hình dân chủ đặt nền tảng trên tự do cá nhân đã thắng về mặt lý thuyết và cũng đã thắng trên thực tế. Số lượng các nước dân chủ đã áp đảo và đang gia tăng nhanh chóng.
Nhiều người nói nền dân chủ kiểu phương Tây, mà hầu hết các dân tộc trên thế giới đã chấp nhận là đúng, tự nhiên đã có đa nguyên. Điều này có phần đúng, nhưng cụm từ "dân chủ đa nguyên" có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của nó, nhất là đối với người Việt Nam trong giai đoạn hiện tại. Nó nói lên một tinh thần, một thái độ và một lý tưởng. Tinh thần đó là tinh thần bao dung và khoan nhượng, tôn trọng mọi người và mọi ý kiến. Thái độ đó là thái độ bác bỏ thẳng thắn mọi hình thức độc tài chuyên chính, kể cả, và nhất là, thứ "dân chủ" bịp bợm mệnh danh là "dân chủ tập trung" hay "dân chủ xã hội chủ nghĩa" dành địa vị độc tôn cho một chủ nghĩa và một tập đoàn lãnh đạo. Lý tưởng đó là lý tưởng xây dựng đất nước Việt Nam có chỗ đứng xứng đáng và ngang nhau cho tất cả mọi người.
Đa đảng chưa phải là đa nguyên nếu mọi khuynh hướng không được nhìn nhận một chỗ đứng ngang nhau. Trong những ngày độc đoán và giáo điều nhất của nó, chế độ cộng sản Việt Nam có lúc cũng đã có ba hoặc bốn đảng, nhưng không phải vì thế mà nó đã có đa nguyên. Đa đảng chỉ là yếu tố cần, nhưng chưa đủ, của đa nguyên. Đa nguyên là một tinh thần, trong khi đa đảng chỉ là một con số.
Trong cuộc tranh hùng với phong trào cộng sản, các nước phương Tây đã lấy một quyết định vô cùng táo bạo là thay vì co cụm lại trong một kỷ luật tự vệ xơ cứng lại phát triển tối đa nền dân chủ của họ, mà nét đậm nhất là sự tôn trọng mọi khác biệt trong xã hội, và họ dần dần tiến tới dân chủ đa nguyên. Tuy vậy nhiều thể chế tư bản phương Tây chưa phải là những nền dân chủ đa nguyên đúng nghĩa. Các nước phương Tây ở vào những mức độ đa nguyên khác nhau.
Dân chủ đa nguyên là sự hội nhập và ứng dụng triết lý đa nguyên vào đời sống chính trị. Căn bản của triết lý đa nguyên là tinh thần bao dung, là sự nhìn nhận và tôn trọng mọi khác biệt trong xã hội. Dĩ nhiên tính đa nguyên có trong mọi xã hội và nếu muốn ngụy biện thì xã hội nào cũng đa nguyên cả, nhưng điều độc đáo là triết lý đa nguyên thay vì coi sự hiện diện của những thành tố khác biệt như một thực tại phải nhìn nhận và khắc phục, lại coi như một lẽ tự nhiên, một sự phong phú cần được khuyến khích và khai thác. Đó là một phong cách sinh hoạt chính trị. Dân chủ đa nguyên là dân chủ nhưng không phải dân chủ nào cũng là dân chủ đa nguyên.
Dân chủ đa nguyên là một hệ thống chính trị mới với những đặc tính bắt buộc của nó. Ta có thể nhấn mạnh năm đặc tính :
Một là : dân chủ đa nguyên nhìn nhận và tôn trọng chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau cho mọi người thuộc mọi thành phần xã hội, mọi sắc tộc, mọi tín ngưỡng và mọi khuynh hướng chính trị. Dân chủ đa nguyên lên án mọi phân biệt đối xử, nó chống đối quyết liệt chế độ độc đảng. Một cách cụ thể bản hiến pháp của một thể chế dân chủ đa nguyên không thể chứa đựng bất cứ một qui chiếu nào về một chính đảng, một chủ nghĩa hay một tôn giáo.
Hai là : ngoài nguyên tắc phân quyền phải có trong mọi nền dân chủ xứng đáng với tên gọi của nó, dân chủ đa nguyên đòi hỏi tản quyền để tôn trọng sự khác biệt giữa các địa phương. Một chính quyền dù xuất phát từ bầu cử tự do đi nữa cũng không phải là dân chủ đa nguyên nếu phần lớn quyền hành tập trung trong tay chính quyền trung ương. Trong một thể chế dân chủ đa nguyên các chính quyền địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, phải có những quyền luật định rộng rãi để tổ chức cuộc sống phù hợp với bối cảnh riêng của mỗi vùng. Mỗi vùng phải có diện tích và dân số ở mức độ thỏa đáng để có thể là những thực thể đủ tầm vóc để tự quản được và phát triển được. Như thế một số nguyên nhân xung đột sẽ tự nhiên được giải tỏa. Các sắc tộc ít người sẽ có được tiếng nói đáng kể tại các địa phương mà họ tập trung đông đảo. Các chính đảng không có được đa số trong các cuộc bầu cử toàn quốc vẫn có thể nắm được chính quyền tại những địa phương nơi họ được tín nhiệm. Dân chủ đa nguyên làm nhẹ đi mối căng thẳng chính quyền - đối lập, ở cấp trung ương cũng như cấp địa phương, và xóa bỏ mối xung khắc "được làm vua thua làm giặc". Tản quyền đưa tới hệ luận là chính quyền trung ương không cai trị trực tiếp mà chỉ đảm nhiệm các sứ mạng quốc phòng, ngoại giao, tiền tệ và điều hợp các địa phương. Một vai trò khác của chính quyền trung ương là thực hiện các công trình cơ sở hạ tầng trên qui mô cả nước và trợ giúp các chương trình địa phương đáng khuyến khích.
Ba là : dân chủ đa nguyên đặt nền tảng trên xã hội dân sự. Bên cạnh các chính đảng, các cộng đồng sắc tộc, địa phương và tôn giáo, các hiệp hội công dân tổ chức theo ngành nghề, quyền lợi, nhân sinh quan, sở nguyện, ưu tư, v.v... được hoạt động độc lập với chính quyền, được nhìn nhận một chỗ đứng trọng yếu, được có tiếng nói và ảnh hưởng trong sinh hoạt cũng như trong sự tiến hóa của xã hội. Nhà nước tự coi mình là có sứ mạng phục vụ xã hội dân sự chứ không khống chế xã hội dân sự, không định đoạt sinh hoạt thường ngày thay cho xã hội dân sự. Về mặt kinh tế, điều này có nghĩa là nền kinh tế quốc gia phải đặt nền tảng trên các xí nghiệp tư, khu vực quốc doanh phải được giới hạn ở mức tối thiểu và nếu không có thì càng hay. Một xã hội dân sự mạnh và đa dạng là bảo đảm nhất chắc chắn cho sự chuyển hóa thường trực, tự nhiên và liên tục của xã hội, tránh những xáo trộn đột ngột và đầy đổ vỡ của các cuộc cách mạng.
Bốn là : dân chủ đa nguyên kính trọng các thiểu số và luôn luôn mưu tìm thỏa hiệp. Trong một thể chế dân chủ đa nguyên, nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số không được sử dụng một cách tự động và máy móc mà chỉ được dùng tới sau khi đã tận dụng mọi cố gắng để tìm đồng thuận. Dân chủ đa nguyên chống lại mọi hình thức chuyên chính, kể cả chuyên chính của đa số. Bình thường trong một thể chế dân chủ sự chính đáng của một chính quyền dựa trên kết quả của cuộc bầu cử cuối cùng, nhưng trong dân chủ đa nguyên sự chính đáng của một chính quyền còn nằm cả trong sự thành khẩn tìm đồng thuận trong mọi quyết định quan trọng.
Năm là : dân chủ đa nguyên trong bản chất của nó tôn trọng mọi thành phần dân tộc, không chấp nhận hy sinh một thành phần nào và không thể cho phép một thành phần này bóc lột và chà đạp một thành phần khác. Vì thế dân chủ đa nguyên coi rất trọng liên đới xã hội và không thể đi đôi với cái thường được gọi là "tư bản rừng rú". Liên đới xã hội cũng là điều kiện phải có để nuôi dưỡng và tăng cường tinh thần quốc gia bởi vì giữa những người có mức sống, nếp sống, quan tâm và địa vị xã hội quá khác biệt tình đồng bào cùng lắm chỉ là lý thuyết.
Công bằng xã hội tuyệt đối hiểu theo nghĩa xóa bỏ mọi chênh lệnh, cào bằng, chia đều là điều không thể có và cũng không nên có. Điều có thể có và phải có là một chính sách liên đới xã hội bảo đảm cho mọi người sự bình đẳng trước pháp luật và khả năng thành công đồng đều, đồng thời nâng đỡ những người yếu kém hoặc thiếu may mắn.
Trong một thể chế dân chủ đa nguyên, nhà nước không còn là người chỉ huy tuyệt đối. Vai trò của nhà nước là đảm nhiệm ba chức năng : trọng tài trong các quan hệ giữa các thành tố của xã hội, chế tài những vi phạm, và hòa giải những đòi hỏi mâu thuẫn của các thành phần dân tộc. Nhà nước hòa giải thay vì nhà nước chỉ huy là nét đậm của dân chủ đa nguyên. Nó phân biệt hẳn dân chủ đa nguyên với các chế độ chuyên chính, nhưng nó cũng khiến dân chủ đa nguyên khác với nhiều chế độ dân chủ trong đó chính quyền vẫn còn tham vọng định đoạt thay cho xã hội dân sự.
Với sự tôn trọng mọi khác biệt, với vai trò nền tảng của xã hội dân sự gồm vô số các cộng đồng, hiệp hội công dân và các xí nghiệp, với tổ chức chính trị tản quyền, xã hội đa nguyên là sự kết hợp vô cùng phức tạp của vô số liên hệ đan xen. Một xã hội phức tạp như vậy chỉ có thể tồn tại được với những luật lệ rõ ràng, minh bạch và được áp dụng triệt để. Nhà nước trong một thể chế dân chủ đa nguyên chỉ có thể là một nhà nước pháp trị. Nhà nước văn minh nào cũng phải là một nhà nước pháp trị nhưng nhà nước dân chủ đa nguyên phải là một nhà nước pháp trị toàn vẹn. Và muốn pháp luật được tuyệt đối tôn trọng thì nó phải đúng, nghĩa là được lập ra bởi những đại diện thực sự do dân bầu ra và chỉ nhắm phục vụ quyền lợi chung ; cứu cánh của nó là qui định sự thể hiện các quyền tự do cá nhân trong sinh hoạt xã hội.
Nhìn vào thực trạng Việt Nam, nếu có một điều mà chúng ta có thể quả quyết thì đó là với tình trạng hận thù chồng chất, khủng hoảng niềm tin và thiếu đồng nhất về lập trường hiện nay không thể áp đặt một lực lượng nào hay một đường lối nào mà không gặp sự chống đối mạnh mẽ. Thể chế Việt Nam tương lai phải là một thể chế tôn trọng mọi khác biệt, dành chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau cho mọi người và cho mỗi người. Thể chế này do đó bắt buộc phải là một thể chế dân chủ đa nguyên.
Không thể viện cớ dân ta chưa đủ kinh nghiệm dân chủ, tinh thần kỷ luật còn chưa cao, lòng người còn phân tán, v.v... để cho rằng dân chủ là một xa xỉ phẩm đối với Việt Nam. Như vậy phải chăng chúng ta đành phải tạm thời chấp nhận một phân lượng độc tài nào đó ? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta chỉ cần so sánh những thành tựu của các nước dân chủ với thành tích tồi tệ của các chế độ cộng sản, nhìn vào những gì mà các chế độ độc tài cánh hữu đã từng đem lại cho các nước Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh.
Nhưng ngược lại cũng không nên ngộ nhận về bản chất của dân chủ. Dân chủ không giải quyết tức khắc và toàn bộ vấn đề phát triển. Thành công của mọi chế độ đòi hỏi những chọn lựa đúng đắn và những con người có khả năng. Dân chủ không đem cơm áo và sự phồn vinh để phát không. Dân chủ không thay thế cho những chọn lựa và những con người. Nhưng dân chủ là một phong cách sinh hoạt cho phép đặt các vấn đề một cách đúng đắn và chọn lựa một cách đúng đắn những người có trách nhiệm. Dân chủ, và nhất là dân chủ đa nguyên, cũng là một phương thức tổ chức xã hội cho phép phát huy triệt để ý kiến và sáng kiến, động lực cơ bản nhất của tiến bộ. Vì thế mức độ dân chủ quyết định một giới hạn trên cho phát triển. Dân chủ càng cao, khả năng phát triển càng cao.
Ngược lại, các chế độ độc tài cấm cản ý kiến và sáng kiến, ngăn chặn tiến hóa hòa bình và liên tục của xã hội, dung túng tham nhũng, bất công và lạm quyền, và do đó ngăn cản phát triển. Chúng ta cần cảnh giác là không thể có những chế độ độc tài sáng suốt bởi vì nền tảng của mọi chế độ độc tài là sự kiêu căng bệnh hoạn của một người hay một nhóm người tự nghĩ rằng họ đủ thông minh để suy nghĩ thay cho cả một dân tộc. Họ quá ngu dốt để hoặc không nhìn thấy sự phức tạp của các vấn đề hoặc không nhìn thấy sự ngu dốt của chính mình. Người độc tài trước hết là một kẻ u mê. Vả lại, nếu quan sát, ta có thể thấy hầu hết các tập đoàn độc tài đều thiếu văn hóa.
Dĩ nhiên dân chủ đa nguyên không thể đem lại tất cả mọi phúc lợi của nó trong những điều kiện dân trí, xã hội và kinh tế chưa tốt đẹp, nhưng ngay cả trong trường hợp này dân chủ đa nguyên vẫn còn hơn xa độc tài.
Chúng ta khẳng định : dân chủ đa nguyên thực sự và ngay tức khắc.
Để có dân chủ đa nguyên thực sự, điều chúng ta phải làm trước hết là xóa bỏ những hận thù do một quá khứ đẫm máu để lại và được một chính sách phân biệt đối xử nuôi dưỡng suốt thời gian qua. Hòa giải dân tộc là một bắt buộc của hoàn cảnh lịch sử. Có như thế chúng ta mới có thể chấp nhận nhau, nhận lỗi với nhau và tha lỗi cho nhau, để chung sống với nhau và bắt tay nhau xây dựng một tương lai chung. Còn nếu không đa nguyên cùng lắm chỉ có nghĩa là tạm thời chịu đựng lẫn nhau do một so sánh lực lượng chưa ngã ngũ. Đa nguyên mà không có hòa giải dân tộc như vậy chỉ là đa nguyên bệnh hoạn, chỉ chuẩn bị cho một sự thanh toán lẫn nhau. Ngược lại dân chủ đa nguyên cũng là điều kiện cần để có thể có hòa giải dân tộc thực sự. Hòa giải mà không có đa nguyên chính trị cũng chỉ là hòa giải bịp bợm, hòa giải trong sự khuất phục của kẻ bị trị trước kẻ thống trị, nghĩa là một hòa giải không thể có.
Đất nước ta không phải chỉ có những hận thù do chiến tranh để lại. Chúng ta còn có vô số nguyên nhân chia rẽ mà chúng ta đã không giải quyết được vì ta đã không ý thức được tầm quan trọng của các vấn đề đặt ra, hay vì hoàn cảnh chiến tranh đã không cho phép ta giải quyết. Những cách biệt về tôn giáo, địa phương, sắc tộc, giàu nghèo, nhân sinh quan, chính kiến, v.v. không thiếu, và vì không được giải quyết nên càng ngày càng trở nên trầm trọng. Dân chủ đa nguyên, do tinh thần bao dung và mô thức tản quyền của nó là giải pháp giúp mọi thành phần dân tộc đều có chỗ đứng và tiếng nói, và do đó có thể chấp nhận lẫn nhau, sáp lại gần nhau, hòa hợp với nhau để cùng xây dựng một tương lai Việt Nam chung.
Không ai phủ nhận rằng đa nguyên là một lý tưởng đẹp, đẹp đến nỗi các chế độ độc tài, dù bị khốn đốn vì nó, cũng không dám phủ nhận nó một cách dứt khoát.
Dân chủ đa nguyên đang trở thành đồng thuận căn bản của dân tộc ta trong cuộc hành trình về tương lai. Đó cũng là hướng đi tất yếu của loài người. Những người tranh đấu cho dân chủ đa nguyên có quyền tự hào vì mình đang theo đuổi một lý tưởng đẹp và cũng có quyền lạc quan vì mình đang tranh đấu cho một lập trường nhất định sẽ thắng lợi.
Trong hơn bốn thế kỷ qua, kể từ khi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê hồi đầu thế kỷ 16, nước ta liên tiếp đi từ cuộc chiến tranh này đến cuộc xung đột khác. Đất nước bị chia cắt nhiều lần trong hơn hai thế kỷ, bị đô hộ và bị đặt dưới những chế độ hành chánh khác nhau trong gần một trăm năm. Chiến tranh, nội loạn, trả thù, báo oán, bách hại đã là những yếu tố thường trực trong lịch sử cận đại của ta. Khốc liệt nhất là cuộc chiến sau cùng 1945-1975 trong đó lần đầu tiên chúng ta xung đột với nhau cả về ý thức hệ, và sau đó phe chiến thắng thi hành chính sách bỏ tù và hạ nhục, cùng với vô số biện pháp phân biệt đối xử.
Do hoàn cảnh lịch sử, chất liệu nhân xã của chúng ta đã bị tổn thương nặng nề. Những đổ vỡ đòi hỏi một thời gian hàn gắn rất lâu dài, do đó tinh thần căn bản của mọi chính sách cho nhiều thế hệ tới sẽ phải là hòa giải và hòa hợp dân tộc. Hòa giải dân tộc để xóa bỏ những hận thù và hiềm khích của quá khứ để đi đến hòa hợp dân tộc trong cố gắng xây dựng một tương lai chung.
Trong một thế giới thay đổi dồn dập như hiện nay, quốc gia nào cũng phải chịu những xáo trộn không ngừng. Ngành này tiến lên trong khi ngành kia suy thoái, khu vực này bành trướng trong khi khu vực khác trì trệ. Những chênh lệch xã hội liên tiếp xuất hiện và các chính sách dù hoàn chỉnh đến đâu cũng không thể nào thỏa mãn được tất cả mọi người. Cho nên quốc gia nào, dân tộc nào cũng liên tục phải hòa giải với nhau vì các mối xung đột quyền lợi và căng thẳng luôn luôn xảy ra. Hòa giải đã trở thành triết lý điều hành quốc gia.
Hòa giải là bắt buộc của mọi dân tộc dù ở trình độ nào và có lịch sử nào. Nhưng dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc cần hòa giải hơn cả.
Chúng ta cần hòa giải cộng đồng quốc gia nói chung với các sắc tộc ít người đã có mặt trên đất nước này từ ngày mở nước và luôn luôn bị chà đạp và hắt hủi trong suốt dòng lịch sử.
Chúng ta cần hòa giải các tôn giáo, nhất là Phật Giáo và Công Giáo, hai tôn giáo đã bị các nhà cầm quyền Việt Nam cũng như ngoại bang bách hại, đàn áp, phân biệt đối xử và đặt vào thế đối đầu với nhau. Đã thế, các hiềm khích, hậu quả của một hoàn cảnh lịch sử trong đó cả hai tôn giáo đều là nạn nhân, thay vì được giải tỏa còn đôi khi bị thổi phồng và khai thác cho những tham vọng bất chính.
Chúng ta cần hòa giải và hòa hợp hai miền Nam - Bắc đã thường xuyên bị chia cắt và đặt vào thế tương tranh và kể từ 1975 bị chia rẽ bởi một chính sách không khác gì một sự chiếm đóng của Đảng Cộng Sản.
Chúng ta cần hòa giải đất nước với cộng đồng người Việt hải ngoại đã phải bỏ người thân, tài sản, mồ mả tổ tiên ra đi vì không thể chấp nhận được một chính quyền hà khắc, đã phải chịu đựng những khổ đau và mất mát rất lớn do hải tặc, sóng gió và công an.
Chúng ta cũng cần hòa giải người Việt Nam với đất nước Việt Nam. Phải nhìn nhận rằng làm người Việt Nam cho đến nay đã là một điều không may. Đất nước đã chỉ là hy sinh. Hơn thế nữa, các tập đoàn lãnh đạo kế tiếp nhau còn nhân danh đất nước để phạm những tội ác rất nghiêm trọng. Dĩ nhiên, đất nước không đồng hóa với người cầm quyền, nhưng vẫn được thể hiện qua người cầm quyền. Vì thế, khi trong một thời gian quá dài chỉ có những người cầm quyền gian trá hay bạo ngược, hay vừa gian trá vừa bạo ngược, thì chính hình ảnh của đất nước cũng bị tổn hại và lòng yêu nước cũng bị suy giảm. Hòa giải người Việt Nam với đất nước Việt Nam là điều phải làm để phục hồi lòng yêu nước, một yếu tố không thể thiếu nếu chúng ta còn muốn một tương lai cho Việt Nam. Muốn như thế nhà nước, người đại diện đất nước, phải là một nhà nước khiêm tốn, hiền hòa và tuyệt đối lương thiện. Tổ quốc Việt Nam phải được cảm nhận như một tình yêu và một dự án tương lai chung.
Nhưng gần nhất và cũng đau đớn nhất, chúng ta vừa tàn sát nhau trong một cuộc tương tranh kéo dài ba mươi năm. Cuộc chiến này là một cuộc nội chiến vì tuyệt đại đa số những người chủ trương, những người cầm vũ khí tàn sát nhau và những nạn nhân đều là người Việt. Một cuộc nội chiến hổ nhục vì cả hai phe lâm chiến đều nhận mệnh lệnh và phương tiện từ nước ngoài. Sự kiện đảng cộng sản không nhìn nhận đây là một cuộc nội chiến chỉ làm cho tính nội chiến khốc liệt hơn vì họ không nhìn nhận cả tư cách đồng bào của những người trước mặt. Cần ý thức rằng nội chiến tàn phá hơn hẳn chiến tranh với nước ngoài bởi vì ngoài những thiệt hại sinh mạng và vật chất nó còn hủy hoại cả tinh thần dân tộc và ý chí sống chung, nghĩa là chính nền tảng của quốc gia. Cho tới nay chưa có dân tộc nào trở lại được bình thường sau một cuộc nội chiến trong vòng một hay hai thế hệ, ngay cả với những cố gắng hòa giải tận tình và dù nội chiến chỉ kéo dài vài năm. Cuộc nội chiến của chúng ta dài và khốc liệt hơn nhiều. Những vết thương vẫn còn chảy máu và thay vì được hàn gắn đã bị trầm trọng hóa bởi một chính sách phân biệt đối xử thô bạo sau đó.
Trong cuộc xung đột vừa qua chúng ta đã không có chọn lựa tốt nào. Chúng ta đã chỉ có những chọn lựa đau buồn, giữa cái dở và cái mà một cách chủ quan chúng ta thấy là còn dở hơn. Chúng ta đã chỉ chịu đựng chứ không làm chủ các biến cố. Rất ít người Việt Nam nào đã thực sự tranh đấu cho cái mà mình ưa thích. Trong tuyệt đại đa số, người Việt Nam, quốc gia cũng như cộng sản, đã chỉ chống lại phe mà mình thấy là còn tồi tệ hơn hàng ngũ mình đang đứng. Người không chịu đựng được sự thối nát của các chính quyền quốc gia thì đứng vào hàng ngũ cộng sản, mặc dầu cũng biết bản chất bạo ngược của nó, còn người thấy rằng để đất nước lọt vào tay cộng sản là một tai họa quá lớn thì đứng vào hàng ngũ quốc gia, mặc dầu cũng chán ghét sự tồi dở của nó. Anh em ruột thịt, bạn bè thân thích đã chỉ vì một sự lượng định nặng nhẹ khác nhau, hay đã chỉ bị hoàn cảnh xô đẩy, thậm chí bị bắt buộc, mà phải quay lưng lại với nhau, mạt sát nhau, bắn giết nhau. Cho nên, ngoài những đổ vỡ về vật chất và sinh mạng, còn có một đổ vỡ lớn hơn trong lòng mỗi người Việt Nam.
Để rồi, kẻ thì đã thua trận, bị tù đày và nhục mạ, người thì nhận ra tất cả những hy sinh của mình chỉ là để đóng góp cho một công trình đập phá đất nước. Chẳng có ai có lý do gì để bắt lỗi ai, tất cả chúng ta đều đã thất bại bẽ bàng. Chúng ta đều là nạn nhân. Chúng ta phải bắt tay nhau cùng làm lại lịch sử.
Thách đố trước mắt chúng ta là một tập đoàn cầm quyền đã gây đổ vỡ trầm trọng cho đất nước, đã thất bại trên tất cả mọi phương diện và trong tất cả mọi địa hạt, nhưng vẫn xấc xược tự cho mình độc quyền cai trị đất nước vô thời hạn và đàn áp thô bạo mọi tiếng nói đối lập, dù là ôn hòa. Tập đoàn này dùng mọi biện pháp để ngăn chặn hòa giải và hòa hợp dân tộc vì họ biết rằng chỉ có thể duy trì được sự thống trị của họ nếu dân tộc Việt Nam bất lực vì hận thù và chia rẽ. Không những không xoa dịu những vết thương của cuộc chiến họ còn mở rộng hiềm khích tới nhiều thành phần dân tộc và kéo dài hận thù tới thế hệ vừa lớn lên bằng những biện pháp đàn áp chính trị, xếp loại dân chúng và phân biệt đối xử.
Ngày hôm nay khát vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam là dân chủ. Nhìn lại anh em, nhận lại bạn bè phải là tinh thần chỉ đạo của một tập hợp dân tộc mới, trong đó không có kẻ đúng người sai mà chỉ có những người anh em bình đẳng cùng ngậm ngùi cho đất nước và cùng kết hợp trong một cuộc vận động dân chủ. Hòa giải và hòa hợp dân tộc chính là điều kiện cốt lõi để cô lập và đánh bại tập đoàn độc tài ngoan cố.
Nhưng vượt lên trên những sôi động nhất thời, hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là một đoạn tuyệt lịch sử cần thiết để bẻ gãy cái vòng luẩn quẩn của hận thù và chia rẽ đã giam hãm chúng ta từ nhiều thế kỷ qua, nhất là từ nửa thế kỷ nay. Đây là một đoạn tuyệt lịch sử rất khó khăn vì ý niệm hòa giải dân tộc hoàn toàn thiếu vắng trong tập quán chính trị Việt Nam. Trong gần tám thế kỷ, kể từ nhà Trần, nhổ cỏ tận gốc, tru di tam tộc, tiêu diệt toàn bộ vẫn là những biện pháp được người cầm quyền sử dụng thay cho hòa giải. Dần dần cách ứng xử hung bạo đó đã ăn rễ vào tâm lý tập thể và làm cho ý niệm hòa giải trở thành xa lạ đối với người Việt Nam. Vì thế nhiều người đã nói rằng dân tộc Việt Nam không có nhu cầu hòa giải trong khi thực sự chúng ta là một trong những dân tộc cần hòa giải nhất. Chính vì thiếu tinh thần hòa giải mà chúng ta đã bị tù hãm trong hận thù. Cái vòng oan nghiệt đó đã khiến chúng ta không động viên được mọi sinh lực của đất nước để vươn lên và giải thích tại sao chúng ta đã phải quằn quại mãi trong nghèo khổ và thua kém.
Hòa giải và hòa hợp dân tộc là điều kiện cần cho thắng lợi của cuộc vận động dân chủ hiện nay và cũng là điều kiện cần cho thành công của cố gắng phục hưng đất nước ngày mai.
Thực thi hòa giải dân tộc không phải chỉ đơn thuần là một tình cảm mà còn đòi hỏi những biện pháp cụ thể. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ đặt con người tự do làm đối tượng phục vụ cao nhất. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ coi đa nguyên như một giá trị tuyệt đối. Đa nguyên về mọi mặt tâm linh, văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ chế tài nghiêm khắc mọi ngôn ngữ và thái độ xúc phạm với mọi sắc tộc, mọi cộng đồng, mọi tín ngưỡng, mọi quan điểm. Ngược lại nhà nước sẽ khuyến khích và giúp đỡ tận tình mọi sáng kiến và cố gắng đem mọi người Việt Nam thuộc mọi vùng, mọi sắc tộc, mọi tôn giáo, mọi nhân sinh quan, mọi chính kiến đến gần nhau hơn trong tinh thần tôn trọng mọi khác biệt. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ phải phục hồi danh dự cho những người đã bị hạ nhục, phải bồi thường thiệt hại, dù chỉ là một cách không đầy đủ, cho những nạn nhân mà không tạo ra những nạn nhân mới. Xóa bỏ hận thù có nghĩa là sẽ không có những vụ án chính trị, ngược lại sẽ có một đạo luật cấm nhà nước truy tố bất cứ ai vì chức vụ mà họ đã giữ, trừ khi họ đã vi phạm một cách rất nghiêm trọng ngay chính những luật lệ đương hành lúc họ tại chức. Mọi công dân có quyền tố cáo những hà hiếp mà mình đã là nạn nhân, và nhà nước sẽ xử lý những tranh tụng đó như những tranh tụng giữa những công dân bình đẳng trước pháp luật trong tinh thần hòa giải dân tộc.
Những biện pháp đó, được thực hiện với thành tâm hàn gắn những vết thương do lịch sử để lại, sẽ giúp chúng ta dần dần tiến tới hòa hợp dân tộc trong cố gắng xây dựng và chia sẻ một tương lai Việt Nam chung. Chúng ta sẽ khép lại một trang sử đau buồn của đất nước và mở ra một trang sử mới viết bằng tình tự dân tộc. Hoà giải và hòa hợp dân tộc sẽ phải là chính sách quả quyết của đất nước ta trong nhiều thế hệ.
Một xã hội tiến bộ phải được xây dựng trên nền tảng của những giá trị tiến bộ.
Các nước phương Tây sở dĩ phát triển mạnh mẽ và vượt hơn hẳn phần còn lại của thế giới là vì xã hội của họ đặt nền tảng trên những giá trị cơ bản đúng. Những giá trị đó là hòa bình, tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp tác, lợi nhuận, môi trường và liên đới. Những giá trị này không phải của riêng người phương Tây mà vốn đã hiện diện trong mọi xã hội và trong mọi nền văn minh. Ưu điểm của các nước phương Tây là họ đã biết đề cao và phát huy triệt để một phần lớn trong số các giá trị này để lấy làm nền tảng cho xã hội. Nhờ vậy họ đã có được sức mạnh và sự phồn vinh. Tiếp xúc với các nước phương Tây, các quốc gia đều nhận ra sự thua kém của mình và đều tìm cách thỏa hiệp với nền văn minh phương Tây. Tuy nhiên quán tính tự nhiên đã khiến hầu hết các quốc gia đều có khuynh hướng chỉ chấp nhận một phần những thành tố của xã hội phương Tây để hội nhập nó vào truyền thống của mình, chẳng hạn như học hỏi kỹ thuật phương Tây trong khi vẫn giữ nguyên cơ cấu xã hội cũ. Nhưng một nền văn minh là một tổng thể cấu tạo bởi những giá trị gắn bó với nhau cho nên rất khó lấy một thành tố của một nền văn minh để ghép vào một nền văn minh khác. Không thể chấp nhận kỹ thuật của phương Tây trong khi vẫn từ chối những giá trị cơ bản đã làm nẩy sinh và đã thúc đẩy sự tiến phát của các kỹ thuật đó. Kinh nghiệm của các quốc gia đã chứng tỏ rằng thái độ nửa chừng này chỉ đem lại những thành công giới hạn, trước khi dẫn tới khủng hoảng. Nước Nga mặc dầu đã bắt đầu canh tân từ cuối thế kỷ 17 đã không bắt kịp được Tây Âu và đã phân hóa, cuối cùng trở thành một chế độ cộng sản với hậu quả tai hại mà thế giới đã thấy ; nước Nhật đã tích lũy những mâu thuẫn để rồi bị dẫn đến chiến tranh tự hủy. Ngày nay Nhật đã nhận ra sai lầm đó và đã chấp nhận toàn bộ các giá trị của thế giới tiến bộ từ sau thế chiến II và vừa hoàn tất một cuộc cải tổ cơ cấu kéo dài ba thập niên để thích nghi xã hội với những giá trị này. Nga cũng sẽ không có chọn lựa nào khác, chế độ nửa dân chủ nửa mafia hiện nay đã bắt đầu chao đảo. Trung Quốc với chính sách "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" và khôi phục Khổng Giáo cũng đã đến rất gần khủng hoảng.
Chấp nhận một cách thành thực và quả quyết những giá trị chính trị, văn hóa, xã hội của thế giới tiến bộ là điều kiện tiên quyết. Nhật Bản vì chọn lựa như vậy đã trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới. Một số nước Châu Á, như Nam Cao Ly và Đài Loan, từ bốn thập niên gần đây đi theo khuôn mẫu Nhật Bản cũng đang trỗi dậy mạnh mẽ. Chấp nhận toàn bộ các giá trị tiến bộ là chọn lựa chúng ta phải làm và phải làm một cách thật quả quyết. Giữa sự dùng dằng, lưỡng lự của các nước trong vùng, chọn lựa này là một cơ may cho phép chúng ta vươn lên bắt kịp và vượt qua họ.
Trong những giá trị trên đây, giá trị mà ta cần nhất là hòa bình. Truyền thống chống ngoại xâm dần dần đã khiến ta coi bạo lực như là phương cách tự nhiên để giải quyết xung đột. Ta quen tôn vinh những anh hùng có chiến công hiển hách mà coi nhẹ những cố gắng xây dựng âm thầm, nền tảng của mọi tiến bộ. Từ nay chúng ta phải nguyền rủa bạo lực và nâng hòa bình lên làm một giá trị tuyệt đối.
Chúng ta đừng lo sợ chấp nhận những giá trị mới sẽ làm ta mất đi quốc hồn quốc túy. Những giá trị này đã có sẵn trong mọi xã hội, kể cả xã hội ta, chỉ tiếc rằng ta đã không phát huy chúng một cách đầy đủ đến nỗi phải khổ nhục và thua kém như ngày nay. Chấp nhận chúng không phải là tự phủ nhận chúng ta mà chỉ có nghĩa là phát huy cái hay sẵn có trong chúng ta. Vả lại, tiến lên và bắt kịp thế giới là điều kiện để chúng ta có thể tồn tại như một quốc gia và giữ được văn hóa và bản sắc dân tộc.
Trên những giá trị chung các nước phương Tây đã xây dựng nên nhiều nếp sống khác nhau tùy đặc thái riêng của mỗi nước. Xã hội Anh khác với xã hội Pháp, văn hóa Đức khác với văn hóa Ý, nước Mỹ không giống như nước Thụy Điển. Trên căn bản các giá trị mới Nhật Bản và nhiều nước Châu Á khác vẫn giữ được truyền thống của họ. Trên căn bản các giá trị tiến bộ Việt Nam cũng vẫn sẽ là Việt Nam, nhưng là một Việt Nam vinh quang hơn.
Chúng ta cần một cuộc vận động tư tưởng lớn. Giáo dục của ta, luật pháp của ta, các sinh hoạt văn hóa, xã hội, kinh tế của ta đều phải nhấn mạnh và tôn vinh các giá trị tiến bộ. Trường học ngoài sứ mệnh cốt lõi của nó là chuyển giao kiến thức, còn phải là môi trường tập quen tuổi trẻ với tinh thần bao dung, tinh thần trách nhiệm, cách suy nghĩ tự do và khách quan và lòng yêu quí đất nước, đồng bào, nhân loại và thiên nhiên. Một cố gắng đặc biệt cũng sẽ được dành cho thể dục thể thao nhằm phát huy óc khách quan, tinh thần tranh đua trong hòa bình, tinh thần thượng tôn luật pháp. Cuộc vận động tư tưởng này là cố gắng quan trọng nhất trong mọi cố gắng, bởi vì đây chính là cố gắng xây dựng nền tảng của xã hội mới. Chúng ta sẽ không chỉ chấp nhận mà còn phải có tham vọng đóng góp bổ túc và kiện toàn các giá trị phổ cập. Cuộc vận động tư tưởng này cũng sẽ giúp ta tăng cường và thăng tiến một lớp người tối cần thiết cho quốc gia nhưng chúng ta mới chỉ bắt đầu có : những trí thức chính trị, những người đầu tư thời giờ và cố gắng để hiểu rõ những vấn đề của đất nước, dám có ý kiến của mình và sẵn sàng trả giá để dấn thân tranh đấu cho những gì mình nghĩ là đúng cho đất nước. Họ là những người hướng dẫn quần chúng và là trí tuệ của dân tộc. Chính sự thiếu vắng thành phần trí thức chính trị này trong suốt dòng lịch sử đã đã khiến nước ta thua kém và trôi dạt từ sai lầm này đến thảm kịch khác.
Điều nhức nhối nhất của chúng ta là tình trạng lạc hậu và nghèo khổ. Do đó trọng tâm của mọi cố gắng quốc gia phải là phát triển, và một cái nhìn thấu đáo về vấn đề phát triển là vô cùng quan trọng.
Một nửa nhân loại vẫn còn đang sống trong nghèo khổ, gần một phần tư đang sống trong nghèo khổ cùng cực. Cách đây hai thế kỷ, ngay tại các nước phát triển nhất, quá phân nửa dân số đã chết trước tuổi dậy thì. Phát triển như vậy là một hiện tượng rất mới tại một số nước nhờ một số điều kiện đặc biệt mà chúng ta cần nhận diện để nắm bắt.
Trước hết, chúng ta hiểu phát triển như thế nào ?
Phát triển là một thay đổi liên tục và kéo dài trong thời gian, cho phép sử dụng ngày một hữu hiệu hơn tài nguyên và nhân lực, đem lại cho quốc gia lợi tức ngày một lớn hơn và cho con người cuộc sống ngày càng cao hơn về cả vật chất lẫn tinh thần.
Phát triển là một khái niệm tương đối. Một quốc gia được coi là phát triển khi đạt thành tích cao so với phần còn lại của thế giới về lợi tức bình quân trên mỗi đầu người, về giáo dục, y tế, gia cư và cơ sở hạ tầng, khi hoạt động kinh tế mạnh và hiện đại, môi trường sinh sống sạch và đẹp, các phương tiện di chuyển, thông tin, học hỏi và giải trí dồi dào.
Phát triển, ngay cả với định nghĩa trên đây, cũng không phải là tất cả. Sự thành công của một quốc gia, ngoài phát triển, còn là sự kiện mọi người gắn bó một cách tự nguyện trong cố gắng xây dựng một tương lai chung và mỗi người cảm thấy được làm chủ đời mình, được sống theo ý mình, được quí trọng trong một xã hội không đe dọa, được hưởng phúc lợi do cố gắng của mình, được bảo đảm những cơ hội thăng tiến công bình, và có lý do để tin rằng ngày mai sẽ hơn ngày hôm nay và cuộc sống của con cái mình sẽ hơn cuộc sống của mình. Đó là mục tiêu chúng ta muốn đạt tới.
Phát triển không phải chỉ là sự gia tăng tổng sản lượng quốc gia. Do đó, một mức độ tăng trưởng 5% của tổng sản lượng quốc gia với những hệ thống giáo dục và y tế hoàn chỉnh, môi trường thiên nhiên được bảo vệ và cải thiện, lợi tức được phân chia tương đối công bằng, phải được đánh giá là tốt hơn nhiều lần một tăng trưởng 15% trong đó mọi vấn đề văn hóa, xã hội và môi sinh bị bỏ rơi. Một thí dụ cụ thể là trường hợp của Trung Quốc. Mức độ tăng trưởng tuy khá cao, nhưng sự thiệt hại gây ra cho môi trường nếu qui ra chi phí để phục hồi còn cao hơn. Sự chênh lệch giàu nghèo quá lố và sự chênh lệch giữa các vùng ngày càng trở thành báo động, thêm vào đó là một phần đáng kể dân số trở thành du mục sống vất vưởng trên các hè phố hay các khu tập trung đột xuất tại các vùng ngoại ô. Chúng ta không thể chấp nhận một tăng trưởng như thế. Chúng ta tìm kiếm một phát triển hài hòa và cân bằng, bởi vì chỉ có phát triển đó mới có thể bền vững và mới xứng đáng được coi là một mục tiêu quốc gia.
Tuy phát triển không phải chỉ là phát triển kinh tế, nhưng phát triển kinh tế là yếu tố quan trọng nhất và cũng là chìa khóa cho phát triển cân đối toàn bộ. Chúng ta là một trong những dân tộc nghèo khổ và chậm tiến nhất nên phát triển kinh tế là mục tiêu cấp bách nhất đối với chúng ta.
Chúng ta cần đánh tan ngay một lấn cấn tai hại.
Bịp bợm lớn nhất vẫn còn tiếp tục tại là luận điệu cho rằng một xã hội muốn tiến nhanh cần một chế độ độc tài sáng suốt, cần đình hoãn xây dựng dân chủ và hy sinh một số tự do căn bản. Bịp bợm này đã là nguyên nhân của những tang tóc ghê gớm. Nó đã tạo ra và nuôi dưỡng các chế độ phát xít quân phiệt tại Ý, tại Đức và tại Nhật. Nó đã giúp cho phong trào cộng sản nảy sinh, phát triển và tồn tại. Nó đã tiếp tay duy trì các chế độ độc tài tại Châu Mỹ La Tinh và Châu Á trước đây. Và nó vẫn đang được dùng làm chỗ dựa lý luận của nhiều chế độ độc tài khác, trong đó có Việt Nam.
Những chế độ này đã chỉ đem lại những kết quả tồi tệ. Các chế độ độc tài tại Ý, Đức và Nhật đã tích lũy mâu thuẫn, đã bế tắc và phải lao đầu vào các cuộc chiến tự hủy. Chế độ cộng sản tại Liên Xô đã hủy hoại tài nguyên, môi trường, đã đày đọa dân chúng rồi sụp đổ. Tất cả những chế độ độc tài khác đều có một thành quả giống nhau : nghèo khổ, lạc hậu và áp bức.
Sự thực, phát triển là hậu quả của tự do và dân chủ. Nhưng vì tự nó phát triển cũng thúc đẩy và phát huy tự do dân chủ nên dễ có ngộ nhận giữa hậu quả và nguyên nhân đưa đến sự nhẫn nhục sai lầm là hãy tạm chấp nhận độc tài để có phát triển rồi sau đó phát triển sẽ đem tới dân chủ. Sự ngộ nhận này đã bị các tập đoàn độc tài khai thác.
Kinh nghiệm của các dân tộc chứng minh dân chủ và phát triển đi đôi với nhau.
Hiện tượng phát triển trên qui mô quốc gia đã bắt đầu xuất hiện tại Châu Âu và Hoa Kỳ sau khi những xã hội đặt nền tảng trên dân chủ được thành lập. Nguyên nhân đã làm nảy sinh ra phát triển là trọng lượng của nhà nước trong đời sống thường ngày được giảm nhẹ, một hiến pháp dân chủ và ổn vững được thượng tôn, luật pháp thay thế cho các quyết định tùy tiện của người cầm quyền, con người được tôn trọng và được bảo vệ, kinh tế hoạt động theo qui luật của thị trường, hoạt động kinh doanh được tôn vinh, buôn bán và trao đổi được đề cao, ý kiến và sáng kiến được khuyến khích và tưởng thưởng, lợi nhuận được nâng lên hàng một giá trị.
Quốc gia Châu Á duy nhất đã bắt kịp các nước phương Tây ngay đầu thế kỷ 20 là Nhật đã phát triển được nhờ mau chóng chấp nhận sinh hoạt kinh tế phương Tây. Dưới cái vung thống trị của một giai cấp hiệp sĩ kiêu căng sống tách rời hẳn khỏi quần chúng, một xã hội dân chủ đã âm thầm hình thành giữa đại đa số người Nhật và đã khiến cho nước Nhật vươn lên ngay từ thế kỷ 18, rồi vươn lên mạnh mẽ từ nửa sau thế kỷ 19.
Sự kiện hai chế độ phát xít Ý và quốc xã Đức đã đem lại một số tiến bộ lúc ban đầu, và chế độ quân phiệt Nhật đã duy trì được phát triển trong vài thập niên, giúp ta nhận diện một yếu tố khác của phát triển vốn đã có trong những phát triển trước đây : đồng thuận dân tộc. Cả ba dân tộc này vào thời điểm đó đều cùng bực tức vì thua kém và đều có được những lãnh tụ đủ sức lôi cuốn để đoàn kết họ trong một cố gắng chung.
Kinh nghiệm của các nuớc vừa phát triển tại Châu Á cần được nhìn một cách chính xác bởi vì, trái với nhận định hời hợt của một số người và trái với giải thích gian trá của các chế độ độc tài, các quốc gia này đã phát triển được vì họ đã dân chủ hơn và tự do hơn các nước chậm tiến khác, dù có thể chưa đạt tới dân chủ trọn vẹn và đúng nghĩa.
Các nước Châu Mỹ La Tinh với tài nguyên phong phú đã quằn quại trong hơn một thế kỷ rưỡi trong lạc hậu dưới các chế độ độc tài và đã chỉ vươn lên từ thập niên 1980 nhờ dân chủ.
Tại Châu Âu, ba nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp, vì vướng mắc vào các chế độ độc tài mà đã tụt hậu bi đát ; họ đã chỉ vươn lên từ thập niên 70 nhờ vứt bỏ được ách độc tài.
Ngay cả những tiến bộ kinh tế được ghi nhận gần đây tại Trung Quốc và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ : chúng đã có được nhờ kinh tế thị trường và nhờ một mức độ tự do lớn hơn.
Kinh nghiệm của mọi dân tộc đã chứng minh : dân chủ, quyền tư hữu, kinh tế thị trường, nhà nước nhẹ là những yếu tố làm nảy sinh ra phát triển kinh tế.
Nhưng kinh nghiệm cũng cho thấy cùng những yếu tố ấy đã tạo ra những phát triển kinh tế khác nhau về vận tốc và về cường độ tại các quốc gia khác nhau, và nhiều quốc gia với điều kiện thiên nhiên bất lợi đã phát triển mạnh mẽ hơn những quốc gia khác, cũng dân chủ và còn có tài nguyên phong phú hơn nhiều. Các yếu tố tâm lý và văn hóa đã đóng góp vai trò quyết định.
Sau khi đã quan sát lịch sử của các dân tộc chúng ta cũng có thể tiếp cận hiện tượng phát triển bằng lý luận kinh tế.
Phát triển kinh tế đòi hỏi ba yếu tố vừa cần vừa đủ : con người có ước muốn kinh doanh, có thể kinh doanh, và có phương tiện để kinh doanh.
Để ước muốn kinh doanh người dân cần một bối cảnh tâm lý thuận lợi : hoạt động kinh doanh được xã hội quí trọng, ý kiến và sáng kiến được đề cao, sự chấp nhận rủi ro được tôn vinh ; họ cũng cần có lý do để lạc quan tin tưởng rằng kinh doanh sẽ có lợi và lợi tức đó sẽ là của họ. Nói một cách khác, để kinh doanh, cùng với một bối cảnh kinh tế lạc quan, nhà kinh doanh cần một tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh doanh và một bảo đảm chắc chắn về quyền tư hữu. Yếu tố khởi động này của phát triển giải thích tại sao các nước cộng sản đã suy sụp vì không tôn trọng quyền tư hữu. Nhưng quan trọng hơn, nó giải thích tại sao hiện tượng phát triển đã chỉ có tại một số quốc gia nhờ một tâm lý xã hội thuận lợi.
Để có thể kinh doanh, doanh nhân cần một xã hội có trật tự và an ninh, cần được luật pháp đảm bảo và được tự do hành động ; họ không thể bị trói buộc bởi quá nhiều qui định, không bị gò bó trong một kế hoạch quốc gia cứng chắc, không phải nộp thuế quá cao, không bị sách nhiễu bởi một guồng máy chính quyền tham nhũng. Chúng ta nhìn thấy ở đây sự cần thiết của một thể chế dân chủ pháp trị, của một hoạt động kinh tế thị trường thay vì kinh tế hoạch định, của một guồng máy nhà nước nhẹ. Nhưng chúng ta cũng nhìn thấy một lần nữa các yếu tố tâm lý : đạo đức và lương thiện. Tham nhũng cũng là hậu quả của sự suy đồi của đạo đức xã hội.
Người kinh doanh dĩ nhiên cũng cần có phương tiện, nghĩa là có nguồn nhân lực cần thiết với những khả năng cần có, có một cơ sở hạ tầng tốt, có vốn đầu tư, có một hệ thống tín dụng ngân hàng đắc lực để huy động vốn luân chuyển. Vốn đầu tư chỉ là một trong những yếu tố và cũng không phải là yếu tố quan trọng nhất. Vốn có ít thì đầu tư ít, và lợi nhuận sẽ đẻ ra vốn. Vả lại tư bản có trí khôn và lôgíc riêng của chính nó, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay ; ở đâu kinh doanh có lợi vốn sẽ tìm đến. Điều quan trọng hơn hết vẫn là con người, những con người thực thà, lương thiện, có kỹ năng và có tinh thần trách nhiệm. Một lần nữa yếu tố tâm lý và văn hóa là nòng cốt.
Nói chung, phát triển cần một bối cảnh tự do dân chủ và là một vấn đề chủ yếu văn hóa và tâm lý. Chính vì thế mà một số quốc gia dù tài nguyên ít ỏi, dù bị tàn phá ghê gớm vẫn vươn lên mạnh mẽ. Nước Đức và nước Nhật bại trận và tan hoang đã chỉ cần một vài thập niên để trở thành những nước phát triển nhất. Dân tộc Hòa Lan chen chúc trên một mảnh đất nhỏ với tài nguyên thiên nhiên ít ỏi cũng đã xây dựng được một trong những quốc gia phồn vinh nhất thế giới. Chính vì phát triển trước hết là một vấn đề văn hóa và tâm lý mà cho tới nay nó đã chỉ giới hạn ở một số quốc gia.
Cần phân biệt tâm lý và văn hóa với trí tuệ và kiến thức. Bẩm sinh con người có khả năng trí tuệ bằng nhau hay gần bằng nhau và do đó nhờ giáo dục có thể đạt tới một trình độ hiểu biết ngang nhau. Sự khác biệt là tâm lý và văn hóa, là các giá trị được trân trọng và thể hiện trong xã hội, là óc cầu tiến, tính chấp nhận rủi ro của kinh doanh, là tinh thần trách nhiệm, là cách ứng xử trong cuộc sống tập thể.
Chúng ta cần thay đổi xã hội và con người để có phát triển.
Chúng ta cần một xã hội dân chủ, quí trọng con người, đặt lòng tin ở con người, để cho con người tự do quyết định xây dựng đời mình. Chúng ta cần một nhà nước pháp trị, có luật pháp đầy đủ và không có quá nhiều thủ tục, chúng ta cần một cơ chế thị trường thay vì một kế hoạch áp đặt.
Chúng ta cần những con người tự do, trách nhiệm, lương thiện, gắn bó vào cộng đồng, cầu tiến và thi đua chứ không ghen tức và phá hoại. Chúng ta cần những con người ham thích kinh doanh, khao khát làm giàu một cách lương thiện.
Chúng ta cần một bộ máy kinh tế hoạt động không cưỡng chế. Nhà kinh doanh phải được phép tự do hành động theo các qui luật khách quan của kinh doanh và thị trường. Liên đới xã hội là một ưu tư thường trực của một chính quyền đứng đắn, nhưng liên đới xã hội phải được thực hiện ở khâu phân phối lợi tức quốc gia, qua thuế khóa, chứ không thể can thiệp trực tiếp vào sự điều hành hoạt động kinh doanh.
Chúng ta cũng cần một bối cảnh pháp lý, nghĩa là hiến pháp và pháp luật, ổn định để người dân có thể yên tâm xây dựng cuộc sống và lập ra những dự định cho tương lai mà không lo sợ một thay đổi luật chơi đột ngột làm hỏng dự án kinh doanh của mình.
Nhưng hiến pháp và luật pháp ổn vững không có nghĩa là chính quyền ổn vững. Sự thay đổi thường xuyên người cầm quyền trong một bối cảnh pháp lý ổn vững không hề cấm cản cảnh sát tiếp tục bảo vệ an ninh trật tự, không hề cấm cản các thẩm phán tiếp tục xử án và cũng không hề cấm cản một nhà máy tiếp tục hoạt động. Điều có thể tác hại cho sinh hoạt kinh tế là những cuộc cách mạng làm đảo lộn tất cả, là những thay đổi đột ngột luật pháp và định hướng quốc gia.
Đẩy xa lý luận hơn nữa, ta còn có thể nói những chính phủ dân chủ không có đa số áp đảo để thay đổi tùy tiện luật pháp và chính sách còn có thể là một đảm bảo cho sự ổn định bối cảnh pháp lý, và do đó có lợi cho phát triển. Một chính quyền áp đảo và nhiều quyền lực chỉ cần thiết để có thể quyết định mau chóng những thay đổi, và áp đặt một kế hoạch phát triển quốc gia. Nhưng kế hoạch quốc gia là điều chúng ta nên tránh. Kế hoạch quốc gia là một sản phẩm duy ý chí, tàn dư của thời đại thế giới chưa đủ sáng suốt và kinh nghiệm để nhận định rằng cần để cho xã hội, qua qui luật thị trường khách quan, quyết định những gì cần làm, làm tới mức nào và làm như thế nào. Kế hoạch kinh tế là một cản trở cho phát triển mà chúng ta phải loại bỏ, điều chúng ta cần là một định hướng cho quốc gia và những dự án cho từng vấn đề, đặc biệt là những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Dĩ nhiên trong một hoàn cảnh còn khó khăn và còn nhiều trở ngại cho phát triển, chúng ta cần một chính quyền có khả năng quyết định những chọn lựa cần thiết nhằm tháo gỡ những ách tắc do quá khứ để lại. Nhưng khả năng này một chính quyền dân chủ và nhẹ vẫn có thể có được nhờ thuyết phục để tạo ra đồng thuận và hậu thuẫn của quần chúng trên một số chọn lựa căn bản phải làm.
Tóm lại, để phát triển đất nước, và trước hết là phát triển kinh tế, chúng ta cần một thể chế dân chủ, một nhà nước pháp trị, một sinh hoạt kinh tế thị trường, một sự tôn trọng tuyệt đối ý kiến và sáng kiến cá nhân, một niềm tin mạnh mẽ vào con người. Thể chế đó sẽ làm nảy nở óc sáng tạo, tinh thần cầu tiến, tinh thần trách nhiệm. Nhưng chúng ta cũng cần một cố gắng văn hóa quan trọng để thượng tôn những giá trị của tiến bộ và đưa những giá trị đó vào tâm hồn và phản xạ của mọi người. Những giá trị đó là hòa bình, tự do, dân chủ, nhân quyền, bình đẳng, nhà nước pháp trị, hợp tác, lợi nhuận, liên đới và môi trường.
Xây dựng một xã hội dân chủ đa nguyên, phát huy các giá trị tiến bộ, chúng ta sẽ có phát triển, đặc biệt là phát triển kinh tế. Đó là chủ thuyết phát triển của chúng ta. Chúng ta quả quyết rằng một xã hội như thế và với những giá trị như thế dù muốn không phát triển cũng không được. Ngược lại, một xã hội không dân chủ, hoặc không có những giá trị tiến bộ thì dù muốn và cố gắng đến đâu cũng sẽ không có phát triển, hay chỉ có phát triển ở một mức độ thấp. Tài nguyên thiên nhiên và vốn đầu tư là những yếu tố thứ yếu.
Trong một chủ thuyết phát triển như thế, vai trò của nhà nước chủ yếu là gìn giữ hòa bình và trật tự an ninh, bảo đảm quốc phòng và công lý, tạo những quan hệ bang giao tốt với cộng đồng thế giới, hòa giải và trọng tài những tranh tụng của xã hội dân sự. Vai trò của nhà nước trong kinh tế sẽ được giới hạn trong ba phạm vi : thuế, chi tiêu công cộng và điều chỉnh khối lượng tiền tệ. Thuế để nhà nước có ngân sách làm nhiệm vụ của mình và bảo đảm an sinh và liên đới xã hội. Các chi tiêu công cộng để xây dựng, bảo trì và cải thiện cơ sở hạ tầng, thúc đẩy, kích thích một số ngành nghề. Việc điều chỉnh khối lượng tiền tệ lưu hành, chủ yếu qua ấn định một mức lãi suất căn bản và phát hành hoặc thu hồi công trái, có ảnh hưởng trực tiếp trên giá cả, đầu tư và tăng trưởng. Trong cả ba phạm vi đó, nhà nước cũng cần hành động với tất cả dè dặt để tránh đảo lộn sinh hoạt kinh tế. Ổn định là yếu tố cốt lõi của kinh doanh. Riêng việc quản lý tiền tệ, chúng ta phải tránh trường hợp chính quyền hành động theo những yêu cầu chính trị ngắn hạn, bằng cách giao phó cho một định chế ngân hàng trung ương xuất phát từ chính phủ nhưng không chịu sự chi phối tùy tiện của chính phủ.
Một lần nữa, nhu cầu phát triển buộc ta phải có một nhà nước hòa giải và trọng tài để cho xã hội dân sự lo việc phát triển thay vì một nhà nước chỉ huy và định đoạt thay cho xã hội dân sự. Vai trò hòa giải và trọng tài trong sinh hoạt kinh tế buộc nhà nước phải từ bỏ mọi chức năng kinh doanh. Các công ty quốc doanh không nên có, hay nếu có thì cần được coi là những bó buộc chẳng đặng đừng trong một thời gian nhất định. Trong chủ thuyết phát triển của chúng ta, nhà nước không chen lấn với xã hội dân sự, mà tập trung mọi cố gắng để làm tròn và làm tốt chức năng thực sự của một nhà nước.
Để làm lại đất nước sau sự tàn phá của chế độ cộng sản chúng ta sẽ phải đổi mới hoàn toàn hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, quan hệ giữa nhà nước và người dân, quan hệ giữa nước ta và thế giới ; chúng ta phải xét lại vai trò của xã hội dân sự, chọn lựa những giải pháp dài hạn cho các vấn đề liên đới xã hội và giới hạn dân số.
Chúng ta sẽ làm lại đất nước trên những định hướng lớn sau đây.
1. Lấy tự do làm động lực để phát huy óc sáng tạo và tinh thần cầu tiến
Dân tộc ta có truyền thống giữ nước vẻ vang, nhưng bù lại ta cũng đã mất quá nhiều thời giờ và nghị lực cho cố gắng chống ngoại xâm. Trong những tranh đấu cam go ấy ta luôn luôn phải đề cao kỷ luật và sự nhất trí, luôn luôn phải gác lại những tranh cãi để đương đầu với những vấn đề cấp bách. Lịch sử chật vật ấy một mặt khiến chúng ta có khả năng thích nghi cao với điều kiện sinh sống nhưng mặt khác cũng làm ta dần dần mất đi cái nhìn dài hạn, sáng kiến, óc phát minh và tinh thần mạo hiểm.
Chúng ta có một bờ biển dài và một đại dương hiền hậu, nhưng biển cả hầu như không có một tiếng gọi nào với chúng ta cả. Chúng ta đã thiếu hẳn quyết tâm chinh phục và tận dụng đại dương. Chúng ta không có kỹ thuật đóng tàu và đi biển, không có đội thương thuyền, không có những nhà hải hành lớn. Cho tới gần đây chúng ta đã chỉ sống với đất như một dân tộc lục địa. Chúng ta đã hài lòng với khuôn mẫu Khổng Mạnh từ đời này qua đời khác mà không ý thức rằng văn hóa Khổng Giáo là một văn hóa nô lệ làm thui chột trí tuệ và tha hóa con người, trước hết là trí thức. Khuôn mẫu độc đoán và hà khắc đó, sau khi đã cho phép chúng ta đạt những thành tựu ban đầu, đã bắt chúng ta dẫm chân tại chỗ trong nhiều thế kỷ tiếp theo.
Óc phê phán và sáng tạo, tinh thần mạo hiểm và cầu tiến là những điều chúng ta phải học và tập quen. Muốn như thế chúng ta phải khuyến khích và tôn vinh tự do suy nghĩ và phát biểu. Chúng ta cần nâng lên hàng một nguyên tắc tuyệt đối là trong nước Việt Nam tương lai sẽ không thể có những vấn đề cấm bàn đến và cũng không thể có những ý kiến cấm nêu ra. Không một người Việt Nam nào có thể bị trừng phạt vì lối sống của mình hay vì những gì mình phát biểu, trừ trường hợp trực tiếp kêu gọi bạo lực.
2. Phát huy lòng yêu nước tự nguyện
Trong gần suốt dòng lịch sử chúng ta đã sống dưới những chế độ quân chủ tuyệt đối coi đất nước của riêng một dòng vua, khi chúng ta không bị ngoại thuộc. Lòng yêu nước của chúng ta vì vậy không có điều kiện để phát triển. Khi ý niệm quốc gia như là của mọi người và phải được sự đóng góp của mọi người xuất hiện, do hậu quả của một di sản trong đó vua là trời và dân là nô lệ, nó đã mau chóng bị tuyệt đối hóa. Tổ quốc trở thành thiêng liêng, tối thượng, không có trách nhiệm nào và không chấp nhận một đòi hỏi nào. Tổ quốc đó đã được dùng làm chiêu bài cho quá nhiều tội ác. Chiến tranh, tang tóc, thất vọng, sự chịu đựng quá lâu một chế độ độc tài vừa tồi dở vừa bạo ngược, mặc cảm thua kém các dân tộc khác làm cho lòng yêu nước của chúng ta bị tổn hại trầm trọng. Chính vì lòng yêu nước không mạnh mà chúng ta đã để cho đảng cộng sản, một đảng mà lý tưởng là phục vụ cho một phong trào quốc tế thay vì đất nước và tôn sùng một chủ nghĩa chủ trương xóa bỏ quốc gia, lôi kéo được một số đông đảo đồng bào và khống chế chính trường. Chính vì ý chí và lòng yêu nước đã hao mòn mà ngày nay chúng ta đã không phản ứng đủ quyết liệt trước một chế độ độc tài đảng trị coi đất nước là của riêng mình như các vua chúa ngày xưa, trong khi cả nhân loại đang tiến về dân chủ và chính chúng ta cũng biết đất nước rất cần dân chủ.
Nhưng chúng ta là người Việt Nam, và tương lai của chúng ta gắn liền với tương lai của đất nước Việt Nam. Chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là xây dựng một tương lai Việt Nam chung. Và để xây dựng tương lai chung đó, lòng yêu nước vẫn là mẫu số chung bắt buộc. Chúng ta cần một sức bật mới của lòng yêu nước. Chúng ta cần phục hồi và phát minh lại lòng yêu nước.
Chúng ta cần xác định lòng yêu nước như một tình cảm tự nguyện của những con người tự do, ràng buộc mật thiết với nhau để xây dựng một tương lai chung cho mình và cho con cháu. Chúng ta cần để cho mỗi người yêu nước theo cách của mình, chúng ta không thể để cho lòng yêu nước bị đồng hóa với sự tán thành một chủ nghĩa. Chúng ta cần hòa giải người Việt Nam với đất nước. Chúng ta cần một tổ quốc hiền hòa thay vì dữ tợn, một tổ quốc có trái tim thay vì có nanh vuốt, một tổ quốc đáng yêu thay vì đáng sợ và đáng ghét, một tổ quốc khuyến khích thay vì cấm đoán, một tổ quốc có trách nhiệm và gần gũi với mọi người thay vì quá thiêng liêng đến nỗi trở thành trừu tượng và xa cách, một tổ quốc của nhân quyền và dân quyền.
Muốn như thế chính quyền, người đại diện và hành động nhân danh tổ quốc, phải là một chính quyền lương thiện, khiêm tốn, cần kiệm và tận tụy, quí trọng từng người dân và để cho mỗi người thấy rõ ràng mình được quí trọng. Chính quyền ấy sẽ hóa giải mọi hận thù, sẽ nhân danh sự liên tục quốc gia để xin lỗi, phục hồi danh dự và bồi thường thiệt hại cho mọi nạn nhân của những oan ức. Chính quyền ấy sẽ thường trực cảnh giác để không một thành phần dân tộc nào cảm thấy bị bỏ rơi. Chính quyền ấy sẽ không bắt ai phải yêu nước, trái lại sẽ dồn mọi cố gắng tạo điều kiện để mọi người có thể yêu nước.
Cùng với dân chủ, tự do, ý kiến và sáng kiến, nhưng trên tất cả, lòng yêu nước sẽ là một vũ khí chủ yếu giúp chúng ta chấp nhận di sản mà đảng cộng sản để lại và nắm tay nhau cùng chinh phục tương lai.
3. Tôn trọng và phát huy xã hội dân sự
Mọi quốc gia văn minh đều phải đặt nền tảng trên xã hội dân sự. Một trong những lý do chính khiến chúng ta tụt hậu bi đát so với các nước khác là sự thiếu vắng một xã hội dân sự đúng nghĩa. Xã hội dân sự là toàn thể các giáo hội, hiệp hội, câu lạc bộ, các tổ chức thiện nguyện, các nghiệp đoàn, hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp. Nói chung, đó là tất cả các kết hợp của người dân, được thành lập ngoài chính quyền để cùng theo đuổi một số mục đích chung và không nhắm tranh giành quyền lực chính trị.
Ý niệm xã hội dân sự đã được xuất hiện cùng một lúc với các xã hội văn minh. Đó là những sợi dây chằng chịt gắn bó những con người với nhau và gắn bó con người với xã hội. Những sợi dây nối kết đan xen đó tạo ra sự phong phú và bền chắc của quốc gia. Các kết hợp công dân tạo thành xã hội dân sự cũng là những cái nôi cho ý kiến, sáng kiến và tiến bộ. Một xã hội dân sự mạnh bảo đảm các ý kiến mới được nảy sinh nhanh chóng, các mâu thuẫn được phát hiện và giải quyết kịp thời, xã hội không ngừng tiến hóa trong hòa bình và trật tự. Quan trọng hơn, một xã hội dân sự lành mạnh còn đem lại điều mà ta có thể gọi là phép mầu của sự kết hợp. Đó là hiệu ứng vượt trội, nghĩa là hiện tượng một kết hợp có thể làm nẩy sinh những đặc tính và khả năng hoàn toàn mới không hề có trong các thành tố cấu tạo. Thí dụ như sự kết hợp của các hạt cơ bản trong những điều kiện đặc biệt khác nhau đã tạo ra các nguyên tử ; đến lượt các nguyên tử kết hợp với nhau tạo ra các phân tử, rồi các phân tử kết hợp với nhau làm nẩy sinh sự sống. Hay sự chuyển động phối hợp của các nơ-ron tạo ra tình cảm và ý kiến. Các chế độ độc tài, nhất là độc tài cộng sản, trong khi bóp nghẹt xã hội dân sự đã làm mất đi của các dân tộc khả năng vượt trội này. Có thể đây là lý do giải thích sự hơn hẳn của các xã hội dân chủ so với các chế độ độc tài.
Trong mô hình xã hội của chúng ta, xã hội dân sự sẽ được trân trọng và khuyến khích, hơn thế nữa còn được giao phó một vai trò quan trọng là thực hiện liên đới xã hội, giúp đỡ và bênh vực những người yếu kém và thiếu may mắn.
Mọi kết hợp đều tạo ra sức mạnh. Sức mạnh của xã hội dân sự là sức mạnh tổng hợp, nhưng không bao giờ thống nhất, của các kết hợp công dân có khi cùng hướng với nhau, có khi biệt lập với nhau và cũng có khi đối chọi với nhau. Sức mạnh của xã hội dân sự từng lúc và từng cơ hội hòa nhập với nhà nước hay đối lập với nhà nước, nhưng lúc nào cũng ảnh hưởng trên nhà nước và không bao giờ có tham vọng tranh quyền với nhà nước bởi vì nó không có và không thể có tham vọng chính trị.
Xã hội dân sự đảm bảo sự năng động của xã hội và đồng thời cũng bảo đảm tự do, dân chủ, nhân quyền, ngăn chặn mọi ý đồ độc tài chuyên chính. Mọi chế độ độc tài bạo ngược đều nhắm trước hết tiêu diệt xã hội dân sự. Bản chất của các chế độ độc tài là dựa trên một thiểu số để khống chế một xã hội phân hóa. Các bạo quyền không cần dân chúng tin yêu mình mà chỉ cần người dân đừng gắn bó với nhau để không có sức đề kháng. Không gì thỏa mãn các tập đoàn độc tài hơn là sự thờ ơ và vô cảm của một quần chúng bất lực vì chia rẽ.
Triết lý của một chế độ dân chủ, trái lại, coi xã hội dân sự là thành tố áp đảo và nền tảng của quốc gia ; vì thế vai trò của nhà nước là làm cho các kết hợp công dân ngày càng đông đảo, không ngừng tiến lên và mạnh lên để đóng góp tích cực cho sự phồn vinh của xã hội. Nhà nước dân chủ đa nguyên tự coi mình là công cụ của xã hội dân sự với sứ mệnh bảo đảm hoạt động lành mạnh của xã hội dân sự, để xã hội dân sự tạo hạnh phúc cho các công dân. Đó không phải là một sự từ nhiệm mà là một triết lý chính trị mới của một chính quyền đủ tự tin để đặt lòng tin vào các công dân. Trong quan hệ với xã hội dân sự, nhà nước dân chủ đa nguyên tự coi mình là người trọng tài, phối hợp và thể hiện những nguyện vọng của xã hội dân sự. Nhà nước phục vụ chứ không khống chế xã hội dân sự.
Sẽ không thể có một cản trở nào cho sự thành lập và phát triển của các kết hợp công dân. Đặc biệt các hiệp hội không có mục đích lợi nhuận sẽ chỉ cần khai báo sự thành lập chứ không cần giấy phép hoạt động. Các hiệp hội có mục đích văn hóa, xã hội còn có quyền đòi hỏi nhà nước giúp đỡ.
4. Xác định Việt Nam là đất nước xây dựng trên các cộng đồng
Đất nước ta tuy có một lịch sử dài nhưng lại là một đất nước mới. Miền Trung mới hội nhập xong từ thế kỷ 17, miền Nam từ thế kỷ 18. Nước ta đã tiếp nhận rất nhiều đóng góp mới về đất đai và chủng tộc. Tuy vậy tổ chức của ta lại không thích nghi với những thay đổi đó và vẫn được quan niệm một cách sai lầm như là đất nước của một cộng đồng duy nhất : cộng đồng người Kinh. Lịch sử của ta là lịch sử của người Kinh. Văn hóa của ta là văn hóa của người Kinh. Các quan niệm về đạo lý, xã hội, luật pháp đều dựa trên người Kinh và chủ yếu nhắm phục vụ cho người Kinh. Có lẽ là quá trình mở nước và giữ nước khó khăn của ta đã không cho ta thời giờ và phương tiện để suy nghĩ một cách nghiêm túc về một chính sách cộng đồng, nhưng phải nói thực là chúng ta rất thiếu sót về điểm này. Trong suốt dòng lịch sử, trừ một vài ngoại lệ ít ỏi, người Kinh hầu như chưa hề nhìn nhận một trách nhiệm nào đối với các sắc tộc ít người mà chỉ áp đặt khuôn mẫu của mình, nếu cần bằng bạo lực. Tình trạng này nếu không được nhận định rõ rệt để kịp thời có chính sách thỏa đáng có thể dẫn tới những hậu quả rất tai hại, nhất là trong bối cảnh thế giới hiện nay và sắp tới. Nhiều quốc gia đang và sẽ còn phải khốn đốn vì những cuộc nổi dậy cuồng nhiệt của các sắc tộc ít người vùng lên đòi bản thể. Nếu chúng ta không cảnh giác để cho tình trạng này xảy ra thì hai vùng rộng lớn của đất nước là miền núi phía Bắc và miền Cao Nguyên Trung Phần có thể trở thành bất ổn và không phát triển được.
Các cộng đồng đều phải được tôn trọng như nhau trong một đất nước Việt Nam được định nghĩa như là đất nước của các cộng đồng. Cộng đồng người Việt gốc Khmer đã sống từ ngàn xưa tại miền Nam, cộng đồng người Việt gốc Hoa đã góp công lớn khai mở ra miền Nam phải được coi là những người Việt Nam trọn vẹn trước luật pháp cũng như trong tình cảm dân tộc.
Quốc gia Việt Nam phải gạt bỏ hẳn ý đồ đồng nhất hóa để mưu tìm đồng tiến trong dị biệt. Chúng ta phải khẳng định rằng đất nước Việt Nam không được định nghĩa bằng một chủng tộc mà bằng sự chấp nhận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung.
Ngày nay người Kinh đã chiếm đa số trên khắp lãnh thổ, giải pháp thành lập những vùng tự trị cho các sắc tộc không còn khả thi nữa, nhưng tản quyền sẽ cho phép các sắc tộc có tiếng nói đáng kể trong các chính quyền địa phương. Văn hóa, ngôn ngữ của các sắc tộc ít người phải được coi là thành phần của văn hóa Việt Nam mà nhà nước có nhiệm vụ gìn giữ. Lịch sử Việt Nam cũng phải được xét lại và được coi như lịch sử của các sắc dân đã hợp lại để tạo thành đất nước Việt Nam.
Tinh thần tôn trọng các cộng đồng cũng phải được mở rộng ra tới các cộng đồng tôn giáo, các cộng đồng tư tưởng, các cộng đồng nghề nghiệp và các cộng đồng không thành hình thái do nếp sống khác nhau của từng địa phương mà có. Các cộng đồng này phải được đảm bảo chỗ đứng và tiếng nói trong sinh hoạt quốc gia.
Kể từ ngày 30/04/1975 chúng ta lại có thêm một cộng đồng quan trọng mới : cộng đồng người Việt hải ngoại. Những người Việt Nam này đã phải bỏ nước ra đi vì không thể chịu đựng những biện pháp hạ nhục, trù dập và phân biệt đối xử. Đất nước Việt Nam phải mở rộng vòng tay và tấm lòng đối với họ. Họ phải được nhìn nhận quyền công dân tức khắc và trọn vẹn, cho họ cũng như cho con cái sinh ra tại nước ngoài.
Sự hình thành của cộng đồng Việt Nam hải ngoại là một yếu tố rất mới và một may mắn lớn cho đất nước. Nhờ cộng đồng này người Việt Nam đã làm quen được với mọi nếp sống và mọi nền văn minh, đã thử nghiệm mọi khuôn mẫu tổ chức xã hội, đã len lỏi vào mọi bộ môn khoa học kỹ thuật. Cộng đồng này, một khi nối lại được quan hệ bình thường với đất nước, sẽ là một bảo đảm rằng Việt Nam sẽ là một nước cởi mở, sẽ rũ bỏ được mọi cố chấp và thành kiến, sẽ vĩnh viễn ra khỏi ngõ cụt cố chấp. Cộng đồng này tuy chưa đông đảo và còn cần được tăng cường nhưng có tiềm năng đóng góp lớn cho đất nước. Người Việt hải ngoại sẽ là những đầu cầu khoa học, kỹ thuật, văn hóa, thương mại vô cùng quí báu mà nhà nước Việt Nam không có phương tiện để tạo ra. Kinh nghiệm cho thấy rằng các quốc gia phát triển mau chóng trong những năm gần đây đều đã nhờ sự đóng góp của một cộng đồng hải ngoại hùng mạnh. Bất cứ một nhà nước Việt Nam khôn ngoan nào cũng phải khuyến khích liên lạc giữa trong và ngoài nước, nhìn nhận một thực thể Việt Nam Hải Ngoại và tìm mọi sáng kiến để cộng đồng Việt Nam hải ngoại ngày một lớn hơn, mạnh hơn.
5. Dứt khoát chọn lựa một nền kinh tế thị trường lấy tư doanh làm nền tảng
Kinh nghiệm thế giới trong nhiều thập niên qua đã chứng tỏ rằng các chính sách kinh tế tập thể, quốc doanh đều dẫn đến thất bại. Kinh nghiệm cũng đã cho thấy rằng thị trường tự do là hướng dẫn chính xác nhất cho sản xuất và là bảo đảm chắc chắn nhất cho một sự phân phối hiệu nghiệm. Chọn lựa kinh tế phải có cho Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, lấy xí nghiệp tư làm nền tảng, lấy óc kinh doanh và sáng kiến làm sức mạnh, lấy tinh thần cầu tiến và làm giàu làm động cơ, lấy lợi nhuận làm phần thưởng và chất kích thích.
Chọn lựa ấy có nghĩa là nhà nước sẽ không làm những gì mà tư doanh có thể làm được. Vai trò kinh tế chủ yếu của nhà nước là bảo đảm sự ổn vững của đồng tiền, ngăn ngừa những cạnh tranh bất chính, đầu tư vào những ngành nhiều triển vọng mà tư nhân chưa dám hoặc chưa đủ khả năng đầu tư, đảm nhận một số công trình khảo cứu, nghiên cứu và dự phòng cần thiết. Nhà nước cũng có chức năng cảnh giác trước những khuynh hướng kinh doanh có hại và khuyến khích những hoạt động kinh tế có lợi, nhưng nhà nước thực hiện chức năng này chủ yếu bằng thông tin và nâng đỡ chứ không phải bằng mệnh lệnh và cấm đoán. Nhà nước sẽ dồn mọi cố gắng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ trật tự an ninh, bảo vệ công lý, bảo vệ môi trường sinh sống, phát huy các mối bang giao quốc tế có lợi, xây dựng và củng cố đồng thuận dân tộc, nghĩa là làm đúng chức năng của một nhà nước.
Để làm trọn chức năng đó và bảo đảm sinh hoạt kinh tế thị trường lành mạnh nhà nước phải liên tục nỗ lực xây dựng một hệ thống luật pháp đúng đắn trên tinh thần thực nghiệm, bắt đầu từ những căn bản đúng đắn và không ngừng được bổ sung dựa trên những án lệ.
6. Tiến tới một nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ
Với đất đai canh tác tuy ít nhưng phì nhiêu, Việt Nam có tiềm năng nông nghiệp đáng kể. Nông nghiệp trong ngắn hạn là đòn bẩy cho sự hồi sinh và là điểm khởi đầu của phát triển kinh tế. Do đó nông nghiệp là trọng tâm kinh tế tức khắc của chúng ta và cũng sẽ còn là trọng tâm kinh tế của chúng ta trong một thời gian khá dài.
Tuy nhiên, vì đất đai chật hẹp và dân số đông đảo, Việt Nam không thể tiếp tục là một nước nông nghiệp. Ngược lại vị trí của ta thuận lợi, nhân lực của ta dồi dào và tinh nhuệ. Chức năng tự nhiên của chúng ta là chức năng của một quốc gia công nghiệp, thương nghiệp, dich vụ và hàng hải. Chúng ta phải chuẩn bị ngay từ bây giờ cho tương lai đó, nhất là sự chuyển hóa đó cho phép biến nhiều vùng núi không thể sử dụng cho nông nghiệp thành diện tích sinh hoạt, nghĩa là còn có tác dụng mở rộng đất nước trên thực tế.
Mục tiêu kinh tế của chúng ta trong hai mươi năm tới là chuyển hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Điều này có nghĩa là trọng lượng của nông nghiệp trong tổng sản lượng quốc gia cũng như trong phối trí nhân lực sẽ giảm dần đi. Bước đầu của cố gắng chuyển hóa này là phát triển những ngành công nghiệp gắn bó với nông nghiệp như công nghiệp thực phẩm, chế tạo phân bón, thuốc trừ sâu, nông cơ, v.v... song song với cố gắng tìm thị trường xuất khẩu cho nông phẩm.
Ngoài những cố gắng dồn vào những ngành mà triển vọng đã thấy rõ như ngư nghiệp, du lịch, chúng ta sẽ đặc biệt chú trọng tới hai triển vọng mới là dịch vụ thương cảng và tin học. Cả hai ngành này đều đòi hỏi một chính sách mở cửa trọn vẹn, thẳng thắn ra thế giới bên ngoài.
Do vị trí và bờ biển thuận lợi của ta, Việt Nam có thể có những thương cảng rất lớn. Chúng ta sẽ sẵn sàng ký những hợp đồng xây dựng và khai thác dài hạn một số thương cảng với các tổ hợp nước ngoài. Nhưng điều quan trọng để thu hút những dịch vụ thương mại quốc tế là tình hình trật tự an ninh phải ổn định, thể chế chính trị phải cởi mở, chính quyền phải lương thiện và hệ thống viễn thông phải hoàn chỉnh.
Người Việt Nam ta khá có khiếu về ngành tin học. Đây là một ngành còn nhiều tiềm năng phát triển và còn cần tới rất nhiều chuyên viên với giá cao. Tin học nếu được sử dụng đúng đắn cũng là dụng cụ quản lý khách quan cho phép loại trừ nhiều nguyên nhân đưa tới tham nhũng. Nước ta hiện đang có rất nhiều nhu cầu tin học hóa khu vực công có hy vọng được các định chế quốc tế tài trợ. Chúng ta có thể lấy việc thực hiện các dự án này làm bàn đạp để đào tạo một đội ngũ chuyên viên tin học giỏi và cập nhật về kỹ thuật. Triển vọng càng cao vì các tiến bộ về truyền thông ngày càng cho phép thực hiện những hợp đồng tin học trên khắp thế giới mà không cần xuất ngoại.
Nhà nước phải lấy làm mục tiêu nối kết mọi gia đình vào mạng lưới Internet để sử dụng tối đa mạng lưới này như một phương tiện thông tin, học hỏi, trao đổi và mua bán.
Chúng ta sẽ không thiết lập các khu kinh tế với qui chế đặc biệt như kiểu "khu chế xuất" mà sẽ dành mọi khuyến khích và dễ dãi cho các hoạt động kinh tế trên cả nước, với một luật kinh doanh chung cho toàn lãnh thổ.
Đất nước ta may mắn là một quốc gia duyên hải, các vùng đông dân đều không xa bờ biển và cũng không xa các cảng tốt. Dựa vào ưu thế đó chúng ta sẽ thiết lập các khu công nghiệp trải đều trên khắp lãnh thổ. Chính sách này đòi hỏi một đầu tư quan trọng cho hệ thống giao thông và truyền thông nhưng bù lại sẽ tiết kiệm được những tốn kém còn quan trọng hơn về di dân, và đồng thời cũng tránh được nạn nhân mãn tại các thành phố lớn mà các quốc gia đang mở mang đều gặp. Cần nhấn mạnh rằng mọi chính sách tương lai đều tuyệt đối không mang tính cưỡng bách. Tái phối trí dân số và lực lượng lao động là hiện tượng thường trực và tự nhiên trong mọi quốc gia, nhất là tại các quốc gia đang phát triển, nhưng cách hay nhất vẫn là để người dân toàn quyền chọn lựa nghề nghiệp và nơi sinh sống sau khi được thông tin đầy đủ về các cơ hội. Đó là phương thức để trí tuệ cá nhân và sách lược quốc gia bổ túc cho nhau và điều chỉnh lẫn nhau.
Điều kiện thành công của cuộc chuyển hóa trọng đại này là phải có quan hệ tốt với mọi quốc gia, nhất là các nước phát triển, và được chấp nhận trọn vẹn trong những khối hợp tác lớn, như khối Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương.
Chúng ta sẽ lấy thị trường trong nước làm bàn đạp để tiến lên. Với gần 100 triệu dân, nước ta là một thị trường rất lớn và sự trao đổi giữa những người Việt Nam với nhau tự nó đã là một động cơ kinh tế vô cùng quan trọng. Trong bất cứ một nền kinh tế nào, ngay cả trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, trừ trường hợp rất đặc biệt của các nước xuất khẩu dầu lửa, thị trường nội địa bao giờ cũng quan trọng hơn hoạt động xuất nhập cảng. Thị trường nội địa vừa quan trọng về khối lượng, vừa là nơi thử nghiệm cho hàng xuất khẩu, lại vừa là kho trái độn cần thiết để đương đầu với những biến thiên của thị trường quốc tế. Thị trường nội địa có mạnh thì hoạt động xuất cảng mới phát triển được. Thị trường nội địa sẽ được kích thích do sự giải tỏa mọi cưỡng chế về kinh doanh và sự thúc đẩy những chương trình công cộng quan trọng. Các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp thực phẩm, dệt, may mặc, sản xuất đồ gia dụng, vật liệu xây dựng, vật dụng thiết bị và trang trí nội thất sẽ là những bàn đạp đầu tiên cho thị trường nội địa của ta.
Phát triển thị trường nội địa phải đi song hành với phát triển kinh doanh nội địa. Chúng ta không có những nhà tư bản lớn cho nên cần tích cực thúc đẩy, nâng đỡ và khuyến khích các xí nghiệp cá nhân và các công ty tầm cỡ nhỏ, giúp họ phát đạt và gia tăng tầm vóc, dần dần trở thành những nhà tư bản lớn.
Một bắt buộc khẩn cấp của chính sách phát triển thị trường nội địa là phải tu sửa và tăng cường hệ thống đường giao thông và truyền thông, các phương tiện chuyên chở và truyền tin.
Trong các nhiệm vụ của nhà nước dân chủ đa nguyên, nhiệm vụ trọng yếu nhất là bảo đảm liên đới xã hội. Trong căn bản triết học của nó, chủ nghĩa đa nguyên tôn trọng mọi thành phần trong xã hội, do đó nó không chấp nhận để một thành phần bóc lột và chà đạp một thành phần khác. Chúng ta tôn vinh lợi nhuận như một giá trị và tìm kiếm lợi nhuận chủ yếu là để có phương tiện thực hiện liên đới xã hội. Vả lại, một dân tộc không có liên đới thì không còn là một dân tộc. Chúng ta không thể bỏ rơi những người yếu kém, sa cơ lỡ bước, như một xã hội văn minh không thể từ khước một cái nạng cho người thương tật. Chúng ta nhìn nhận sự bình đẳng về quyền và nhân phẩm của mỗi con người trong xã hội và chúng ta cần dành những phương tiện để thực hiện sự bình đẳng đó.
Liên đới xã hội là điều kiện bắt buộc để giữ gìn sự bền chắc của nền tảng xã hội, bảo đảm sự tham gia tích cực và phấn khởi của mọi người vào tương lai đất nước, tránh những xung đột có thể làm gẫy đổ đà tiến của dân tộc về tương lai và đưa đến bạo loạn.
Trong thực tế, phát triển kinh tế thường đẻ ra và làm trầm trọng thêm những chênh lệch trong xã hội. Nhiệm vụ trọng yếu của nhà nước là ngăn chặn và làm giảm thiểu những nguyên nhân căng thẳng mà sự phát triển, vì không thể nào hoàn toàn cân đối, chắc chắn sẽ đem lại.
Liên đới xã hội đòi hỏi một cố gắng bền bỉ và thận trọng trong việc phân phối lợi tức quốc gia nhằm bênh vực những thành phần yếu kém.
Liên đới xã hội đòi hỏi một hệ thống bảo trợ xã hội đảm bảo những nhu cầu tối thiểu về thực phẩm và sức khỏe cho mọi người.
Liên đới xã hội đòi hỏi một hệ thống giáo dục và đào tạo phổ cập và liên tục đảm bảo những cơ hội thăng tiến đồng đều cho mọi công dân.
Nhìn một cách ngắn hạn liên đới xã hội có thể là một gánh nặng cho quốc gia và một trở ngại cho phát triển kinh tế nhưng, nhìn một cách dài hạn hơn và sáng suốt hơn, nó là một bắt buộc để đà phát triển kinh tế có thể tiếp tục. Liên đới xã hội cũng là điều kiện tối cần thiết để đảm bảo tình tự dân tộc và sự gắn bó của quốc gia.
Nhà nước dĩ nhiên đảm nhận nhiệm vụ thực hiện liên đới xã hội. Nhưng nhà nước cũng sẽ đặc biệt khuyến khích xã hội dân sự, qua các tổ chức thiện nguyện, góp phần tích cực vào công tác trọng đại đó. Một phần ngân sách xã hội sẽ được sử dụng qua ngả xã hội dân sự. Các tổ chức thiện nguyện sẽ được tài trợ, trong một tỷ lệ do khả năng ngân sách, so với nguồn tài nguyên mà họ đã động viên được từ quần chúng cho các công tác xã hội.
Việc tham gia tích cực của xã hội dân sự vào cố gắng thực hiện liên đới xã hội vừa có tác dụng vận động sự đóng góp –tình cảm cũng như vật chát- của quần chúng vừa có hiệu lực đặc biệt về mặt tinh thần. Trước một văn phòng cứu trợ xã hội của nhà nước người cần được giúp đỡ có thể chỉ gặp một công chức, nhưng tại một cơ quan thiện nguyện họ gặp một người tình nguyện làm công tác xã hội vì niềm tin, họ gặp một người và một tấm lòng, sợi dây liên đới xã hội và tinh thần phấn đấu vượt qua trở ngại chỉ có thể mạnh thêm.
Công bằng xã hội tuyệt đối là điều không thể có. Điều quan trọng là nhà nước coi liên đới xã hội là ưu tư thường trực. Liên đới xã hội vừa cần thiết vừa tế nhị, chúng ta phải gìn giữ nó thật cẩn trọng, coi nó như một cuộc chiến đấu giữ nước.
Tuy nhiên chúng ta cần khẳng định rằng liên đới xã hội là nhiệm vụ của nhà nước với sự hợp tác của xã hội dân sự chứ không phải là trách nhiệm của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ngoài bổn phận tôn trọng nhân phẩm của công nhân, tôn trọng luật pháp của nhà nước và tôn trọng những hợp đồng đã ký kết với các công nhân, chỉ có chức năng tạo ra lợi nhuận để đóng góp vào sự giàu mạnh của xã hội và để nộp thuế cho nhà nước, để nhà nước có tài nguyên bảo đảm liên đới xã hội. Chúng ta khẳng định rằng liên đới xã hội không thể can thiệp vào hoạt động kinh tế và trở thành một trở ngại cho các doanh nghiệp.
Chúng ta hiện nay là một nước rất thua kém, yêu cầu cấp bách nhất của chúng ta là phát triển, bắt kịp các nước mở mang. Do đó chính sách căn bản của Việt Nam trong giai đoạn này phải là chính sách mà ta có thể gọi là một "chủ nghĩa nước nhỏ".
Chủ nghĩa nước nhỏ là gì ? Nói một cách giản dị, đó là nhẫn nhục hôm nay để lớn mạnh ngày mai.
Về mặt đối nội, chủ nghĩa nước nhỏ có nghĩa là chúng ta sẽ không chia rẽ và xung khắc với nhau về những chủ thuyết cao siêu, sẽ cùng nhau khiêm tốn nhận diện tình trạng thua kém của đất nước, sẽ quí trọng, thương yêu và đùm bọc lẫn nhau để cùng dắt tay nhau ra khỏi bế tắc. Nhà nước sẽ từ chối những chi tiêu có tính huênh hoang gây thanh thế để tập trung mọi tài nguyên và sinh lực cho cố gắng ra khỏi tình trạng thua kém. Nhà nước sẽ trân trọng bảo vệ và gìn giữ những thành quả ít ỏi đã đạt được. Nhà nước sẽ đặt trọng tâm vào giáo dục và đào tạo, và sẽ đầu tư vào một nền giáo dục thực dụng trước tiên.
Về mặt đối ngoại, chúng ta sẽ không tranh giành một vai trò quốc tế nào, sẽ không có thái độ trong những tranh chấp quốc tế trừ khi để bênh vực nhân quyền, lẽ phải, đạo đức và công pháp quốc tế. Chúng ta sẽ cố gắng tạo một hình ảnh hiền hòa, khiêm tốn để được cộng đồng quốc tế chấp nhận như một quốc gia có thể giao thương được, sẽ dứt khoát không can dự vào một xung đột quốc tế nào. Tuy vậy khiêm tốn không đồng nghĩa với chấp nhận lệ thuộc. Chúng ta sẽ xét lại những thỏa hiệp mà chính quyền cộng sản đã ký với nước ngoài và bãi bỏ những thoả hiệp hoặc có tính lệ thuộc hoặc xúc phạm chủ quyền và lợi ích dân tộc, trước hết là những thỏa hiệp dấm dúi mà nhân dân Việt Nam không được thông báo.
Điều đáng lo ngại hiện nay là chúng ta đang sống trong một khu vực có nhiều khả năng gây ra căng thẳng, thậm chí xung đột. Chúng ta coi sự hiện diện quân sự tích cực của Hoa Kỳ trong vùng là một yếu tố cần thiết để bảo đảm hòa bình và ổn vững, và chúng ta sẽ khuyến khích sự hiện diện đó.
Chúng ta coi hợp tác với Hoa Kỳ, Nhật và các nước dân chủ là một phúc lợi lớn không những mở ra cho ta những thị trường lớn, đem lại những chuyển giao khoa học kỹ thuật quí báu mà còn giúp ta tiếp thu cách tổ chức, suy nghĩ và làm việc của các xã hội tiên tiến. Chúng ta sẽ thành thực hợp tác với họ và học hỏi nơi họ.
Với một chính sách đối ngoại khiêm tốn và hòa bình chúng ta sẽ không cần một quân lực đông đảo. Với một chính sách đối nội tôn trọng mọi quyền tự do và dựa trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, chúng ta sẽ không cần một bộ máy cảnh sát công an đồ sộ. Quân đội và cảnh sát vì vậy sẽ được giảm tới mức tối thiểu, nhưng đầy đủ, để làm tròn nhiệm vụ của những công cụ phi chính trị bảo vệ lãnh thổ, môi trường và trật tự an ninh.
Tinh thần của chủ nghĩa nước nhỏ là nhìn nhận sự thua kém của mình và động viên tất cả tài nguyên và sinh lực để đưa đất nước đi lên. Với dân số đông đảo và những con người cần mẫn, lại được một vị trí thuận lợi, Việt Nam có tiềm năng lớn và có quyền mong muốn một chỗ đứng vẻ vang trên thế giới nếu biết cố gắng kiên trì trong một vài thập niên.
Trong một thế giới đầy tranh đua như hiện nay các mối bang giao tốt là điều không thể thiếu. Chúng ta sẽ không bỏ lỡ một cơ hội nào để thiết lập và tăng cường mọi liên hệ hợp tác với mọi quốc gia trên thế giới, trước hết là với các quốc gia lân cận.
Đối với các nước phương Tây, đặc biệt là Pháp và Hoa Kỳ, hai nước đã từng có những quan hệ phức tạp và xung động, chúng ta bình thường hóa không những quan hệ ngoại giao mà cả quan hệ văn hóa và tình cảm. Chúng ta còn rất nhiều để học hỏi nơi họ và cũng có rất nhiều để trông đợi ở một sự hợp tác lưỡng lợi. Chúng ta cũng cần lưu ý đặc biệt đến những quốc gia mà chính sách di dân còn dễ dãi hoặc có triển vọng dễ dãi để phát triển cộng đồng người Việt hải ngoại càng đông đảo càng tốt, với mục tiêu trung hạn là cứ mười người Việt Nam thì có một người tại các nước dân chủ phát triển. Một chính sách đối ngoại hiếu hòa và khiêm tốn, đi song song với sự tận dụng khả năng đóng góp của một cộng đồng Việt Nam hải ngoại đông đảo, thành đạt và gắn bó với quê hương là căn bản của những cố gắng ngoại giao của chúng ta.
Nhưng gần hơn hết chúng ta phải củng cố và tăng cường chỗ đứng của ta tại khu vực Châu Á và Thái Bình Dương đặc biệt là trong lòng khối ASEAN. Trong lòng khối này chúng ta sẽ góp phần tích cực tăng cường sự liên đới, hạ thấp dần những hàng rào văn hóa và mậu dịch, thúc đẩy sự hình thành thực sự của một vùng trao đổi tự do. Chúng ta cần phấn đấu để tham gia khối Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương và tận dụng mọi cơ hội của khối này để đất nước ta có thể vươn lên thu ngắn dần sự chậm trễ
Gần nhất, ta phải thắt chặt lại quan hệ hợp tác với hai nước bạn láng giềng Lào và Campuchia đang ngày càng chịu ảnh hưởng áp đảo hơn của Trung Quốc. Chúng ta đã là nạn nhân của một âm mưu chia để trị xuất phát từ thời ngoại thuộc Pháp mà ngày nay ta phải phá vỡ. Biên giới của ta với hai nước này không đổi từ hơn hai thế kỷ nay. Đó là những biên giới ổn vững bậc nhất thế giới, làm chứng cho khả năng sống chung hòa bình giữa Việt Nam, Lào và Campuchia. Nhưng chúng ta cũng cần dõng dạc tuyên cáo một chính sách hiếu hòa thực sự và làm nhiều cố gắng ngoại giao để đánh tan những hiểu lầm do một quá khứ còn khá mới để lại. Chúng ta cần long trọng tuyên bố với hai nước láng giềng này rằng chúng ta tuyệt đối tôn trọng các biên giới hiện có và sẵn sàng dành mọi dễ dãi về giao thông và thương cảng để họ có thể khai thông ra đại dương. Chúng ta sẽ đề nghị với họ cùng hợp tác xây dựng các trục lộ giao thông ra biển, và nếu có thể, tiến tới một thỏa ước tự do đi lại và di trú. Cả Lào và Campuchia đều cần đường ra biển qua ngả Việt Nam nên sự hợp tác sẽ là điều tự nhiên nếu họ vững tin rằng Việt Nam tôn trọng chủ quyền và lãnh thổ của họ. Việt Nam, Lào và Campuchia có nhiều triển vọng để hình thành một khối hợp tác bình đẳng trong đó cả ba đều có lợi và đều phát huy được thế mạnh kinh tế riêng của mình.
Đối với Trung Quốc chúng ta cần giải quyết trong tinh thần hữu nghị những tranh chấp về lãnh hải và hải đảo để mở đầu một giai đoạn hợp tác thực sự lành mạnh. Hai nước có chung một biên giới dài, đã từng chia sẻ một văn hóa và cũng có rất nhiều tương đồng về cấu tạo nhân văn cho nên sự hợp tác là một lẽ tự nhiên. Điều đáng lo ngại hiện nay là Trung Quốc một mặt đang gia tăng sức mạnh quân sự và mặt khác biểu lộ một chính sách bá quyền khu vực. Đối với Trung Quốc, chúng ta cần chứng tỏ một thái độ khiêm tốn, hòa nhã nhưng kiên quyết bảo vệ chủ quyền trên lãnh thổ, vùng biển và các hải đảo. Chúng ta có lý do để hy vọng rằng sự hiện diện quân sự tích cực của Hoa Kỳ và chính sách quả quyết mới của Nhật trong vùng sẽ là một đảm bảo cho hòa bình và an ninh. Chúng ta cũng có lý do để tin rằng Trung Quốc sẽ chọn lựa đường lối hòa hoãn và hợp tác, nhưng hiện đại hóa khả năng tự vệ của chúng ta cũng là một yếu tố khuyến khích Trung Quốc đi theo đường lối tốt đẹp đó. Trong ngắn hạn, khi quan hệ giữa Trung Quốc và Đài Loan chưa rõ rệt, chúng ta sẽ chú trọng đặc biệt vào sự phát triển các quan hệ hợp tác kinh tế với Đài Loan.
Chúng ta cần nhận định vai trò kinh tế quan trọng của Nhật tại Châu Á và phải đặt quan hệ Việt - Nhật lên hàng một quốc sách phát triển.
Sau cùng chúng ta cũng cần có một nhận định sáng suốt và thực tiễn đối với các nước thuộc Đông Âu và Liên Xô cũ. Các nước này là những thị trường đầy tiềm năng trong đó chúng ta đã sẵn có nhiều người bạn, nhiều quan hệ và hiểu biết cần được khai thác.
Chúng ta hiện đã có một dân số gần 100 triệu dân, đứng hàng thứ 13 trên thế giới, với một diện tích rất hẹp, 330.000 cây số vuông. Đã thế tỷ lệ đất đai thực sự canh tác và sinh sống được của ta lại rất thấp, chỉ ở mức một phần ba. Trong khi đó dân số của ta tiếp tục gia tăng hơn một triệu người mỗi năm. Mặt khác khả năng kinh tế và mức độ chuyển hóa về công nghiệp và dịch vụ của ta chưa cho phép dự trù những đầu tư lớn vào việc mở rộng vùng đất sinh hoạt. Đà gia tăng dân số dù đã giảm trong những năm gần đây vẫn còn một vấn đề lớn đòi hỏi một cách nhìn thông suốt. Một mặt dân số tuy vẫn gia tăng một cách đáng kể nhưng tỷ lệ gia tăng dân số không thể giảm một cách đột ngột mà không tạo ra trong một tương lai gần một gánh nặng kinh tế do sự đảo ngược tỷ lệ trẻ - già. Mặt khác cho tới nay sự sút giảm của đà gia tăng dân số đã chủ yếu đạt được với giá đắt là khiến chúng ta trở thành một trong những nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới, với những hậu quả tai hại về tâm lý và xã hội.
Kinh nghiệm của các chính quyền cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cho thấy là một chính sách hạn chế sinh đẻ quả quyết đến độ dã man chỉ làm xuống cấp con người chứ không làm giảm dân số. Vấn đề cần được giải quyết ở tận gốc rễ văn hóa và nhân sinh quan của nó. Trong giáo dục học đường và đại chúng cần phổ biến các kiến thức về ngừa thai và bình thường hóa quan hệ nam nữ, cần tách rời việc lập gia đình và có con cái với việc thỏa mãn nhu cầu sinh lý.
Sinh đẻ nhiều cũng do hai nguyên nhân khác mà ta cần khắc phục, đó là trình độ văn hóa và vai trò xã hội kém của phụ nữ, và sự lo âu của tuổi già. Nâng cao trình độ văn hóa của phụ nữ và hội nhập một cách tích cực phụ nữ vào sinh hoạt kinh tế xã hội là một đầu tư cần thiết để chặn đà gia tăng dân số. Mọi kinh nghiệm trên thế giới đều chứng tỏ rằng càng có trình độ văn hóa cao, càng tham gia tích cực vào sinh hoạt kinh tế, phụ nữ càng có khuynh hướng tự hạn chế sinh đẻ. Kinh nghiệm cũng cho thấy rằng bảo đảm một lợi tức tối thiểu cho người già, một bắt buộc của mọi xã hội văn minh, sẽ hạn chế được một cách đáng kể đà gia tăng dân số vì con đông trước hết là một đảm bảo cho tuổi già ở các nước thiếu an sinh xã hội. Phải săn sóc người già nếu không muốn phải tiếp nhận thêm quá nhiều trẻ thơ mà chúng ta không có khả năng nuôi dưỡng và giáo dục. Chính sách này sẽ tạo một tâm lý an toàn và chắc chắn sẽ làm giảm mức sinh đẻ, nhất là với niềm tin là lợi tức bảo đảm cho tuổi già sẽ càng ngày càng tăng với phát triển kinh tế.
Sau cùng chúng ta cũng có quyền tin tưởng là đà gia tăng dân số sẽ giảm xuống trong một xã hội văn minh không trọng nam khinh nữ đến độ phải đẻ cho đến khi có con trai, một xã hội có thông tin đầy đủ và có cơ hội thăng tiến cho mọi người. Một khi có đủ lạc quan để lập kế hoạch cho tương lai mình, các cặp vợ chồng sẽ tự nhiên nhận thấy họ phải hạn chế số con cái.
Những người cầm quyền cộng sản đã rất dối trá hoặc ngu muội khi nói rằng Việt Nam ngày nay là nước có thu nhập trung bình. Sự thực trái hẳn. Chúng ta rất nghèo và ở rất dưới mức trung bình thế giới. Vào năm nay, 2015, sản lượng bình quan mỗi đầu trên thế giới là gần 11.000 USD mỗi năm, tại nước ta ước lượng vừa phải là gần 1500 USD, nghĩa là chỉ bằng 15% mức trung bình thế giới. Chúng ta tụt hậu một cách bi đát. Ngay cả nếu từ nay chúng ta đạt được mức tăng trưởng đều đặn cao hơn 2% so với thế giới, một thành tích khả quan, thì cũng phải một thế kỷ nữa chúng ta mới thực sự trở thành một nước trung bình. Nhưng chúng ta có thời giờ đó không trước khi sự chán nản và thất vọng làm tan rã đất nước ? Chắc chắn chúng ta không có thời giờ đó, chúng ta phải bắt kịp sự chậm trễ trong vòng một thế hệ. Đó là một thách đố rất lớn.
Thách đố càng lớn hơn vì tất cả mọi yếu tố đều bất lợi. Xã hội băng hoại, lòng người thất vọng và ly tán, tinh thần dân tộc xuống rất thấp, môi trường ô nhiễm, đạo đức suy đồi, các băng đảng tội phạm hoành hành trong khi xã hội dân sự vắng mặt. Di sản của chế độ cộng sản thật là kinh khủng. Chúng ta sẽ phải động viên những cố gắng cực kỳ lớn về mọi mặt trong khi sẽ còn phải sống với sự nghèo khổ và thua kém trong một thời gian dài.
Trong hoàn cảnh đó chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là xây dựng trên đất nước Việt Nam một hạnh phúc phẩm chất, nghĩa là một bối cảnh quốc gia bình yên và phấn khởi trong đó con người dù chưa sung túc nhưng được tự do, được trân trọng và bảo vệ về nhân phẩm, quyền lợi, sức khỏe và cơ hội thăng tiến trong một xã hội hài hòa, bình yên và liên đới, với một môi trường thân thiện. Vả lại đó là điều kiện để có thể vươn lên ; cố gắng càng lớn thì càng phải được chia sẻ đồng đều. Mô hình xã hội phải có hình ảnh của một gia đình hạnh phúc vì hòa thuận và vui vẻ, chia sẻ một cách hợp tình hợp lý những hy sinh cũng như những thành tựu đạt được, dưới một mái nhà giản dị nhưng sạch sẽ và ngăn nắp và trong niềm tin là ngày mai sẽ hơn hôm nay.
Điều quan trọng nhất cũng là điều có thể làm ngay vì không đòi hỏi những chi phí lớn. Đó là cải thiện môi trường, cảnh quan và các nơi công cộng. Do văn hóa truyền thống chúng ta chưa ý thức được tầm quan trọng của môi trường dù vấn đề đã rất nghiêm trọng và đã ảnh hưởng trực tiếp lên mọi người. Sự mù quáng đã khiến các cấp lãnh đạo nối tiếp nhau không ý thức được rằng phát triển, kể cả phát triển kinh tế, chỉ có thể bền vững nếu môi trường được bảo vệ. Các nhà máy ô nhiễm gây thiệt hại trong lâu dài cho xã hội nhiều lần lớn hơn lợi tức ngắn hạn mà chúng tạo ra. Tham nhũng là nguyên nhân chính cho phép phá hoại môi trường ; sự vắng mặt của xã hội dân sự là một nguyên nhân khác. Thực trạng kinh ngạc là cho tới nay nước ta vẫn chưa có một hiệp hội bảo vệ môi trường nào dù môi trường đã bị tàn phá tới mức độ nguy kịch và vẫn còn tiếp tục bị tàn phá, trong khi tại các nước văn minh giầu mạnh bảo vệ môi trường đã trở thành mục tiêu của vô số hiệp hội, có cả những chính đảng lấy môi trường làm ưu tư cao nhất. Đối với thế giới ngày nay môi trường đã trở thành một vấn đề chính trị nền tảng.
Chúng ta không thể dung túng những nhà máy không có xử lý khói và chất thải nhân danh lợi ích kinh tế. Chúng ta cũng phải nghiêm cấm việc chặt phá rừng và lấp, lấn ao hồ. Các tiện nghi vệ sinh công cộng phải đầy đủ. Hệ thống thoát nước phải hoàn chỉnh. Xây dựng phải có qui hoạch, mỗi khu vực chỉ được xây dựng theo một vài kiểu nhà với một số mầu sắc. Phải tăng cường các phương tiện chuyên chở công cộng, đánh thuế môi trường trên ôtô và xe máy, khuyến khích sử dụng xe đạp ; cấm xe có động cơ xăng dầu tại trung tâm các thành phố và những khu đông người ; trừng phạt nghiêm khắc những công ty xây dựng cầu đường thi công gian trá. Chúng ta sẽ bãi bỏ dự án Bô-xít Tây Nguyên, đình chỉ các dự án điện hạt nhân, ngay cả những dự án đang thi công, loại bỏ điện hạt nhân cho tới khi các kỹ thuật xử lý phế liệu thỏa đáng đã tìm được và nước ta đã có đầy đủ khả năng để bảo đảm an toàn tuyệt đối của các lò phản ứng. Những biện pháp đó tuy có thể làm giảm lợi nhuận nhất thời của một số công ty nhưng sau cùng vẫn có lợi ích kinh tế lớn vì bảo vệ và khuyến khích đầu tư trong nhiều ngành khác, nhất là ngành du lịch, và điều quan trọng hơn là bảo vệ sức khỏe và cuộc sống yên vui. Ô nhiễm là một vi phạm nghiêm trọng tới quyền con người bởi vì nước sạch, không khí trong lành, không gian yên lặng là những quyền con người cơ bản nhất.
Xây dựng một xã hội hài hòa, bình yên và liên đới không đòi hỏi những chi phí lớn vượt khả năng quốc gia như nhiều người lầm tưởng. Chúng không thấm vào đâu so với số tiền mà những quan chức tham ô cướp đoạt của đất nước, một chính quyền trong sạch sẽ có phương tiện. Điều mà nó đòi hỏi là điều mà chúng ta có thể làm được ngay cả khi chưa giầu. Đó là luật pháp tuyệt đối lương thiện, minh bạch và được tôn trọng. Đó là một chính quyền quyết tâm không thỏa hiệp với tham nhũng được điều hành bởi những người có kiến thức, có tầm nhìn và lấy phục vụ đất nước làm lý tưởng của đời mình, một chính quyền không thể bị ngờ vực là gian trá. Nhân dân Việt Nam đã quá quen với những hy sinh và chịu đựng cho nên có thể chấp nhận những cố gắng rất phi thường ; họ cũng có thể tha thứ cả những sai lầm, với điều kiện là tin rằng những người lãnh đạo đã sai nhưng không phải là những người ngu dốt và gian trá mà chỉ sai vì mọi người đều có thể sai trên những quyết định khó khăn và phức tạp. Chúng ta có thể có những người lãnh đạo như thế, nhưng họ chưa có cơ hội vì chưa có sức mạnh tập trung của đội ngũ. Cố gắng chính của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên từ trước, bây giờ và sau này là phát hiện, tập trung lại và đào tạo thêm những con người như thế mà đất nước đang cần.
Việc chọn lựa một chế độ chính trị không thể là một chọn lựa thuần túy lý thuyết, càng không thể là sự sao chép một khuôn mẫu sẵn có đã thành công tại một quốc gia khác, dù chúng ta trân trọng tới đâu kinh nghiệm của các dân tộc trong cuộc hành trình tới dân chủ và phồn vinh.
Chúng ta chọn lựa một chế độ chính trị, đồng thời một hiến pháp, đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đất nước :
- xây dựng dân chủ một cách thành thực và không thể đảo ngược để hội nhập một cách quả quyết vào thế giới dân chủ ;
- thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc thực sự, dứt khoát để động viên mọi khối óc, mọi tấm lòng và mọi bàn tay cho cố gắng vươn lên và xây dựng một tương lai Việt Nam chung ;
- phát triển đất nước theo mô hình kinh tế thị trường lấy tự do và sáng tạo làm động cơ ;
- tản quyền để cho phép các vùng khai thác tối đa những ưu thế đặc biệt của mình trong một nước Việt Nam thống nhất đồng thời giảm thiểu chênh lệch giữa các vùng ;
- phát huy xã hội dân sự và thỏa mãn những khát vọng chính đáng của các cộng đồng sắc tộc cũng như tôn giáo ;
- thực hiện thống nhất đất nước thực sự, nghĩa là trong đồng thuận dân tộc.
Dưới ánh sáng của những yêu cầu cơ bản đó chúng ta chọn một chế độ chính trị dân chủ đại nghị và tản quyền.
Trước khi thảo luận về một chế độ chính trị hợp tình, hợp lý cho Việt Nam, chúng ta cần giải tỏa hai thành kiến, cũng là hai lo âu không đúng nhưng rất phổ biến của người Việt.
1.1. Dân chủ đa nguyên và ổn định chính trị
Lo âu thứ nhất là một chế độ đa nguyên và đa đảng có thể gây ra tình trạng phân tán đảng phái, trong đó không có đảng nào có được đa số để nắm chính quyền và do đó gây ra tình trạng bất ổn chính trị. Người ta có thể lo sợ rằng chính quyền sẽ thay đổi liên tục tùy theo những hợp tan của những liên minh tạm bợ.
Lo âu này không có căn cứ, nó xuất phát từ một hiểu lầm do một tuyên truyền đầu độc mà nhiều người Việt Nam đã là nạn nhân.
Sự kiện có ít hay nhiều đảng phái và có một chính đảng được đa số ổn vững trong quốc hội hay không tùy thuộc chủ yếu ở thể thức đầu phiếu, chứ không phải ở mức độ tự do chính trị. Nói một cách giản dị : lối đầu phiếu đơn danh và một vòng đưa tới chế độ lưỡng đảng vì loại bỏ các đảng nhỏ, trong khi lối đầu phiếu theo tỷ lệ đưa tới sự xuất hiện của nhiều chính đảng.
Bầu đơn danh và một vòng có nghĩa là mỗi đơn vị bầu cử bầu ra một dân biểu và các ứng cử viên ra tranh cử với tư cách pháp lý cá nhân, dù có thể mang nhãn hiệu của một chính đảng, ai được số phiếu cao nhất sẽ đắc cử. Lối bầu cử này có lợi cho các chính đảng lớn, loại các đảng nhỏ và bảo đảm sự hiện hữu thường trực của một đa số để thành lập và điều hành chính phủ một cách ổn vững, ngược lại nó không cho phép các khuynh hướng thiểu số có tiếng nói tại nghị trường. Trên thực tế nó thường đưa tới chế độ lưỡng đảng. Như vậy lối đầu phiếu đơn danh và một vòng là giải đáp kỹ thuật cho ưu tư có một chính quyền ổn vững mà không cần giới hạn tự do chính trị về mặt pháp chế.
Bầu theo tỷ lệ có nghĩa là đầu phiếu chung trên cả nước hay trong mỗi vùng, giữa các chính đảng với nhau, và số dân biểu đắc cử của mỗi chính đảng sẽ tỷ lệ với số phiếu của mình, thí dụ đảng được 20% số phiếu thì trên nguyên tắc cũng được 20% đại biểu. Lối đầu phiếu này rất dân chủ vì cho phép mọi khuynh hướng có tiếng nói và chỗ đứng trong quốc hội, nhưng ngược lại nó có nguy cơ đưa tới một quốc hội phân tán trong đó không có đảng nào có đa số đủ để cầm quyền.
Giải pháp tối ưu là một sự phối hợp giữa hai lối đầu phiếu này để vừa đảm bảo dân chủ vừa đảm bảo sự ổn vững tương đối của chính quyền. Về mặt kỹ thuật có thể có vô số công thức, kể cả lối đầu phiếu đơn danh hai vòng với tác dụng kết hợp các đảng có cùng khuynh hướng trong vòng hai.
Những nhận định này cho phép ta khẳng định rằng viện lý do ổn định chính trị để giới hạn hoạt động chính đảng là vô căn cứ. Trong nước Việt Nam tương lai không cần có, và cũng không thể có, bất cứ một giới hạn nào đối với quyền thành lập và phát triển các chính đảng.
Cũng cần chấm dứt một sự lẫn lộn gian trá về ổn định. Ổn định có hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất là ổn định dân sự, nghĩa là ổn định trong cuộc sống của mỗi công dân, là đảm bảo không bị bắt bớ, tịch thu tài sản, cấm kinh doanh, không là nạn nhân của những thay đổi luật pháp đột ngột và thường xuyên, hay những quyết định tùy tiện của chính quyền. Ổn định này rất cần thiết cho phát triển kinh tế, vì có như thế người dân mới có thể yên trí để tiên liệu và hoạch định sinh hoạt của mình. Ổn định này đòi hỏi dân chủ, nhân quyền và nhà nước pháp trị.
Nghĩa thứ hai là ổn định của tập đoàn cầm quyền, hay nói khác đi là sự kéo dài của một chính quyền với cùng những người cầm quyền. Sự kéo dài này, nếu không do bầu cử tự do mà là do một chế độ độc tài bạo ngược, còn rất mâu thuẫn với ổn định dân sự và do đó hoàn toàn mâu thuẫn với phát triển, bởi vì người dân luôn luôn phải sống trong sợ sệt, không dám và không thể lập những kế hoạch kinh doanh lâu dài.
Kinh nghiệm cho thấy ổn định dân sự rất cần cho phát triển, trong khi ổn định của tập đoàn cầm quyền hoàn toàn không cần thiết, thậm chí còn có ảnh hưởng xấu vì các chính quyền kéo dài quá lâu gần như chắc chắn đưa tới lạm quyền và tham nhũng. Tại Nhật, từ sau thế chiến hai tới nay, ít có chính phủ nào kéo dài được hai năm. Tại Ý, tuổi thọ trung bình của các chính phủ còn ngắn hơn nhiều. Mặc dầu vậy kinh tế của cả hai nước này đều phát triển nhanh chóng, họ đều là thành viên của nhóm bảy nước phát triển nhất. Trong khi các nước có những chính quyền kéo dài như Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên và nhiều nước thuộc Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh lại rất trì trệ và lạc hậu.
Khi các tập đoàn độc tài - như ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam - nói cần phải có ổn định để phát triển, nhiều người đồng ý với họ vì hiểu đó là ổn định dân sự trong khi họ thực hiện ổn định theo nghĩa thứ hai, nghĩa là ổn định của tập đoàn cầm quyền. Đó là một sự gian trá cần được tố giác.
1.2. Thống nhất và tản quyền
Lo âu thứ hai là phải chăng tản quyền có thể phương hại tới thống nhất lãnh thổ và tái lập lại tình trạng sứ quân.
Câu trả lời dứt khoát là không.
Các vùng không phải là những quốc gia, tự quản không đồng nghĩa với độc lập. Luật pháp của vùng không thể mâu thuẫn với luật pháp quốc gia.
Cũng nên có một cái nhìn lành mạnh hơn về thống nhất, vượt lên trên sự thống nhất hành chính, nặng nề và bàn giấy. Thống nhất chủ yếu là thống nhất trong lòng người. Khi mỗi người và mỗi địa phương cảm thấy có chỗ đứng và tiếng nói trong cộng đồng quốc gia trong khi những nét đặc thù của mình vẫn được tôn trọng thì họ càng cảm thấy hòa nhập vào quốc gia, và hòa hợp dân tộc càng mạnh thêm. Ngược lại, trong thế giới vừa dồn dập vừa phức tạp hiện nay và trong một quốc gia với gần một trăm triệu người, một chính quyền trung ương tập quyền không thể nào định đoạt tất cả, các địa phương trên thực tế vẫn tự trị, nhưng tự trị một cách bất hợp pháp, nghĩa là luôn luôn ở trong thế xung đột hợp lý nhưng bất hợp pháp với chính quyền trung ương, và do đó với cộng đồng quốc gia. Trung ương tập quyền vì vậy đưa tới sứ quân thay vì thống nhất. Chính vì tác dụng đoàn kết dân tộc của nó mà tản quyền cần được thực hiện cả trên bình diện quốc gia lẫn trong tổ chức của mỗi vùng.
Tản quyền là xu hướng áp đảo của thời đại này, và là kết luận của hai thế kỷ thử nghiệm dân chủ trên trái đất. Điều đáng ngạc nhiên là các dân tộc đã mất một thời gian dài như vậy để khám phá một sự thật đơn giản : một nội các chỉ có thể gồm một số ít người, và một số ít người không thể quyết định tất cả cho một quốc gia rộng lớn với số người đông đảo, sinh sống trên những vùng đất với những điều kiện địa lý và nhân văn khác nhau.
Tản quyền có những ưu điểm rõ rệt : nó khuyến khích sinh hoạt chính trị tại các địa phương, nó đem dân chủ tới mọi nơi với mọi người, nó tránh được những đường dây hành chính dài và phức tạp cho sinh hoạt thường ngày, nó kích thích sinh hoạt văn hóa và báo chí địa phương, nó cho phép mỗi địa phương chọn lựa công thức sinh hoạt phù hợp nhất với đặc tính của mình và nhờ đó mà phát triển.
Các vùng nghèo khó sẽ có được một chính quyền riêng dành tất cả ưu tư cho việc phát triển vùng và đưa vùng lên ngang tầm phát triển của cả nước, thay vì bị quên lãng bởi một chính quyền trung ương bận rộn với những vấn đề dồn dập của các vùng đã phát triển và có hoạt động mạnh. Không ai báo động một cách thành tâm và chính xác tình trạng khó khăn của một vùng bằng một chính quyền của vùng mà sứ mạng duy nhất là phát triển vùng.
Tản quyền còn đóng góp vào sự ổn vững của quốc gia và của dân chủ. Một mặt nó vô hiệu hóa những âm mưu đảo chính (lật đổ chính quyền trung ương rồi làm gì với các chính quyền địa phương ?) Mặt khác nó tránh các khủng hoảng đáng lẽ không có ở cấp trung ương, bởi vì vấn đề có thể đặt ra ở từng địa phương một vào những thời điểm khác nhau. Một ưu điểm vô cùng quan trọng khác của tản quyền là nó làm giảm bớt xung đột chính trị, bởi vì một đảng có thể thua ở cấp trung ương nhưng vẫn có thể nắm quyền tại một số địa phương, nơi mà họ được tín nhiệm. Xung khắc chính quyền - đối lập vì vậy sẽ bớt gay gắt. Trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay của Việt Nam, tản quyền vì vậy tránh được tình trạng được thì được hết, thua thì thua luôn, và đóng góp tích cực cho hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Tản quyền cho phép những khuynh hướng thiểu số, các tôn giáo và các sắc tộc ít người có trọng lượng chính trị đáng kể tại những địa phương mà họ hiện diện đông đảo, do đó làm dịu bớt những tâm trạng bất mãn và các ý đồ ly khai, tự trị.
Một điểm lợi quan trọng khác của tản quyền là chính nhờ các chính quyền địa phương mà mỗi khi có thay đổi chính quyền thì những người lên cầm quyền ở trung ương cũng không phải là những người tập sự mà ít nhất đã có kinh nghiệm ở cấp địa phương.
Tuy nhiên, muốn tản quyền có nội dung và tác dụng thực sự của nó, các vùng phải có một diện tích và một dân số khả dĩ có thể tồn tại và phát triển được.
Nước ta hiện nay có trên 90 triệu dân, khi đà gia tăng dân số đã khựng lại, dân số của chúng ta sẽ ổn định ở một mức độ nào đó chung quanh con số 110 triệu dân. Chúng ta có thể có từ mười đến mười lăm vùng, mỗi vùng từ năm tới mười lăm triệu người.
Để tránh những phiền phức về hành chính và nhất là về hộ tịch, các vùng sẽ là sự kết hợp của một số tỉnh hiện có. Việc tập trung các tỉnh vào một vùng sẽ dựa trên các tiêu chuẩn cấu tạo sắc tộc, chức năng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên và giao thông.
Mỗi vùng sẽ có một nghị viện riêng được quyền bổ nhiệm chính quyền vùng, ban hành các luật lệ vùng không mâu thuẫn với hiến pháp và pháp luật quốc gia, biểu quyết mức độ của một số sắc thuế, biểu quyết ngân sách địa phương.
Chính quyền vùng do nghị viện địa phương bầu ra để thi hành những chính sách đã được nghị viện địa phương biểu quyết.
Các vùng không có quyền có quân đội, không được phát hành tiền tệ riêng, không có đại diện ngoại giao, không được quyền ký hiệp ước với các nước khác, không được làm chủ các công ty có mục đích kinh doanh, không được tổ chức những trưng cầu dân ý có mục đích chính trị. Mọi cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý phải được chính quyền trung ương cho phép và nhìn nhận kết quả mới có giá trị.
Các vùng không được ký hiệp ước với nhau. Việc phối hợp giữa các vùng hoàn toàn thuộc thẩm quyền của chính quyền trung ương.
Mỗi công dân có quyền chọn lựa nơi cư trú trên toàn lãnh thổ. Các vùng không có quyền cấm cản sự nhập cư vào vùng mà chỉ có quyền giới hạn phạm vi lưu thông của các công dân trong tình trạng điều tra pháp lý.
Số lượng cảnh sát vùng không được vượt quá một tỷ lệ, do chính quyền trung ương qui định, so với số cảnh sát quốc gia hiện diện tại vùng.
Chính quyền trung ương được quyền ấn định một nội dung tối thiểu cho mỗi trình độ giáo dục. Các bằng cấp cho phép hành nghề tự do phải được chính quyền trung ương chuẩn nhận.
Các cơ quan chính quyền tỉnh và dưới cấp tỉnh sẽ do một đạo luật quốc gia qui định theo nguyên tắc tản quyền.
2.1. Chế độ đại nghị : thể chế dân chủ và ổn vững nhất
Quyết tâm của chúng ta là thực hiện dân chủ một cách hiệu quả nhất và ngăn chặn sự trở lại của bất cứ một hình thức độc tài nào. Chúng ta lựa chọn thể chế chính trị trên căn bản của quyết tâm đó. Việc đầu tiên phải làm là chọn lựa giữa một trong ba công thức : chế độ tổng thống, chế độ bán tổng thống và chế độ đại nghị.
Trước hết, chúng ta dứt khoát loại bỏ chế độ tổng thống, nghĩa là chế độ trong đó một người được dân chúng trực tiếp bầu cử theo phổ thông đầu phiếu và nắm trọn quyền hành pháp. Chế độ này có nhiều tật nguyền không thể chấp nhận được. Ta có thể kể hai tật nguyền thông thường nhất.
Tật nguyền đầu tiên ở ngay trong thể thức bầu cho một người thay vì cho một chính đảng. Lối bầu này khiến các chính đảng không lớn mạnh được vì điều kiện chính để nắm chính quyền là một nhân vật có sức thu hút cử tri, như thế điều kiện cốt lõi là có một ủy ban vận động tranh cử tốt chứ không phải một bộ máy đảng. Ông hay bà ta có thể được bầu vì những lý do hời hợt như trẻ đẹp, đi đứng duyên dáng, nói năng hùng hồn v.v hơn là vì uy tín của đảng mình và khả năng chính trị của mình. Ứng cử viên này một khi đã đắc cử chế ngự đảng chứ không lệ thuộc đảng. Kinh nghiệm cho thấy là trong mọi chế độ tổng thống, kể cả Hoa Kỳ, không có những chính đảng mạnh như trong các chế độ đại nghị và đây là một thiệt hại lớn vì các chính đảng vừa là lò đào tạo ra nhân tài chính trị vừa là môi trường sản xuất và sàng lọc các ý kiến trên những vấn đề lớn đặt ra cho đất nước.
Tật nguyền thứ hai là nó dành quá nhiều quyền cho một người trong một thời gian được qui định trước. Trong hoàn cảnh của một nước chưa có truyền thống dân chủ, nó rất dễ dẫn tới lạm quyền và độc tài với hậu quả là đàn áp, bạo loạn, thậm chí nội chiến. Hơn nữa nếu tổng thống vì bất cứ lý do nào bị mất uy tín giữa nhiệm kỳ thì sinh hoạt quốc gia sẽ bế tắc nguy hiểm trong suốt thời gian còn lại vì tổng thống không thể bị thay thế.
Trên mặt thuần túy lý thuyết chế độ tổng thống có ưu điểm là đảm bảo một chính quyền mạnh có khả năng quyết định mau chóng những chọn lựa chiến lược cần thiết, nhưng thực tế hiện nay là nguy cơ chiến tranh không còn nữa, ngay cả chiến tranh lạnh cũng đã chấm dứt, nhu cầu có một chính quyền mạnh để lấy những quyết định quan trọng một cách nhanh chóng không còn đặt ra nữa. Vả lại điều gì một tổng thông có thể làm, một thủ tướng được đa số trong quốc hội yểm trợ cũng có thể làm. Sự thật lịch sử là cho tới nay, trừ trường hợp của Hoa Kỳ, tất cả mọi chế độ tổng thống trên thế giới đều đã thất bại, hoặc dẫn tới một chế độ độc tài cá nhân, như trường hợp của hầu hết các quốc gia theo chế độ này, hoặc dẫn tới một xung đột bế tắc giữa hành pháp và lập pháp.
Chính sự thất bại của các chế độ tổng thống đã đưa đến sự xuất hiện của các chế độ "bán tổng thống", nghĩa là vừa có một tổng thống vừa có một thủ tướng. Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa chia sẻ một phần quyền hành pháp, nhiều hay ít theo qui định của hiến pháp, với một thủ tướng chịu trách nhiệm trước quốc hội trong đa số các trường hợp. Tổng thống do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra nên uy thế rất lớn, ngang hàng với một tổng thống trong chế độ tổng thống thuần túy ngay cả khi quyền hiến định có thể khác. Uy thế này là một bảo đảm cho ổn vững chính trị, tương tự như một chế độ tổng thống, bù lại cái giá phải trả là, một mặt, một số bất lợi của chế độ tổng thống và, mặt khác, những mâu thuẫn về thẩm quyền không tránh khỏi trong nội bộ hành pháp giữa tổng thống và thủ tướng.
Các chế độ bán tổng thống có tác dụng giảm bớt những bất lợi của chế độ tổng thống bằng cách dung hòa nó với chế độ đại nghị. Đã có một số chế độ bán tổng thống thành công. Tuy nhiên, chế độ bán tổng thống là một chế độ rất phức tạp, bản chất và nội dung chế độ có thể thay đổi tùy theo những yếu tố tình cờ : tổng thống và thủ tướng cùng đảng hay khác đảng, nhiệm kỳ của tổng thống và của quốc hội ngắn dài bằng nhau hay khác nhau, tổng thống hay quốc hội mới được bầu gần đây v.v.
Trong một chế độ đại nghị, quyền hành pháp ở trong tay một thủ tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội. Như thế khi bầu ra một quốc hội, một cách gián tiếp, người dân cũng chọn lựa một thủ tướng. Ưu điểm của chế độ đại nghị là người dân bầu trước hết cho một dự án chính trị của một đảng thay vì cho một người và sau đó chọn lựa một dân biểu trong số những ứng cử viên sinh hoạt gần gũi với họ mà họ có điều kiện để đánh giá ; qua dân biểu của họ, họ cũng có khả năng theo dõi và kiểm soát một cách thường trực sinh hoạt của chính phủ.
Thể chế đại nghị là thể chế dân chủ nhất và cũng là thể chế đúng đắn nhất, với điều kiện là không dẫn tới tình trạng lạm phát chính đảng và một quốc hội tê liệt vì bị phân hóa giữa nhiều khuynh hướng đối nghịch. Điều kiện này, như kinh nghiệm đã chứng minh, có thể thỏa mãn được bằng cách bầu tất cả hoặc phần lớn các dân biểu quốc hội theo phương thức bầu cử đơn danh và một vòng.
Chúng ta chọn lựa chế độ đại nghị vì sự giản dị và tính dân chủ cao của nó.
2.2. Tổ chức chính quyền
Một thể chế tản quyền đưa tới sự hiện hữu tất nhiên của hai nghị viện ở cấp trung ương. Thượng nghị viện đại diện cho các vùng, trong khi quốc hội đại diện cho quần chúng. Ở mỗi vùng, chỉ cần một nghị viện giữ vai trò của quốc hội ở cấp địa phương.
Thượng nghị viện chỉ có ở cấp trung ương. Mỗi vùng có một số thượng nghị sĩ bằng nhau do cử tri toàn vùng trực tiếp bầu ra, cộng đồng người Việt hải ngoại cũng sẽ được đại diện. Thượng nghị viện có vai trò : bảo đảm sự thống nhất và hòa hợp quốc gia qua các vùng, đề nghị các dự luật, phúc thẩm, nếu cần, các đạo luật do quốc hội biểu quyết, khuyến cáo và đề nghị với chính phủ về các chính sách và về việc bổ nhiệm nhân sự cấp cao. Thượng nghị viện có quyền đòi các viên chức chính quyền mọi cấp ra điều trần.
Quốc hội gồm các dân biểu mà đại đa số sẽ được bầu theo lối đầu phiếu đơn danh và một vòng, số còn lại được bầu theo tỷ lệ. Trong một nước Việt Nam với dân số 100 triệu, quốc hội có thể gồm khoảng 500 dân biểu, trong đó khoảng 450 được bầu theo thể thức đơn danh và một vòng, số còn lại bầu theo tỷ lệ trên cả nước. Việc đa số được bầu theo thể thức đơn danh và một vòng bảo đảm rằng sẽ không có tình trạng lạm phát chính đảng và sẽ có một đa số (của một đảng hay do liên minh của một vài đảng cùng khuynh hướng) để thành lập một chính phủ. Thiểu số bầu theo tỷ lệ cho phép mọi đảng phái có mặt trong quốc hội và cũng cho phép những người lãnh đạo các chính đảng có tầm vóc quốc gia khỏi phải tranh cử tại địa phương và để tập trung cố gắng cho những vấn đề của cả nước.
Tại mỗi vùng, phần nghị viên được bầu theo tỷ lệ có thể cao hơn, các nghị viên có thể được bầu một nửa theo phương thức đơn danh một vòng, một nửa theo tỷ lệ.
Để giới hạn con số các chính đảng, cần đặt một mức tối thiểu để có thể hiện diện trong quốc hội hay nghị viện vùng qua lối bầu tỷ lệ, thí dụ 5%.
Về hành pháp, ở cấp trung ương, thủ tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội. Các bộ trưởng do thủ tướng chỉ định. Tại các vùng, hành pháp nằm trong tay một thống đốc do nghị viện vùng bầu ra và chịu trách nhiệm trước nghị viện vùng.
Vị nguyên thủ quốc gia, tổng thống, có thể do một cử tri đoàn gồm tất cả dân biểu, thượng nghị sĩ ở cấp trung ương bầu ra. Vị nguyên thủ quốc gia này vì được bầu ra do một cử tri đoàn hùng hậu sẽ có một uy tín rất cao. Tổng thống không giữ một quyền hành cụ thể nào cả, nhưng là vị nguyên thủ quốc gia đúng nghĩa, đứng ngoài và đứng trên cả lập pháp, hành pháp lẫn tư pháp, có vai trò bảo đảm sự liên tục, ổn vững và đoàn kết của quốc gia.
Pháp Viện Tối Cao, gồm những thẩm phán được chọn trong các luật gia, có nhiệm kỳ dài, khoảng mười năm, do tổng thống, chủ tịch thượng nghị viện và chủ tịch quốc hội bổ nhiệm, mỗi vị một phần ba. Pháp Viện Tối Cao có quyền phán quyết tính hợp hiến hay bất hợp hiến của các đạo luật, trọng tài những tranh tụng giữa các cơ quan quyền lực, xét xử những cấp lãnh đạo cấp cao, xét lại các bản án do các tòa án quốc gia cũng như địa phương.
2.3. Các chính đảng : một thành tố khắng khít của chính quyền
Trong một thể chế như vậy sẽ có thể có rất nhiều chính đảng, nhưng do thể thức bầu cử -đại đa số dân biểu được bầu theo thể thức đơn danh một vòng- ở cấp trung ương sẽ chỉ có vài đảng lớn. Ở mỗi địa phương cũng sẽ chỉ có một số đảng địa phương giới hạn bên cạnh các đảng có tầm vóc quốc gia.
Mọi chế độ dân chủ đích thực đều phải trân trọng sinh hoạt chính đảng. Không thể có sinh hoạt chính trị đứng đắn nếu không có chính đảng. Trong hoàn cảnh nước ta, sau bao năm dài dưới các chế độ độc tài trong đó mọi sinh hoạt chính trị bị đàn áp, các chính đảng không những cần thiết mà còn cần được khai sinh, khuyến khích và nuôi dưỡng. Các chính đảng là yếu tố không thể thiếu cho đất nước, và vì thế quốc gia không những không được cấm cản mà còn phải yểm trợ sinh hoạt chính đảng.
Các chính đảng phải tự tài trợ trước hết bằng đóng góp của đảng viên và cảm tình viên, nhưng các đảng có tầm vóc sẽ được ngân sách tài trợ. Bù lại, mọi phương thức kinh tài khác kể cả việc nhận ủng hộ tài chánh của các công ty, xí nghiệp sẽ bị chế tài nghiêm khắc theo luật pháp. Một tỷ lệ khoảng 1% ngân sách quốc gia sẽ được dành cho việc tài trợ các chính đảng ở cấp trung ương và một tỷ lệ tương đương ở cấp ngân sách vùng. Nguồn tài trợ, tại trung ương cũng như tại địa phương, chia làm hai phần : một phần chia cho các chính đảng theo số dân biểu hoặc nghị viên ; một phần chia theo tổng số phiếu của mỗi chính đảng. Để tránh tình trạng lạm phát chính đảng, cần ấn định một tầm vóc tối thiểu - dựa theo số dân biểu, nghị viên hay số phiếu được bầu - để được hưởng trợ cấp. Chi phí chính đảng này dĩ nhiên là lớn, nhiều người có thể nghĩ là quá lớn, nhưng sẽ tránh cho chúng ta những thiệt hại còn nặng nề hơn gấp nhiều lần khi các chính đảng, vì không được tài trợ, trở thành con tin của những thế lực tài phiệt hay khi họ phải kiếm tài nguyên bằng những biện pháp bất chính. Một khi cộng đồng quốc gia đã tài trợ cho các chính đảng thì bù lại cộng đồng quốc gia cũng có quyền đòi hỏi nơi các chính đảng một sự trong sạch tuyệt đối. Sinh hoạt chính trị sẽ được kính trọng và dân chủ cũng vì thế mà lành mạnh hơn.
Hiến pháp Cộng Hòa Việt Nam chính thức hóa thể chế chính trị trên đây đồng thời thể hiện quyết tâm xây dựng dân chủ theo mô hình xã hội chứa đựng trong tư tưởng nền tảng và các định hướng lớn.
Ngay trong lời nói đầu, Cộng Hòa Việt Nam sẽ long trọng tuyên bố coi Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập của Liên Hiệp Quốc và các công ước đi kèm như là thành phần khăng khít của hiến pháp, lấy hòa giải và hòa hợp dân tộc làm tinh thần chủ đạo của mọi chính sách.
Ngay trong chương đầu sẽ có những điều khẳng định trong nước Việt Nam không thể có những ý kiến cấm nêu ra và cũng không thể có những đề tài cấm bàn đến ; nhân dân và nhà nước Việt Nam lên án nội chiến và mọi ý đồ sử dụng bạo lực để đạt mục tiêu hay giải quyết những mâu thuẫn ; nhà nước Việt Nam không tán thành và bãi bỏ án tử hình.
Sau những chương và điều về tổ chức bộ máy nhà nước, hiến pháp cũng sẽ có một chương đặc biệt gồm những điều có mục đích nhấn mạnh các mục tiêu quốc gia lớn : chức năng của Việt Nam là một nước thương mại, công nghiệp, dịch vụ và du lịch ; Việt Nam dồn mọi cố gắng để sống chung trong tinh thần hữu nghị và hợp tác với các quốc gia khác, góp phần cũng cố hòa bình trong vùng và trên thế giới ; trách nhiệm đặc biệt trọng đại của nhân dân và nhà nước Việt Nam là gìn giữ và không ngừng cải thiện môi trường, không khí, cây rừng, bờ biển, thềm lục địa và lãnh hải.
Để xây dựng luật pháp bắt đầu từ hiến pháp chúng ta chọn phương pháp thực nghiệm, nghĩa là ban hành, hoặc sửa đổi để giữ lại, những bộ luật căn bản giản dị nhưng chính xác và minh bạch lúc ban đầu, sau đó dựa theo các án lệ để giải quyết những trường hợp tương tự, đồng thời bổ túc và chỉnh sửa các bộ luật.
Vấn đề trọng đại trước mắt của chúng ta là chấm dứt chế độ độc tài đảng trị trong thời gian ngắn nhất và trong những điều kiện tốt đẹp nhất. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã là một đại họa cho dân tộc ta. Nó đã là thủ phạm của cuộc nội chiến kéo dài ba mươi năm làm đất nước tan nát và nhiều triệu người thiệt mạng. Trong cơn mê cuồng áp đặt chủ nghĩa cộng sản nó cũng đã phạm những tội ác kinh khủng, tàn sát có chủ mưu hàng trăm ngàn người yêu nước hoặc vô tội. Nó đã không chừa một thủ đoạn nào để cướp lấy chính quyền và sau khi cướp được chính quyền đã thất bại trong mọi địa hạt và trên mọi phương diện khiến nước ta nghèo khổ và tụt hậu một cách bi đát so với thế giới. Chúng ta là một trong những dân tộc cuối cùng trên trái đất vẫn còn bị phủ nhận những quyền làm người cơ bản. Đã thế nước ta còn lệ thuộc nước ngoài và mất đất, mất biển, mất đảo. Chế độ cộng sản tự duy trì thuần túy bằng bạo lực và đàn áp.
Không ai có thể phủ nhận quyền chống lại một bạo quyền như vậy bằng mọi phương tiện, kể cả bằng bạo lực. Tuy nhiên chúng ta dứt khoát khước từ bạo lực nhân danh trí tuệ và lòng yêu nước. Đất nước Việt Nam cũng đã chịu quá nhiều đổ vỡ để có thể chấp nhận một cuộc nội chiến mới, chúng ta cũng không thể chấp nhận ngay cả một giai đoạn hỗn loạn hậu cộng sản. Lịch sử thế giới gần đây cũng đã chứng tỏ rằng đấu tranh bất bạo động là phương thức phù hợp nhất và hiệu quả nhất để giành thắng lợi cho dân chủ. Đó là phương thức chúng ta chọn.
Nét đậm nhất của đất nước hiện nay là mọi người Việt Nam đều đồng ý rằng chế độ độc tài đảng trị là một tai họa, đấu tranh thiết lập dân chủ đa nguyên là đồng thuận dân tộc. Dầu vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn ngoan cố bám lấy một chủ nghĩa chuyên chính không những sai hoàn toàn mà còn bị lên án là một tội ác đối với nhân loại, hơn nữa còn ngang ngược tự cho mình độc quyền cai trị đất nước trong thời gian vô hạn định. Sự kéo dài của chế độ cộng sản là một thách đố lớn đối với mọi logic và đối với danh dự của dân tộc Việt Nam. Các thế hệ Việt Nam mai sau sẽ không thể hiểu nổi giai đoạn lịch sử này và sẽ không biết phải đánh giá thế nào những con người hôm nay. Nghịch lý này có một nguyên nhân mà chúng ta phải nhận diện, đó là sự thiếu vắng một giai cấp trí thức chính trị. Do truyền thống Khổng Giáo chúng ta chỉ có những người khoa bảng chuyên môn với chức năng làm công cụ cho chính quyền chứ không có những con người dám và có thể suy tư một cách độc lập về những vấn đề của đất nước và dám chấp nhận mọi thử thách để tranh đấu cho lập trường của mình, nghĩa là những trí thức chính trị. Chính sự thiếu vắng những trí thức chính trị đã khiến chúng ta không ý thức được rằng chấm dứt độc tài và thiết lập dân chủ là cuộc cách mạng lớn nhất trong lịch sử nước ta và không nhìn thấy những điều kiện phải có hoặc phải tạo ra để thành công cuộc cách mạng này. Cũng vì sự thiếu vắng này mà chúng ta không đồng ý được với nhau về lộ trình vận động dân chủ và những việc phải làm cho mỗi giai đoạn.
Lịch sử các cuộc vận động chính trị lớn tại các quốc gia qua các thời đại cho thấy có bốn điều kiện vừa cần vừa đủ để một cuộc cách mạng - hiểu theo nghĩa tích cực của một sự thay đổi toàn diện của cả chế độ lẫn định hướng quốc gia - thành công :
Điều kiện thứ nhất là mọi người trong nước đồng ý rằng chế độ hiện hữu là tệ hại và phải thay đổi.
Điều kiện thứ hai là đảng hay giai cấp cầm quyền, vì mất đồng thuận trên lý tưởng chung hay vì bị ung thối, đã chia rẽ, phân hóa và đã mất bản năng tự tồn của một đoàn thể.
Điều kiện thứ ba là đại đa số quần chúng đạt tới đồng thuận về một chế độ mới và những mục tiêu quốc gia mới.
Điều kiện thứ tư là có một tập hợp chính trị xuất hiện phù hợp với nguyện ước của toàn dân làm điểm hội tụ cho những khát vọng đổi mới.
Dĩ nhiên không bao giờ có điều kiện nào được thực hiện xong 100% cả, nhưng tới một mức độ chín muồi nào đó ta có thể coi một điều kiện là đã đạt được.
Nhìn vào bối cảnh hiện tại của đất nước chúng ta có thể khẳng định là hai điều kiện đầu đã có. Toàn dân đã chán ghét chế độ và đang nôn nóng chờ đợi thay đổi. Khát vọng dân chủ ngày càng lên cao trong dân chúng ; hơn thế nữa sự chuyển hóa về dân chủ ngày càng được nhìn như một lẽ tự nhiên và một sự bắt buộc, càng trì hoãn chừng nào càng gây thiệt hại cho đất nước chừng đó. Không những dân chúng mà cả một số lượng đông đảo cán bộ và đảng viên cộng sản cũng đang mất kiên nhẫn trước sự ù lì của ban lãnh đạo đảng cộng sản.
Mặt khác, Đảng Cộng Sản cũng đã ruỗng nát. Cán bộ đảng viên đã mất hết mọi tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội và nhìn ban lãnh đạo đảng như những đầu sỏ tham nhũng, ngược lại ban lãnh đạo đảng cũng đánh giá đa số đảng viên là gian trá, thiếu khả năng và phẩm chất. Những xung đột rất trầm trọng đã xảy ra ngay giữa các cấp lãnh đạo cao nhất. Tâm lý ngự trị trong đảng là thi nhau giành giật, mạnh ai nấy sống. Đảng Cộng Sản đã mất ý chí và sức sống của một đoàn thể. Khối ba triệu đảng viên cộng sản hiện nay không còn là một chính đảng mà là một giai cấp cướp bóc.
Điều kiện thứ ba cũng đã gần đạt được. Đại bộ phận quần chúng, kể cả đảng viên cộng sản, đều đã đồng ý rằng chế độ chính trị tương lai của Việt Nam bắt buộc phải là một thể chế dân chủ đa nguyên, dành chỗ đứng ngang nhau cho mọi người và cho mỗi người ; mọi người đều đã đồng ý rằng nền kinh tế của Việt Nam phải là kinh tế thị trường lấy tư doanh làm nền tảng, lấy cạnh tranh làm sức mạnh và lấy lợi nhuận làm chất kích thích. Hơn thế nữa chúng ta còn ý thức được rằng phải thực hiện cuộc cách mạng dân chủ này bằng đường lối bất bạo động, trong tinh thần hòa giải dân tộc. Chúng ta chỉ còn thiếu một dự án chính trị rõ ràng và minh bạch, đặt ra những vấn đề lớn của đất nước cùng với những hướng giải quyết. Trong tinh thần đó dự án chính trị này là một đóng góp.
Sau cùng chúng ta cũng đã thấy xuất hiện những cố gắng kết hợp quan trọng. Một số những khuôn mặt tranh đấu, thuộc những quá khứ chính trị khác nhau cũng đang dần dần trở nên quen thuộc nhau và với quần chúng. Ý thức về sự cần thiết bắt buộc của đấu tranh có tổ chức cũng ngày càng được nhiều người chia sẻ. Những điều kiện cho một sự tập hợp các lực lượng dân chủ đang trở nên ngày càng thuân lợi hơn.
Như vậy việc còn lại phải làm là hoàn tất điều kiện thứ ba, nghĩa là đạt tới đồng thuận trên một dự án chính trị, và xây dựng điều kiện thứ tư, nghĩa là hình thành một kết hợp dân chủ có tầm vóc. Có thể nói chúng ta đã đi được ba phần tư lộ trình dẫn đến dân chủ. Nhưng đoạn đường còn lại, xây dựng một tập hợp chính trị làm tụ điểm cho khát vọng dân chủ, cũng là đoạn đường cam go nhất. Lý do là vì chúng ta gặp phải một liên minh gắn bó giữa, một bên, là chính sách đàn áp thô bạo của một đảng cầm quyền cực kỳ lì lợm và, bên khác, là sự thụ động của một dân tộc đã rã hàng sau quá nhiều thất vọng và thương tổn, một sự thụ động được khuyến khích bởi chính sự thiếu vắng một kết hợp dân chủ có tầm vóc.
Làm thế nào để xây dựng ra tập hợp dân chủ đó ? Lịch sử của các nước, các thời cũng đã chứng tỏ rằng mọi cuộc đấu tranh cách mạng muốn thành công đều phải qua năm giai đoạn rõ rệt. Cuộc vận động dân chủ, tuy bao dung về tinh thần và bất bạo động trong phương pháp, cũng vẫn là một cuộc đấu tranh cách mạng bởi vì nó nhằm thay đổi cả chế độ chính trị lẫn tổ chức xã hội. Như thế chúng ta cũng phải qua lộ trình năm giai đoạn đó, một lộ trình dài và khó khăn đòi hỏi những cố gắng bền bỉ trong nhiều năm.
2.1. Xây dựng một cơ sở tư tưởng
Cơ sở tư tưởng của một kết hợp chính trị, ngoài những giá trị được tâm đắc và tôn vinh, gồm một dự án chính trị, những lý luận bảo vệ cho những chọn lựa trong dự án, và một đồng thuận trong chiến lược đấu tranh. Dự án đó phải là một tổng hợp công phu giữa một nhận định nghiêm túc về bối cảnh đất nước và những tư tưởng đúng đắn nhất của thời đại. Một phong trào chính trị muốn thành công cần được xây dựng trên một cơ sở tư tưởng mạnh. Cơ sở tư tưởng phải là một lý tưởng đủ đẹp và đủ tính khả thi để vừa gắn bó mọi chí hữu với nhau vừa tranh thủ được sự yểm trợ cho phong trào. Giai đoạn xây dựng cơ sở tư tưởng có thể coi là tạm hoàn tất khi đã có dự án chính trị được thành phần có trí tuệ nhất của đất nước đánh giá là nghiêm túc và khả thi.
2.2. Xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt
Tranh thủ sự ủng hộ cho dự án chính trị, tổ chức nhân lực và phương tiện để đưa cuộc đấu tranh tới thành công là công việc của đội ngũ cán bộ nòng cốt. Trong cuộc vận động dân chủ hiện nay chúng ta đang gặp khó khăn lớn là những người có khả năng chính trị vừa ít vừa phân tán. Cố gắng chính như vậy phải là một mặt bằng mọi cách qui tụ những phần tử quí hiếm đó và mặt khác cố gắng đào tạo ra những cán bộ nòng cốt mới. Công việc này tuy rất khó nhưng không thể né tránh bởi vì cuộc đấu tranh chính trị nào xét cho cùng cũng vẫn là cuộc đọ sức giữa những đội ngũ cán bộ. Một tổ chức chính trị luôn luôn phải tôn trọng một tỷ lệ nào đó giữa đội ngũ cán bộ nòng cốt và tổng số thành viên. Sức khỏe cần hơn sức vóc. Phẩm chất cần hơn số lượng. Trong thời đại hiện nay, khi mà các phương tiện truyền thông hiện đại cho phép một nhóm nhỏ quan hệ trực tiếp và thường xuyên với quần chúng, vai trò của đội ngũ cán bộ nòng cốt lại càng quan trọng.
2.3. Xây dựng và kiểm điểm phương tiện
Cuộc đấu tranh nào muốn thành công cũng cần những phương tiện. Phương tiện không phải chỉ là phương tiện vật chất. Phương tiện có thể là của tổ chức, do các thành viên và cảm tình viên đóng góp, cũng có thể là của các tổ chức đồng minh, và cũng có thể là khả năng vận động những sự yểm trợ của các tổ chức quốc tế, các cơ quan truyền thông, các tổ chức bảo vệ nhân quyền và tự do báo chí, các nhân vật có uy tín trong một bối cảnh nào đó. Các phương tiện có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức và đến từ nhiều nguồn khác nhau. Điều quan trọng là phải tiên liệu được và hoạch định được sự sẵn sàng của chúng. Xây dựng và kiểm điểm phương tiện là điều tối quan trọng bởi vì trong đấu tranh chính trị hoặc phải có các phương tiện cần thiết cho đường lối của mình, hoặc sẽ phải không nhiều thì ít thực hiện đường lối của kẻ cung cấp phương tiện.
2.4. Xây dựng cơ sở quần chúng
Cơ sở quần chúng cần được hiểu trước hết là tập thể thành viên ngoài đội ngũ cán bộ nòng cốt. Sự kiện một thành viên thuộc vào đội ngũ nòng cốt hay cơ sở có thể là do trình độ chính trị nhưng cũng có thể vì những lý do khác : sức khỏe, thời giờ có thể dành cho cuộc tranh đấu, hoàn cảnh gia đình và cá nhân ở một thời điểm. Cơ sở quần chúng cũng là những tập thể các thân hữu, đặc biệt là các thân hữu có uy tín. Sau cùng, cơ sở quần chúng cũng là vốn cảm tình mà tổ chức đã tranh thủ được. Cố gắng xây dựng cơ sở quần chúng chủ yếu là một cố gắng tuyên truyền nhằm hai mục tiêu : một là thuyết phục quần chúng về sự cần thiết phải đóng góp vào một giải pháp chung cho đất nước chứ mỗi người không thể tự giải quyết các vấn đề cá nhân bằng những giải pháp cá nhân ; hai là tranh thủ sự đồng tình của quần chúng đối với tổ chức. Cơ sở quần chúng có thể coi là khả quan khi đã đủ mạnh để làm đai truyền giữa tổ chức và nhân dân tại các thành phố lớn.
2.5. Tiến công giành chính quyền
Chỉ sau khi bốn giai đoạn trên đã được thực hiện, nghĩa là tổ chức đã đủ mạnh, mới có thể nghĩ đến việc tiến công giành chính quyền và phương pháp để giành chính quyền mới có thể được quyết định. Trong thực tế những người dân chủ Việt Nam phải dứt khoát loại bỏ giải pháp vũ trang ngay từ đầu vì giành chính quyền bằng bạo lực đòi hỏi phát động nội chiến điều mà mọi người Việt Nam phải dứt khoát lên án. Không gì tàn phá một quốc gia bằng nội chiến và không ai có quyền nhân danh bất cứ gì để phát động nội chiến. Thế giới văn minh đã từ bỏ bạo lực như một phương tiện đấu tranh chính trị, dân tộc Việt Nam sau những kinh nghiệm đau đớn của giai đoạn nội chiến vừa qua lại càng phải từ khước bạo lực một cách dứt khoát hơn. Chiến lược của những người dân chủ Việt Nam là diễn tiến hòa bình. Chiến lược đó có nghĩa là thắng lợi của dân chủ sẽ đến do áp lực từ xã hội. Áp lực này thể hiện chủ yếu qua hai hình thức ; một là sự thay đổi cách suy nghĩ và hành động của người dân đặt chế độ vào thế việt vị lố bịch, ngôn ngữ chính thức của chính quyền trở thành trò cười, các cấp lãnh đạo xấu hổ vì chức vụ của họ ; hai là quần chúng dần dần trút bỏ được sự sợ hãi và ngày càng có thể được động viên để tham gia những cuộc biểu tình lớn ; tới một điểm nào đó chính quyền sẽ bị đặt trước chọn lựa hoặc nhượng bộ hoặc sẽ bị lật đổ vì quần chúng đứng dậy. Dĩ nhiên chúng ta mong muốn kịch bản chính quyền cộng sản nhượng bộ và tham gia vào tiến trình dân chủ hóa.
Nhưng làm thế nào để động viên quần chúng ? Mọi nghiên cứu và kinh nghiệm đều cho thấy một quần chúng dù bất mãn tới đâu cũng chỉ nổi dậy đấu tranh nếu có đủ ba điều kiện :
1. Mọi người cảm thấy gắn bó trong một số phận chung và chỉ có thể có lối thoát chung chứ mỗi người không thể luốn lách để tìm giải pháp cá nhân ; mặt khác mọi người đồng ý rằng thảm kịch chung đến từ một tập thể được nhận diện rõ rệt. Nói cách khác phải có ý thức về hai tập thể rõ rệt, một tập thể "ta" nạn nhân của một tập thể "địch". Trong trường hợp Việt Nam điều kiện này có nghĩa là quần chúng Việt Nam ý thức rằng Đảng Cộng Sản là nguyên nhân của tình trạng tệ hại hiện nay và chỉ có thể có giải pháp chung cho cả đất nước chứ mỗi người không thể luồn lách để tìm một giải pháp cá nhân.
2. Có một tổ chức để động viên và lãnh đạo quần chúng ; vai trò cốt lõi của tổ chức là để giữ nguyên khí thế đấu tranh, tránh những sai lầm gây chán nản. Quần chúng không kiên nhẫn. Cố gắng động viên quần chúng sẽ thất bại nếu có những tổ chức khác nhau đưa ra những lời kêu gọi khác nhau, hay nếu có chia rẽ trong tổ chức lãnh đạo.
3. Tổ chức lãnh đạo phải đủ mạnh để quần chúng tin tưởng chắc chắn vào thắng lợi. Quần chúng không lãng mạn.
Trong vài năm qua đã có nhiều cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lấn hay phản kháng chính quyền cướp đoạt đất đai. Tất cả những cuộc biểu tình này, nếu mục tiêu là thay đổi chế độ, đều còn ở rất dưới mức độ cần thiết, ngay cả để đạt một kết quả tương đối, vì chúng đều sai tiến trình, . Vận động quần chúng chỉ có thể là giai đoạn cuối cùng trong năm giai đoạn kể trên. Hơn nữa những cuộc biểu tình này cũng không có được một điều kiện nào trong ba điều kiện cần có để động viên quần chúng.
Năm giai đoạn phải đi theo thứ tự nhưng không nhất thiết là giai đoạn trước phải hoàn tất giai đoạn kế tiếp mới bắt đầu. Các giai đoạn gối đầu lên nhau. Tiến trình năm giai đoạn là một công thức hướng dẫn hành động, nó là một điều kiện cần nhưng không phải là điều kiện đủ. Đi sai tiến trình này thì chắc chắn thất bại nhưng theo đúng tiến trình chưa chắc đã thành công. Sự thành công còn tùy thuộc nhiều yếu tố định lượng : cơ sở tư tưởng được hưởng ứng đến mức độ nào, cán bộ nhiều hay ít và khả năng thế nào, phương tiện dồi dào tới mức nào.
Một nhận xét rất quan trọng là hai giai đoạn đầu, xây dựng một cơ sở tư tưởng và hình thành đội ngũ cán bộ nòng cốt, chiếm gần hết thời giờ và công lao của một cuộc cách mạng. Phải vài thập niên mới có nổi một cơ sử tư tưởng đúng đắn, lành mạnh, được quần chúng chia sẻ và một đội ngũ cán bộ chừng vài trăm người với vài chục người là những cán bộ thực sự nòng cốt, nắm vững cơ sở tư tưởng, có bản lãnh, có quyết tâm, có kỹ thuật và kỷ luật đấu tranh. Nhưng một khi hai yếu tố này đã có, tổ chức có thể dựa vào một vận hội lịch sử mà phát triển rất nhanh chóng và giành được thế chủ động trong vòng vài năm, thậm chí vài tháng.
Nhận định của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là cuộc vận động dân chủ hiện nay mới chỉ ở giữa giai đoạn thứ nhất và bước đầu của giai đoạn thứ hai. Nhưng không phải vì thế mà có thể kết luận bi quan rằng thắng lợi của dân chủ còn xa.
Từ những phân tích trên, cố gắng đấu tranh để chấm dứt chế độ độc tài và xây dựng dân chủ của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên sẽ tập trung vào những công tác trọng điểm sau đây.
3.1. Thức tỉnh quần chúng về sự cần thiết của một giải pháp chung cho cả dân tộc
Sự mâu thuẫn đáng phẫn nộ giữa tiềm năng to lớn và hiện trạng bi đát của dân tộc, giữa ước vọng dân chủ rộng khắp và sự kéo dài thách đố của chế độ độc tài toàn trị có một nguyên nhân chính : đó là tâm lý luồn lách để tìm những giải pháp cá nhân cho những vấn đề cá nhân. Tâm lý đó là di sản lịch sử và văn hóa của hàng ngàn năm trong đó con người hoàn toàn không có tiếng nói, phải chịu đựng chính quyền như một định mệnh và tìm cách thích ứng để tự tồn. Luồn lách để tồn tại đã, một mặt, buộc người dân phải chấp nhận làm những điều không lương thiện và góp phần làm ung thối thêm xã hội, mặt khác, khiến người dân phải thỏa hiệp với chế độ, đóng góp cho chế độ và do đó giúp chế độ tồn tại, một điều không ai muốn.
Cố gắng đầu tiên, trọng đại và cam go của những người dân chủ là thức tỉnh dân chúng rằng bắt buộc phải có một giải pháp chung, nghĩa là một thay đổi chế độ chính trị, chứ mỗi người không thể xé lẻ và luồn lách để tự giải quyết những vấn đề cá nhân bằng những giải pháp cá nhân. Sẽ chỉ có một thiểu số không đáng kể thành công như vậy và sự thành nếu có cũng chỉ là tạm bợ và đầy bất trắc.
Phải đánh đổ trước hết chủ nghĩa luồn lách và phát huy ý chí sống lương thiện, xứng đáng và trách nhiệm. Chừng nào quần chúng còn chưa tin là mọi người Việt Nam đều gắn bó với nhau trong một số phận chung, và do đó cần một giải pháp chung, cuộc vận động dân chủ vẫn chưa thể thành công và chế độ độc tài vẫn tồn tại, hay nếu có sụp đổ do sự ruỗng nát của chính nó thì cũng chỉ nhường chỗ cho một tình trạng hỗn loạn vô chính phủ còn tồi tệ hơn cả một chế độ độc tài.
Khó khăn chính của cuộc cách mạng tâm lý này là nó đòi hỏi cả lý luận lẫn sự kích thích và do đó chỉ có những kết hợp chính trị mới có thể vận động được một cách hữu hiệu. Các nhà nghiên cứu, các nhà tư tưởng, ngay cả các nhân sĩ uy tín, nếu có, cũng bất lực vì chính sự kiện họ đứng một mình cũng đã không nhiều thì ít chứng tỏ họ chọn lựa giải pháp cá nhân và khiến cho những hô hào của họ về một ý thức chung mất rất nhiều tác dụng. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên hiểu trách nhiệm và vai trò của mình trong cuộc đột phá tâm lý này.
3.2 Giành thắng lợi dứt khoát về mặt tư tưởng và lý luận
Trong đấu tranh cách mạng thắng lợi về tư tưởng và lý luận cuối cùng sớm muộn cũng đưa tới thắng lợi chính trị ; ngược lại một chính quyền không còn gì để nói trước sau cũng bị đào thải. Hiện nay chính quyền cộng sản đã hoàn toàn bối rối trên mặt trận ý thức nhưng đối lập dân chủ Việt Nam cũng chưa giành được thắng lợi dứt khoát. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh tư tưởng để bẻ gãy hẳn những lý luận ngụy biện có lợi cho chế độ độc tài và giải tỏa những lấn cấn còn tồn tại trong nhân dân và một số người dân chủ. Cuộc đấu tranh tư tưởng này rất quan trọng, ngay cả sau khi dân chủ đã được thiết lập, vì đó chính là cuộc vận động cốt lõi để thay đổi cách suy nghĩ và hành động, nghĩa là thay đổi hướng đi của lịch sử.
Chúng ta phải bẻ gẫy lập luận cho rằng dân chủ sẽ đưa tới hỗn loạn. Chúng ta cần chứng minh rằng dân chủ là điều kiện căn bản để bảo đảm không có hỗn loạn, là phương thức sinh hoạt cho phép xã hội tiến hóa và đổi mới không ngừng trong trật tự. Chúng ta cần khẳng định rằng đất nước sẽ không thể vươn lên được nếu không đẩy lùi được tham nhũng vì tham nhũng làm hỏng tất cả mọi kế hoạch, dự án, công trình. Nhưng kinh nghiệm của mọi quốc gia trên thế giới đã chứng tỏ rằng người ta không thể cải tiến một chính quyền tham nhũng mà chỉ có một giải pháp duy nhất là thay thế chính quyền tham nhũng bằng một chính quyền khác. Dân chủ chính là thể chế cho phép thay đổi chính quyền mà không gây hỗn loạn ; dân chủ vì vậy là giải pháp bắt buộc cho những nước mắc nạn tham nhũng nặng như Việt Nam.
Chúng ta phải bẻ gẫy lập luận cho rằng muốn phát triển cần có kỷ luật và muốn có kỷ luật cần hy sinh dân chủ, giới hạn tự do và nhân quyền. Nhân dân Việt Nam cần được giải thích rõ ràng không thể có kỷ luật quốc gia nào khác hơn là hiến pháp và luật pháp. Nhân dân Việt Nam cũng cần được thuyết phục rằng dân chủ, tự do và nhân quyền không những không là những trở ngại mà còn là những điều kiện không có không được cho một phát triển lành mạnh, liên tục và bền vững ; những tiến bộ ban đầu tại một số nước độc tài như Trung Quốc và Việt Nam chỉ là hậu quả của việc nới lỏng một số tự do và tháo gỡ một phần chính sách quản lý độc đoán và sẽ mau chóng đạt tới giới hạn nếu không có chuyển biến thực sự về dân chủ. Trên thực tế đà phát triển tại hai nước này đã khựng lại vì hai chính quyền Trung Quốc và Việt Nam không chịu đẩy mạnh thêm cải tổ theo chiều hướng dân chủ hóa.
Chúng ta phải bẻ gẫy lập luận cho rằng xã hội phương Đông khác với xã hội phương Tây, và do đó không thể chấp nhận những giá trị của phương Tây như tự do cá nhân, dân chủ và nhân quyền. Tự do, dân chủ và nhân quyền là những giá trị phổ cập của cả loài người, không riêng gì của phương Tây. Các giá trị đó có mặt trong mọi nền văn minh, kể cả tại Việt Nam. Ưu điểm của các nước phương Tây là đã biết phát huy mạnh mẽ những giá trị đó, nhờ thế họ đã phồn vinh và vượt xa phần còn lại của thế giới. Chúng ta cần phát huy những giá trị đó để tiến lên. Và vì chúng ta đã chậm trễ nên cần phát huy một cách mạnh mẽ và quả quyết.
Chúng ta cần phơi bày sự sai trái của lập luận cho rằng các giá trị văn hóa Châu Á có lợi cho phát triển hơn các giá trị văn hóa phương Tây. Đằng sau lập luận mị dân đó là ý đồ biện hộ cho những chế độ độc tài chuyên chính. Không phải ngẫu nhiên mà chế độ cộng sản Trung Quốc đang cố gắng phục hồi Khổng Giáo và cũng không có gì ngạc nhiên nếu chế độ cộng sản Việt Nam sẽ hưởng ứng. Chúng ta phải cảnh giác để làm thất bại kế hoạch tuyên truyền này. Dĩ nhiên các nền văn hóa Châu Á có nhiều điểm tích cực nhưng những điểm tiêu cực còn nhiều hơn và trầm trọng hơn. Các nước Châu Á phát triển nhất đã phát triển nhờ chấp nhận cách suy nghĩ tổ chức và làm việc dân chủ của người phương Tây chứ không vì phủ nhận phương Tây và đề cao những nét đặc thù của mình. Vả lại, các nước Châu Á có những nền văn hóa và phong tục rất khác nhau, nên không thể nói một cách chung chung tới những giá trị phương Đông hay Châu Á được.
Chúng ta cần ý thức rằng đây không phải chỉ là những cuộc tranh luận lý thuyết. Đằng sau những lập luận ngụy biện bênh vực cho các chế độ độc tài là những nhà tù khắc nghiệt, những đày đọa thô bạo mà những con người đáng quí nhất của đất nước là nạn nhân, trong khi một thiểu số cường hào tha hồ vơ vét tài nguyên quốc gia.
Chúng ta cũng cần phải cực lực bác bỏ một thứ "chủ nghĩa kinh tế" mà một số chính quyền, trong đó có chính quyền cộng sản Việt Nam, đã lấy làm lý cớ để phủ nhận hoặc giới hạn tự do, dân chủ và nhân quyền. Kinh tế không phải là tất cả, và ngay cả trên địa hạt thuần túy kinh tế tỷ lệ tăng trưởng cũng không phải là tất cả. Một thành tích tăng trưởng kinh tế 10% không cho phép một chính quyền tự mãn là có công rồi áp đặt một chế độ độc tài lên dân chúng, nhất là khi sự tăng trưởng đó chỉ là rút ngắn một phần sau sự tụt hậu do chính họ gây ra và đất nước phải trả bằng một giá rất đắt về văn hóa, đạo đức, môi trường. Mục tiêu quốc gia mà chúng ta phấn đấu để toàn dân Việt Nam chia sẻ là một xã hội phồn vinh, có văn hóa cao, có sự phân phối hợp tình hợp lý lợi tức quốc gia, có cơ hội thăng tiến công bằng cho mọi người, có liên đới giữa người và người và giữa mọi người với đất nước, có bảo đảm tự do và phẩm giá cho mọi người, có khả năng không ngừng vươn lên, có môi trường thiên nhiên được bảo vệ và liên tục cải thiện.
Một cố gắng khác, rất quan trọng, là thuyết phục mọi đảng viên cộng sản và viên chức nhà nước rằng họ hoàn toàn không có lý do chính đáng nào để lo ngại sự cáo chung của chế độ độc tài đảng trị cả, trái lại họ còn có mọi lý do để vui mừng trước những thắng lợi của dân chủ. Danh dự, nhân phẩm và những quyền lợi hợp pháp của họ sẽ được tôn trọng. Hơn thế nữa, họ còn trút bỏ được mặc cảm tội lỗi tiếp tay cho một chế độ tồi dở và gian trá. Họ sẽ có niềm tự hào đóng góp đưa đất nước tiến lên với phúc lợi càng ngày càng lớn cho mọi người, kể cả chính họ.
Cố gắng tranh thủ sự hưởng ứng của những cán bộ đảng viên cộng sản không khó về mặt lý luận vì trong đại bộ phận họ cũng đều là nạn nhân của chế độ và cũng rất bất mãn. Khó khăn là ở di sản tâm lý do cuộc chiến và cách cai trị thô bạo của đảng cộng sản để lại. Nhiều người không tin rằng hận thù có thể xóa bỏ dễ dàng, trong khi đó thì vẫn còn những luận điệu cực đoan của một thiểu số vô ý thức và vô trách nhiệm gây thêm sự lo ngại. Bởi vậy cuộc vận động dân chủ, một mặt, phải khẳng định một cách thật quả quyết tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc và, mặt khác, phải cam kết một cách hùng hồn rằng sẽ không có bất cứ một biện pháp phân biệt đối xử nào. Muốn như thế hàng ngũ dân chủ phải qui tụ mọi người xuất phát từ mọi quá khứ chính trị. Một tập hợp chính trị dù có thiện chí và đường lối đứng đắn đến đâu mà chỉ gồm những người xuất phát từ một trong hai phe quốc gia cũ hay cộng sản cũ cũng vô vọng.
Để giành thắng lợi dứt khoát trong mặt trận tư tưởng và lý luận chính những người dân chủ phải có tư tưởng và lý luận đúng. Cố gắng đầu tiên và quan trọng nhất là thuyết phục những người muốn đóng góp cho cuộc vận đông dân chủ, trí thức cũng như quần chúng, rằng đấu tranh chính trị không bao giờ có thể là đấu tranh cá nhân cả mà luôn luôn chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức. Cuộc đấu tranh để chấm dứt chế độ độc tài đảng trị và thiết lập dân chủ là một cuộc đấu tranh chính trị rất khó khăn. Nó phải có tổ chức, và tổ chức không thể thành hình nhanh chóng được mà đòi hỏi những cố gắng thông minh và bền bị trong rất nhiều năm. Nhưng xây dựng tổ chức là điều không thể tiết kiệm. Các chuyên gia, nhà bình luận, văn nghệ sĩ có thể đóng góp với tư cách cá nhân những thông tin, lý luận và tình cảm có lợi cho cuộc vận động dân chủ nhưng họ không đánh bại được chế độ độc tài, đánh bại được chế độ độc tài hay không là ở các tổ chức dân chủ. Chúng ta trân trọng những đóng góp đó nhưng cũng phải nhận định giới hạn của chúng. Ngược lại những người này cũng cần nhìn thấy giới hạn của chính mình và nhìn nhận sự cần thiết của tổ chức, ngay cả nếu họ có những lý do riêng để không tham gia một tổ chức nào. Đấu tranh chính trị mà không tham gia một tổ chức nào phải được coi là một ngoại lệ chứ không thể là một thông lệ.
Vấn đề là hiện nay vẫn còn nhiều người nghĩ rằng có thể đấu tranh cho dân chủ mà không tham gia một tổ chức nào cả. Một số còn tự hào là không thuộc tổ chức nào, coi đó là dấu hiệu của tinh thần khách quan và đúng đắn. Họ cần được cảnh tỉnh rằng đây là một thái độ rất sai, có hại cho cuộc vận động dân chủ và mâu thuẫn với uớc vọng của chính họ. Họ cần hiểu rằng đấu tranh chính trị cá nhân chỉ thực sự có hiệu quả nơi một số rất ít người có uy tín và trình độ rất cao hoặc có địa vị rất đặc biệt, trong gần như mọi trường hợp tác dụng tích cực không bằng tác dụng tiêu cực là đánh lạc sự chú ý khỏi cố gắng đúng đắn và cần thiết nhất, nghĩa là xây dựng tổ chức dân chủ.
Một sai lầm lớn khác cần được cảnh giác là nghĩ rằng một tổ chức chính trị có thể thành lập được một cách nhanh chóng. Niềm tin nông nổi này đưa tới tình trạng đã quá quen thuộc là nhiều người háo hức thành lập vội vã các tổ chức mỗi khi bối cảnh chính trị tỏ ra thuận lợi cho cuộc vận động dân chủ, với kết quả sau cùng là đóng góp làm lỡ cơ hội vì đánh lạc sự chú ý khỏi những cố gắng nghiêm chỉnh. Phân tích những điều kiện để một cuộc cách mạng thành công và những giai đoạn phải đi qua đã cho thấy một tổ chức chính trị nghiêm túc chỉ có thể là thành quả của những cố gắng thông minh, liên tục và bền bỉ trong nhiều năm, khởi đầu từ một tư tưởng chính trị hoàn chỉnh. Kinh nghiệm thực tế cũng đã cho thấy là trong bốn thập nhiên qua đã có hàng ngàn tổ chức được manh nha nhưng hầu như tất cả đều đã tan biến, không những thế ngay cả những chính đảng kỳ cựu đã đóng góp nhiều hy sinh và tranh thủ được nhiều uy tín cũng đã tàn lụi đi vì không cập nhật được tư tưởng chính trị. Xây dựng một tổ chức chính trị như vậy đòi hỏi rất nhiều trí tuệ, cố gắng và thời gian, kể cả may mắn. Những manh động thành lập tổ chức mới thay vì đóng góp cho một tổ chức nghiêm chỉnh có sẵn vì vậy không nên được khuyến khích.
Cũng cần cảnh giác với một ngộ nhận cho rằng chỉ cần tập trung mọi cố gắng xây dựng các tổ chức xã hội dân sự. Đúng là sự thiếu vắng xã hội dân sự đã là nguyên nhân chính khiến chúng ta thua kém so với thế giới và khiến dân tộc ta bất lực trước một chế độ độc tài bạo ngược. Không ai phủ nhận sự cần thiết của xã hội dân sự nhưng phải nhìn đúng vai trò của nó. Mỗi tổ chức xã hội dân sự đúng nghĩa chỉ có thể dành quan tâm đặc biệt cho một vấn đề của xã hội và vì thế có tiếng nói uy tín trên vấn đề đó nhưng, ngược lại, không quán triệt mọi vấn đề của xã hội và cũng không thể có tham vọng chính trị. Mỗi tổ chức phơi bày những sai trái của chế độ độc tài và gây áp lực trên một địa hạt mà mình đặc biêt quan tâm và đã trải nghiệm nên có tiếng nói thẩm quyền. Sức mạnh của các tổ chức xã hội dân sự chính là ở chỗ chúng có mục tiêu nhất định rõ rệt. Chúng là những hỗ trợ quí báu cho cuộc vận động dân chủ nhưng chúng không có chức năng lãnh đạo cuộc đấu tranh cho dân chủ. Đó là chức năng của các tổ chức chính trị.
3.3. Hình thành của một mặt trận dân chủ và đấu tranh đòi bầu cử tự do
Cuộc đấu tranh chấm dứt chế độ độc tài và thiết lập dân chủ bắt buộc phải có lãnh đạo thống nhất để có thể tranh thủ hậu thuẫn của thế giới, đem lại lòng tin vào thắng lợi và động viên quần chúng. Đặc biệt công tác động viên quần chúng chắc chắn sẽ thất bại nếu phong trào dân chủ phân tán để chỉ có những lời kêu gọi và chỉ thị mâu thuẫn.
Lãnh đạo thống nhất đó có thể là một tổ chức vượt hẳn các tổ chức khác về lực lượng cũng như uy tín buộc các tổ chức khác phải hợp tác vì không có chọn lựa nào khác. Thực tế cho thấy là khả năng này hầu như không có. Giải pháp thực tế là một mặt trận dân chủ qui tụ những tổ chức dân chủ chân chính.
Không một người dân chủ nào không nhận thức được sự cần thiết của một mặt trận dân chủ -hay một liên minh dân chủ- có tầm vóc.
Mặt trận dân chủ này cần thiết để đối lập dân chủ Việt Nam xuất hiện dưới mắt thế giới như một giải pháp thay thế đáng tin cậy, tránh tình trạng các tổ chức đua nhau tranh giành hậu thuẫn của các chính phủ và các tổ chức quốc tế tạo ra hình ảnh một đối lập Việt Nam phân tán và thiếu tự trọng.
Mặt trận này cũng là điều kiện bắt buộc phải có để đem lại cho quần chúng niềm tin vào thắng lợi, do đó có thể động viên được quần chúng và sau đó để có thể lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi chế độ cộng sản phải nhượng bộ.
Mặt trận này có thể thành lập được vì thời gian đã gạn lọc những ý kiến và ngày nay chỉ còn rất ít những khác biệt về quan điểm.
Bước đầu của cố gắng hình thành mặt trận dân chủ này là đẩy mạnh hơn nữa những tiếp xúc và trao đổi bộc trực trong tinh thần tương kính về bối cảnh quốc tế và về hiện tình đất nước, về những chọn lựa cơ bản cho tương lai, về những vấn đề cấp bách phải giải quyết và về hướng giải quyết cho những vấn đề đó. Chính qua những cuộc trao đổi này mà một đồng thuận có thể đạt tới và những con người cần có để giành thắng lợi cho nó có thể tìm ra.
Giai đoạn vận động này cần được xúc tiến ở cả trong lẫn ngoài nước song song với cố gắng phổ biến rộng rãi lý tưởng dân chủ đa nguyên tới quần chúng. Nó có mục đích tìm ra những người cùng chí hướng để kết hợp hành động. Nó cũng có mục đích tìm hiểu và đối chiếu mọi lập trường chính trị để nhận diện ra những tổ chức chính trị dù không hoàn toàn chia sẻ quan điểm của nhau nhưng vẫn có thể phối hợp hành động. Quan trọng không kém, nó cho phép phát hiện những tổ chức mạo danh dân chủ do đảng cộng sản dựng lên trong mục đích phá hoại phong trào dân chủ.
Sự kết hợp trong một mặt trận dân chủ này phải vượt lên trên mọi ngăn cách do quá khứ để lại, trong tinh thần hòa giải dân tộc thành thực và trọn vẹn, hoàn toàn hướng về tương lai. Sức mạnh của kết hợp này chủ yếu dựa trên đồng thuận về mục đích và phương pháp đấu tranh, cùng với sự tin tưởng lẫn nhau. Kết hợp này phải mở cửa cho mọi cá nhân và đoàn thể thuộc mọi xuất xứ miễn là thành thực chia sẻ lý tưởng dân chủ đa nguyên, thành thực tán thành tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc và quả quyết từ khước bạo lực. Mọi bất đồng quan điểm khác đều có thể thỏa hiệp.
Chúng ta khẳng định mặt trận dân chủ này là một mặt trận chống tất cả mọi hình thức độc tài trong đó độc tài cộng sản chỉ là một, chống sự áp bức, chống sự tồi dở và gian trá. Mặt trận dân chủ này hoàn toàn không phải là sự kéo dài của cuộc xung đột trong quá khứ, mà là một kết hợp hướng về tương lai. Nó mở cửa cho mọi người dân chủ thuộc mọi quá khứ chính trị và mọi cương vị. Nhưng ngược lại, nó cũng chỉ mở cửa cho những người thật sự dân chủ.
Để có hiệu năng, như mọi liên minh chính trị, mặt trận dân chủ sẽ cần một tổ chức thành viên làm đầu tàu vừa để bảo đảm sự ổn vững. Với nhận định đó Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, một mặt, sẽ nỗ lực phát triển chính mình để có thể dảm nhiệm vai trò đầu tàu đó nhưng, mặt khác, sẽ sẵn sàng nhường vai trò lãnh đạo cho một tổ chức dân chủ khác có ưu thế hơn hoặc bằng mình.
Tuy nhiên, nhận thức về sự cần thiết của một tổ chức đầu tàu không thể làm chúng ta quên rằng những xảo thuật để giành thế thượng phong chỉ làm xấu thêm một hoàn cảnh tự nó đã khó khăn. Mọi tổ chức đều phải coi những cố gắng của mình như những đóng góp cho thắng lợi của dân chủ. Mọi tổ chức, kể cả những tổ chức lớn do sự kết hợp của nhiều tổ chức, đều phải tự coi mình là những thành tố, những chặng đường của một kết hợp càng ngày càng lớn hơn. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cam kết luôn luôn hành xử theo phương châm đó.
Hình thức, chiến thuật và lãnh đạo sẽ uyển chuyển theo tình huống. Khi chính quyền cộng sản đã nhượng bộ và chấp nhận luật chơi dân chủ, cuộc vận động sẽ công khai và cơ quan lãnh đạo mặt trân sẽ đặt ở trong nước. Chừng nào chính quyền cộng sản vẫn còn ngoan cố tiếp tục chính sách đàn áp, hoạt động trong nước sẽ kín đáo và cơ quan lãnh đạo sẽ đặt tại hải ngoại.
Trong cả hai trường hợp chúng ta cần một sự hiện diện tích cực trên cả nước và trong mọi địa hạt. Chúng ta sẽ tận dụng mọi kẽ hở, nắm lấy mọi cơ hội, kết thân với mọi người muốn đổi mới đất nước để tạo ra và nhân lên những cơ sở đối lập càng ngày càng tích cực, càng ngày càng công khai. Một mặt chúng ta nỗ lực để mở rộng thêm cánh cửa bưng bít của chính quyền cộng sản và tận dụng luồng giao lưu giữa trong và ngoài nước, mặt khác chúng ta vận dụng mọi sáng kiến để tạo áp lực càng ngày càng mãnh liệt và nhiều mặt lên chế độ, tiến công tập đoàn cộng sản thủ cựu trên mọi mặt trận, chặn đánh mọi lối thoát của nó, trừ lối thoát về dân chủ đa nguyên.
Sứ mạng của mặt trận dân chủ là đấu tranh đòi dân chủ và bầu cử tự do. Sứ mạng đó coi như đã hoàn tất sau cuộc bầu cử thực sự tự do đầu tiên. Sự tiếp nối hay không, và tiếp nối thế nào nếu có, là quyết định sau đó của các tổ chức thành viên.
Cuộc bầu cử tự do này sẽ không thể do chính quyền cộng sản quyết định một mình và tổ chức một mình. Bầu định chế nào, bầu vào lúc nào, bầu như thế nào, những ai được quyền đi bầu và những ai được quyền ứng cử là những quyết định trên đó đối lập dân chủ Việt Nam phải có tiếng nói.
Bầu cử tự do chỉ có thể diễn ra khi mọi quyền tự do chính trị cơ bản đã được chính thức và long trọng xác nhận và các luật lệ mâu thuẫn với các quyền tự do chính trị đã được bãi bỏ.
Bầu cử tự do phải diễn ra trong tinh thần hòa giải dân tộc, vượt lên trên mọi hàng rào hành chính do chính quyền hiện tại tạo ra hay do hoàn cảnh mà có. Một cách cụ thể, trước khi có bầu cử mọi chính trị phạm phải được trả tự do và phục hồi quyền công dân trọn vẹn, các tiền án chính trị phải được xóa bỏ, người Việt hải ngoại cũng phải được nhìn nhận quốc tịch Việt Nam và quyền bầu cử và ứng cử.
Bầu cử tự do cũng phải được tổ chức bởi một chính quyền hội đủ điều kiện để được nhìn nhận là có khả năng đảm bảo cho bầu cử được công bằng và lương thiện. Chính quyền này sẽ hoan nghênh sự hiện diện không giới hạn của những quan sát viên quốc tế vô tư trong những cuộc bầu cử tự do.
Những đòi hỏi trên đây dù rất khiêm tốn và rất hợp tình hợp lý nhưng chắc chắn sẽ gặp sự chống đối của chính quyền cộng sản, vì thế phải vận dụng mọi áp lực quần chúng và quốc tế trong mọi lãnh vực để buộc đảng cộng sản phải nhượng bộ và tham gia vào tiến trình dân chủ hóa. Thực ra đảng cộng sản không có chọn lựa nào khác. Dân chủ đã trở thành luật chơi chung của thế giới và một làn sóng dân chủ mới đang trào dâng trong khi Trung Quốc, chỗ dựa cuối cùng của họ đã lung lay. Họ chỉ còn chọn lựa làm tác nhân hay làm nạn nhân của một chuyển hóa tất yếu.
Kết quả của cuộc bầu cử tự do thật ra không quan trọng lắm. Ngay trong trường hợp Đảng Cộng Sản, hoặc hậu thân của nó dưới một danh xưng khác, giành được thắng lợi thì nó cũng không thể là một đảng cầm quyền độc đoán nữa ; chế độ dân chủ đã được thiết lập, cuộc vận động dân chủ đã thành công và người thắng lớn vẫn là dân tộc Việt Nam. Tuy vậy với tình trạng bi đát của đất nước và những trách nhiệm của Đảng Cộng Sản –sai lầm cũng như tội ác- được phơi bày qua thảo luận dân chủ chúng ta có thể dự đoán mà không sợ sai lầm là Đảng Cộng Sản sẽ thảm bại, thậm chí có thể bị xóa bỏ, ngay trong cuộc bầu cử tự do đầu tiên. Vả lại có mọi triển vọng là cuộc tranh cử sẽ không diễn ra giữa Đảng Cộng Sản và các tổ chức dân chủ mà giữa thành phần thủ cựu còn lại của Đảng Cộng Sản với các lực lượng dân chủ, bởi vì ngay khi dân chủ và bầu cử tự do đã được chấp nhận trên nguyên tắc, chắc chắn một phần đáng kể đảng viên cộng sản, kể cả một số cơ sở của Đảng Cộng Sản, sẽ ly khai và gia nhập hàng ngũ dân chủ.
Trong đấu tranh để đòi bầu cử tự do cũng như để giành thắng lợi qua các cuộc bầu cử tự do đó, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên lúc nào cũng chủ trương xóa bỏ hận thù, tôn trọng mọi người và mọi chính kiến để hợp tác với nhau và cùng nhau xây dựng tương lai Việt Nam chung. Tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc này không thể bị đồng hóa với thái độ sẵn sàng cấu kết và đồng lõa với bất cứ ai. Thái độ của Tập Hợp rất minh bạch. Tập Hợp có mục tiêu và đường lối rõ ràng và Tập Hợp sẽ kiên trì theo đuổi. Tập Hợp sẽ dồn mọi cố gắng để giành thắng lợi trong bầu cử tự do. Nếu thắng, Tập Hợp sẽ cùng với các tổ chức chính trị đồng minh chia sẻ trách nhiệm trước dân tộc. Nếu không may thắng lợi về tay những lực lượng khác lập trường, Tập Hợp sẽ tiếp tục đấu tranh trong cương vị của một đối lập đứng đắn và trách nhiệm.
Như tất cả mọi cuộc vận động chính trị, cuộc đấu tranh này sẽ đòi hỏi nhiều thỏa hiệp. Đấu tranh bất bạo động có nghĩa là chấp nhận đi đến thắng lợi sau cùng qua các thỏa hiệp giai đoạn. Tập Hợp sẽ chấp nhận những thỏa hiệp giai đoạn, nhưng sẽ không sợ đánh mất chính mình vì đã có tư tưởng nền tảng và những định hướng lớn làm kim chỉ nam. Tập Hợp sẽ chấp nhận những thỏa hiệp giai đoạn có tác dụng rút ngắn lộ trình dân chủ nhưng sẽ không nhân nhượng trên ba lập trường căn bản : lý tưởng dân chủ đa nguyên, tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, và phương thức đấu tranh bất bạo động.
Sau khi chế độ độc tài đảng trị chấm dứt chúng ta sẽ trải qua một giai đoạn chuyển tiếp cực kỳ khó khăn. Trong một khoảng thời gian chừng năm năm, nước ta sẽ phải làm những cố gắng rất phi thường để vượt qua những thử thách vô cùng cam go trước khi có thể trở thành một quốc gia bình thường và hội nhập thực sự vào cộng đồng quốc tế.
Chúng ta sẽ phải chuyển đổi từ một hệ thống nhất nguyên, tập trung, chuyên quyền sang một chế độ đa nguyên, tản quyền và phân quyền.
Chúng ta sẽ phải thay thế một kinh tế hoạch định đặt nền tảng trên các xí nghiệp quốc doanh bằng một kinh tế thị trường lấy các xí nghiệp tư làm sức mạnh.
Chúng ta sẽ phải biến một guồng chính quyền nước quan liêu, bàn giấy, công cụ của một đảng thành một nhà nước hữu hiệu, trách nhiệm, lành mạnh, phục vụ cho công ích.
Chúng ta sẽ phải chấm dứt lối quản lý tùy tiện bằng nghị quyết và chỉ thị để thiết lập một nhà nước dân chủ pháp trị đúng nghĩa.
Chúng ta sẽ phải thay thế bộ máy công an được quan niệm và tổ chức như một dụng cụ đàn áp của đảng cộng sản bằng một bộ máy công an bảo vệ trật tự an ninh và dân quyền ; thay thế các tòa án được coi như cánh tay nối dài của công an bằng những tòa án độc lập chỉ có sứ mạng thể hiện luật pháp.
Chúng ta sẽ phải thay thế một nền giáo dục tuyên truyền, nhồi sọ và thiếu phẩm chất bằng một nền giáo dục khách quan, khai phóng và phẩm chất cao. Chúng ta coi giáo dục và đào tạo là cuộc đấu sống còn của đất nước.
Chúng ta kế thừa một đất nước suy kiệt toàn diện, trộm cướp lộng hành, tham nhũng đã thành định chế, dối trá và gian lận đã thành một phản xạ quốc gia, các bệnh truyền nhiễm lan tràn một cách không kiểm soát, tuổi trẻ thất học và bỏ học, con người suy nhược, bi quan và chán nản, chênh lệch giầu nghèo lộ liễu và thách đố, hàng chục triệu người sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực, hàng triệu dân oan sống trong tức tưởi từ nhiều năm nay sau khi bị truất hữu đất và chỉ được bồi thường với giá cưỡng đoạt, môi trường sinh thái bị hủy hoại và ô nhiễm, chủ quyền và ngay cả đất đai đã mất nhiều về tay người ngoại quốc. Chúng ta sẽ phải biến đất nước đó thành một đất nước lương thiện và lành sạch, có kỷ cương, có đầy đủ chủ quyền, có lòng tin, có liên đới, có sức bật kinh tế và có sức thu hút đầu tư nước ngoài.
Chúng ta kế thừa một đất nước chồng chất hận thù do chiến tranh và các chính sách phân biệt đối xử để lại. Chúng ta sẽ phải hàn gắn những đổ vỡ mà không gây ra những đổ vỡ mới. Chúng ta sẽ phải phục hồi danh dự cho những người đã bị xúc phạm mà không xúc phạm những người khác, phải bồi thường thiệt hại cho những nạn nhân mà không tạo ra những nạn nhân mới.
Chúng ta cần minh định : vấn đề đặt ra không phải là đi tìm một công thức mầu nhiệm nào có thể biến đất nước thành giàu mạnh, không làm gì có một công thức như vậy. Vấn đề là từ những thực tại của đất nước và bối cảnh thế giới nhận diện những vấn đề cần được giải quyết ưu tiên và đề ra những giải đáp.
Mục tiêu của giai đoạn chuyển tiếp này là đặt nền tảng cho một chính quyền dân chủ lương thiện và trách nhiệm, tăng sản lượng quốc gia lên gấp đôi trong khoảng thời gian năm năm, đồng thời cải thiện được môi trường và giềng mối xã hội, hóa giải mọi hận thù và hiềm khích, thực sự đưa một Việt Nam hòa hợp vào quỹ đạo tiến bộ. Mục tiêu này có thể đạt được, và sẽ phải đạt được, bằng những chính sách và biện pháp không mâu thuẫn với những định hướng lớn đã vạch ra.
Chúng ta có quá nhiều vấn đề văn hóa xã hội trầm trọng và cấp bách cần giải quyết nhưng lại chỉ có những tài nguyên rất eo hẹp. Nếu chúng ta dành quá nhiều tài nguyên cho các vấn đề ấy thì chúng ta sẽ không còn tài nguyên để phát triển kinh tế và sẽ dẫm chân tại chỗ trong cảnh đói khổ. Ngược lại có những vấn đề văn hóa xã hội gay gắt đến độ nếu không được giải quyết sẽ triệt tiêu mọi cố gắng kinh tế. Phải nhìn nhận một thực tế phũ phàng là chúng ta sẽ còn phải chung sống với sự nghèo khổ cơ cực nhiều năm nữa. Trong hoàn cảnh ngân sách eo hẹp chúng ta sẽ phải thiết lập một thứ tự ưu tiên cho các vấn đề. Tinh thần chỉ đạo là giải quyết cấp bách những vấn đề tối cần thiết cho hòa giải dân tộc, an ninh xã hội và phát triển kinh tế, các vấn đề khác sẽ được giải quyết theo một thứ tự ưu tiên khác ngay khi khả năng kinh tế cho phép.
2.1. Trả chính quyền về cho nhân dân
Mọi người Việt Nam yêu nước và sáng suốt đều phải mong muốn cuộc chuyển hóa về dân chủ diễn ra trong hòa bình và trật tự, trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc. Chúng ta sẽ làm mọi cố gắng để đảng cộng sản tham gia vào tiến trình dân chủ hóa. Nhưng trong mọi trường hợp giai đoạn chuyển tiếp sẽ bắt đầu với một Hiến Ước Lâm Thời của Cộng Hòa Việt Nam trả lại chính quyền về cho nhân dân đồng thời long trọng xác nhận những quyền tự do căn bản kể cả quyền tự do ngôn luận và báo chí, quyền tự do thành lập và tham gia các tổ chức, quyền tự do bầu cử và ứng cử, quyền sở hữu đất. Hiến Ước Lâm Thời này sẽ tóm lược những nguyên tắc chứa đựng trong các định hướng lớn để xây dựng một nước Việt Nam dân chủ đa nguyên và sẽ hướng dẫn mọi hành động của chính phủ chuyển tiếp cho đến khi hiến pháp mới của Cộng Hòa Việt Nam đã được biểu quyết và đi vào áp dụng.
Việc cụ thể đầu tiên phải làm là phi chính trị hóa guồng máy chính quyền, quân đội và công an. Công chức và quân nhân có quyền gia nhập các tổ chức chính trị nhưng không được có hoạt động chính trị. Mọi sinh hoạt đảng phái trong mọi cơ quan hành chính, an ninh và quân sự của nhà nước sẽ bị nghiêm cấm. Bộ máy hành chính, quân đội và công an phải là những công cụ phi chính trị, hoàn toàn độc lập với mọi chính đảng, tuyệt đối tôn trọng hiến pháp, tuyệt đối phục tùng mọi chính quyền dân cử. Quân đội và công an sẽ trở lại với sứ mạng cao cả là bảo vệ đất nước, giữ gìn trật tự an ninh, và do đó cần được tách rời hẳn khỏi mọi hoạt động kinh doanh. Các công ty hiện do quân đội và công an làm chủ sẽ được giải tư. Những người đang làm việc tại các công ty đó nếu muốn có thể được giải ngũ để tiếp tục công việc.
Quân đội sẽ được hiện đại hóa về trang bị và huấn luyện, đồng thời cũng sẽ được tinh giản quân số. Ngân sách quốc phòng sẽ chủ yếu ưu tiên tăng cường hải quân và không quân.
Các tổ chức ngoại vi do đảng cộng sản lập ra để mạo danh và khống chế xã hội dân sự -dù dưới danh xưng mặt trận, công đoàn hay hiệp hội- sẽ mất tất cả mọi vai trò cũng như quyền lợi chính thức và nếu tiếp tục tồn tại sẽ chỉ là những hiệp hội bình thường ngang hàng trước pháp luật với mọi tổ chức xã hội dân sự khác.
2.2. Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc
Một cố gắng phải bắt đầu ngay và tiếp tục trong nhiều năm là thực hiện đường lối hòa giải và hòa hợp dân tộc. Hòa giải và hòa hợp dân tộc là một quốc sách của giai đoạn chuyển tiếp và là triết lý chính trị của Việt Nam sau đó. Hòa giải và hòa hợp dân tộc đòi hỏi phải sỏng phẳng với quá khứ và trân trọng đối với tương lai.
Mọi chính trị phạm sẽ được trả tự do và phục hồi quyền công dân ngay tức khắc.
Mọi người vì lý do chính trị, vì các chính sách đánh tư sản, cải cách ruộng đất, hay vì đã từng là công chức quân nhân của miền Nam mà đã bị giam cầm, hạ nhục sẽ được phục hồi danh dự và sẽ được bồi thường thiệt hại ít nhất là một cách tượng trưng.
Nhà nước sẽ nhân danh sự liên tục quốc gia nhận lỗi về những sai lầm trong quá khứ, nhất là đối với những người đã chết oan dù ở trong hàng ngũ nào và trong giai đoạn nào.
Những người đã bị tịch thu tài sản vì lý do chính trị sẽ được nhà nước nhận bồi hoàn, sự bồi hoàn thực sự sẽ được thi hành dần dần với thời gian theo khả năng kinh tế của nhà nước.
Mọi công dân có quyền đòi hỏi nhà nước xét lại nhưng bản án mà họ hoặc thân nhân đã là nạn nhân nếu có bằng chứng rằng họ đã bị xử oan. Các thẩm phán bị chứng minh đã phản bội pháp luật và lương tâm chức nghiệp và cố ý xử án oan theo mệnh lệnh sẽ không được hành nghề thẩm phán nữa.
Mọi công dân bị truất hữu đất có quyền yêu cầu chính quyền xét lại trường hợp của mình để hoặc được trả lại đất hoặc được bồi thường xứng đáng hơn ; họ cũng có quyền tố giác những vụ cưỡng ép bán đất với gia thấp để trục lợi lạm dụng danh nghĩa lợi ích công cộng.
Người Việt hải ngoại, nếu muốn, được nhìn nhận quốc tịch Việt Nam, cho họ cũng như cho con cái sinh ra tại nước ngoài.
Một cơ quan đặc biệt, cấp bộ, sẽ được thành lập để thực hiện chính sách hòa giải dân tộc, đặc biệt là để nhận và giải quyết những hồ sơ khiếu nại và đòi bồi thường của dân chúng. Một ủy ban của quốc hội sẽ có trách nhiệm đảm bảo rằng mọi luật lệ và qui định không đi ngược với quốc sách hòa giải và hòa hợp dân tộc. Một hội đồng hòa giải và hòa hợp dân tộc, độc lập với chính quyền và gồm đại diện của các chính đảng, đại diện các tôn giáo, đại diện các sắc tộc và các nhân vật có uy tín thuộc xã hội dân sự sẽ được thành lập để giám sát việc thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Nhà nước sẽ nghiêm cấm mọi hành động trả thù báo oán và phân biệt đối xử. Mọi người Việt Nam dù có quá khứ nào đều được đối xử bình đẳng trong nghĩa vụ cũng như trong quyền lợi. Mọi công chức, quân nhân trên nguyên tắc sẽ được duy trì ở lại chức vụ đang giữ. Mọi thay đổi nhân sự đều sẽ phải có lý do khách quan và chính đáng.
Việc thực thi hòa giải và hòa hợp dân tộc sẽ cần một thời gian rất dài. Mọi biện pháp của nhà nước phải luôn luôn chứng tỏ thiện chí muốn thực sự hàn gắn những đổ vỡ do quá khứ để lại, để mọi người Việt Nam hài lòng bắt tay nhau xây dựng đất nước.
Để chính sách hòa giải và hòa hợp dân tộc có nền tảng chính đáng và thêm sức mạnh, một đạo luật về hòa giải và hòa hợp dân tộc sẽ được soạn thảo để toàn dân biểu quyết qua trưng cầu dân ý.
2.3. Ban hành một hiến pháp mới cho Cộng Hòa Việt Nam và tu chỉnh luật pháp
Hiến pháp này sẽ do một quốc hội lập hiến, cơ chế đầu tiên được bầu ra, biểu quyết. Hiến pháp này phù hợp với chế độ chính trị đa nguyên, đại nghị và tản quyền đã được chọn lựa và trình bày, và sẽ không được mang bất cứ một qui chiếu nào về một chủ nghĩa, một tôn giáo hay một chính đảng nào. Nó cũng sẽ khẳng định sự hội nhập dứt khoát và trọn vẹn của Việt Nam vào cộng đồng thế giới ; Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập của Liên Hiệp Quốc và các công ước đính kèm sẽ được coi là thành phần khăng khít của hiến pháp Việt Nam. Án tử hình sẽ được bãi bỏ vì nó phản văn minh và thực ra nó cũng không có cái hiệu lực mà sự dã man của nó có thể làm ta lầm tưởng. Tội "phản quốc" sẽ được xóa bỏ trong ngôn ngữ luật pháp Việt Nam. Sau khi hiến pháp mới đã biểu quyết xong, quốc hội lập pháp - có thể là ngay chính quốc hội lập hiến biểu quyết tự biến thành quốc hội lập pháp nếu hoàn cảnh cho phép - sẽ biểu quyết các bộ luật căn bản. Tinh thần chỉ đạo cho việc soạn thảo các bộ luật căn bản này là giản dị, sáng sủa, dễ hiểu và dễ tôn trọng trong bối cảnh đất nước. Các đạo luật đầu tiên không nhất thiết phải hoàn chỉnh. Điều quan trọng là đặt những nền tảng lành mạnh cho sinh hoạt quốc gia, các đạo luật sau đó sẽ được bổ túc thêm để càng ngày càng đầy đủ và hoàn chỉnh. Các đạo luật hiện hành sẽ được rà soát lại ; một số đạo luật mới có thể xuất phát từ các đạo luật hiện hành, sau khi đã loại bỏ các qui chiếu về chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản, và các điều khoản phản dân chủ hay trái ngược với các quyền tự do hiến định.
2.4. Bắt đầu đem tản quyền vào thực tế
Ngay sau đó cần đem tản quyền vào sinh hoạt chính trị. Điều này có nghĩa là cần một đạo luật tổ chức lãnh thổ qui định quyền hạn của các vùng, số vùng, ranh giới của từng vùng và một lịch trình bầu cử và thành lập các chính quyền địa phương. Nguyên tắc chỉ đạo là các vùng sẽ gồm tỉnh sẵn có giáp ranh với nhau và phải khá thuần nhất về mặt địa lý, giao thông, cấu tạo sắc tộc, chức năng kinh tế, và phải có diện tích và dân số đầy đủ để có thể là những thực thể tồn tại và phát triển được.
2.5. Giữ đất nước Việt Nam cho người Việt Nam
Từ nhiều năm nay, chính quyền cộng sản đã làm ngơ, thậm chí cố tình, để nhiều vùng đất có giá trị chiến lược lọt vào tay người ngoại quốc. Việc mua bán đất này, nhiều khi được thực hiện qua trung gian của những người Việt cho mượn tên đứng làm chủ, là một mất mát lớn cho đất nước. Nhiều khu rừng đầu nguồn có tầm quan trọng chiến lược cao đã bị chính quyền cho nước ngoài thuê dài hạn và đã gần như trở thành những khu của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Nhiều khu sinh sống gần như của riêng người nước ngoài cũng đã hình thành trên thực tế. Tình trạng này không thể dung túng. Cần duyệt xét lại những sang nhượng đất để chặn đứng vụ bán đất mờ ám cho người ngoại quốc. Những khu đất chuyển nhượng bất chính sẽ bị thu hồi, trong trường hợp nghiêm trọng có thể bị tịch thu không bồi hoàn.
Một biện pháp vừa dung hòa được nhu cầu thu hút tư bản vừa giữ được đất Việt cho người Việt là không những cho phép mà còn khuyến khích người Việt định cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam mua nhà và đất. Đó cũng là biện pháp để gắn bó người Việt hải ngoại với quê hương.
Quan trọng hơn nữa là rà soát lại các hiệp ước mà đảng và nhà nước cộng sản đã ký với nước ngoài, nhất là những hiệp ước mà nội dung chưa được công bố. Những hiệp ước chỉ do Đảng Cộng Sản Việt Nam ký kết với nước ngoài sẽ bị tuyên bố tức khắc là vô giá trị ; những hiệp ước do đại diện nhà nước cộng sản ký nhưng không được quốc hội thông qua hay không được công bố trước nhân dân cũng sẽ bị phủ nhận. Chỉ những hiệp ước phù hợp với quyền lợi dân tộc mới được duy trì, sau khi đã thương thuyết lại nếu cần.
Những vấn đề gay gắt nhất và cấp bách nhất đang đặt ra cho đất nước không phải là những vấn đề kinh tế mà là những vấn đề văn hóa xã hội.
3.1. Tăng cường trật tự an ninh
Việt Nam ngày hôm nay đang là một trong những nước thiếu an ninh nhất thế giới. Mối đe dọa an ninh đầu tiên chính là đảng và nhà nước cộng sản. Bắt người trái phép, giam cầm và đánh đập dã man đã trở thành thông lệ. Tình trạng thiếu an ninh cũng do những thành phần bất hảo càng ngày càng đông đảo và càng ngày càng lộng hành, trong nhiều trường hợp với sự bao che của công an. Dĩ nhiên những tệ đoan xã hội là sản phẩm tự nhiên của xã hội bế tắc hiện nay và chắc chắn sẽ giảm sút với sự trở lại của hy vọng và niềm tin. Nhưng dầu sao đi nữa thì đất nước ta cũng sẽ còn bất ổn trong một thời gian khá lâu và an ninh trật tự sẽ là một vấn đề nhức nhối cho một chính quyền dân chủ vừa được thành lập. Bảo đảm trật tự an ninh không có nghĩa là giới hạn tự do mà còn là một điều kiện bắt buộc để có tự do thực sự.
Luật pháp cần nghiêm minh chứ không cần phải khe khắt, và nhất là không cần phải hung bạo.
Mọi người Việt Nam đến tuổi trưởng thành đều được cấp thẻ căn cước và giấy thông hành, có quyền ở bất cứ nơi nào mình muốn và di chuyển tự do trên lãnh thổ hay ra nước ngoài.
Luật pháp không rõ ràng cũng là một nguyên nhân đưa đến phạm pháp. Trong tương lai đất nước ta cần một luật pháp thật giản dị, thật dễ hiểu và dễ tôn trọng nhưng cũng rất nghiêm khắc với những sai phạm.
Chính quyền hiện nay có rất nhiều công an, nhưng công an được sử dụng trước hết vào việc bảo vệ độc quyền chính trị của Đảng Cộng Sản thay vì bảo vệ trật tự an ninh, để đàn áp những khát vọng tự do dân chủ hơn là để đàn áp những tệ đoan xã hội. Bởi vậy ngay trong giai đoạn chuyển tiếp một phần lớn các cơ quan công an tình báo, bảo vệ chính trị sẽ được chuyển qua lực lượng bảo vệ trật tự an ninh và môi trường. Việc tăng cường trật tự an ninh như vậy chỉ là một sự cải tổ guồng máy an ninh. Sự cải tổ này không những không tốn kém mà còn có thể tiết kiệm rất nhiều cho ngân sách. Một chính quyền Việt Nam thực sự dân chủ, không có nhu cầu đàn áp đối lập có thể giảm ngân sách an ninh và đồng thời tăng cường đáng kể trật tự xã hội.
3.2. Khắc phục tham nhũng và các tệ nạn xã hội
Chúng ta hiện đang chứng kiến một quan hệ nhập nhằng giữa chính quyền cộng sản và các băng nhóm làm ăn bất chính được sự bao che của quan chức nhà nước. Buôn lậu, trốn thuế, kinh doanh bất hợp pháp trở thành bình thường. Tệ trạng này phải chấm dứt vì nó là một thách thức đối với quốc gia, một mất mát lớn cho ngân sách và một cản trở nguy hiểm cho kinh doanh đúng đắn.
Chống tham nhũng sẽ được dành ưu tiên cao nhất của giai đoạn chuyển tiếp bởi vì nếu không đẩy lùi được tham nhũng thì bất cứ chính sách quốc gia nào, dù hoàn chỉnh đến đâu cũng sẽ thất bại. Tệ tham nhũng ngày nay đã đạt tới một mức độ ngạt thở. Nguyên nhân chính của tham nhũng trước hết là chính bản chất của chế độ độc tài toàn trị trong đó việc bổ nhiệm và thay thế các quan chức hoàn toàn không tùy thuộc vào quần chúng và dư luận. Thêm vào đó là guồng máy nhà nước áp đảo và kềnh càng, là luật lệ rườm rà, mâu thuẫn cho phép những giải thích chủ quan, thiên vị, tùy tiện đồng thời khuyến khích sự cấu kết thành băng đảng để bao che giữa các quan chức.
Chính quyền cộng sản là nguyên nhân của tham nhũng, do đó một giai đoạn thuận lợi để chống tham nhũng sẽ mở ra ngay khi một chính quyền dân chủ đã thay thế chính quyền cộng sản. Vấn đề của chính quyền chuyển tiếp là giáng cho tham nhũng một đòn chí tử và không cho nó gượng dậy sau đó. Tham nhũng là lợi dụng công quyền, do đó muốn chống tham nhũng trước hết phải giảm trọng lượng của quyền lực nhà nước, nghĩa là phải thay thế guồng máy nhà nước nặng nề và toàn quyền bằng một nhà nước nhẹ và quyền lực giới hạn. Sau đó cần một luật pháp giản dị, minh bạch khiến người dân biết chắc chắn những gì mình có thể làm và những gì mình không được làm và không còn là những con tin của các quan chức nhà nước. Để đánh dấu một giai đoạn mới chính quyền dân chủ sẽ phải có những biện pháp gây ấn tượng mạnh như cấm tuyệt đối công chức không được nhân quà cáp trong bất cứ trường hợp nào, buộc mọi công chức phải kê khai tài sản hàng năm, buộc mọi cơ quan kiểm điểm định kỳ kết quả của cố gắng chống và ngăn ngừa tham nhũng v.v.
Chính quyền dân chủ sẽ thẳng tay tiêu diệt các băng đảng xã hội đen. Chúng sẽ không được hưởng bất cứ một sự khoan dung nào trong bất cứ trường hợp nào vì bất cứ lý do nào.
Chống tham nhũng cũng như chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác cần phải có quyết tâm nhưng cũng cần có lòng tin và hậu thuẫn của toàn dân. Một trong những đồng minh của ta trong trận chiến cam go này là tự do ngôn luận. Trong một chế độ thực sự tự do, nạn tham nhũng và hà hiếp dân chúng nếu không bị dẹp hẳn thì cũng phải rút xuống ở một mức độ thấp. Sự tố cáo của những người công dân tự do biết rõ mọi quyền của mình là vũ khí chống tham nhũng hiệu lực nhất.
Mọi sáng kiến sẽ được hoan nghênh để tranh thủ sự hưởng ứng tích cực của toàn dân vào cố gắng lành mạnh hóa quốc gia này.
3.3. Bãi bỏ hoàn toàn mọi chính sách và biện pháp kiểm duyệt
Hiến Ước Lâm Thời cũng như hiến pháp mới sau đó sẽ long trọng nhìn nhận quyền tự do sáng tác và phát hành sách báo và văn hóa phẩm, và cấm chỉ mọi đạo luật theo chiều hướng kiểm duyệt. Trong nước Việt Nam tương lai sẽ không thể có một sự giới hạn nào về tự do phát biểu đến từ chính quyền cả. Luật pháp sẽ chỉ chế tài những phát biểu trắng trợn kêu gọi bạo lực, xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của các công dân hay các đoàn thể công dân và bị chính các cá nhân hay đoàn thể này truy tố. Các hiệp hội công dân như vậy sẽ nắm một vai trò then chốt trong việc bảo vệ sự lành mạnh của văn hóa. Chúng ta đừng quên rằng xã hội dân sự là nền tảng của thể chế dân chủ đa nguyên.
3.4. Bảo đảm sự khách quan của giáo dục và một trình độ văn hóa tối thiểu cho mọi công dân
Sẽ không có vấn đề nhà nước áp đặt sách giáo khoa chính thức. Quyền sáng tác sách giáo khoa sẽ không bị giới hạn và quyền chọn sách giáo khoa hoàn toàn thuộc các nhà giáo. Nhưng một định chế độc lập với chính quyền, xuất phát từ các nhà giáo, sẽ soạn thảo ra những sách giáo khoa đầu tiên, và sau đó có thẩm quyền giới thiệu, nhưng không áp đặt, với các nhà giáo những sách nào có phẩm chất đầy đủ để có thể được dùng làm sách giảng dạy. Giáo dục là một đầu tư rất tốn kém của đất nước vì vậy nó phải thuần túy hướng về mục tiêu truyền bá kiến thức và mở mang trí tuệ chứ không thể bị lợi dụng cho những tuyên truyền một chiều.
Một chú trọng đặc biệt dành cho việc giảng dạy Việt văn. Đó là điều mà ta không thể tiết kiệm được bởi vì một trình độ văn hóa tối thiểu và một khả năng truyền thông tối thiểu vừa là điều kiện không có không được cho phát triển kinh tế, vừa là một điều kiện cần thiết cho sự ổn vững của xã hội, cho hòa bình giữa những con người.
Từ nhiều năm nay chính quyền cộng sản hầu như đã bỏ rơi hoàn toàn mọi cố gắng về giáo dục. Chúng ta đã mất đi rất nhiều học sinh, sinh viên và phẩm chất của giáo dục ở mọi cấp đã sút giảm trầm trọng, nhất là từ khi chế độ cộng sản thực hiện chính sách kinh tế thị trường hoang dại. Phải thi hành cưỡng bách giáo dục và giáo dục miễn phí ít nhất tới hết lớp 9. Rất có thể là ngân sách sẽ không cho phép tuyển dụng đủ số giáo chức cần có, trong trường hợp này chúng ta cần phát động một phong trào liên đới quốc gia về văn hóa, sinh viên tiếp tay dạy học sinh, lớp trên tiếp tay dạy lớp dưới trong tinh thần tình nguyện hay với thù lao tượng trưng. Cũng cần lưu ý rằng tình trạng bi đát của ngành giáo dục hiện nay không khó khắc phục. Sự xuống cấp của giáo dục hiện nay phần chính do chính sách của nhà nước cộng sản. Giáo dục bị xem là dịch vụ kiếm tiền cho nhà nước thay vì một đầu tư vào tương lai. Nhà nước cộng sản cũng không phân biệt giáo dục với tuyên truyền. Học sinh bị nhồi sọ những kiến thức mà cả người dạy lẫn người học đều biết là sai và vô ích. Thêm vào đó sự bế tắc của kinh tế cũng như sự băng hoại của xã hội khiến cho thanh thiếu niên và phụ huynh không biết học để làm gì. Tất cả những nguyên nhân đó sẽ tan biến dưới một chế độ tôn trọng tự do, tôn trọng con người và coi giáo dục và đào tạo là cuộc chiến đấu sống còn của dân tộc.
3.5. Cải thiện môi trường sinh sống và danh lam thắng cảnh
Chúng ta là một quốc gia đã bị quá nhiều tàn phá, do đó chúng ta phải gìn giữ và bảo trì cẩn trọng các di tích lịch sử và các danh lam thắng cảnh. Đó là những tài sản quí báu, những nguồn tự hào và là những gạch nối gắn bó người Việt Nam với nhau. Việc trùng tu các di tích này sẽ không tốn kém lắm vì số lượng ít ỏi, và cũng có thể không tốn kém gì hết cho nhà nước. Chúng ta sẽ cho đấu thầu quyền khai thác và nghĩa vụ bảo trì một số di tích và thắng cảnh có giá trị du lịch cho các công ty tư nhân Việt Nam, sẽ giao phó một số di tích có tính tôn giáo cho các giáo hội.
Nước ta đất hẹp người đông nên phải được quan niệm và tổ chức như một thành phố lớn, nghĩa là sạch, đẹp và an ninh, với các cơ quan hành chính, pháp luật, văn hóa, giáo dục, y tế trải đều trên khắp lãnh thổ, với các khu rừng được săn sóc như những công viên, những nơi gặp gỡ và tiêu khiển của các công dân bình đẳng.
Cần qui định và thực hiện nghiêm minh những tiêu chuẩn về xây dựng để ngăn chặn việc xây cất thiếu an toàn hoặc xô bồ làm hại cảnh quan. Du lịch sẽ là một sinh hoạt kinh tế quan trọng và chúng ta khó hình dung kỹ nghệ du lịch có thể thành công nếu đất nước ta không đẹp.
Chính sách đánh bắt vô tổ chức hiện nay đã làm suy giảm trầm trọng nguồn hải sản của ta. Chúng ta cần có ngay những qui định giản dị, minh bạch và được áp dụng triệt để nhằm cứu vùng biển và cứu nguồn hải sản. Phong trào phá rừng bán gỗ bừa bãi - vẫn còn tiếp tục - đang có cơ nguy biến nước ta thành cằn cỗi ; phong trào này phải được chặn đứng ngay tức khắc. Việc phục hồi lại cây rừng vừa cần nhiều vốn lại vừa cần sự bảo vệ và chăm sóc đều đặn cho nên có thể ngân sách nhà nước không cáng đáng nổi. Cần nghiên cứu giải pháp giao khoán từng vùng rừng, từng khu rừng cho các công ty tư nhân Việt Nam phục hồi và khai thác, với những quyền lợi và những cam kết rõ rệt.
Song song với cố gắng phát triển công nghiệp cũng phải có những qui định rõ ràng về cách xử lý các loại phế liệu.
Đình chỉ tức khắc và vĩnh viễn dự án khai thác bô-xit tại Tây Nguyên.
Đình chỉ các dự án xây dựng các nhà máy điện nguyên tử chừng nào các kỹ thuật xử lý an toàn chất thải vẫn chưa được tìm ra và Việt Nam chưa đủ khả năng bảo đảm an ninh tuyệt đối trong việc điều hành các nhà máy.
Về mặt kinh tế việc đầu tiên mà một chính quyền đứng đắn phải làm là chấm dứt lối cai trị bằng nghị quyết, thông cáo, quyết định, chỉ thị và thay vào đó bằng những luật lệ rõ ràng, minh bạch và ổn vững. Một bộ luật kinh doanh mới là điều không thể thiếu và cũng không thể đợi. Đồng thời chúng ta cần tập trung cố gắng quốc gia vào những vấn đề cấp bách.
4.1. Giải tư đại bộ phận các xí nghiệp quốc doanh và tư hữu hóa ruộng đất
Nhà nước không có thiên chức sản xuất xe, bán quần áo, mở công ty du lịch và cửa hàng ăn uống, quản lý khách sạn và vũ trường. Những công ty quốc doanh, nông trường quốc doanh làm mất tinh thần chấp nhận rủi ro, làm trì trệ các sáng kiến và làm mất tinh thần trách nhiệm. Chúng ta coi tư doanh là nền tảng của kinh tế quốc gia, do đó giải tư các xí nghiệp quốc doanh và tư hữu hóa ruộng đất là một chính sách cốt lõi của giai đoạn chuyển tiếp. Kinh nghiệm của các nước chuyển hóa về kinh tế thị trường cho thấy việc giải tư phải được thực hiện với tất cả cảnh giác để tránh tệ nạn đầu cơ, tẩu tán tài sản quốc gia, làm xuống cấp các xí nghiệp cần giải tư.
Chúng ta sẽ giải tư tức khắc tất cả mọi công ty, xí nghiệp quốc doanh có thể giải tư được, nghĩa là đang hoạt động một cách bình thường trong một ngành không có bí mật quốc phòng, để đem lại cho kinh tế một sinh lực mới.
Chúng ta sẽ xúc tiến ngay việc tư hữu hóa ruộng đất theo nguyên tắc trả quyền sở hữu lại cho những người đang canh tác trên đất của mình, tùy trường hợp cấp không hoặc bán lại cho nông dân những đất đai đang được nhà nước giao phó.
Nguyên tắc chỉ đạo của chính sách giải tư và tư hữu hóa ruộng đất là những gì tư nhân có thể làm được nhà nước sẽ không làm. Chính sách này sẽ phải hoàn tất về cơ bản sau năm năm.
4.2. Khuyến khích tối đa đầu tư kể cả đầu tư từ nước ngoài
Bãi bỏ từng bước các luật đầu tư hiện nay vì chúng còn quá gò bó và vì chúng dành cho người ngoại quốc những quyền mà người Việt Nam không có, chúng còn chia rẽ người trong nước với người sống ở nước ngoài. Trong tương lai người đầu tư nước ngoài sẽ có tất cả mọi quyền hạn mà họ đang có và sẽ có nhiều tự do hơn hiện nay nhưng sẽ không thể có những quyền mà người Việt Nam không có. Thời gian để hoàn tất mọi thủ tục thành lập công ty sẽ không thể quá một tuần lễ. Cần nhận thức giá trị rất tương đối của các bộ luật nâng đỡ đầu tư. Nếu những đặc quyền chỉ có hiệu lực ngắn hạn thì luật đầu tư chỉ lôi kéo được những đầu tư hời hợt, còn nếu những đặc quyền về đầu tư có hiệu lực dài hạn thì luật đầu tư sẽ có khuynh hướng trở thành luật lệ bình thường. Vả lại, quyết định đầu tư chỉ tùy thuộc rất ít vào những biện pháp khuyến khích và tùy thuộc rất nhiều vào bối cảnh chính trị và kinh tế.
4.3. Dồn cố gắng cho hai công trình giao thông chiến lược
Hai công trình lớn mà chúng ta phải bắt đầu ngay và phải tiếp tục trong nhiều năm, qua nhiều giai đoạn, là công trình hiện đại hóa và mở rộng theo đúng tiêu chuẩn quốc tế đường xe lửa Thống Nhất và công trình xa lộ hóa quốc lộ Xuyên Việt nối liền Hà Nội và Sài Gòn. Đây là những công trình vừa tối cần thiết cho các hoạt động kinh tế, vừa cụ thể hóa sự thống nhất của đất nước, lại vừa tạo nhiều công ăn việc làm trên khắp lãnh thổ. Những dự kiến hiện nay cho hai công trình này còn ở mức rất thấp so với nhu cầu của nước ta mà phần lớn sinh hoạt tập trung dọc theo hai trục giao thông này. Mở rộng và hiện đại hóa hai công trình này cũng là điều cần thiết cho dự án xây dựng và khai thác cảng Cam Ranh, một dự án trọng điểm mà ta sẽ tiến hành mạnh mẽ trong nhiều năm để đem lại sức mạnh kinh tế cho cả nước và cho miền Trung, miền nhiều triển vọng nhất của đất nước do vị trí bờ biển nhưng hiện nay là vùng kém mở mang nhất.
Với hình thể rất đặc biệt của nước ta cũng như với giai đoạn lịch sử khó khăn gần đây xa lộ Xuyên Việt phải vừa là trục giao thông chính vừa là một thắng cảnh vĩ đại làm biểu tượng cho sự thống nhất tốt đẹp và bền vững của đất nước.
Một chương trình phục hưng dù khiêm nhường đến đâu cũng đòi hỏi rất nhiều chi phí. Những mục tiêu cho giai đoạn chuyển tiếp cũng rất tham vọng. Chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng chúng ta cũng sẽ có những nguồn tài trợ.
Trước hết là chấm dứt những phí phạm do chính quyền cộng sản tạo ra mà phí phạm lớn nhất là do chính Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hiện nay hàng trăm ngàn người được trả lương chỉ để làm việc cho bộ máy của đảng cộng sản. Hàng ngàn nhà và phòng ốc bị chiếm dụng trái phép làm trụ sở, văn phòng cho các chi bộ đảng. Cán bộ, đảng viên tham nhũng lợi dụng quyền thế biển thủ một phần quan trọng tổng sản lượng quốc gia. Trong tương lai khi đảng cộng sản phải chấp nhận một chỗ đứng bình thường ngang hàng với các chính đảng khác, nhà nước sẽ tiết kiệm được một khoản ngân sách lớn, giải tỏa một nguồn nhân lực lớn và thu hồi một số tài sản lớn.
Nguồn tài trợ thứ hai là do sự tiết giảm ngân sách an ninh quốc phòng. Chúng ta không có ý đồ chinh phục nước nào và ngược lại cũng không còn lo ngại bị chinh phục bằng quân sự. Sự phòng vệ các vùng biên giới, biển và hải đảo cũng không cần đến một lực lượng bộ binh đông đảo như hiện nay mà cần một quân đội cơ giới tinh nhuệ, chủ yếu là không quân và hải quân. Guồng máy công an –chính thức và phụ trợ- hiện nay của nhà nước cộng sản có thể gồm trên hai triệu người nhưng trước hết nhằm bảo vệ Đảng Cộng Sản và đàn áp những nguyện vọng dân chủ. Một nhà nước dân chủ thực sự có thể giảm một phần quan trọng chi phí mà còn tăng cường hẳn khả năng bảo vệ lãnh thổ và duy trì trật tự an ninh.
Nguồn tài trợ thứ ba là do sự giải tư các xí nghiệp quốc doanh. Như đã trình bày ở phần trên, mục đích chính của chính sách giải tư là hợp lý hóa và lành mạnh hóa sinh hoạt kinh tế. Tuy vậy chương trình giải tư cũng sẽ đem lại một tài nguyên quan trọng.
Nguồn tài trợ thứ tư do sự đóng góp tích cực hơn của cộng đồng Việt Nam hải ngoại sau khi một chế độ dân chủ thực sự, phù hợp với nguyện vọng sâu xa của đồng bào hải ngoại đã được thiết lập. Khối người Việt hải ngoại, với trên ba triệu người, phần lớn định cư tại các nước phát triển và một lợi tức thường niên không dưới 50 tỷ USD có khả năng tiết kiệm 10 tỷ USD mỗi năm. Nhưng cộng đồng người Việt hải ngoại không chỉ là một nguồn đầu tư mà còn có thể có những đóng góp quan trọng khác về văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Một khi quan hệ với trong nước đã được bình thường hóa, cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ là một đòn bẩy lớn cho cố gắng phát triển đất nước.
Nhưng nguồn tài trợ quan trọng nhất và càng ngày càng dồi dào hơn là do chính sự phát triển của kinh tế. Hiện nay rất nhiều ngành nghề bị tê liệt, rất nhiều tài năng bị triệt tiêu do sự cấm cản hay sách nhiễu của chính quyền cộng sản. Trả lại tự do kinh doanh thực sự cho dân chúng là ta đã khai thông được nhiều sinh lực mới và có thể chờ đợi những đóng góp mới. Chính sách kinh tế đứng đắn và lương thiện của ta cũng sẽ có khả năng động viên nguồn tài chính còn lại trong nhân dân. Không có sức mạnh nào lớn hơn sức mạnh mà chúng ta sẽ có nhờ giải tỏa và động viên sinh lực của một dân tộc gần 100 triệu người cần mẫn. Chúng ta có quyền chờ đợi những thành quả nhanh chóng và to lớn. Mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản lượng quốc gia trong vòng năm năm của giai đoạn chuyển tiếp đòi hỏi một tỷ lệ tăng trưởng 15% mỗi năm nhưng đó là một mục tiêu trong tầm tay vì chúng ta là một nước bờ biển với một vị trí thuận lợi và một dân tộc cần mẫn, khả năng lôi kéo đầu tư nước ngoài rất lớn. Đó là tỷ lệ mà ngay cả các tỉnh duyên hải của Trung Quốc cũng đã đạt được dù dưới chế độ cộng sản. Hơn nữa nước ta còn rất nhiều tiềm năng chưa khai thác. Chúng ta tụt hậu không phải vì khó khăn khách quan mà vì sự tồi dở và tham nhũng của chính quyền cộng sản.
Chúng ta có quyền hy vọng và lạc quan. Đất nước ta tuy có vấp ngã nhưng vẫn còn khả năng đứng dậy và đi tới.
Chúng ta không cần trông đợi ở một phép mầu hay một ân huệ nào cả. Phép mầu ấy chúng ta có thể tự tạo ra cho mình, ân huệ ấy chúng ta có thể tự ban cho mình một cách giản dị.
Bình thường hóa quan hệ giữa người Việt Nam với nhau. Long trọng xác nhận đất nước là của mọi người chứ không phải là của riêng một đảng hay một chủ nghĩa nào. Nhìn nhận chỗ đứng ngang nhau cho mọi người và cho mỗi người. Cởi bỏ những xiềng xích của hận thù và bất dung để nhìn nhau như anh em. Đem lại lạc quan và niềm tin ở một nhà nước thành tín và lương thiện. Đem lại những đảm bảo rõ rệt, chắc chắn cho quyền tư hữu và quyền kinh doanh. Quyết tâm bài trừ tham nhũng và những tệ đoan xã hội đang phá hoại cơ thể quốc gia. Tất cả những điều này chúng ta đều có thể làm được và có thể làm ngay được. Rồi chúng ta sẽ thấy đất nước này thay da đổi thịt, rồi chúng ta sẽ thấy dân tộc này vùng dậy chồm tới chinh phục tương lai. Chúng ta sẽ khám phá ra sự mầu nhiệm của những giá trị rất đơn giản như tự do dân chủ, hòa hợp dân tộc. Đất nước sẽ đứng dậy, đi tới và tiến lên rất mạnh mẽ.
Nước ta có khả năng trở thành một nước lớn và giàu mạnh nếu động viên được mọi trái tim, mọi khối óc, mọi bàn tay trong sự nghiệp xây dựng tương lai chung. Tuy vậy thực tế đáng buồn là ngày hôm nay chúng ta vẫn còn đang phải đấu tranh cam go để có được điều mà hầu hết các dân tộc đã có : dân chủ.
Cuộc đấu tranh đã dài hơn chúng ta mong muốn vì ngoài những khó khăn đã được nhận diện còn thêm một lý do khác : đây là cuộc đấu tranh hoàn toàn mới trong lịch sử nước ta. Từ trước đến nay chúng ta đã chỉ có những cuộc nội chiến tranh giành quyền lực giữa các thế lực thống trị, hay những cuộc chiến chống ngoại xâm mà mục đích, xét cho cùng, cũng chỉ là để đổi một ách nô lệ ngoại bang lấy một ách nô lệ bản xứ. Chúng ta chưa bao giờ là một dân tộc tự do. Lần này chúng ta chiến đấu để mở ra cả một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên thứ hai của lịch sử nước ta, kỷ nguyên của những con người Việt Nam tự do và của một nước Việt Nam dân chủ.
Đó là cuộc chiến đấu để đưa người Việt Nam và đất nước Việt Nam từ bóng đêm của nô lệ và nghèo khổ sang ánh sáng của tự do và phồn vinh. Lần đầu tiên chúng ta có một cuộc chiến đấu thực sự xứng đáng để chiến đấu. Như vậy những con người Việt Nam hôm nay cần ý thức rằng họ đang đứng trước cơ hội để tạo ra biến cố lịch sử lớn nhất và vinh quang nhất, cơ hội mà các thế hệ mai sau sẽ không thể có.
Thử thách trước mặt chúng ta tuy rất lớn, nhưng hy vọng thôi thúc chúng ta còn lớn hơn bởi vì cuộc chiến đấu này không chỉ xứng đáng và vinh quang mà còn tất thắng. Chúng ta được chuyên chở và thúc đẩy bởi cả một làn sóng dân chủ toàn cầu và bởi nguyện ước chung của một dân tộc đã dần dần hồi phục sau những thương tích. Chúng ta đang được tiếp viện của cả một thế hệ mới đã tự khai phóng và quyết tâm làm những con người tự do. Đằng sau những trở ngại là cả một tương lai rực sáng.
Chúng ta nhất định thành công. Dân tộc Việt Nam đã thức tỉnh sau khi đã phải trả giá rất đắt cho hận thù và chia rẽ, cho óc độc quyền lẽ phải, cho sự cuồng tín và tôn thờ bạo lực. Chúng ta đã hiểu bằng máu và nước mắt và đã chấp nhận trong da thịt những giá trị giản dị nhưng mầu nhiệm như tự do, dân chủ, hòa bình, công lý, bao dung, cố gắng. Chúng ta đã nhuần thấm tình dân tộc nghĩa đồng bào trong sự tủi nhục chung vì thua kém. Chúng ta đã nhận ra rằng tất cả mọi người Việt Nam đều bị ràng buộc với nhau trong một số phận chung. Chúng ta đang có một đồng thuận dân tộc lớn nhất kể từ ngày ông cha mở nước. Đồng thuận ấy sẽ là vũ khí vô địch giúp chúng ta vượt mọi trở ngại.
Bài học lớn nhất của lịch sử thế giới là một dân tộc muốn vươn lên chỉ cần ba yếu tố : một xã hội tự do, những con người cần mẫn và đồng thuận dân tộc. Chúng ta là một dân tộc cần mẫn đã có đồng thuận dân tộc và sắp có tự do. Chúng ta sẽ vươn lên. Chúng ta có quyền lạc quan trong cuộc hành trình về tương lai.
Lạc quan và hãnh diện vì cuộc đấu tranh của ta trong sáng. Nó không nhắm tiêu diệt hay hạ nhục một ai, nó là cuộc đấu tranh để tôn vinh mọi người, tôn vinh quyền làm người và quyền được hưởng hạnh phúc như một dân tộc lớn mà dân tộc ta rất xứng đáng để có.
Chế độ độc tài này sẽ là chế độ độc tài cuối cùng tại Việt Nam. Rũ bỏ được nó chúng ta sẽ vĩnh viễn đi vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tự do, dân chủ, bao dung, đùm bọc, kỷ nguyên vinh quang của những cố gắng chung và của thành công chung.
Chúng ta hãy nắm tay nhau cùng cất cao một lời nguyền :
Nước Việt Nam sẽ là một nước lớn.
Làm người Việt Nam cho tới nay đã là một điều bất hạnh thì làm người Việt Nam trong một tương lai gần sẽ phải là một niềm vui, một may mắn và một nguồn hãnh diện.
Thế giới đã biết đến Việt Nam như là nạn nhân của hận thù và chia rẽ, của óc độc quyền lẽ phải thì thế giới sẽ phải biết đến Việt Nam sau này như là vùng đất của sự bao dung, như là một mẫu mực thành công của tình anh em tìm lại, của sự hồi sinh từ điêu tàn và đổ nát.
Đó là lý tưởng của thời đại chúng ta. Đó là di sản mà chúng ta sẽ để lại cho các thế hệ sau. Đó là giấc mơ Việt Nam mà các chí hữu của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cùng theo đuổi và muốn chia sẻ với mọi người Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, hôm nay và ngày mai.
Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (tài liệu học tập nội bộ)