Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

…trước kia đến việc "tự nguyện" ẩn tu của sư Minh Tuệ bây giờ

Vừa qua tại một số nơi ở Việt Nam, Hoa Kỳ, đông đảo Phật tử đã tổ chức Lễ Tiểu tường Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ như tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai vào ngày 12/11, tại Chùa Kim Quang Sacramento, California vào sáng Chủ nhật 17/11/2024 và có thể, nhiều nơi khác nữa…Như vậy là tổ chức sớm, vì Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch vào ngày 24/11/2023.

phatgiao1

Hòa thượng, Thiền sư, học giả Thích Tuệ Sỹ - Hòa thượng, Thiền sư, Giáo sư Thích Trí Siêu

Ngày Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ rời cõi tạm, rất nhiều Phật tử, học trò của Thầy Tuệ Sỹ, các trí thức, học giả từng có cơ duyên được biết, được làm việc chung hay chỉ đọc và biết đến Hòa thượng từ xa, đã có những bài viết phân tích về cuộc đời, di sản Hòa thượng để lại cũng như bày tỏ niềm thương tiếc và sự kính trọng sâu sắc đối với Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, mà từ lúc này trở đi, người viết xin được gọi ngắn gọn là Thầy Tuệ Sỹ. Cũng qua dịp đó, rất nhiều người sinh ra và lớn lên ở miền Bắc trước năm 1975 hay ở Việt Nam sau năm 1975, trong đó có cả những nhân vật trong giới trí thức, lần đầu tiên mới được nghe đến tên Thầy Tuệ Sỹ (!); cũng như lần đầu tiên mới được biết là có một tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất đã được thành lập vào tháng 1/1964, bị đàn áp dữ dội sau ngày 30/4/1975 nhưng vẫn tồn tại song song bên cạnh Giáo Hội Phật giáo Việt Nam do nhà nước kiểm soát !

Rõ ràng đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã khá là thành công trong việc ngăn chặn mọi thông tin, ảnh hưởng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, cũng như của những bậc cao tăng lẫy lừng của tổ chức này, trong đó có Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ.

Nói về thầy Tuệ Sỹ, với tầm vóc, trí tuệ, khối lượng công việc mà Thầy đã làm thật khó mà có một danh xưng nào cho đủ: Thiền sư, Đạo sư, Học giả, Thi sĩ, Văn nhân, nhà văn hóa…Một tấm gương đại trí, đại bi, đại dũng, đã dành trọn cuộc đời tận hiến cho Phật giáo, cho quê hương, dân tộc.

Nhưng điều đầu tiên cần phải khẳng định rằng nếu không có 20 năm với thể chế Việt Nam Cộng Hòa tự do, dân chủ, dù còn non trẻ và nhiều khiếm khuyết, thì Phật giáo đã không phát triển rực rỡ như vậy và cũng sẽ không có rất nhiều vị cao tăng, thiền sư vừa có trí tuệ, kiến thức mênh mông vừa có tư cách đạo đức cao đẹp, mà tiêu biểu là 2 khuôn mặt Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu tức giáo sư Lê Mạnh Thát.

Phật giáo ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 là sự tiếp nối của công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, đã làm thay đổi rất nhiều về nội dung và hình thức hoạt động của Phật giáo tại Việt Nam.

Từ sau 1945 Việt Nam lại bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp rồi đến năm 1954 hiệp định Genève chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 17, thành hai quốc gia có hai chế độ chính trị khác nhau.

Miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975 dưới chế độ độc tài cộng sản, mọi tôn giáo đều bị kềm hãm, đàn áp. Phật giáo trở nên "tàn tạ". Ông Đỗ Trung Hiếu, một đảng viên, một cán bộ của Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam tham gia vào việc thống nhất Phật giáo Việt Nam, đã ra khỏi đảng do bất đồng chính kiến năm 1990, ông từng viết trong thiên hồi ký "Hồ sơ thống nhất phật giáo": "Hầu hết chùa, nhà thờ ở miền Bắc mà tôi đã đến thăm đều rêu phong tàn tạ. Các nhà sư (sư ông, sư bà) lẩm cẩm sợ sệt, một báo cáo cụ, hai báo cáo cụ. Các linh mục, giám mục đóng kín cửa lạc hậu với thời cuộc, Phật tử gần như không còn gì nữa, chỉ ẩn hiện dưới dạng mê tín, cúng bái linh tinh và rất e dè trước khách lạ. Tín đồ Thiên Chúa giáo thì khổ cực, hằn sâu trong mắt họ những nét u uất thâm nghiêm, nhưng rực lửa và sẵn sàng bốc cháy khi có mồi. Đó là mối nguy lớn, chứ không phải thành công của tôn giáo vận.

Cán-bộ tôn giáo vận ở trung ương và các tỉnh miền Bắc văn hóa thấp kém, chính trị non nớt, nghiệp vụ chuyên môn giáo điều cũ kỹ và tổ chức bộ máy tôn giáo vận xộc xệch quê mùa. Như vậy làm sao đói ứng nổi với bộ máy hiện đại của các tôn giáo ở miền Nam. Cho nên rốt cuộc chỉ áp-dụng "chuyên-chính vô-sản".

Trong khi sinh hoạt Phật giáo ở miền Bắc quê mùa, cũ kỹ, thầm lặng thì ở miền Nam phong phú, hiện đại, tự do.

Từ thập niên 60 của thế kỷ XX là sự bùng nổ của bao nhiêu hệ phái tôn giáo, bao nhiêu tờ báo, tạp chí, tập san nghiên cứu về Triết học, Phật học. Các nhật báo như Chánh Đạo, Đất Tổ, các tuần san như Hải Triều Âm, Thiện Mỹ, Đuốc Tuệ, Đại Từ Bi, các nguyệt san Vạn Hạnh, Giữ Thơm, Quê Mẹ, Liên Hoa, Từ Quang, tập san nghiên cứu Tư Tưởng, v.v…

Tìm hiểu về hoạt động báo chí Phật giáo Việt Nam từ 1951 đến 1975, điều nổi bật có thể nhận thấy là chính triết lý sâu sắc của giáo pháp nhà Phật đã thu hút hàng loạt học giả, nhà nghiên cứu, giáo sư, văn nghệ sĩ… đến với báo chí Phật giáo. Hai nhà xuất bản Vạn Hạnh và Lá Bối chuyên xuất bản sách về Triết học, Phật học, đều tuyên bố theo đường lối hiên đại hóa đạo Phật.

Đến năm 1964, Trường đại học Vạn Hạnh do Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập, là viện đại học tư thục Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam. Rất nhiều bậc tu hành, trí thức am hiểu về Phật giáo đã đến giảng dạy tại đây, kể cả thầy Tuệ Sỹ, thầy Trí Siêu. Vạn Hạnh không chỉ có chuyên khoa Phật học mà còn có các phân khoa Văn học và Nhân văn, Khoa học Xã hội, Giáo dục, Khoa học ứng dụng… Thư viện của viện đại học có hơn 25.000 đầu sách, ngoài văn tịch tiếng Việt, còn có nhiều kinh sách tiếng nước ngoài kể cả những ngôn ngữ cổ như tiếng Phạn, nhiều bộ kinh Phật giáo v.v…

phatgiao2

Và cũng không chỉ giảng dạy, Đại học Vạn Hạnh là nơi khai sinh ra tạp chí Tư Tưởng, một tập sách khảo cứu nặng ký với sự tham gia đóng góp bài vở của hàng loạt trí thức, nhân sĩ tên tuổi. Viện Đại học Vạn Hạnh lẫn tạp chí Tư Tưởng đã thắp lên ngọn đuốc khai phóng cho nền học thuật nước nhà.

Nhiều vị Hòa thượng, Đại đức, cư sĩ, học giả có trình độ học vấn uyên thâm như Hòa thượng Thích Tâm Châu, hòa thượng Thích Quảng Độ, Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ, Thích Thiện Minh, Thích Mãn Giác, Thích Minh Châu, thiền sư Nhất Hạnh, triết gia Kim Định, nhà thơ, triết gia, cư sĩ Phật giáo Phạm Công Thiện, học giả Nguyễn Đăng Thục, Dương Thiệu Tống, Lê Tôn Nghiêm v.v…

Đó là một giai đoạn Phật giáo nhập thế với những hoạt động dân sự sôi nổi. Với những trường trung tiểu học, cô nhi viện, bệnh xá và các tổ chức thanh thiếu niên Phật giáo, tổ chức Gia đình Phật tử…

Chính trong lòng một xã hội tự do, nhân bản, khai phóng và một môi trường phát triển về Phật học như vậy nên những nhân vật như Tuệ Sỹ, Trí Siêu và bao nhiêu bậc chân tu, trí thức, học giả mới có điều kiện và cơ hội để học tập, nghiên cứu, giảng dạy, thuyết pháp.

Tất cả những sự phát triển rực rỡ như ngọn đuốc sáng soi đường đó đã tắt phụt sau ngày 30/4/1975. Đại học Vạn Hạnh bị xóa sổ. Mọi tờ báo, tạp chí nghiên cứu về triết học, Phật học bị ngăn cấm, nhà cầm quyền cưỡng chiếm các cơ sở văn hoá, giáo dục, từ thiện Phật giáo, như Cô nhi viện Quách Thị Trang, Viện Đại học Vạn Hạnh…Rồi Phật giáo bị quy tụ lại thành Giáo Hội Phật giáo Việt Nam dưới sự kiểm soát, chỉ đạo chặt chẽ của nhà nước trong khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất bị đàn áp khốc liệt, hàng chục nghìn Tăng Ni, Phật tử bị đưa vào trại cải tạo…

Trong lịch sử Việt Nam, chưa có thời đại nào mà số lượng Tăng Ni, Phật tử bị cầm tù đông đảo như vậy, thậm chí bị tra tấn đến chết như Hoà thượng Thích Thiện Minh tại Trại thẩm vấn X4, đường Nguyễn Trãi, Saigon; hoặc phải tự thiêu để phản đối như 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể ngày 2/11/1975 tại Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ …

Hai vị Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu cũng bị bắt vào năm 1984, bị kết án tử hình vì tội "hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân", sau đó, trước áp lực quốc tế, bản án được giảm xuống còn tù chung thân với thầy Tuệ Sỹ và 20 năm cấm cố với thầy Trí Siêu. Xấp xỉ 14 năm sau kể từ ngày bị bắt, năm 1998, thầy Tuệ Sỹ và thầy Trí Siêu được trả tự do. Thầy Trí Siêu tiếp tục công việc chính là nghiên cứu lịch sử còn thầy Tuệ Sỹ, do vẫn tiếp tục công việc của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất nên vẫn bị kiểm soát chặt chẽ.

Như vừa nêu trên, hai thầy Tuệ Sỹ, Trí Siêu chỉ là 2 trong số hàng trăm nhà tu hành chân chính của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất bị đàn áp đủ các kiểu. Hai nhân vật nổi bật khác cần phải nhắc đến nữa là Hòa thượng Thích Huyền Quang (Đệ Tứ Tăng thống), Hòa thượng Thích Quảng Độ (Đệ Ngũ Tăng thống), đều bị giam cầm, quản thúc nhiều năm nhưng không hề khuất phục, không hề sợ hãi trước bạo quyền, không bao giờ từ bỏ lý tưởng phụng sự đạo pháp và chúng sinh. Những vị chân tu này đã là những tấm gương sáng cho nhiều thế hệ tiếp nối trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.

phatgiao3

Từ trái qua, thầy Thích Tuệ Sỹ, thầy Thích Trí Siêu khi còn trẻ và Hoà thượng Thích Quảng Độ. Ảnh : internet.

Khi những bậc chân tu với trí tuệ và đạo đức cao vời này nằm xuống, nhiều người tỏ ra lo buồn cho sự phát triển của Phật giáo nói chung và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất nói riêng trong xã hội hiện nay. Nỗi lo ấy không phải không có cơ sở, tuy nhiên, Phật giáo đã được du nhập và tồn tại ở Việt Nam từ hàng ngàn năm trước khi đảng Cộng sản ra đời, đã cùng đồng hành với vận mệnh của đất nước, dân tộc Việt Nam qua bao thăng trầm, đã từng trải qua nhiều kiếp nạn, đâu dễ gì bị tiêu diệt? Và khi còn tại thế, các bậc chân tu của Việt Nam trong thế kỷ XX, XXI cũng đã kịp giảng dạy, thuyết pháp, dịch kinh, viết sách để lại cho các thế hệ sau những di sản to lớn, trong đó có thầy Tuệ Sỹ.

Xã hội nào, con người đó

Nếu xã hội miền Nam trước năm 1975 tự do, dân chủ, với môi trường Phật học phát triển rực rỡ đã sản sinh ra vô số bậc chân tu kết hợp trong mình cả trí tuệ lẫn đạo đức, cả kiến thức mênh mông lẫn tư cách tuyệt vời đáng kính, thì xã hội Việt Nam từ năm 1975 cho tới nay, dưới chế độ độc tài toàn trị ngu dân của đảng Cộng sản cai trị, Phật giáo đã bị chính trị hóa, thương mại hóa, bị biến tướng, tha hóa nặng nề, với rất nhiều nhà sư không ra sư.

Sau một giai đoạn dài thẳng tay đàn áp ra mặt, đảng và nhà nước cộng sản chuyển sang những biện pháp, phương thức khác. Một mặt, nhà cầm quyền tiếp tục "phong tỏa", đàn áp, ngăn chặn mọi tiếng nói đối lập, mọi đòi hỏi tự do tôn giáo một cách ôn hòa trong hàng ngũ những bậc chân tu, trí thức Phật tử; ngăn chặn mọi cá nhân, tổ chức muốn thực hành tôn giáo theo con đường riêng, không chịu sự kiểm soát của Giáo Hội Phật giáo quốc doanh. Mặt khác, họ đem danh, lợi, chức vụ ra để lôi kéo, dụ dỗ các nhà sư.

Nếu chỉ nhìn bề ngoài thì Phật giáo có vẻ như rất phát triển, chùa chiền mọc lên khắp nơi, nhiều chùa to "khủng", số lượng tăng ni đông đúc, số lượng người dân đi chùa vào các dịp lễ lớn đông nghìn nghịt.

Chưa có thời nào mà chùa chiền, sư thầy kiếm được nhiều tiền đến thế. Ví dụ một số chùa chiền bày ra trò cúng sao giải hạn, có chùa tổ chức lễ cầu nguyện trước mùa thi cho các sĩ tử, thậm chí có cả chuyện cầu hồn thỉnh vong rất là mê tín dị đoan… Nhưng đáng nói nhất là việc kinh doanh chùa.

Những năm qua, liên tục các chùa chiền, tượng Phật, thiền viện được xây dựng, với danh nghĩa là du lịch tâm linh. Nhiều chùa, đền rất to, tọa lạc trên những địa thế đẹp, nổi bật, kiến trúc hoành tráng… du khách đến nơi này kết hợp lễ chùa với du lịch, nhà chùa tha hồ hồ hốt bạc.

Cũng chưa có thời nào mà sự sa sút về đạo đức trong hàng ngũ chức sắc Phật giáo lại nhan nhản, công khai như vậy. Nhiều nhà sư tham gia vào chính quyền, trở thành đại biểu Quốc hội, phát biểu nhiều câu rất mang "tính đảng", nhiều nhà sư bị phát hiện có đời sống vật chất xa hoa, mang tiếng tu hành nhưng không bỏ được tham, sân, si, thậm chí xài bằng cấp giả, thuyết giảng bậy bạ để lừa mị lấy tiền phật tử v.v… Tất cả những nhân vật nổi tiếng đều đã bị dư luận điểm danh và bị Giáo hội Phật giáo kỷ luật với những hình thức khác nhau như Thích Trúc Thái Minh, Thích Nhuận Đức, Thích Chân Quang…Và một nhân vật do có chức to nên chưa bị đụng đến như Thích Nhật Từ, nhưng qua vụ kiện tụng góp phần đưa ông cụ Lê Tùng Vân 91 tuổi và các người khác của nhóm tu tại gia Thiền Am Bên Bờ Vũ trụ vào tù, thì có thể hiểu nhà tu hành này còn sân si ra sao.

Chính giữa một thời buổi như vậy nên sự xuất hiện của một con người buông bỏ tất cả đề tu hành theo hạnh đầu đà, đi bộ hành khắp nơi chỉ với 3 y một bát, ngày ăn một bữa, ngủ ngoài trời, ngoài nghĩa địa như sư Minh Tuệ bỗng trở thành sự kiện. Báo chí, mạng xã hội liên tục đưa tin, viết bài ca ngợi, quần chúng rần rần đi theo, khiến nhà cầm quyền bắt đầu lo ngại. Đủ mọi biện pháp được tung ra: tiến hành bắt cóc cả đoàn mười mấy người đi theo sư Minh Tuệ, phân tán mỗi người mỗi nơi, cô lập sư Minh Tuệ một thời gian sau đó lại cho xuất hiện đi khất thực loanh quanh trong một phạm vi nhất định, với sự "hộ tống" của các an ninh chìm chung quanh,.. Giai đoạn này ai theo dõi những tấm hình, video clip sư Minh Tuệ đi khất thực có sự kiểm soát, canh chừng đó thì đều nhận ra màu da sư không còn đen giòn khỏe mạnh như thời đi bộ hành dầm mưa dãi nắng mà trắng bệch bạc như bị giam lỏng, thần thái không an lạc, hồn nhiên, vui tươi như ngày xưa…

phatgiao4

Sư Minh Tuệ

Những điều đã xảy đến với sư Minh Tuệ là từ cả 3 nguyên nhân :

1. Chính sách đàn áp tôn giáo đã trở thành xuyên suốt bao nhiêu năm, luôn luôn muốn kiểm soát, ngăn chặn từ xa mọi ảnh hưởng nếu có từ mọi cá nhân, tổ chức "ngoài hệ thống" của nhà cầm quyền.

2. Sự tức giận lẫn lo sợ của nhiều chức sắc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam vì con đường tu hành đơn sơ, buông bỏ mọi thứ của sư Minh Tuệ đã làm cho dư luận có dịp so sánh, đối chiếu với đời sống gọi là tu hành mà danh, lợi, vật chất thứ gì cũng có đủ, lòng tham sân si còn nguyên của nhiều nhà sư, từ đó tỉnh ngộ và lên tiếng chỉ trích họ.

3. Cuối cùng là sự ngưỡng mộ quá mức của đám đông, càng khiến cho sự lo lắng của nhà cầm quyền lẫn sự tức giận, lo ngại của những chức sắc Phật giáo kia gia tăng. Và do đó họ phải có biện pháp, thậm chí sử dụng cả những con cờ như một vài YouTuber nổi tiếng mồm năm miệng mười lên tiếng thóa mạ, bôi nhọ sư Minh Tuệ, cuối cùng là xảy ra hiện tượng lá thư với nhiều nghi vấn được cho là của sư Minh Tuệ viết tuyên bố… ẩn tu, thậm chí từ bỏ thực hành theo 13 hạnh đầu đà !

Nếu trong một môi trường nào khác hoặc như môi trường Phật giáo tự do của miền Việt Nam Cộng Hòa trước tháng 4/1975, sư Minh Tuệ sẽ đường hoàng mà tu theo lối hạnh đầu đà không bị phiền hà gì, và cũng không trở thành hiện tượng, khi xã hội đã có rất nhiều hiện tượng kỳ vĩ về tài năng, trí tuệ, tầm vóc trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, Phật học… như thời đó.

Mặt khác, những bậc cao tăng, học giả thực thụ của Phật giáo nói chung và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất đã từng bị đàn áp, tù đày các kiểu, nhưng chắc cũng không ngờ là môi trường chính trị lẫn Phật giáo hiện tại đã suy đồi đến mức phải sử dụng cả những trò bẩn đến vậy để dẹp tan một nhóm người tu tại gia như Thiền Am Bên Bờ Vũ trụ hay một cá nhân muốn tu theo con đường riêng như sư Minh Tuệ, thậm chí cả những người vì lên tiếng bênh vực mà cũng bị vạ lây như sư Thích Minh Đạo.

Và chừng nào mà chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam còn tồn tại, thì kiếp nạn của Phật giáo cũng như của các tôn giáo khác còn tiếp tục dài dài.

Song Chi

Nguồn : Diễn Đàn Thế Kỷ, 26/11/2024

Published in Quan điểm

Theo trang hoasen.org giảng nghĩa [1] : 

"Tham" là tham lam. Ham muốn thái quá. Đắm say, thích thú muốn có nhiều những thứ mình ưa thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng v.v… 

"Sân" là cơn giận, lòng giận dữ, nóng nảy, thù hận khi không vừa lòng, không được thỏa thích như ý muốn. Bất bình vì bị xúc phạm, nhân đó làm những chuyện sai trái. Sau cơn giận, thời giữ lại lòng oán ghét tìm dịp mà trả thù. 

"Si" là si mê, vô minh, ngu tối. Người vô minh không sáng suốt, không suy xét hiểu biết đúng lẽ phải, đúng sự thật để phán đoán việc hay dở, tốt xấu, lợi hại v.v… nên mới làm những điều nhiễm ô tội lỗi, có hại cho mình và người. Si, vô minh theo thế tục gọi là "dại" hay "ngu". Vô minh che lấp tâm trí, làm cho con người không còn nhìn thấy được những chất bợn nhơ đang gặm nhấm từ bên trong con người, khiến các thói hư tật xấu ấy sẽ tăng dần và cuối cùng đưa con người vào con đường tội lỗi triền miên.

thamsansi1

Cách cúng dường Tam Bảo bằng tiền, gạo và cách cúng dường Tam Bảo ở chùa

Phàm ở đời, không ai không có lòng tham. Từ lâu nay, đạo Phật hầu như chỉ nói về lòng tham theo nghĩa xấu. Thử nghĩ về lòng tham theo nghĩa tốt. Bởi ở nghĩa tốt, không có lòng tham, xã hội khó lòng phát triển. Không có lòng tham, xã hội không hình thành khái niệm "làm giàu" hay các khái niệm : "tích lũy tài sản", "di chúc", thừa kế", "cho - biếu - tặng". Tại sao khái niệm "cho - biếu tặng" được đưa vô phạm vi "lòng tham"? Vì con người cũng dành những gì tốt đẹp nhứt, để đưa cho những người mà mình thương yêu (vợ chồng - con cháu - cha mẹ - người yêu v.v.) Không có lòng tham, chắc chắn không có các khái niệm: "phát minh", "sáng tạo", "phát hiện" (trong các ngành khảo cổ học - thiên văn học - y học v.v.). Không có lòng tham, chắc chắn nhơn loại không đang hưởng những tiện ích từ internet, vốn được phát minh chỉ từ thập niên 70 thế kỷ trước, cùng những tiện nghi tân kỳ ngày nay.

Ngoài ra, nếu con người không có lòng tham, chắc chắn không sinh đẻ khủng khiếp, với dân số toàn cầu xấp xỉ 8 tỷ con người và nó trở thành vấn đề đau đầu cho Liên Hiệp Quốc cùng nhiều quốc gia phải đối phó giải quyết. Kèm theo đó là tệ nạn đầy dãy từ việc sinh đẻ, trong đó việc phá thai vẫn đang là tranh chấp lớn, trong tư tưởng của nhiều nguyên thủ quốc gia.

Không có lòng tham, chắc chắn "thượng tọa" Thích Chân Quang không cần lấy tấm bằng tiến sĩ với đề tài [2] "Nghĩa vụ con người trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam" - vừa gây ngạc nhiên về "trí tuệ", vừa gây bàng hoàng về thời gian "siêu tốc độ", lại vừa thảng thốt về "trình độ" của những giảng viên hướng dẫn đề tài, cùng "đầu óc" của vị hiệu trưởng trường Đại học Luật Hà Nội, khi cấp bằng "tiến sĩ Luật" cho "tiến sĩ" Vương Tấn Việt.

Dĩ nhiên, không một ai dám nói, bản thân mình biết hết mọi vấn đề trong xã hội loài người, kể cả vũ trụ bao la quanh mình, dù đó là nhà bác học tài ba, lừng danh trên thế giới. Bởi "Học - một tập hợp con trong lòng tham", vốn là biển rộng mênh mông, không có điểm khởi đầu và không có điểm kết thúc. Học không chỉ từ sách báo - trường lớp, vì sách báo - trường lớp, suy cho cặn kẽ, đó là nơi tập hợp lại kinh nghiệm rút ra từ tất cả các BÀI HỌC TRƯỜNG ĐỜI. Vậy cho nên mới có khái niệm "Trường Đời" với ca dao : 

Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi

Khó đi mẹ dắt con đi

Con đi trường học mẹ đi trường đời"

Hoặc tục ngữ "Học thầy không tày học bạn", v.v.

Tại sao người đời ví von học như là biển cả ? Bởi có những điều, mình ngỡ biết rành từ lâu nhưng vẫn phải học lại từ đầu. Cho nên, học không có điểm khởi đầu và không có điểm kết thúc là vậy.

Như vậy, "tham" là khởi đầu cho loài người tồn tại và phát triển, thông qua lao động - học hành. "Tham" cũng là khởi nguyên cho vô số tệ nạn trên toàn thế giới. Cho nên, đủ khẳng định chắc nịch : Còn con người, tức là lòng tham còn tồn tại.

Theo đạo Phật lưu truyền, từ "Tham" mà sanh ra "Sân". Từ "Tham" và "Sân" mà tạo ra "Si". Như vậy, còn con người tức là khái niệm "ngu dại" còn tồn tại. 

Phàm ở đời, có lẽ không ai dám nói bản thân mình không "Sân và Si". Người đời không rõ các ông khoác áo nâu sồng cùng cái đầu trọc, kèm tên tuổi vang lừng trong chúng sanh, họ đã bao giờ dám tuyên bố trước hàng triệu bá tánh, bản thân họ thoát khỏi "Sân và Si" hay không nhưng vô số tai tiếng về "thất tình lục dục" đi kèm lời giảng pháp ngớ ngẩn, cùng hành vi tay thoăn thoắt chụp lấy "bao thơ tiền" cúng dường đã đủ trả lời cho câu hỏi (!).

Đạo Phật tại Việt Nam trong ít nhứt nửa thế kỷ qua, có vẻ khiến chúng sanh sa đà vào mê tín - dị đoan với sự hù dọa - đe nẹt và dụ dỗ từ các ông (bà) khoác áo nâu sồng nhiều hơn là làm cho thiên hạ "bừng hai con mắt", khi vốn dĩ mang thân phận "kiếp làm người". Đạo Phật dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, khiến chúng sanh ngỡ rằng theo trường phái Duy Tâm, vốn thật ra nó thuộc về trường phái Duy Lý. Nghĩa là, căn bản nhứt - hầu hết đều nghe và hiểu về Luật Nhân Quả. Gieo Nhân nào gặt Quả đó. Không thể có chuyện gieo "Nhân đắng cay" lại đòi gặt "Quả ngọt bùi". Và vậy là, các ông (bà) trụ trì của hơn 31.000 đền chùa - miếu mạo chỉ dạy cho hàng triệu bá tánh "chuộc tội lỗi", bằng cách cúng tiền (mà còn) không được cúng tiền lẻ. Quả là hay ho !

Nam Gia

Nguồn : RFA, 08/07/2024

[1] https://thuvienhoasen.org/a1167/6-tam-doc-tham-san-si

[2] https://thuysanvietnam.com.vn/thuong-to%CC%A3a-thich-chan-quang-va-luaan...

Additional Info

  • Author Nam Gia
Published in Diễn đàn

Từ những vụ tai tiếng của một số "nhà sư quốc doanh" đến hiện trạng Phật giáo Việt Nam và nguyên nhân gốc rễ của vấn đề

phatgiao1

Những vị sư bị Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỷ luật

Nhìn lại một vài vụ tai tiếng, bị kỷ luật của một số "nhà sư" Phật giáo gần đây

Ngày 6/6 vừa qua Đại đức Thích Nhuận Đức (tên thật Nguyễn Xuân Khánh), thuộc Tổ đình Hộ Pháp, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đã bị Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỷ luật, nghiêm cấm thuyết giảng dưới mọi hình thức trong vòng một năm vì "các phát ngôn, nội dung thuyết giảng trong một số video lan truyền trên mạng xã hội bị cho là phản cảm, sai với tôn chỉ, giáo lý, giáo luật Phật giáo ; đồng thời vi phạm các quy tắc thuyết giảng của Ban Hoằng pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam" [1].

Ngày 19/6 Thượng tọa Thích Chân Quang (tên thật Vương Tấn Việt), trụ trì Thiền Tôn Phật Quang tại Bà Rịa- Vũng Tàu, cũng bị Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỷ luật. Bản án của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đối với ông Thích Chân Quang gồm có những điều như sau : "không được thuyết giảng dưới mọi hình thức ; không chủ trì tổ chức các sự kiện tập trung đông người tại chùa Thiền Tôn Phật Quang và các địa điểm khác trong vòng 2 năm ; thu hồi tất cả Phái Quy y Tam bảo tự thay đổi nội dung không đúng với Năm giới căn bản của người Phật tử tại gia do Đức Phật chế định ; phải gỡ bỏ tất cả các bài giảng có nội dung gây hoang mang xã hội. Song song đó, Thượng tọa Thích Chân Quang và Ban Quản lý Thiền Tôn Phật Quang phải chấn chỉnh sinh hoạt của các đạo tràng, chúng thanh niên Phật Quang tại các tỉnh, thành phố ; không được đưa các bài giảng của Thượng tọa Thích Chân Quang lên các nền tảng mạng xã hội trong thời gian Thượng tọa Thích Chân Quang nhập thất sám hối tại Thiền Tôn Phật Quang" [2].

Nguyên nhân cũng vì ông Thích Chân Quang có những phát ngôn, bài giảng tùy tiện dẫn dụ thuyết nhân quả không đúng với giáo lý, giáo luật, truyền thống của Phật giáo, tùy tiện chỉnh sửa giới cấm trong chứng điệp quy y Tam bảo của Phật giáo. Cụ thể, Ngũ giới của đức Phật bao gồm : 1. Không sát sanh. 2. Không nói dối, 3. Không tà dâm. 4. Không uống rượu. 5. Không ăn cắp. Nhưng ông Thích Chân Quang đã đổi điều thứ 3 không tà dâm thành không phản bội.

Trong một vài video, bài thơ lan truyền trên mang ông Thích Chân Quang rất hay nhấn mạnh đến yếu tố trung thành với đạo, với phật pháp và với sư phụ. Ông Thích Chân Quang thuyết giảng rằng công ơn sinh thành của cha mẹ không lớn bằng công ơn của thầy đưa con vào thế giới tâm linh, nên nếu phản bội thầy, phản bội sư phụ thì còn không bằng con… chó hoặc "Ân tình sư phụ cao thâm, Con mà phản bội đọa cầm thú luôn" ("Lời phát nguyện trung thành tuyệt đối" được phát hành trong nội bộ chùa Phật Quang).

Và mới đây, ngày 21/6, chùa Ba Vàng phát đi thông báo tạm dừng hoạt động khóa tu mùa hè 2024 [3]. Điều này có lẽ là do phản ứng của dư luận sau khi một video đã có từ năm 2018, 2019 nhưng không hiểu sao gần đây lại lan truyền trên mạng, về một khóa "tu tập mùa hè" tại chùa Ba Vàng. Trong video này bà Phạm Thi Yến là Phật tử, và ông Thích Trúc Thái Minh đã có những lời thuyết giảng hoang đường, phản khoa học về một nữ sinh bị cho là 14 kiếp trước có những việc làm sai trái nên bị "vong nhập", bị oan gia trái chủ, bây giờ phải sám hối, phải tu tập.

Báo Công Thương có bài viết ngày 18/6 tựa đề trích từ lời ông Thích Trúc Thái Minh : "Trụ trì chùa Ba Vàng : Không dự khóa tu, không sám hối thì sẽ phải lấy nhiều đời chồng do quả báo" [4].

Bài báo viết, khi nữ sinh K.L quỳ sám hối, trụ trì chùa Ba Vàng - Thích Trúc Thái Minh nói với nữ sinh này : "Trong 14 kiếp trước, con cùng vong linh khởi những tâm bất thiện với phật pháp tăng như : Muốn cướp đất chùa, chọc ghẹo chư tăng, làm cho 3 vị tăng hoàn tục nên vong linh bị mắc quả báo, nhiều kiếp đau khổ, làm gái lầu xanh. Còn K.L nếu hôm nay không về chùa tu khóa tu này, không sám hối thì sẽ gặp quả báo, vất vả vô cùng trong đường tình duyên, phải lấy nhiều đời chồng và gặp những người chồng vũ phu"... (!).

Như vậy qua 3 sự việc này, có thể thấy rằng phản ứng của dư luận rõ ràng đã có những tác động đến Giáo hội Phật giáo Việt Nam và một số nhân vật tiếng là bậc tu hành nhưng có những lời nói, hành vi, việc làm, lối sống… không phù hợp với phẩm hạnh của người tu hành.

Về nhân vật Thích Trúc Thái Minh (tên thật Vũ Minh Hiếu), ông này đã từng hai lần bị Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỷ luật.

Năm 2019 ông Thích Trúc Thái Minh bị kỷ luật vì đã tổ chức lễ "thỉnh vong" và giải "oan gia trái chủ" cho người dân và Phật tử có nhu cầu, "trong nghi thức này có quy định người đăng ký pháp thỉnh "oan gia trái chủ" buộc phải trả nợ cho vong từ vài triệu đến vài chục triệu đồng do vong yêu cầu thông qua hình thức công đức vào chùa Ba Vàng, hoặc làm công quả lao động tại chùa Ba Vàng" [5]. Dư luận còn bức xúc vì ông Thích Trúc Thái Minh đã để cho bà Phạm Thị Yến, pháp danh Tâm Chiếu Hoàn Quán, đăng đàn thuyết pháp nói đủ chuyện xàm xí về thuyết nhân-quả, "oan gia trái chủ". Sau đó ông Thích Trúc Thái Minh đã phải sám hối, bị cách chức khỏi mọi chức vụ trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Đầu năm 2024 ông Thích Trúc Thái Minh lại bị kỷ luật một năm không được tổ chức các sự kiện quốc tế tại chùa, do đã tổ chức cho các Phật tử và nhân dân chiêm bái "Xá lợi tóc Đức Phật" ; "trên các trang điện tử của chùa Ba Vàng và Đại đức Thích Trúc Thái Minh giới thiệu đây là "Xá lợi tóc Đức Phật từ 2600 năm", bảo vật của chùa Parami và Bảo tàng xá lợi Phật Parami, Yangon, Myanmar [6a] và [6b].

Những vụ tai tiếng này chỉ là bề nổi của tảng băng chìm

Danh sách các nhân vật bị dư luận xem là "xàm tăng", "ma tăng" khá nhiều nhưng "nổi cộm" nhất, có nhiều ảnh hưởng đến đám đông nhất có lẽ là Thích Trúc Thái Minh và Thích Chân Quang. Các hoạt động kinh doanh, tổ chức tu tập, thuyết giảng, tại hai ngôi chùa Ba Vàng ở Quảng Ninh và Thiền Tôn Phật Quang ở Bà Rịa-Vũng Tàu đều được tổ chức bài bản, hệ thống, nguồn tiền thu được hàng năm từ các hoạt động này và từ chuyện cúng dường của phật tử nghe nói lên đến hàng trăm tỷ đồng Việt Nam. Chùa thì to, đệ tử đông, chùa Phật Quang có hệ thống Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang lan rộng tại nhiểu tỉnh thành, có khóa tu mùa hè ; chùa Ba Vàng cũng có những khóa "tu tập mùa hè" thu hút hàng ngàn thanh thiếu niên, chưa kể CLB Cúc Vàng – Tập Tu Lục Hòa, "hướng dẫn và sách tấn câu lạc bộ tu tập chuyên nhất theo sự chỉ dạy của Sư Phụ Thích Trúc Thái Minh và chư Tăng chùa Ba Vàng" do bà Phạm Thị Yến, người tôn ông Thích Trúc Thái Minh là sư phụ, làm Chủ nhiệm [7].

Với bản thân hai nhân vật này, những vụ tai tiếng kể trên chỉ mới thể hiện một phần nhỏ những phát ngôn, việc làm lệch lạc, sai trái của họ. Thích Chân Quang, ngoài chuyện phát ngôn [8], xuất bản những ấn phẩm nhảm nhí về nhân-quả [9], là chuyện kinh doanh và quảng cáo sản phẩm chức năng sức khỏe bào chế từ giun đất (địa long) chữa đủ thứ bệnh [10] ; gọi sư Minh Tuệ là "nó", "thằng ba trợn", rằng ai khen ngợi, ngưỡng mô sư Minh Tuệ là "tà tư duy" [11] … Chưa hết, mới đây nhất trên mạng xã hội lan truyền thông tin tố cáo ông Thích Chân Quang với những sự việc động trời khác là lạm dụng tình dục và bội tín với tập thể phật tử [12] và đặt nghi vấn về vă bằng tiến sĩ của ông này [16].

Còn Thích Trúc Thái Minh, ngoài mấy vụ tai tiếng kể trên, là hàng loạt những lời giảng nhảm nhí, độc hại trong nhiều video khác, cũng xung quanh thuyết nhân-quả, thậm chí "nổ" là đã thỉnh Chư Thiên để Quảng Ninh ngừng mưa [13], hoặc khoe rằng chùa Ba Vàng có phép thỉnh linh thức, dời bào thai nên sau đó người phụ nữ có thể yên tâm nạo thai vì thai không còn là bào thai, mà chỉ là cục máu [14].

Như đã nói ở trên, Thích Chân Quang, Thích Trúc Thái Minh, Thích Nhuận Đức, chỉ là vài khuôn mặt "nổi bật", trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn rất nhiều những người tu hành nhưng phát ngôn xàm nhảm, sống xa hoa hoặc tu hành nhưng còn sân si, hễ ai đụng tới thì đi kiện, vu an giá họa cho họ, tìm cách đẩy họ vào tù (vụ Thích Nhật Từ kiện ông Lê Tùng Vân và nhóm Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ) ; hoặc tích cực tham gia chính trị, hết lòng trung thành với đảng, với chế độ v.v…

Nọc độc tai hại từ những bài giảng, những phát ngôn của các "nhà sư" này

Các "nhà sư" không xứng là bậc tu hành này đã cố tình bóp méo tư tưởng Phật giáo, sử dụng thuyết nhân-quả một cách sai trái để dụ dỗ phật tử cúng dường và để hù dọa phật tử nếu không cúng dường hoặc nếu phản bội, tố cáo sư phụ thì sẽ bị đủ thứ tai họa, đời này và nhiều kiếp sau. Mọi thứ trên đời, mọi hoàn cảnh đều bị quy vào nhân-quả, mọi xui xẻo, thất bại, yếu kém là do cái nghiệp xấu trong kiếp trước hoặc do bị vong ám, vong trả thù. Mọi may mắn, thành công, giỏi giang là do cái nhân tốt đã gieo, do phước báu đời trước v.v. Nói như vậy là phủ nhận mọi nỗ lực cố gắng của con người, khiến con người hoặc có tư tưởng ỉ lại, lười biếng, không muốn làm gì, chỉ cần đi chùa, cúng dường cho nhiều là phước báu sẽ tới trong kiếp sau ; mặt khác, lại không nỗ lực cho kiếp này, cho giây phút hiện tại này mà tin vào cái nhân của kiếp trước hoặc cái quả của kiếp sau v.v. Những bài giảng về vong linh, oan gia trái chủ thì đầy mê tín, hoang đường, gieo vào đầu phật tử sự sợ hãi, hoang mang.

Đặc biệt nguy hại là đối với lứa tuổi thanh thiếu niên, khi tâm hồn các em còn đang như tờ giấy trắng, bị tiêm nhiễm đủ thứ độc hại, bị "ám thị" để tin vào những chuyện ma quỷ, vong nhập, tội lỗi từ nhiều kiếp trước, hay buộc phải tuyệt đối trung thành với thầy/sư phụ…

Cái cách "ám thị" ấy có khác gì những tổ chức tà giáo ở nhiều quốc gia nơi hàng vạn con người mê tín giáo chủ, bị giáo chủ dẫn dắt, thao túng tâm lý, khống chế tinh thần ; sau đó tâm sinh lý, tính tình, nhân cách của các nạn nhân đều bị thay đổi, bị méo mó, lệch lạc, có thoát ra được cũng phải mất rất nhiều thời gian, nỗ lực mới có thể trở lại bình thường. Gần đây là câu chuyện một nữ diễn viên, được cho là đệ tử ông Thích Chân Quang, đã có những phát ngôn sai trái về nhân quả, về việc giun đất chữa được Covid-19 (theo đúng quảng cáo của ông Thích Chân Quang, giun đất -- địa long chữa được đủ thứ bệnh), chửi những ai khen ngợi sư Minh Tuệ, chỉ trích Thích Chân Quang là "truyền thông bẩn", là "giặc" v.v… Cô này thay đổi đến mức gia đình cũng phải lên tiếng bày tỏ sự lo ngại.

Thử tưởng tượng cả một thế hệ hàng chục ngàn thanh thiếu niên sẽ bị đầu độc như thế ?

Những biện pháp kỷ luật này có thay đổi được tình trạng biến tướng, biến chất của Phật giáo và của Giáo hội Phật giáo Việt Nam không ?

Trước hết, đối với cá nhân những nhân vật mang danh "nhà sư" này thì rất khó sửa đổi, cho dù bị kỷ luật. Là vì họ đã quen với đời sống vật chất đầy đủ, xa hoa, quan trọng hơn, họ đã quen với cảm giác có quyền lực, được suy tôn là Thầy, là sư phụ, có hàng ngàn hàng vạn đệ tử, được bao nhiêu người cung kính quỳ lạy đảnh lễ, vâng lời, tin theo răm rắp… Chúng ta đều biết quyền lực có sức thu hút con người còn hơn cả tiền bạc.

Đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam, việc loại bỏ một số "xàm tăng" khó làm cho tổ chức này lấy lại được uy tín. Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần phải làm nhiều hơn nữa.

Phải thanh lọc đội ngũ tối đa : tất cả những nhân vật tăng, ni nào mà có hành vi, lời nói, lối sống không đúng với một bậc tu hành, là phải buộc trả y áo, trở lại với cuộc sống thế tục. Hạn chế xây thêm chùa lớn, hạn chế các hình thức kinh doanh chùa, mọi hoạt động mang tính chất mê tín, dị đoan, phải xóa bỏ. Còn chuyện cúng dường là tự nguyện, không được đem thuyết nhân quả ra dụ dỗ, hù dọa…

Có người đặt câu hỏi nếu không cho nhà chùa được giữ tiền thì có tốt hơn không ? Đúng là nhà chùa giữ tiền thì dễ xảy ra tình trạng sư sãi sống xa hoa, nhưng nếu giao cho các tổ chức của chính quyền địa phương thì với thực trạng ở Việt Nam chắc chắn cũng lại xảy ra tham nhũng. Lại có người đặt câu hỏi có cần chùa không, hay là dẹp bỏ tối đa các ngôi chùa ? Cũng khó là bởi vì chùa chiền gắn liền với đời sống văn hóa tâm linh của người Việt, tôn giáo nào thì cũng cần có nơi để sinh hoạt tín ngưỡng, dù Phật giáo, Công giáo hay Hồi giáo…

Quan trọng hơn, phải thay đổi nếp nghĩ, hướng đi của cả Giáo hội Phật giáo Việt Nam và của người dân. Với một bộ phận người dân, là hiểu sai về Phật pháp, là lối suy nghĩ bị ảnh hưởng bởi đủ thứ quan niệm mê tín dị đoan, thực dụng. Chẳng hạn, đi chùa thì nhét tiền vào tay tượng Phật, cầu xin cho làm ăn phát tài, may mắn, được hưởng phước báu… có khác nào hối lộ Phật ?

Còn đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tổ chức này đã bị chính trị hóa, thương mại hóa từ bao nhiêu năm nay. Về mặt chính trị, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được nhà nước cộng sản lập ra để khống chế phật giáo trong nước, để đánh bóng bộ mặt nhà nước trên trường quốc tế. Bất cứ khi nào có ai chỉ trích tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam thì nhà cầm quyền lại đưa ra con số chùa chiền, tăng ni phát triển cũng như hình ảnh người dân tấp nập đi chùa. (Thông tin của Giáo hội cho biết trong nội dung báo cáo tại Văn phòng Ban Thường trực Hội đồng Trị sự phía Nam ngày 10/7/2020 cả nước hiện có 18.491 ngôi chùa, tịnh xá, thiền viện, tịnh thất, niệm Phật đường, tu viện, 54.773 tăng ni, tín đồ chiếm 60% dân số cả nước) [15].

Về mặt thương mại, để xây được những ngôi chùa lớn, nằm tại những địa điểm đắt địa, chiếm hàng ngàn mét vuông như Chùa Bái Đính, Chùa Ba Vàng, Chùa Tam Chúc v.v. phải có sự kết hợp giữa các chức sắc Phật giáo+chính quyền địa phương+ đại gia, tư bản đỏ. Báo chí trong nước từ lâu đã nói đến chuyện kinh doanh chùa hốt bạc triệu như thế nào và nhiều chùa đã trở thành "sân sau" của những nhân vật tai to mặt lớn mà không ai dám kiểm tra các nguồn thu của các chùa này. Điều đó lý giải vì sao một số nhân vật "xàm tăng" chỉ bị kỷ luật như "gãi ngứa", cũng như thực tế Giáo hội Phật giáo Việt Nam là để phục vụ chế độ, phục vụ cho một số quan chức, chứ không phải để xiển dương đạo pháp đúng nghĩa.

Gốc rễ của sự suy thoái của Phật giáo : không có tự do tôn giáo

Phải có tự do tôn giáo thì tôn giáo mới phát triển lành mạnh, đúng hướng. Nhà nước cũng như Giáo hội Phật giáo Việt Nam phải chấp nhận có những tổ chức Phật giáo khác nhau, nhiều hình thức tu khác nhau, chứ không phải bất cứ ai, tổ chức nào đứng bên ngoài hệ thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là ngăn cấm, đàn áp, tiêu diệt. Chấp nhận cho có báo chí Phật giáo tư nhân, các trường học, kể cả đại học.

Nhìn lại ở miền Nam trước đây dưới chế độ VNCH tuy chỉ có hơn 20 năm nhưng Phật giáo đã có một thời kỳ phát triển rực rỡ với hàng trăm tạp chí, tuần báo, nhật báo về Phật học với sự đóng góp bài vở của hàng trăm, ngàn trí thức, nhân sĩ, thiền sư, tu sĩ, những cuộc tranh luận về tư tưởng, triết học Phật giáo, giúp nâng cao dân trí về Phật học. Phật giáo hồi đó có báo chí tư, có chương trình phát thanh hằng tuần trên các đài phát thanh từ trung ương đến địa phương ; có Cô Ký Nhi Viện, bệnh viện, nhà thương miễn phí, có trường học như Bồ Đề Tư thục, có cả trường Đại học Vạn Hạnh chỉ mới tồn tại một thời gian ngắn nhưng là cái nôi của bao nhiêu trí thức am hiểu về triết học, tư tưởng Phật giáo.

Ngược lại, từ sau tháng 4/1975 cho tới nay vì không có tự do tôn giáo nên các nhà sư chân chính không thể hoằng dương chánh pháp, Phật giáo không thể phát triển về mặt tư tưởng, triết học, ngược lại sa đà vào mê tín dị đoan.

Nhiều năm nay chỉ số tự do tôn giáo (tức Religious Freedom Index) của Việt Nam luôn luôn nằm ở mức rất thấp trên thế giới, Việt Nam từng 2 lần -- năm 2005, 2006, bị liệt vào danh sách các Quốc Gia Cần Quan Tâm Đặc Biệt (Country of Particular Concern, viết tắt CPC) về Tự do tôn giáo, 2 năm gần đây 2022, 2023 bị đưa vào danh sách Theo dõi Đặc biệt (SWL) do các vi phạm "nghiêm trọng" về tự do tôn giáo, nhưng nhiều nhà hoạt động nhân quyền và Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (United States Commission on International Religious Freedom, viết tắt là USCIRF trong Báo cáo thường niên năm 2024 hồi tháng 5/2024, đã đề nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách CPC. Nhiều năm nay USCIRF luôn kêu gọi Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách này.

Sự xuất hiện của sư Minh Tuệ với lối sống khổ hạnh, buông bỏ mọi thứ khiến người dân có dịp so sánh với lối sống, lời ăn tiếng nói của bao nhiêu "nhà sư quốc doanh", dư luận lên tiếng, buộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam phải có vài hành động chấn chỉnh.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam thực sự cần phải được thanh lọc, Phật giáo Việt Nam thực sự cần phải được chấn hưng, nhưng như trên đã nói, khi còn chế độ độc tài, khi chưa có tự do tôn giáo thì sẽ không làm được điều đó, cũng giống như không thể chấm dứt được nạn tham nhũng trong một chế độ độc tài vậy.

Song Chi

Nguồn : RFA, 24/06/2024

[1] Giáo hội nghiêm cấm Đại đức Thích Nhuận Đức thuyết giảng trong mọi hình thức

[2] Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỷ luật Thượng tọa Thích Chân Quang, trụ trì Thiền tôn Phật Quang 

[3] Chùa Ba Vàng tạm hoãn các khóa tu mùa hè

[4] Trụ trì chùa Ba Vàng : Không dự khóa tu, không sám hối thì sẽ phải lấy nhiều đời chồng do quả báo 

[5] Sư trụ trì chùa Ba Vàng bị xử lý ra sao sau tai tiếng 'vong báo oán'

[6 a] Trụ trì chùa Ba Vàng Thích Trúc Thái Minh bị kỷ luật cảnh cáo

[6b] Vụ "xá-lợi tóc Phật" ở chùa Ba Vàng : Đại đức Thích Trúc Thái Minh sám hối, bị kỷ luật

[7] Câu lạc bộ Cúc Vàng - Tập Tu Lục Hòa

[8] Những phát ngôn gây tranh cãi của Thượng tọa Thích Chân Quang

Additional Info

  • Author Song Chi
Published in Quan điểm

85 năm khai sáng Phật giáo Hòa hảo : Tín đồ độc lập ở An Giang tiếp tục bị trấn áp

RFA, 24/06/2024

Giáo hội Phật giáo Hòa hảo vốn được nhà nước công nhận được phép tổ chức lễ kỷ niệm 85 năm ngày thành lập đạo một cách long trọng, trong khi đó công an tỉnh An Giang đã áp dụng mọi biện pháp để ngăn cản tín đồ của hai nhóm Phật giáo Hòa hảo độc lập tụ tập.

phatgiao1

Quang Minh Tự - Fb Nguyễn Bắc Truyển

Mạng báo Tuổi trẻ cho hay, Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa hảo sáng 23/6 đã tổ chức đại lễ kỷ niệm Đức Huỳnh Phú Sổ khai sáng đạo tại An Hòa Tự, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, có sự tham dự của Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ Nguyễn Ánh Chức và các lãnh đạo tỉnh ủy, UBND các cấp. 

Trong khi đó ở Quang Minh Tự, cách đó hơn 20 km chỉ có vài tín đồ dũng cảm vượt qua hàng rào an ninh và đến tham dự đại lễ được tổ chức ở nơi này. 

Tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm trụ trì ngôi chùa ở xã Long Điền A, huyện Chợ Mới cho biết việc đàn áp đối với các tín đồ Phật giáo Hòa hảo không theo giáo hội do Nhà nước công nhận xảy ra một cách có hệ thống từ 39 năm qua. Trong dịp này, chính quyền địa phương sử dụng cả vũ lực để tấn công người đến chùa.  

Ông nói với phóng viên Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong ngày 24/6 :

"Luôn hai năm nay rồi, trong ba ngày lễ của thầy thì (công an) vẫn chặn dân chúng tới chùa, kỳ này còn đánh người và giựt điện thoại. Công an lấy đá chọi, và bắt người (dân-PV) ký tên cam kết không đến nữa".

Phật giáo Hòa hảo có hai ngày lễ lớn, đó là ngày Đức Huỳnh giáo chủ đản sanh (25/11 âm lịch), ngày khai sáng đạo (18/5 âm lịch). Chỉ có các tín đồ Phật giáo Hòa hảo độc lập tưởng niệm ngày Đức Thầy đi vắng (ngày 25/2 âm lịch) được cho là bị Việt Minh thời điểm đó sát hại.

Tu sĩ Liêm cho biết có bốn công an mặc thường phục vây đánh một Phật tử vào ngày 19/6 khi ông này từ chùa ra, khiến người thanh niên 20 tuổi này sưng đầu và mặt.

Hai đêm 21 và 22/6 có hai nhóm Cao Đài từ Vũng Tàu và Tiền Giang đến chùa, công an đã bắt họ xuống trụ sở công an xã Long Điền A và bắt phải viết cam kết không được đến Quang Minh Tự nữa. Họ bị giữ nhiều giờ ở đồn công an.

Chính vì sự đàn áp của chính quyền mà trong dịp kỷ niệm này, chỉ có hơn một chục người đến được Quang Minh Tự để tham dự lễ trong khi có hàng trăm, thậm chí hàng ngàn người thường đến chùa vào dịp rằm hay đầu tháng.

Phóng viên gọi điện cho Công an xã Long Điền A để kiểm chứng thông tin mà ông Võ Văn Thanh Liêm cung cấp nhưng không ai nghe máy.

Việc đàn áp cũng xảy ra đối với tín đồ và chức sắc của Giáo hội Phật Giáo Hòa hảo thuần túy (gọi tắt là Giáo hội-PV).

Ông Lê Quang Hiển, Chánh Thư ký của Giáo hội, cho RFA biết việc ngăn cấm xảy ra từ mười ngày trước ngày đại lễ (23/6 tức ngày 18/5 âm lịch), công an mặc sắc phục không cho ai đến trụ sở của giáo hội ở xã Long Giang, huyện Chợ Mới, cấm không cho treo băng rôn có dòng chữ "Phật giáo Hòa hảo Thuần túy".

Ông nhận xét với RFA trong ngày 24/6:

"Việt Nam nói rằng tôn trọng nhân quyền, quyền tự do đi lại, tự do tôn giáo nhưng đó chỉ là cái lời nói thôi còn trên thực tế điển hình là qua Giáo hội Phật giáo Hòa hảo Thuần túy và các vụ có sự kiện liên quan đến tôn giáo khác thì tại Việt Nam không có tự do tôn giáo.

Chỉ có tự do tôn giáo khi tôn giáo đó được nhà nước công nhận và theo Mặt trận Tổ quốc".

Công an còn cho người đến canh gác gần nhà ông Hà Văn Duy Hồ, hội trưởng Phật giáo Hòa hảo Thuần túy tỉnh An Giang, theo dõi sát mỗi khi ông đi ra ngoài vì ông là người đứng ra tổ chức các ngày lễ của nhóm tôn giáo này tại tỉnh An Giang.

Tuy nhiên, ông Hiển cũng cho hay chính quyền không can thiệp khi các biểu ngữ hay băng rôn không có hai chữ "Thuần túy"- chỉ dấu khác biệt giữa nhóm tôn giáo độc lập và nhóm tôn giáo do nhà nước dựng lên từ năm 1999.

Phóng viên gọi điện cho Giám đốc Công an tỉnh An Giang, Trưởng Công an huyện Chợ Mới, và cả Đội trưởng An ninh của Công an huyện này để kiểm chứng thông tin mà ông Hiển cung cấp, nhưng không có ai trả lời.

Ông Hiển cho biết ở các tỉnh khác, tín đồ của nhóm tôn giáo độc lập này vẫn được tụ tập để tổ chức kỷ niệm ngày khai đạo, thậm chí còn được thoải mái treo băng rôn có dòng chữ "Giáo hội Phật giáo Hòa hảo Thuần túy".

Nguồn : RFA, 24/06/2024

***********************

Công an yêu cầu sư "hộ pháp Kim Cang" không mặc trang phục sư, không đi khất thực

RFA, 23/06/2024

Công an huyện Thanh Hà (tỉnh Hải Dương) hôm 23/6 đã triệu tập sư Phúc Giác - người còn được dân mạng gọi là hộ pháp Kim Cang vì có vẻ ngoài dữ tợn. Mục đích của việc triệu tập là để yêu cầu ông này không mặc quần áo nhà sư và đi khất thực giống như sư Thích Minh Tuệ. Truyền thông Nhà nước loan tin cùng ngày.

phatgiao2

Sư Phúc Giác (còn gọi là hộ pháp Kim Cang) khi còn đi khất thực theo đoàn với sư Thích Minh Tuệ - Ảnh chụp màn hình

Sư Phúc Giác - tên thật là Đặng Văn Phòng (sinh năm 1983) - đã đi khất thực theo sư Thích Minh Tuệ nhiều tuần lễ cho đến ngày 2/6 vừa qua khi đoàn sư khất thực nổi tiếng Việt Nam này bị công an giải tán khi họ đi qua tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Ban Tôn giáo Chính phủ cho biết nhà sư khổ hạnh Thích Minh Tuệ - người đang thực hành 13 đạo đầu đà của Đức Phật và đã đi bộ hành dọc Việt Nam nhiều lần suốt sáu năm qua - đã tự nguyện dừng bộ hành dọc đất nước và quyết định đi ẩn tu.

Các thông tin được các YouTuber và TikToker đưa lên mạng những ngày sau đó cho thấy các nhà sư này liên tục bị công an địa phương giải tán khi họ tụ tập lại để đi khất thực.

Truyền thông Nhà nước ngày 23/6 khi đưa tin về sư Phúc Giác đã lấy tựa tin là "Cơ quan chức năng ngăn chặn việc lợi dụng hình ảnh ông Thích Minh Tuệ".

Các bài báo cho biết "Công an huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương cho biết cơ quan chức năng vừa gặp gỡ, tuyên truyền để ông Đặng Văn Phòng không mặc quần áo giống nhà sư, đi khất thực, gây hiếu kỳ, hiểu lầm…"

Theo báo trong nước, vào ngày 19/6 vừa qua, sư Phúc Giác đã "mặc quần áo giống như người tự tu hành Lê Anh Tú (Thích Minh Tuệ) ra khu vực chợ Hương ở thị trấn Thanh Hà mua hoa quả, rồi ra nghĩa trang liệt sĩ huyện Thanh Hà thắp hương".

Sự việc này, theo công an, "đã khiến nhiều người dân hiếu kỳ, tụ tập, chụp ảnh, quay clip đưa lên mạng xã hội để "câu like" gây hiểu lầm, gây dư luận xấu và có thể dẫn đến nguy cơ mất an ninh trật tự tại địa phương".

Truyền thông Nhà nước cho biết, tại cơ quan công an sư Phúc Giác khẳng định không thực hiện đi khất thực và chỉ tu tại nhà; không bán hàng online, không "câu view, like" trên mạng xã hội.

Hôm 3/6, sau khi đoàn tu của sư Thích Minh Tuệ bị giải tán, sư Phúc Giác đã xuất hiện trên một đoạn video được lan truyền trên mạng xã hội cho biết chi tiết công an đã khống chế sư Thích Minh Tuệ như thế nào. Ông nó:

"Một người tu đang ngồi thiền mà năm ông đè ra làm gì? Thầy đâu có chống cự đâu mà người tu lấy gì mà chống cự. Ban ngày mời mình lên trụ sở hỏi han thì được chứ nửa đêm mà bắt người ta trói tay vào thì sao được ?".

Nguồn : RFA, 23/06/2024

Additional Info

  • Author RFA tiếng Việt
Published in Việt Nam

Sau ông Thích Nhuận Đức với địa vị "Đại đức" trong giới tăng ni bị cấm thuyết giảng 1 năm [1] và phải sám hối chư tăng, chịu kỷ luật biệt chúng tại tổ đình Hộ Pháp, tới lượt ông Thích Chân Quang với địa vị cao hơn rất nhiều - "Thượng tọa", vừa bị cấm thuyết giảng dưới mọi hình thức [2], không chủ trì tổ chức các sự kiện tập trung đông người tại Thiền tôn Phật Quang và các địa điểm khác trong thời gian 2 năm.

phatgiao1

Hai vị sư Thích Nhuận Đức và Thích Chân Quang bị Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỷ luật vì phát biểu nhảm nhí về Phật pháp

Tựa như Hiến pháp Việt Nam, Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam là văn bản cao nhứt để làm tôn chỉ cho tất cả tăng ni và Phật tử soi theo đó mà sống và làm việc. Sau 7 lần sửa đổi, Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam gồm có : Lời nói đầu, 14 chương và 87 điều [3].

Để được phong "Đại đức" cho đến "Thượng tọa", "Hòa thượng" rất nghiêm từ, có quy chế [4] cùng việc tu hành và thấm đẫm Phật học nhiều năm mới có được, chứ không phải chuyện dễ dàng. Đó là lý do, khiến vô số bá tánh đi từ nghi ngờ đến thắc mắc và thất vọng về trình độ hiểu biết "trường đời" cho đến những bài giảng trong "trường Phật" của các ông : Thích Nhuận Đức, Thích Chân Quang và nhiều ông khoác áo thầy chùa. 

Những lời giảng dạy của ông Thích Nhuận Đức thậm chí khá lố bịch với giọng cười khả ố, cùng những lời lẽ ngây ngô không khác cho lắm những người đang mắc phải một số triệu chứng rõ rệt của bịnh tâm thần. Báo chí trong nước cũng ghi nhận "gần 15.000.000 người Việt mắc ít nhứt một rối loạn tâm thần" [4] do trang thông tin điện tử của Đảng cộng sản Việt Nam phát hành ngày 11/10/ 2023 đưa tin. Vì vậy, có đủ căn cứ để tin, trong số gần 15.000.000 con người Việt Nam bị tâm thần, không thể loại trừ những người đang khoác áo cà sa.

Nếu có đủ thời gian rảnh và không biết làm gì, chỉ cần vô youtube gõ dòng chữ "Thích Nhuận Đức cười" [5], người ta bắt gặp vô số các clip xung quanh ông "Đại đức" này với hàng hàng lớp lớp chúng sanh ngồi bên dưới, cười ngả ngớn như đang coi những vở diễn hài mà mức thô tục - bỉ ổi, chưa chắc một danh hài nào dám nhận vai diễn. Bởi diễn hài phải duyên dáng, diễn thô tục và bỉ ổi, chắc chắn khán giả sẽ tẩy chay. Riêng ông "Đại đức" Thích Nhuận Đức có lẽ không sợ bị tẩy chay, bởi ông ta không sống bằng tiền mua vé của khán giả mà ông ta được nuôi nấng, từ hàng ngàn con người đang cười nghiêng ngả bên dưới (!). Cũng thật khó tin, những vở diễn hài thô tục - bỉ ổi như vậy, kéo dài hơn một tiếng đồng hồ nhưng hàng ngàn "con phật" vẫn say mê và thích thú ngồi "thưởng thức". Thật quái dị !

Và nếu ai đang buồn chán cuộc sống muốn giải khuây trong phút chốc, hãy gõ dòng chữ "hát về Thích Chân Quang" [7] [8], sẽ gặp vô số bài nhạc chế, được đặt lời từ chính những phát ngôn hồ đồ và ngớ ngẩn của "Thượng tọa" Thích Chân Quang. 

Ông Thích Chân Quang nhận bằng "tiến sĩ Luật" [9] và được đích thân Hiệu trưởng trường Đại học Luật Hà Nội gởi thơ chúc mừng vào ngày 22/4/2022. Thích Chân Quang có tên cha sanh mẹ đẻ là Vương Tấn Việt, sanh ngày 9/12/1959. Theo trang izumi.edu.vn cho biết [10] : (Trích) "...Thầy Thích Chân Quang sinh ra trong một gia đình yêu nước, và từ thuở nhỏ đã có thiện căn với Phật pháp. Mong muốn trở thành nhà tu hành và tu học Phật pháp, Thầy Thích Chân Quang đã xuất gia và tu học theo sư phụ Thích Thanh Từ tại Thiện viện Thường Chiếu từ năm 1980. Sau đó, hòa thượng Thích Huệ Hưng (trụ trì Tu viện Huệ Quang, Thành phố Hồ Chí Minh) đã nhận Thầy làm môn đệ và trực tiếp dạy dỗ. Năm 1984, sau 12 năm tu học và cống hiến cho xã hội, Thầy Thích Chân Quang đã được chính thức thọ giới Tỳ kheo. Tiếp đó, dưới sự dìu dắt của hòa thượng Thích Thiện Nhơn – Viện chủ Tổ đình Thiên Đức ở Bình Định, Thầy Thích Chân Quang tiếp tục phục vụ đạo Pháp. Đến năm 2007, Thầy đã được tấn phong lên làm Thượng tọa…" (hết trích).

Như vậy nhẩm tính, "tiến sĩ Luật học" Vương Tấn Việt - Thượng tọa Thích Chân Quang với bề dày tu hành - học đạo - "dạy đời" tính đến ngày bị kỷ luật, gần... 45 năm (!). Từ thuở 20 tuổi tới nay tròn 65 xuân xanh, ông Thích Chân Quang tích lũy trong bộ não những gì mà đến mức phát ngôn đầy tính dụ dỗ ngô nghê (nhà mặt tiền đem cúng dường cho chùa, để con cháu hưởng phước mai sau) kèm lời đe dọa chúng sanh (hát karaoke sau này bị câm) và vô số lời lẽ điên loạn khác ?! Người đời cũng không hiểu nổi cả ba vị sư phụ : Thích Thanh Từ - Thích Huệ Hưng - Thích Thiện Nhơn đã dạy cho Thích Chân Quang những gì mà thiên hạ khó lòng hình dung ra nổi một đệ tử đổ đốn ra như thế (?!).

Xứ thiên đàng - tròm trèm nửa thế kỷ dưới sự cai trị của Đảng cộng sản Việt Nam, chùa chiền mọc lên rất nhiều và rất đồ sộ - rộng mênh mông. Người dân xứ thiên đàng, ngày càng đi chùa rất đông đảo, đặc biệt những ngày rằm quan trọng - những dịp tết nhứt - lễ lạt, không khác những khu vui chơi giải trí, vốn không còn chỗ chen chân. Ngành du lịch đẻ ra loại hình gọi là "du lịch tâm linh" ngày càng đắt khách. Những "khóa tu mùa hè" được quảng cáo ngay trên trang web [11] của chùa Ba Vàng, với hàng chục ngàn thanh thiếu niên hào hứng tham gia. 

Người người nhà nhà đều... "hướng phật" cầu gia đạo bình an - mạnh khỏe. Chúng sanh đều được các ông các bà khoác áo nâu sồng dạy sống thiện lương - làm lành lánh dữ - tích đức tạo phước cho con cháu mai sau. Nhưng... Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao vẫn đang loay hoay với "nguyên nhân tội phạm ngày càng trẻ hóa và các biện pháp phòng ngừa" [12]. Còn báo Bảo Vệ Pháp Luật loan báo [13] "Năm 2023 : Toàn quốc xảy ra hơn 27 nghìn vụ phạm tội về ma túy".

Kết thúc bài viết này là tin mới nhứt, ra ngày 19/6/2024 từ báo Dân Trí : "Đôi vợ chồng bị giết, 2 con trọng thương, kẻ sát nhân nghi ẩn nấp trong nhà" [14].

Tại sao, gần nửa thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối - toàn diện từ "đỉnh cao trí tuệ" của Đảng cộng sản Việt Nam ; tại sao chùa chiền mọc lên như nấm ; tại sao những chuyến "du lịch tâm linh" ngập tràn ; tại sao "những khóa tu hè" thu hút hàng chục ngàn người theo học mỗi năm ; v.v... mà số lượng tội phạm với tội ác - chỉ nghe qua đủ rùng mình sởn ốc - của xứ thiên đàng vẫn ngày càng tăng lên và trẻ hóa (?), còn đạo lý làm người - lương tri con người ngày càng trợt thẳng xuống hố địa ngục, với hàng trăm ngàn vụ án : lừa đảo - trộm cướp - giết người - quỵt nợ - giựt hụi - hãm hại nhau bằng mọi cách - tranh đoạt lợi ích ngay với chính người thân ruột thịt - hiếp dâm trẻ em - buôn bán ma túy v.v... Đó là câu hỏi mà toàn thể đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam từ cấp cao nhứt đến thấp nhứt nên bóp trán suy ngẫm... 

Nam Gia

Nguồn : RFA, 19/06/2024

[1] https://dantri.com.vn/xa-hoi/dai-duc-thich-nhuan-duc-bi-ky-luat-cam-thuy...

[2] https://thanhnien.vn/thuong-toa-thich-chan-quang-khong-duoc-thuyet-giang...

[3] https://giacngo.vn/toan-van-hien-chuong-giao-hoi-phat-giao-viet-nam-sua-...

[4] https://thuvienphapluat.vn/hoi-dap-phap-luat/839FCD3-hd-cac-cap-bac-tron...

[5] https://dangcongsan.vn/cham-soc-va-nang-cao-suc-khoe-nhan-dan-trong-tinh...

[6] https://www.youtube.com/results?search_query=th%C3%ADch+nhu%E1%BA%ADn+%C...

[7] https://www.youtube.com/watch?v=yZMqzg0emBM

[8] https://www.youtube.com/watch?v=zof9sJMuCOA

[9] https://phatgiao.org.vn/hieu-truong-truong-dai-hoc-luat-ha-noi-goi-thu-c...

[10] https://izumi.edu.vn/thuong-toa-thich-chan-quang-bi-bat/

[11] https://chuabavang.com/khoa-tu-mua-he/

[12] https://vksndtc.gov.vn/tintuc/Pages/lists.aspx?Cat=10&ItemID=9836&Page=8

[13] https://baovephapluat.vn/phong-chong-toi-pham-ma-tuy/nam-2023-toan-quoc-...

[14] https://dantri.com.vn/phap-luat/doi-vo-chong-bi-giet-2-con-trong-thuong-...

Additional Info

  • Author Nam Gia
Published in Diễn đàn

Sư Thích Minh Tuệ đã làm cho Phật giáo Việt Nam "sống lại trong lòng của Phật tử năm châu"

Hoàng Anh, Thoibao.de, 10/06/2024

Ngày 8/6, BBC tiếng Việt bình luận "Sư Thích Minh Tuệ đến từ đâu, tại sao phải dừng ?"

Theo đó, sư Thích Minh Tuệ với đầu trần, chân đất, đi bộ từ nam chí bắc, ôm lõi nồi cơm điện để khất thực, và nhặt vải vá lại thành áo, đã trở thành một hiện tượng xã hội nổi bật.

minhtue01

Sư Thích Minh Tuệ với đầu trần, chân đất, đi bộ từ nam chí bắc, ôm lõi nồi cơm điện để khất thực, và nhặt vải vá lại thành áo, đã trở thành một hiện tượng xã hội nổi bật.

BBC dẫn tư liệu Phật giáo, cho hay, pháp hạnh đầu đà là một trong những phương pháp tu khổ hạnh, để tôi luyện thân tâm, trừ bỏ phiền não.

Trên con đường tu tập gian khổ, các vị hành giả đầu đà chấp nhận những thử thách khắc nghiệt về mặt vật chất, khước từ mọi tiện nghi.

Trong hàng đệ tử Phật, Tôn giả Ca Diếp đã trọn đời giữ hạnh đầu đà.

BBC dẫn nhận xét của tu sĩ Thích Đồng Long của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất :

"Bất cứ người nào hành trì theo những lời Phật dạy thì đều là người tu thật".

"Đi ngược lại lời Phật thì đó là người giả tu, người không tu hành chân chính".

BBC cũng dẫn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, viết :

"Tu sĩ Thích Minh Tuệ là một người giữ giới luật, tu theo hạnh đầu đà của Phật dạy, không nhà không cửa, không chùa viện, am thất, rày đây mai đó, ngày ăn một bữa, mặc y phấn tảo, ngủ dưới gốc cây, nơi đất hoang, nghĩa địa… đúng phẩm hạnh một vị tu sĩ Phật giáo, mọi người ai cũng kính phục, noi theo, công nhận đúng là một tu sĩ Phật giáo, thì còn cần gì phải theo giáo hội này, tổ chức kia cho thêm phiền phức, buộc ràng ?"

Theo BBC, hành trình tu tập của sư Thích Minh Tuệ đã tạo cảm hứng cho nhiều người, với bằng chứng rõ ràng là đông đảo người dân ra đường chào đón, muốn được diện kiến ông ở các tỉnh thành mà ông đi qua, hàng triệu người trong và ngoài nước theo dõi ông trên mạng.

Sư Thích Đồng Long nhận định :

"Trong lịch sử, kể từ thời Đức Phật hơn hai ngàn năm trăm năm trước đến nay, tôi nghĩ cũng có nhiều vị đã từng thực hành những hạnh như thế. Nhưng trong thời kỳ 4.0 này, thì trường hợp của thầy Minh Tuệ là rất hiếm".

"Đây cũng là cơ hội tốt để người dân tự nhìn lại mình, trong một thời đại chuộng vật chất như bây giờ".

BBC dẫn quan điểm của ông Bửu Nguyễn, nghiên cứu sinh ngành Phật học ứng dụng, tại Nan Tien Institute (Úc), cho rằng, cá nhân ông Minh Tuệ phần nào mang lại hy vọng cho nền Phật giáo Việt Nam đang suy thoái.

Vẫn theo BBC, trái ngược với những lời ca tụng và ủng hộ sư Thích Minh Tuệ, có thể dễ dàng tìm thấy trên mạng xã hội, mặt trận báo chí Việt Nam, xuất hiện nhiều bài viết theo chiều hướng kêu gọi "cảnh giác", cụ thể là những bài viết trên báo Công An Nhân Dân và báo Tin Tức của Thông tấn xã Việt Nam. Ngoài ra, một số người nổi tiếng trong ngành giải trí Việt Nam cũng tham gia vào cuộc tranh luận, trong đó có diễn viên Angela Phương Trinh.

BBC dẫn Ban Tôn giáo Chính, vào ngày 3/6, thời điểm mà sư Minh Tuệ "biến mất" tại Thừa Thiên Huế, cho biết :

"Ông Lê Anh Tú đã nhận rõ quyền và nghĩa vụ công dân, tự nguyện dừng việc đi bộ khất thực".

Tuy nhiên, BBC đã nhận được nhiều thông tin cho biết, đoàn bị giải tán ngay trong đêm, khi đang nghỉ chân gần thành phố Huế, chứ không phải tự nguyện như thông báo của chính quyền.

Một số thông tin cho biết, ông đang ẩn tu tại Gia Lai, nhưng không có bằng chứng chắc chắn cho thấy điều đó.

BBC cho hay, nhiều người nhắc lại trường hợp nhà sư Minh Đăng Quang, người khai sơn hệ phái Khất sĩ Việt Nam. Nhà sư Minh Đăng Quang cũng đã đột ngột biến mất mãi mãi, vào một ngày đầu năm 1954, sau khi các hành trình của ông được đông đảo dân chúng quan tâm và hưởng ứng.

BBC cũng dẫn một số đánh giá nổi bật về sư Minh Tuệ, như :

Sư Thích Minh Đạo nói, hình ảnh nhà sư lặng lẽ đi hành đạo, đã làm cho Phật giáo Việt Nam "sống lại trong lòng của Phật tử năm châu".

Nhà báo Nguyễn Mạnh Hà chia sẻ rằng, nhiều người dân cảm thấy vui mừng vì sư Minh Tuệ và lối tu của ông, là tín hiệu cho sự trở lại của đạo pháp chân chính, sẽ làm lu mờ những "pháp tu" mê mị dân chúng, chủ yếu để thu tiền cúng dường.

Sư Thích Đồng Long cho rằng, sư Minh Tuệ là người đầu tiên có sức ảnh hưởng lớn như vậy đối với quần chúng Phật tử tại Việt Nam.

Tuy nhiên, BBC cho biết, nhiều nhà sư tự tu như sư Thích Minh Tuệ, hoặc theo các tổ chức độc lập như Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, thường xuyên bị chính quyền làm khó dễ, thậm chí đàn áp.

Hoàng Anh

*****************************

Phóng sự phỏng vấn sư Minh Tuệ dấy lên nghi ngờ trong cư dân mạng

Thu Phương, Thoibao.de, 10/06/2024

Ngày 8/6, RFA tiếng Việt cho hay "VTV công bố phỏng vấn sư Thích Minh Tuệ, dân mạng phát hiện nhiều nghi vấn".

Theo đó, truyền hình VTV của Việt Nam hôm 8/6 có phóng sự, trích dẫn một phỏng vấn ngắn với sư Thích Minh Tuệ, người đã bị mất tích từ ngày 3/6, sau khi bị công an khống chế. Tuy nhiên, dân mạng ngay sau đó đã phát hiện nhiều nghi ngờ về đoạn hình phỏng vấn ngắn khoảng một phút này.

RFA cho biết, trong phóng sự dài khoảng 3 phút, chiếu trên kênh truyền hình quốc gia, sư Thích Minh Tuệ xuất hiện trong bộ y phấn tảo quen thuộc, và cho biết ông vẫn khoẻ.

Nguyên văn lời nói của nhà sư được VTV chiếu như sau :

"Tinh thần, sức khỏe của con vẫn tốt, vẫn đảm bảo để học tập theo lời Phật dạy được… Không có người dân đông như thế, hay là những việc ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông xã hội, thì con vẫn học tập ở ngoài, không có gì thay đổi cả, nhưng mà, vì cái đó thì giờ cái nguyện vọng học tập của mình, họ làm ách tắc thì mình đi không được, thì mình vào cái tình hình hoàn cảnh như thế, thì mình cũng nên dừng. Con cũng mong muốn khi mình đi ra đường, thì mọi người đừng có tập trung như thế để ảnh hưởng, mình không học được.

"Theo họ để quay phim hay làm những việc như là kiếm tiền hay cái gì đấy, thì nó lại không phù hợp".

RFA dẫn lời phóng viên Liên Liên của VTV trong phóng sự này, cho biết : "Mới đây, gia đình ông Lê Anh Tú cũng đã có đơn đề nghị gửi các cơ quan chức năng, xử lý những trường hợp lợi dụng hình ảnh của ông Lê Anh Tú, để đăng tải trên các nền tảng mạng xã hội, gây ảnh hưởng đến ông Lê Anh Tú và gia đình ông".

Ngay lập tức, RFA cũng cho hay, dân mạng đã chỉ ra nhiều điểm nghi ngờ, có thể, nhà sư đang bị giam giữ ở đâu đó, thay vì được ẩn tu. Những điểm nghi ngờ này, bao gồm :

- Nhà sư ngồi trước một cây có gốc sơn trắng, không có trong rừng, ngoài tự nhiên, mà chỉ có ở những nơi như nhà tù, doanh trại quân đội…. Nơi có quản lý chặt chẽ.

- Không có cảnh quay toàn cảnh phỏng vấn, trong khung hình có cả phóng viên Liên Liên và nhà sư.

- Bàn tay của nhà sư với các ngón tay cử động giống như của một người lo lắng, không an yên.

- Nhà sư mất tích từ ngày 3/6 và phóng sự trên VTV là ngày 8/6, tức là chỉ có 6 ngày, nhưng phóng sự lại nói rằng 7 ngày.

- Trong mắt nhà sư không có bóng dáng của phóng viên ngồi phỏng vấn trước mặt.

Theo RFA, ngay sau khi sư Thích Minh Tuệ bị khống chế, nhiều người đã lên mạng bày tỏ sự lo lắng về sự an toàn của nhà sư, và lo sợ là, ông đã bị chính quyền giam cầm.

Dân biểu Tạ Đức Trí của Hạ viện tiểu bang California, ngày 4/6, đã gửi thư đến Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ, để bày tỏ sự lo ngại về việc chính quyền Việt Nam đối xử với sư Thích Minh Tuệ.

RFA trích dẫn bức thư của Dân :

"Các phương tiện truyền thông và nhân chứng gần đây cho biết rằng, chế độ Cộng sản ở Việt Nam đã tùy tiện buộc ông phải chấm dứt hành trình của mình, và chấm dứt các hoạt động tôn giáo đã thu hút rất nhiều người theo ông. Kể từ đó, ông ấy đã biến mất khỏi công chúng và không rõ tung tích".

Dân biểu Tạ Đức Trí nói rằng, Hà Nội đã viện cớ về việc kiểm soát giao thông, để đàn áp quyền tự do tôn giáo của nhà sư, và các tín đồ Phật tử, tuỳ tiện buộc sư Thích Minh Tuệ phải ngưng hành trình của mình.

Vẫn theo RFA, phóng sự của đài truyền hình quốc gia cho rằng, những thông tin trong các tuần qua về sư Thích Minh Tuệ, là sai lệch và xuyên tạc. Bài phóng sự của đài Nhà nước cũng cáo buộc "các đối tượng chống phá đã lợi dụng sự việc này để xuyên tạc chính sách tôn giáo của Việt Nam, đưa tin sai sự thật về việc phân biệt đối xử, đàn áp tôn giáo, bịa đặt ông Thích Minh Tuệ bị bắt, cưỡng bức buộc phải dừng việc tu tập".

Thu Phương

**********************

Sư Thích Minh Đạo trở lại sau vụ ‘kiểm điểm’, nói rõ quan điểm về sư Thích Minh Tuệ

BBC, 10/06/2024

Sư Thích Minh Đạo vừa xuất hiện trở lại trong một video dài hơn 10 phút trên kênh riêng của Tu viện Minh Đạo – nơi ông làm trụ trì.

minhdao1

Sư Thích Minh Đạo (trái) vừa xuất hiện trở lại trong một video dài hơn 10 phút trên kênh riêng của Tu viện Minh Đạo – nơi ông làm trụ trì.

Đây là lần xuất hiện đầu tiên kể từ khi ông thông báo "ẩn cư" sau khi bị Giáo hội Phật giáo Bà Rịa-Vũng Tàu kiểm điểm, bắt nguồn từ video ông khen sư Thích Minh Tuệ.

Trong video mới nhất hôm 9/6, có thể thấy một ảnh lớn chụp sư Thích Minh Tuệ được treo trên tường ngay sau lưng sư Minh Đạo như một cách bày tỏ quan điểm của sư Đạo đối với vị sư này.

Sư Minh Đạo cho hay thời gian tĩnh tâm của ông vẫn còn dài nhưng ông sẽ trở về tu viện vào ngày 11/8 để tổ chức lễ Vu Lan, thăm viếng phật tử và có bài pháp thoại về tình mẹ.

Ông nói vừa qua ông điều phối tu viện từ xa, và gửi lời tri ân, biết ơn sự mến thương của các Phật tử dành cho ông.

Nói về vụ bị 'kiểm điểm' ?

"Chúc Phật tử có cuộc sống đầy ắp tiếng cười và đủ nghị lực để vượt qua những nỗi đau", sư Minh Đạo nói trong video hôm 9/6.

Ông nói thêm về những "thử thách", và nhấn mạnh vào việc "bị vu oan, vu khống, bị chà đạp danh dự" :

"Ai sinh ra trong đời cũng phải chịu thử thách, hãy xem đó là bài học để giúp chúng ta trưởng thành.

"Nhất là bị vu oan, vu khống, bị chà đạp danh dự... là thử thách lớn trong đời, cho thấy vọng tâm của mình đang ở giai đoạn nào.

minhdao2

Sư Thích Minh Đạo (đứng) trong buổi kiểm điểm hôm 17/5/2024

"Nếu bình thản trước sóng gió cuộc đời, chấp nhận, lắng nghe, tịnh tâm, hóa giải, thì sóng gió đó không đủ để triệt tiêu năng lượng của mình thì chứng tỏ đời tu của mình cũng có ý nghĩa.

"Thời gian cay đắng nhất cuộc đời chính là thời gian để mình hành pháp, tức là chuyển hóa".

Dù không nói rõ những thử thách mà ông đang nhắc tới có bao gồm vụ kiểm điểm vừa qua hay không, nhưng sư Thích Minh Đạo kết luận các thông điệp nói trên bằng câu :

"Cho nên quý Phật tử xa gần cũng đừng lo cho sư và sư Minh Tuệ. Sư Minh Tuệ bây giờ đang ở một nơi nào đó cũng để chuyển hóa chính mình".

Hôm 17/5, Thường trực Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam thị xã Phú Mỹ tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã "họp giải quyết về phát ngôn của sư Thích Minh Đạo về sư Thích Minh Tuệ", theo thông tin trên webiste của giáo hội này.

Cụ thể, trong cuộc họp, Thượng tọa Thích Nguyên Thái - Phó Trưởng ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam thị xã Phú Mỹ - đã nêu về hiện tượng "ông Lê Anh Tú (người được cộng đồng mạng gọi là nhà sư Thích Minh Tuệ)" và đoạn video của sư Thích Minh Đạo "nhận định về ông Lê Anh Tú trong đó có đoạn phát ngôn : Thay mặt Phật giáo…"., theo website nói trên.

Ban trị sự sau đó kết luận rằng việc sư Thích Minh Đạo "nhận xét về ông Lê Anh Tú là quyền suy nghĩ của từng cá nhân" nhưng sư Thích Minh Đạo "sai ở chỗ dùng từ chưa đúng với chức năng – quyền hạn của mình dẫn đến sự ngộ nhận từ nhiều nơi".

Hôm 27/5, mạng xã hội lan truyền một văn bản được cho là thư kiểm điểm và xin nghỉ tham gia công việc Giáo hội Phật giáo Việt Nam của sư Thích Minh Đạo.

Bức thư có đoạn :

"Con cảm thấy đời tu sĩ gian truân quá, lỡ vận một lời, bao người nhìn mình với đôi mắt xa lạ, những lời nói nghe như thâm tình mà quặn thấu tâm can".

Bức thư cho biết sư Minh Đạo muốn "sám hối lần cuối" và "xin được tu tập trong tu viện, không tham gia việc Giáo hội nữa" và "sẽ khép mình trong yên lặng".

Tối 27/5, ngay sau mạng xã hội xôn xao thông tin về vụ kiểm điểm, Facebook của Tu viện Minh Đạo đăng dòng chữ : "Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng"

Nêu quan điểm về sư Minh Tuệ

Sư Minh Đạo cũng một lần nữa có những chia sẻ về sư Minh Tuệ mà ông nhấn mạnh là quan điểm của "cá nhân" ông.

Ông nói rằng ước mơ của ông là chính phủ Việt Nam ra một công văn yêu cầu người dân không được theo sư Minh Tuệ "để sư dược an yên bộ hành hành đạo khắp Việt Nam, để đến đâu mang niềm hạnh phúc, thanh bình cho nhân loại".

"Nếu chính phủ không hỗ trợ cho sư Minh Tuệ thì "tội nghiệp sư Minh Tuệ lắm và tội nghiệp cho tam đoàn là những người có duyên tu hạnh đầu đà".

"Vì nếu ẩn tu ở rừng sâu thì quý sư sẽ không đủ thực phẩm để sống qua ngày và dưỡng thân tu học.

"Ngủ trong rừng bị muỗi chích, gió độc thì không đủ sức khỏe để hành thiền.

"Người tịnh tâm trong gốc cây, hang đá, nghĩa địa thì phải có một sức định sâu sắc nhiều đời nhiều kiếp.

minhdao3

Sư Thích Minh Đạo cho rằng trường hợp sư Thích Minh Tuệ là "rất quý giá", cần giữ gìn như một "pháp bảo của nhà Phật"

"Còn các huynh đệ tháp tùng thì có thể không chịu nổi.

"Ở rừng thiêng nước độc thì có khi còn sốt rét, bệnh tật, rất tội nghiệp.

"Còn nếu sư xuống là thì nhiều người tiếp tục chạy theo, gây ách tách giao thông, cản trở xã hội.

"Ví dụ xe cứu thương, cứu hỏa đang đi thì bị tắc lại do đám đông.

"Một tỉnh xảy ra bao nhiêu chuyện do lực lượng cảnh sát không đủ chia người cho công tác an ninh.

Do đó các Phật tử không thể ngưỡng mộ sư Minh Tuệ bằng cách chạy theo để chụp hình, quay phim và xin phước...".

Sư Minh Đạo cũng cho hay rằng mặc dù đã góp ý về vấn đề này "và đã bị quở phạt", nhưng vì tấm lòng thương kính một nhà sư mà "ngàn năm mới có một thuở" nên ông tiếp tục lên tiếng.

Ông nhận định rằng "Việt Nam xưa kia thì không biết nhưng từ khi sư Minh Đạo ra đời và biết tu hành thì chỉ thấy có một sư Minh Tuệ có thể tu trọn vẹn hạnh đầu đà".

Sư Thích Minh Đạo cho rằng chính vì vậy mà trường hợp sư Thích Minh Tuệ là "rất quý giá", cần giữ gìn như một "pháp bảo của nhà Phật".

minhdao4

Sư Thích Minh Tuệ đã trở thành một hiện tượng tu hành hiếm có ở Việt Nam

"Còn nếu mọi người cứ hô hào nhau chạy theo thì sẽ ảnh hưởng đến trật tự xã hội và có thể khiến sư Minh Đạo sợ cuộc đời này mà về cõi Niết bàn sớm thì chúng ta sẽ vĩnh viễn không bao giờ còn thấy một nhà sư có đức hạnh đẹp như vậy", sư Minh Đạo nói trong video.

Bài nói chuyện của sư Minh Đạo xuất hiện cùng ngày (9/6) với video của VTV về sư Minh Tuệ, nói về việc ông Tuệ "chưa xác định thời gian tiếp tục bộ hành".

VTV phát video này sau khi video đầu tiên của nhà đài về sư Minh Tuệ hôm 8/6 với nhan đề "Thông tin xuyên tạc ẩn tu của ông Thích Minh Tuệ" vấp phải hoài nghi của người xem về độ chân thực của thông tin.

Xuyên suốt phóng sự của VTV, nữ phóng viên Liên Liên (người phỏng vấn ông Minh Tuệ) và nhà sư không có thời điểm nào xuất hiện chung khung hình. Nhiều người cho rằng cảnh nền, ánh sáng của sư Minh Tuệ và phóng viên không ăn khớp với nhau.

Điều này khiến khán giả thắc mắc, không biết liệu đoạn phóng sự có bị cắt ghép hay không.

Cảnh nền trong những khung hình của phóng viên Liên Liên bị làm mờ khá nhiều, càng khuếch đại sự nghi ngờ lên. Trong khi đó, cảnh nền của nhà sư là một gốc cổ thụ có quét vôi. Nhiều ý kiến cho rằng cảnh quay phóng viên và cảnh quay nhà sư được thực hiện khác thời điểm, thậm chí khác địa điểm.

Bên cạnh đó, không ít tài khoản mạng xã hội bình luận rằng gương mặt, cử chỉ của sư Minh Tuệ cho thấy ông đang ưu tư, lo lắng chứ không an yên.

Hành trình bộ hành và việc sư Minh Tuệ ‘biến mất’ thời gian qua đang trở thành tâm điểm dư luận.

Hôm 10/6, Công an Gia Lai cũng tung video trên trang Facebook có tích xanh của mình cho thấy sư Thích Minh Tuệ đi nhận căn cước công dân.

minhtue5

Hôm 10/6, Công an Gia Lai cũng đăng video trên trang Facebook có tít xanh của mình cho thấy sư Thích Minh Tuệ đi nhận căn cước công dân

Trước đó, Ban Tôn giáo Chính phủ ra thông báo cho hay sư Thích Minh Tuệ "tự nguyện ẩn tu" sau khi chính quyền có cuộc trao đổi và gặp gỡ ông ở Huế.

Việc sư Minh Tuệ có thực sự tự nguyện dừng cuộc bộ hành hay không và ông "ẩn tu" ở đâu, bao giờ ông được nối lại hành trình bộ hành khất thực mà ông cho biết đã "phát nguyện thực hiện cho tới khi chết", tới nay vẫn là những câu hỏi chưa có lời đáp.

Nguồn : BBC, 10/06/2024

Additional Info

  • Author Hoàng Anh, Thu Phương, BBC tiếng Việt
Published in Diễn đàn

Phật Giáo đã ra đời hơn 2600 năm, có đến 18.000 pháp môn. Mỗi pháp môn đều có kinh điển đặc trưng, tuy dị biệt nhưng vẫn lấy Từ Bi Hỷ Xả là giá trị căn cốt, hướng chúng sanh thực hành Giới Định Tuệ, rèn luyện Bát Chính Đạo đạt đến trí tuệ giải thoát. Tiến trình tu tập của phật tử, cư sĩ, tu sĩ là thực hành giới luật, các điều Phật dạy, sống thiểu dục, chuyển hóa tham sân si ở những mức độ khác nhau. Đó là Chính Pháp.

phatgiao1

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của Giáo hội Phật giáo – Các đại biểu chủ trì Hội nghị ngày 10/10/2022. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam

Phật giáo Việt Nam có lịch sử lâu đời từ thời Bắc Thuộc vẫn phát triển theo dòng chảy, truyền thống ấy. Tuy nhiên, từ 1981 Giáo hội Phật Giáo Việt Nam ra đời, trực thuộc tổ chức chính trị Mặt trận Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được người dân gọi là Giáo hội Quốc doanh lại có một Đạo pháp khác với slogan Đạo pháp - Dân tộc- Xã hội chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa là thiên đàng không có thực, là gông cùm của dân tộc thì Đạo pháp xã hội chủ nghĩa không thể tôt lành.

Gần đây, hiện tượng sư Minh Tuệ, sáu năm qua thực hành hạnh Đầu Đà đầu trần, chân đất, mang lõi nồi cơm điện thay bình bát, khất thực mỗi ngày chỉ ăn một lần, không nhận tiền bạc hay thực phẩm dư thừa, đắp y phấn tảo tự may từ vải nhặt được ngoài đường, đêm ngủ ngồi ở gốc cây, nghĩa địa… bốn lần đi xuôi ngược Bắc Nam đang gây xôn xao dư luận trong ngoài nước. Sư khiêm tốn xưng con với mọi người, không dám nhận mình là tu sĩ hay nhà sư, ông cũng nhấn mạnh trước đây từng có xuất gia vào chùa nhưng thấy không phù hợp nên ra đi và ông không liên quan đến giáo hội hay một chùa nào. Ông cố ý dùng lõi nồi cơm điện thay bình bát để không gây nhầm lẫn với các nhà sư. Ông xác định là người Việt Nam học theo lời Phật dạy và đi bộ là để rèn luyện sức khỏe, giữ thân tâm an lạc.

Đông đảo Phật tử, cả người không có đạo lẫn chức sắc Công giáo, Cao đài… đều xúc động kính ngưỡng phẩm hạnh tu hành của nhà sư và đều cảm nhận được đây là hình ảnh chân thực, sống động đức hạnh và hành trình của Đức Phật mà trước nay chỉ nghe thấy qua kinh sách. Có người xem sư Minh Tuệ là hành giả hiếm hoi thực hành chính pháp hết sức nghiêm cẩn mẫu mực xưa nay hiếm người làm được. Có người xem Sư là vị Phật sống. Số người đồng tu tự nguyện cùng theo Sư hành trình càng lúc càng đông nay lên đến hơn 60 người. Trên mọi chặng đường đi hàng ngàn người dân địa phương đổ ra đường chào đón, đảnh lễ hay đồng hành. Mạng xã hội tràn ngập thông tin bày tỏ sự ngưỡng mộ, sự tỉnh thức, sự phát nguyện hướng theo giáo lý Phật học từ tấm gương hành trì đạo hạnh của sư. Không chỉ người trong nước mà nhiều người Việt từ nước ngoài đã bay về nước xin đồng hành. Ngày 29-5 vừa qua, thầy Minh Thiện một người Việt ở Mỹ về đồng hành mấy ngày đã viên tịch trên đường khất thực. Nhiều người đồng tu khác đã rời đoàn do không chịu nỗi thử thách khắc nghiệt của hành trình. Thế nhưng đoàn người đồng tu không giảm mà vẫn tăng lên hàng ngày.

Ấy thế nhưng nhiều chức sắc và ngay chính Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban Tôn giáo Chính phủ lại có ý kiến, văn bản khẳng định sư Minh Tuệ không phải là Tu sĩ Phật giáo và lưu ý các tổ chức trực thuộc phải "Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở địa phương hướng dẫn tăng ni, phật tử tu học theo đúng chính pháp của Đức Phật, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và cách thức hành trì của mọi người nhưng cần đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của pháp luật" (1).

Cả hai tổ chức quan trọng trên lại đưa ra yêu cầu rất đáng quan ngại là "Liên hệ với chính quyền địa phương có biện pháp ngăn chặn hành vi sử dụng mạng xã hội tạo làn sóng dư luận xúc phạm Giáo hội Phật giáo Việt Nam"

Không chỉ nói mà còn hành động. Thượng tọa Thích Minh Đạo, Trụ trì Tu viện Minh Đạo tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, bị Giáo hội Phật giáo địa phương kiểm điểm sau khi ông đăng video khen ngợi Thầy Minh Tuệ. Thượng tọa Minh Đạo phải quỳ sám hối với các nhà sư khác và xin thôi các chức vụ trong giáo hội là ủy viên thường trực của Ban trị sự tỉnh, phó Ban trị sự thị xã Phú Mỹ… Chỉ còn là trụ trì Tu viện Minh Đạo đang cưu mang 64 trẻ mồ côi (2).

Sự việc chưa dừng lại ở đó, mạng xã hội đang lan truyền văn bản của Văn phòng 2 Hội đồng Trị sự Giáo hội mời sư Minh Đạo làm việc vào ngày 4/6 về "nội dung thuyết giảng thiếu chuẩn mực". Có thể sẽ còn có thêm sự trừng phạt mới từ cấp trung ương. Một nhà sư khen tặng người tu khác sao phải bị trừng phạt nặng nề như vậy ?

Ai cũng thấy và chính Ban Tôn giáo, Hội đồng Trị sự Giáo hôi cũng thấy thầy Minh Tuệ tu theo hạnh Đầu Đà của Phật Giáo nhưng tại sao lại phủ nhận ông không phải là tu sĩ. Chính pháp của giáo hội quốc doanh theo slogan Đạo pháp xã hội chủ nghĩa khác với đạo pháp truyền thống như thế nào mà cho rằng tán than người tu theo hạnh Đầu Đà sẽ "xúc phạm Giáo hội Phật giáo Việt Nam" ?

Trong cơ cấu quyền lực của thể chế cộng sản, tất cả các tổ chức tôn giáo được cấp phép đều là tổ chức ngoại vi của đảng, do đảng lãnh đạo, người điều hành đều là đảng viên. Phật giáo quốc doanh cũng vậy.

Để trả lời chính xác câu hỏi này cần vận dụng câu nói để đời của cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu "…Phải nhìn kỷ những gì cộng sản đã làm".

Điều dễ thấy nhất là suốt mấy chục năm qua, đảng đã nhào nặn Phật giáo Quốc doanh thành cơ sở kinh doanh tâm linh thu hút tài sản cúng dường của phật tử, doanh nghiệp. Đức Phật, bậc trí tuệ giải thoát bị biến thành vị thần linh chuyên thâu nhận và ban phát tiền bạc, chức quyền tuổi thọ, một tên quan tham nhận tiền cúng dường và đáp đứng lòng tham của người cầu cúng. Không chỉ là những ma tăng, sàm tăng Thích Chân Quang, Thích Thái Trúc Minh, Thích Nhật Từ… chuyên rao giảng niềm tin sai trái mê hoặc phật tử để thu tiền mà phần lớn, nếu không nói là hầu hết, các chức sắc phật giáo quốc doanh đều cùng một giuộc. Đằng sau mỗi ngôi chùa lớn đều có quan chức cao cấp đỡ đầu để cấp phát đất đai phá rừng nguyên sinh, chiếm lĩnh vị trí đắc địa để kinh doanh dụ lịch, địa ốc. Chùa Bái Đính, Ba Vàng, hệ thống hàng chục chùa Trúc Lâm diện tích hàng chục đến hàng trăm ha. Đặc biệt, Chùa Tam Chúc được xem là ngôi chùa lớn nhất thế giới tính đến hiện tại. Nằm cách Hà Nội khoảng 70km, ngôi chùa này rộng 144 ha trong tổng diện tích 5.100 ha của Khu du lịch quốc gia Tam Chúc. Đây là điểm du lịch có quy mô lớn, kết hợp giữa du lịch tâm linh, sinh thái và nghỉ dưỡng.

Công cuộc kinh doanh của chùa ngày càng mở rộng chuyên nghiệp hơn, mỗi ngôi chùa lớn đều có công ty kinh doanh. Thiền Tông Phật Quang của Thích Chân Quang có công ty Pháp Quang kinh doanh đa ngành truyện sách, thời trang Phật giáo, dược phẩm có hàng chục đại lý ở nhiều tỉnh thàn (3).

Chùa Giác Ngộ của Thích Nhật Từ có Qủy Đạo Phật Ngày nay với hàng chục chương trình quyên góp cúng dường trai tăng, ấn tống kinh kệ… với nhiều phương thức đóng góp đa dạng online, offline (4).

Trái ngược hoàn toàn với chính pháp Phật Giáo truyền thống là hướng con người đến lối sống đơn giản thiểu dục, từ bi, thiện lành với cả chúng sinh, chính pháp của giáo hội quốc doanh kích hoạt lòng tham, vị kỷ của phật tử đến vô giới hạn không chỉ kiếp này mà đến cả kiếp sau thông qua việc vét túi cúng dường. Thuyết nhân quả, nhân duyên bị diễn dịch như cuộc đầu tư siêu lợi nhuận, kiếp này cúng dường trăm triệu kiếp sau thành tỉ phú. Mọi tội lỗi ác nghiệp gâ ra đều có thể mua chuộc hối lộ trời phật qua cúng dường.

Cũng giống như công cuộc đốt lò, chống tham nhũng của Đảng chỉ đốn chân đối thủ, thẳng tay với dân đen, bao che cho đồng bọn, xử lấy lệ những vụ đã bại lộ không thể che dấu, giáo hội quốc doanh cũng lờ đi, thỏa hiệp bao che cho những kẻ phạm giới, phạm pháp mười mươi. Với sư Ba Vàng Trúc Minh, việc cúng oan gia trái chủ lừa dân chiếm hàng chục tỷ đồng chỉ bị cách chức qua loa. Vừa phục hồi chức vụ, sư Ba Vàng lại bày ra việc xá lợi tóc phật đầy tai tiếng rồi cũng chỉ bị phạt sám hối, cấm tổ chức lễ hội quốc tế 1 năm. Điều quan trọng là Giáo hội Quốc doanh cứ ỡm ờ không dám nói thật với dư luận đó là Xá Lợi Tóc thật hay chỉ là cỏ biết đi bán tràn lan trên mạng.

Nguy hiểm nhất là với Thích Chân Quang ngoài những bài thuyết pháp thô bỉ về chuyện cúng nhà đất cho chùa, hay nhân quả nhảm nhí, ma tăng này còn dám sửa đổi nội dung ngũ giới cấm của Đức Phật. Đây là quy ước quan trọng căn bản nhất cho đạo đức con người, Chân Quang đã bỏ giới cấm tà dâm và thay vào đó là cấm phản bội. Đây cũng là đặc trưng nhất của chế độ cộng sản muốn biến mọi người đều trở thành nô lệ, công cụ ngoan ngoãn phục vụ cho chế độ độc tài (5).

Chính vì vậy, Chính pháp của Giáo hội Quốc doanh đối kháng 100% với Phật pháp truyền thống. Phật giáo chân chính giúp con người gạn đục khơi trong với bản thân, sống hài hòa thân thiện với tha nhân và lớn hơn là với cả chúng sinh. Chính Pháp quốc doanh là sự lừa mị, kích động lòng tham, sự lầm lạc của con người chạy cuốn theo giá trị vật chất, ảo tưởng quyền lực và trở thành thiêu thân cho đám ma tăng cộng sản.

Đức độ, phẩm hạnh tu hành của sư Minh Tuệ đã đánh thức lương tri con người, hồi sinh sức sống thanh khiết cho phật giáo truyền thống vô tình trở thành đối thủ nguy hiểm không chỉ cho bọn ma tăng mà còn có nguy cơ làm suy giảm quyền lực của chế độ độc tài.

Kiếp nạn lớn nhất đang chực chờ sư Minh Tuệ. Thầy ông Nội Lê Tùng Vân là quái nhân ngoài hành tinh hơn 80 tuổi vẫn loạn luân sinh con sòn sọt, lão tướng Trần Độ trên 70 tuổi còn bị bắt khi ăn nằm với gái, một tội ác nhơ nhớp không tưởng nào đó sẽ phủ lên, bôi đen phẩm hạnh của sư Minh Tuệ trong một ngày không xa. Nguy hiểm hơn nửa, có thể sư Minh Tuệ sẽ đột nhiên vắng bóng như Tổ sư Minh Đăng Quang hay Đức thầy Huỳnh Phú Sổ. Đó là sở trường chính pháp của Giáo hội Quốc doanh.

Gió Bấc

Nguồn : RFA, 31/05/2024

1. https://tuoitre.vn/ban-ton-giao-chinh-phu-va-giao-hoi-phat-giao-viet-nam...

2. https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c9een8k8yxdo

https://thientonphatquang.com/danh-sach-dai-ly-phap-quang/

3. https://quydaophatngaynay.org/cung-duong-hoc-phi-tang-doan-chua-giac-ngo...

4. https://baotiengdan.com/2024/05/25/ong-thich-chan-quang-tu-y-sua-doi-gioi-cam-va-dieu-nguyen-cua-phat-giao/

5. https://baotiengdan.com/2024/05/25/ong-thich-chan-quang-tu-y-sua-doi-gio...

Additional Info

  • Author Gió Bấc
Published in Diễn đàn

Chính phủ Dương Văn Minh bị bắt buộc phải đầu hàng, cũng có nghĩa là Phong trào Phật giáo Dấn thân phải đầu hàng, bởi vì họ đã cùng với các nhóm thuộc Thành phần thứ Ba khác như nhóm các chức sắc Công giáo cấp tiến (tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, thượng nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền, các linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần…), nhóm các nghị sĩ, dân biểu đối lập Vũ Văn Mẫu, Bùi Tường Huân, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Trần Văn Tuyên… đại diện cho đa số nhân dân miền Nam hậu thuẫn chính phủ ấy.

phapnan1

Ngày 31/3/1975 : Nhà lãnh đạo Phật giáo quyền lực nhất Nam Việt Nam, Thích Trí Quang (bìa trái) biểu tình đòi Tổng thống Thiệu từ chức. Trí Quang dẫn đầu một cuộc biểu tình của các nhà sư, giáo sĩ và cư sĩ. Thích Trí Quang được cho là đã góp phần cho việc lật đổ cố Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963

Bi kịch nằm ở chỗ, những người đã từng dấn thân, chống hai chế độ độc tài gia đình trị (Ngô Đình Diệm) và quân phiệt trị (Nguyễn Văn Thiệu), chống cuộc chiến tranh của Mỹ, kêu gọi hòa bình và hòa giải, hòa hợp dân tộc, lại thay cho "Mỹ – Ngụy" cúi đầu, dong tay đầu hàng trước xe tăng và họng súng của "quân giải phóng" trưa 30/4/1975. Bởi vì nếu không làm như thế Sài Gòn sẽ đổ nát và hàng chục ngàn người của cả hai phía chết chóc, thương tật trong cuộc xung đột cuối cùng với quyết tâm được đúc kết bằng khẩu hiệu "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào" của Đảng cộng sản.

Bi kịch còn lớn hơn, một khi nắm được chính quyền, Đảng cộng sản tiến hành các cuộc cải tạo đối với tất cả các thành phần quần chúng (không cộng sản) trong gần 14 triệu nhân dân miền Nam. Họ quên rằng, trong cương lĩnh của Mặt Trận Giải Phóng năm 1960, trong tuyên ngôn của Liên minh các Dân tộc – Dân chủ và Hòa bình năm 1968, trong tuyên bố của Chính phủ lâm thời Cộng Hòa miền Nam, kể cả trong tuyên truyền của đài phát thanh Hà Nội trước đó và sau này, họ không ngừng rêu rao khẩu hiệu Hòa Bình – Dân Chủ, Hòa Giải, Hòa Hợp Dân Tộc.

Nhân dân miền Nam, ngoài trừ một thiểu số cộng sản, đa phần nếu không "ngụy quân" thì "ngụy quyền", nếu không tư sản thì trí thức, nếu không nông dân thì thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, nếu không Phật giáo thì Công giáo, Cao Đài, Hào Hảo, Tin Lành… Tất cả đều phải bị cải tạo để đất nước "tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội".

Như thế là hàng trăm ngàn người bị bắt đi tù, hàng triệu người bị cưỡng bách lao động cải tạo – học tập tẩy não, hàng triệu người đi kinh tế mới, hàng triệu người mất nhà, mất đất, mất xưởng, mất tiệm buôn, mất công ăn việc làm, vợ chồng, con cái lê la đầu đường xó chợ, hàng mấy triệu người vượt biên… Lại chết chóc, tra tấn, tù đày, đói khổ, bệnh tật. Hết bạo động chiến tranh thì bạo động cách mạng. Thực tế là một cuộc chiến tranh khác. Đảng cộng sản tuyên chiến với tất cả mọi tầng lớp nhân dân bằng bạo quyền toàn trị.

Cũng như chức sắc các tôn giáo khác (Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành…), các thiền sư lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang) cùng cộng đồng tu sĩ, Phật tử hiện diện trong biển khổ của nhân dân, nhận ra trách nhiệm của mình trong cuộc đấu tranh vô vọng trước guồng máy bạo quyền.

Đối với Đảng cộng sản, Phật giáo cũng như các tôn giáo khác, đều mang mầm mống phản động. Sau 1975, một tờ rơi phát tán từ Ủy ban Mặt trận các cấp ghi lại lời của giáo chủ Các Mác : "Tôn giáo là lương tâm của một thế giới không có lương tâm (thế giới tư bản chủ nghĩa – cộng sản), là tiếng kêu bi thương trong một xã hội đầy rẫy bất công và áp bức, là thuốc phiện của nhân dân".

Các đảng viên cộng sản chú trọng đến mệnh đề cuối cùng của câu trích dẫn trên : "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân". Đã là "thuốc phiện của nhân dân" thì bài trừ là tất nhiên. Năm 1930, trong Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, Đảng cộng sản đã nêu khẩu hiệu ba không : không gia đình, không tổ quốc, không tôn giáo. Trong các thời kỳ vận động cách mạng và tiến hành chiến tranh về sau, một mặt cộng sản kêu gọi lòng "yêu nước", "đoàn kết lương giáo", một mặt họ ngấm ngầm bài trừ tôn giáo dưới chiêu bài tự do tôn giáo với sách lược tôn giáo vận.

Về mặt tổ chức : Trước năm 1975, Tôn giáo vận thuộc trách nhiệm Ban Dân vận trung ương (của Đảng cộng sản). Sau năm 1975 do tình hình phức tạp của miền Nam, Tôn giáo vận vừa trực thuộc Ban Dân vận, vừa trực thuộc Ban Bí thư trung ương đảng, đều do ủy viên Bộ Chính trị phụ trách.

Trước khi công cụ hóa Giáo hội Phật giáo (1981), Đảng cộng sản cử Trần Quốc Hoàn, một ủy viên bộ chính trị đã làm bộ trưởng Công an 35 năm, làm trưởng Ban Dân vận. Về mặt chính quyền, Đảng cộng sản còn tổ chức một ban (tương đương một bộ) gọi là Ban Tôn giáo chính phủ. Chức năng của nó là thay mặt Đảng và Chính phủ làm công tác "vận động tôn giáo". Họ lợi dụng lòng yêu nước và sử dụng chiêu bài "yêu nước" để ràng buộc, khống chế các đối tượng tôn giáo với khẩu hiệu : "Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội". Khẩu hiệu này ngấm ngầm nội dung răn đe đầy tính chất bạo động : "Không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước". Mà không yêu nước là phản động, là Việt gian bán nước, là tàn dư phong kiến, Mỹ – Ngụy, là phản động mới, là chuyển hóa, chuyển biến hòa bình, đáng bị tiêu diệt.

Ở đây xin mở một ngoặc đơn để làm rõ nội dung nhóm từ "phản động mới". Phản động mới tất nhiên không phải là phản động cũ. Phản động cũ là "phong kiến, thực dân – đế quốc, Mỹ – Ngụy và tàn dư của chúng". Phản động mới phát sinh từ trong lòng chế độ mới xã hội chủ nghĩa.

Phản động mới bao gồm những người viễn mơ lý tưởng cộng sản đã và đang thức tỉnh, hoặc những người kháng chiến không cộng sản, hoặc những người đấu tranh vì mục tiêu Tự do, Dân chủ, Hòa bình, Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc trong xã hội miền Nam trước 1975. Phản động mới đặt vấn đề với chế độ, chất vấn chế độ trước đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng, trước những tệ nạn xã hội : tham ô nhũng lạm, những vi phạm nhân quyền, tự do, dân chủ…

Ở miền Bắc sau 1954, nhóm Nhân văn - Giai phẩm… là phản động mới. Ở miền Nam sau 1975, nhóm Câu lạc bộ kháng chiến của Nguyễn Hộ, Trần Văn Giàu, Trần Văn Trà…, Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, nhóm Phật giáo đấu tranh Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Tuệ Sĩ, Thích Trí Siêu…, nhóm Công giáo cấp tiến Chân Tín – Nguyễn Ngọc Lan…, nhóm nghị sĩ dân biểu đối lập Bùi Tường Huân, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Trần Văn Tuyên, Kiều Mộng Thu… là phản động mới.

Đối với Phật giáo, Đảng cộng sản có cái nhìn đặc biệt. Ngoài nhóm Thích Tâm Châu chống Cộng công khai, ủng hộ cuộc chiến tranh của Mỹ, ủng hộ chế độ Nguyễn Văn Thiệu đã chạy ra nước ngoài ; ngoài nhóm "Phật giáo yêu nước" do Đảng khai sinh để làm công cụ, đa phần các nhóm Phật giáo còn lại, đặc biệt Giáo hội Phật giáo Ấn Quang (còn gọị là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất) là một thế lực đáng gờm.

Họ nổi tiếng thế giới qua các cuộc đấu tranh trong các đô thị miền Nam từ năm 1963 đến năm 1975, họ có uy tín trong đa số Phật tử và quần chúng, họ có khả năng vận động quần chúng đấu tranh vì các mục tiêu dân chủ, nhân quyền và lành mạnh hóa xã hội, họ "cực kỳ nguy hiểm" trong chế độ mới, đặc biệt các nhân vật âm thầm, dị ứng với ý thức hệ cộng sản như Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Tuệ Sĩ, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Thích Nữ Trí Hải… Đặc biệt hơn nữa là Thích Trí Quang, theo nhận định của một số lãnh tụ đảng như Trần Bạch Đằng, là "CIA chiến lược".

Do vậy, từ sau khi bắt buộc chính phủ Dương Văn Minh đầu hàng, kết thúc chiến tranh, thiết lập chế độ quân quản, tiến hành các cuộc cải tạo, áp đặt chế độ toàn trị trên cả hai miền đất nước, Đảng cộng sản đã sử dụng bộ máy công an, bộ máy hành chánh, bộ máy dân vận mặt trận, nhằm trấn áp tiêu diệt các "mầm mống phản động mới", vô hiệu hóa giáo hội Ấn Quang và giáo hội các tôn giáo khác, giải tán các tổ chức quần chúng Phật tử, quốc hữu hóa các cơ sở giáo dục xã hội của các giáo hội ấy, hình thành một giáo hội Phật giáo mới làm công cụ cho Đảng hoạt động trong khuôn khổ Mặt trận Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng cộng sản.

Công an, cán bộ dân vận Mặt trận và Ban tôn giáo chính phủ không khó để lên danh sách, phân loại mức độ "phản động" trong hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo Ấn Quang để tìm ra biện pháp thích đáng cho từng đối tượng. Bởi từ trong các thời kỳ đấu tranh trước (trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa) cũng như hiện tại (trong chế độ cộng sản) họ công khai lập trường Tự do, Dân chủ, Hòa bình, Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc.

Trong thời chiến, cộng sản cổ vũ các cuộc đấu tranh của Phật giáo vì các mục tiêu ấy cốt để làm rối loạn xã hội và hàng ngũ đối phương, làm tuyên truyền thế giới và kích thích tinh thần chiến đấu "Giải phóng miền Nam" của bộ đội cụ Hồ. Nhưng nay chiến tranh đã chấm dứt, Đảng cộng sản không muốn có bất cứ một trở ngại nào trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tự do, Dân chủ, Nhân quyền – theo nhận thức của cộng sản là những sản phẩm của chế độ tư bản phản động, là tàn dư của Mỹ – Ngụy cần loại trừ.

Những lãnh tụ của Phật giáo Ấn Quang không bị bắt đi cải tạo trong các trại tập trung như "Ngụy quân – Ngụy quyền", nhưng họ cần bị kiểm soát chặt chẽ, cần bị tướt đọat hết mọi phương tiện, cần cách ly các cộng sự và quần chúng. Trong trường hợp này, cá nhân nào ngoan cố sẽ bị trừng trị thích đáng bởi đòn phép công an : chỉ định cư trú, nhà tù và cả cái chết.

phapnan2

Hòa thượng Thích Quảng Độ, cùng các vị tăng ni, hòa thượng khác, bị bắt và đưa ra tòa tại Tòa án nhân dân thành Hồ hồi tháng 8/1995. Nguồn : Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng

Đòn phép đầu tiên chế độ cộng sản dành cho các chức sắc tôn giáo nói chung, các lãnh tụ Ấn Quang và các chùa Phật giáo khắp miền Nam nói riêng (ngoại trừ các chùa thuộc Phật giáo quốc doanh), là chế độ quản lý hộ khẩu, tổ dân phố, đồn công an và bọn chỉ điểm được cài đặt khắp nơi.

Công an toàn quyền quyết định ai có tên trong hộ khẩu, ai không, theo hai tiêu chí : an ninh và thời gian cư trú. Vì hai tiêu chí này mà hàng chục ngàn tu sĩ bị đuổi khỏi các chùa họ đang tu hành, hàng trăm chùa thuộc Phật giáo Ấn Quang bị quốc doanh hóa, hay đóng cửa.

Trong chiến tranh, cửa chùa rộng mở cho những thanh niên trốn quân dịch, những binh lính đào ngũ, những tu sĩ và Phật tử đấu tranh trốn thoát khỏi các cuộc truy lùng của bạo lực Việt Nam Cộng Hòa, kể cả những "anh em cộng sản" giả dạng nạn nhân chiến tranh vào chùa đội lốt thầy tu.

Chùa lớn là một đơn vị dân cư đặc biệt do một tổ công an đặc nhiệm đảm trách. Chùa nhỏ do một công an đảm trách hay nằm trong tổ dân phố. Công an chìm và bọn chỉ điểm được cài sẵn trong chùa hay trong các hộ dân cư liên cận. Công an chìm, chỉ điểm viên, công an đặc nhiệm, công an khu vực, công an phường, công an quận huyện, công an tỉnh, thành phố và cả công an bộ là một hệ thống chuyên chính kiểm soát, giám sát chặt chẽ nhân – hộ khẩu trong các hộ dân cư, đặc biệt các chùa, nhà thờ, thánh thất, tu viện… là "nơi mai phục, tụ họp bởi bọn phản động cũ, phản động mới".

Bất kể ngày đêm, công an và tổ dân phố toàn quyền khám xét để truy lùng "người cư trú bất hợp pháp" (người không có tên trong hộ khẩu) tại bất cứ hộ dân cư nào. Những nhân – hộ khẩu hợp pháp muốn đi đâu, bao lâu, làm gì phải khai báo, nếu không, tức thì mất hộ khẩu. (Mà mất hộ khẩu là "hậu khổ"). Công an vào tận giường các nữ tu để kiểm tra hộ khẩu lúc một, hai giờ sáng là chuyện diễn ra bình thường trong những năm đầu "giải phóng".

Mục tiêu công tác tôn giáo vận của Đảng cộng sản sau chiến tranh là hạn chế đến tối thiểu các hoạt động tôn giáo ở miền Nam, đồng thời vô hiệu hóa các giáo hội truyền thống và hình thành các giáo hội quốc doanh làm công cụ tuyên truyền cho cuộc cách mạng long trời lở đất được dẫn dắt bởi triết học Mác – Lê, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Thành tựu 20 năm tôn giáo vận ở miền Bắc sẽ là mẫu mực noi theo và cũng là bài học cho các cán bộ đảng viên chuyên trách tôn giáo vận ở miền Nam.

Đỗ Trung Hiếu, một cán bộ tôn giáo vận thuộc Ban dân vận thành ủy cộng sản Hồ Chí Minh, mô tả tình cảnh tôn giáo trên miền Bắc trong một chuyến tham quan trước năm 1980 như sau :

"Hầu hết các chùa, nhà thờ ở miền Bắc mà tôi đã đến thăm đều rêu phong tàn tạ. Các nhà sư (sư ông, sư bà) lẩm cẩm sợ sệt, một báo các cụ, hai báo các cụ. Các linh mục, giám mục đóng kín cửa lạc hậu với thời cuộc. Phật tử gần như không còn gì nữa, chỉ ẩn hiện dưới dạng mê tín, cúng bái linh tinh và rất e dè trước khách lạ. Tín đồ Thiên Chúa giáo thì khổ cực, hằn sâu trong mắt họ những nét u uất thâm nghiêm, nhưng rực lửa và sẵn sàng bốc cháy khi có mồi. Đó là mối nguy lớn, chứ không phải thành công của tôn giáo vận".

(Đỗ Trung Hiếu, hồi ký "Thống Nhất Phật giáo", Uyên Nguyên tháng 11/2018).

Đỗ Trung Hiếu, dù là đảng viên cộng sản, nhưng gốc gác Phật giáo, sâu nặng tâm thức nhân bản, nên mô tả và nhận định thực tế tình cảnh tôn giáo miền Bắc như thế là chính xác. Nhưng người cộng sản chính danh chắc chắn có cái nhìn ngược lại. Nếu không, họ đã không mưu đồ thực hiện các thủ đoạn và biện pháp quản lý tôn giáo (các giáo hội và giáo dân) gian ác, khắc nghiệt như cảm nhận từ kinh nghiệm đau thương của những nạn nhân trong cuộc. Trên đại thể, Đảng cộng sản đã đem kinh nghiệm mà họ cho là thành công trên miền Bắc áp đặt tại miền Nam trong công tác tôn giáo vận, nói riêng và quản lý con người, nói chung.

Để đạt mục tiêu ấy, chỉ riêng đối với Phật giáo Ấn Quang, ngoài các thủ đoạn và biện pháp chia rẽ kềm kẹp con người, phân liệt và vô hiệu hóa giáo hội, Đảng cộng sản còn tước đoạt và giới hạn đến tối thiểu các điều kiện sinh hoạt của các cấp giáo hội như đổi tiền, cải tạo kinh tế đối với các tầng lớp Phật tử. Một khi các tầng lớp Phật tử khánh kiệt thì lấy ai đóng góp để nuôi sống giáo hội, lấy phương tiện đâu để giáo hội tiến hành các hoạt động Phật sự ? Bần cùng, vô sản hóa nhân dân là phương cách tiêu diệt tôn giáo hữu hiệu nhất.

Phật giáo Ấn Quang đến năm 1976 đã lâm vào tình cảnh khốn cùng. Chùa thành phố, chùa nông thôn đều thiếu đói trầm trọng. Đất ruộng chùa nông thôn phải giao nộp cho hợp tác xã. Chùa thành phố, sau hai lần đổi tiền, không có tiền mua gạo sắn khoai, rau muối, hương đèn, áo quần giày dép ! Đây không phải tình cảnh tôn giáo trên miền Bắc trước 1975 sao ?

Để đạt mục tiêu ấy, đối với Phật giáo Ấn Quang, Đảng cộng sản còn :

– Giải tán Trung tâm Thích Quảng Đức, Tổng vụ Thanh niên, các đoàn Sinh viên Phật tử, Thanh thiếu niên Phật tử, Hướng đạo Phật tử ở thành phố, tỉnh lị, và các Gia đình Phật tử, các Khuôn hội, Niệm Phật đường ở nông thôn.

– Giải tán và tước đoạt tài sản cô nhi viện Quách Thị Trang tại Sài Gòn và hàng chục cô nhi viện và cơ sở xã hội ở các tỉnh.

– Giải tán, tước đoạt tài sản Viện Đại học Vạn Hạnh và 163 trường trung tiểu học Bồ Đề trên khắp các tỉnh thành miền Nam. Thư viện Đại học Vạn Hạnh rất lớn chứa hàng chục ngàn đầu sách, bao gồm các thứ tiếng : Việt, Anh, Pháp, Đức, Hán, Pali, Sancrit, và hàng trăm tủ sách tại các trường Bồ Đề đều bị đốt thành tro bụi. Hàng ngàn thầy cô giáo mất việc vì không đáp ứng yêu cầu chính trị để được Đảng "lưu dung" (lưu lại mà dung tha, lưu lại mà sử dụng).

– Thư viện và kho tài liệu đồ sộ tại chùa Ấn Quang bị tịch thu và đốt thành tro buị.

– Giải tán, tước đoạt tài sản nhà xuất bản Lá Bối, tạp chí Tư Tưởng, tạp chí Liên Hoa…, đốt hàng chục ngàn đầu sách và tạp chí triết, văn, sử "đồi trụy, phản động".

– Giải tán Phật học viện Nha trang và các cơ sở đào tạo tăng ni cao đẳng, trung cấp ở nhiều tỉnh thành khác. Thư viện của Phật học viện cũng bị đốt.

Điều vô cùng bạo ngược chưa có chế độ nào làm trước năm 1975 là can thiệp vào nội dung, chương trình truyền giảng Phật pháp và cách thức tổ chức các cuộc lễ tại các chùa. Theo đó, trụ trì các chùa tùy theo tầm vóc mà được mời tới Ủy ban Mặt trận từ xã phường, quận huyện, đến tỉnh thành để "được đề nghị" kết hợp Phật pháp với các bài giảng chính trị về "sự nghiệp cách mạng của Bác, Đảng quang vinh", về "chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng vô địch muôn năm", về các cuộc chiến tranh thần thánh, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng bọn "tay sai Ngụy quân – Ngụy quyền". Đây là giọt nước tràn ly, là giới hạn cuối cùng của sự chịu đựng.

Biết đấu tranh trong chế độ cộng sản là lấy trứng chọi đá, là hành động tuyệt vọng, nhưng rồi vẫn cứ đấu tranh. Những cuộc đấu tranh tuyệt vọng này của các thành viên Phật giáo Ấn Quang tạm chia thành hai thời đoạn : Trước và sau năm 1981 – thời điểm Phật giáo Ấn Quang bị đè bẹp, và Phật giáo Quốc doanh – Giáo hội Phật giáo Việt Nam được Đảng cộng sản khai sinh.

Giáo hội Phật giáo Ấn Quang từ sau tháng 5/1975 gần như bị tê liệt hoàn toàn. Các lãnh tụ lừng danh một thời như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ… vẫn còn đó, nhưng không phát động được phong trào đấu tranh mà họ nung nấu vì những lý do như đã trình bày trên. Từ tháng 5/1975 đến tháng 11/1981 (thời điểm thành lập giáo hội quốc doanh), theo ghi nhận chưa đầy đủ, tại miền Nam (từ Quảng Trị-Huế đến Cà Mau) đã xảy ra các sự cố sau đây :

Bi kịch - thảm cảnh chùa Dược Sư

Chùa Dược Sư tọa lạc tại một địa điểm phía nam cách Cần Thơ khoảng 30 km. Chùa được xây dựng vào thời điểm hưng phấn nhất của Phật giáo Việt Nam : Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất lần đầu tiên được thành lập sau hơn 30 năm vận động. Nhiều chùa như thế được xây dựng trên khắp miền Nam sau thời điểm đó. Trước khi có chùa, Phật tử địa phương sinh hoạt Phật sự tại tư gia, Khuôn hội, hay Niệm Phật đường. Sau khi được biết Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập, Phật tử và Giáo hội nhiều địa phương do nhu cầu tín ngưỡng quyết định làm chùa và đề nghị Giáo hội trung ương cử tăng sĩ về làng. Đại đức Thích Huệ Hiền đến trụ trì chùa Dược Sư trong dịp này.

Đại đức Thích Huệ Hiền được đào tạo tại Phật học viện Hải Đức, Nha Trang, đã kinh qua tù tội vì tham gia đấu tranh cho Tự do và Bình đẳng tôn giáo thời Đệ nhất Cộng Hòa. Chẳng bao lâu chùa Dược Sư trở thành trung tâm tu hành, truyền bá Phật pháp thu hút sự chú ý và tin theo của Phật tử và nhân dân địa phương về con đường Đạo pháp và Dân tộc trước hiểm họa chiến tranh, chia rẽ Dân tộc, về cuộc đấu tranh vì các mục tiêu : Hòa bình, Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc theo chủ trương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Tháng 5/1975, liền sau khi chiến tranh chấm dứt, chùa Dược Sư tổ chức lễ cầu siêu cho tử sĩ của hai bên quốc gia và cộng sản với sự tham dự của đồng bào Phật tử và nhân dân địa phương. Lúc này chính quyền "Cách mạng" tạị địa phương vẫn còn sơ khai do người Mặt trận đảm trách, chưa bị Bắc hóa, nên lễ cầu siêu đã diễn ra suôn sẻ.

Nhưng càng về sau tình trạng Bắc hóa ngày một thêm phát triển, chùa bị đặt trong sự kiểm soát của công an ngày càng gắt gao : bị đấu tố phản động vì đã tổ chức lễ cầu siêu, bị kiểm tra an ninh, bị kiểm tra nhân hộ khẩu, bị bắt giao nộp tư điền và tham gia lao động cùng hợp tác xã, bị cấm treo cờ trong các cuộc lễ, bị buộc phải "ăn nói giống như mọi người" trong mọi sinh hoạt Phật sự (phải chửi bới Mỹ-Ngụy, phải ca ngợi công lao kháng chiến của "bác Hồ" và Đảng cộng sản, phải bày tỏ sự tuyệt đối tin tưởng và trung thành với cách mạng xã hội chủ nghĩa…), bị sỉ nhục là mê tín dị đoan, lười biếng lao động, bị cảnh cáo thường xuyên về "âm mưu tụ tập phản động chống phá cách mạng", bị bắt đi lính tất cả những tăng sĩ đang độ tuổi thanh niên.

Tóm lại, tình trạng chung ngoài xã hội và riêng trong chùa ngày một bế tắt, tuyệt vọng : bị thiếu đói, bị tẩy não, bị xúc phạm nhân quyền, bị cấm đoán và can thiệp nghiêm trọng các quyền tự do, đặc biệt tự do tôn giáo ; nhà sư trụ trì Thích Huệ Hiền và 11 tăng, ni chùa Dược Sư quyết định cùng nhau tự thiêu vào ngày 2/11/1975.

Trong cuộc đấu tranh đòi Tự do và Bình đẳng tôn giáo năm 1963, bắt đầu từ hòa thượng Thích Quảng Đức, ở miền Nam đã diễn ra 8 cuộc tự thiêu. Hầu hết đều tự thiêu cá thể. Lúc bấy giờ báo chí thế giới tập trung ở Sài Gòn khá đông. Ngay từ cuộc tự thiêu đầu tiên của hòa thượng Thích Quảng Đức, các phương tiện truyền thông không phân biệt cộng sản hay tư bản đều đưa tin. Người dân Mỹ và thế giới bày tỏ sự xúc động, phẫn nộ, phản đối nhà cầm quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Thế giới cộng sản càng tố cáo quyết liệt hơn và cổ vũ mạnh mẽ các cuộc đấu tranh của Phật giáo đồ.

Từ sau biến cố tháng 5/1975, chính quyền cộng sản trục xuất hết "các phóng viên ngoại quốc không đáng tin cậy", thiết lập guồng máy toàn trị, thực thi chế độ quân quản, ngăn sông cấm chợ, nên vụ tự thiêu tập thể của 12 Tăng, Ni chùa Dược Sư hoàn toàn bị bưng bít : công an giấu xác, thu dọn tang chứng, chiếm cứ chùa, đe dọa, phong tỏa người dân quanh vùng (nội bất xuất-ngoại bất nhập). Mãi đến một tuần sau, thư tuyệt mệnh của Ngài Trụ trì Thích Huệ Hiền và Chư vị Tăng Ni bất khuất chùa Dược Sư mới đến được chùa Ấn Quang, nơi mà vòng vây và sự kèm kẹp, phong tỏa của công an chặt chẽ hơn bao giờ hết. Bức thư thông báo mục đích và tên tuổi 12 người tự thiêu. 

Về mục đích, nhà sư Thích Huệ Hiền "báo cáo tình trạng tuyệt vọng do Nhân quyền và quyền Tự do tôn giáo bị chà đạp, bị vi phạm nghiêm trọng hơn rất nhiều trong chế độ cũ". Bằng mọi biện pháp, chính quyền cộng sản muốn tránh một cuộc nổi dậy từ phía Phật giáo Ấn Quang. Về phía Phật giáo Ấn Quang, các vị lãnh đạo và Phật tử còn lại (đa phần đã bị đuổi khỏi chùa vì các biện pháp an ninh và hộ khẩu của công an) vô cùng bức xúc, nhưng không còn khả năng sức lực để thực hiện bất cứ một toan tính âm thầm nào : tự thiêu cá thể, tự thiêu tập thể, biểu tình, tuyệt thực…

Không có kế hoạch nào thực hiện được tại các chùa thuộc Phật giáo Ấn Quang cả vì công an chìm, mật vụ đội lốt sư tăng Phật tử đầy chùa, công an đặc nhiệm, công an phường, công an quận, công an thành, công an bộ và cả những cán bộ Tôn giáo vận, Mặt trận vào ra tấp nập, với không biết bao nhiêu mánh lới, thủ đoạn tuyên truyền, chia rẽ, hứa hẹn, hù dọa…

Chưa bao giờ Giáo hội Phật giáo Ấn Quang lúng túng, đau khổ và giằng xé như lúc này. Trong chế độ cũ, Phật giáo chủ trương, phát động các cuộc đấu tranh vì Tự do, Bình đẳng tôn giáo, Dân chủ, Hòa bình, Hòa giải – Hòa hợp Dân tộc. Tăng, ni, Phật tử và nhân dân hưởng ứng và đã hy sinh rất nhiều. Nay đã có Hòa bình, nhưng các mục tiêu khác thì không có gì cả ! Tự do, Dân chủ ? Không ! Hòa giải – Hòa hợp Dân tôc ? Không ! Cơm no áo ấm ? Không ! Hóa ra "Giáo hội Phật giáo đã làm tay sai cho chế độ cộng sản : Đưa Phật tử và nhân dân vào tròng ?". Dĩ nhiên sự thật không phải như thế, nhưng kết quả thì hoàn toàn như thế !

Làm gì và làm như thế nào trước tình cảnh khốn cùng này ? Sám hối và cầu nguyện ? Câu hỏi này giáo hội Ấn Quang đặt ra hàng triệu lần từ khi Đảng cộng sản thiết lập chế độ cai trị khắc nghiệt trên đất nước và dân tộc.

Trần Phương, trong bài "Miền Nam sau 30/4/1975 : Khi các nhà sư vỡ mộng ", viết theo nhật báo Chicago Tribune rằng "ba tuần sau thảm họa chùa Dược Sư, Hòa thượng Thích Trí Thủ…, đã gửi thư đến Chính phủ Lâm thời miền Nam để khiếu nại. Hòa thượng Trí Thủ nói rằng cán bộ cách mạng đã tịch thu chùa Dược Sư và cả thi thể các tăng ni. Bức thư được gửi cùng thư tuyệt mệnh của trụ trì Huệ Hiền, trong đó ghi lại tên tuổi 11 tăng ni và lý do tự thiêu là để yêu cầu chính phủ cách mạng "tôn trọng triệt để tự do tín ngưỡng của các tôn giáo"… "Qua vụ việc trên, chúng tôi hy vọng chính phủ cách mạng sẽ lưu tâm đến những gì đang diễn ra ở cấp cơ sở. Chúng tôi không muốn tin rằng vụ việc đáng tiếc trên cũng như nhiều vụ việc liên quan đến tự do tôn giáo khác phản ánh chính sách của Mặt trận Giải phóng Dân tộc và Chính phủ Cách mạng Lâm thời". "…đáng lẽ chúng tôi nên đến gặp ông để trình bày chi tiết và kín đáo hơn. Tuy nhiên, một cuộc họp như vậy có vẻ là bất khả thi, kể từ khi thống nhất chúng tôi đã xin gặp chính phủ ba lần để nói về quan điểm của giáo hội đối với vấn đề tôn giáo nhưng liên tiếp bị từ chối". "Tương tự như yêu cầu xin gặp chính phủ cách mạng, bức thư của Hòa thượng Thích Trí Thủ không được hồi đáp".

Trần Phương viết tiếp : "…Tháng 9/1976, Tổ chức Nhân quyền và Ân xá Quốc tế đã gửi thư đến Bộ Nội vụ Việt Nam để yêu cầu cung cấp thông tin (về vụ tự thiêu ở chùa Dược Sư). Khoảng sáu tháng sau, Bộ Nội vụ đã hồi đáp bức thư đó bằng một giải thích rất bất ngờ. Chính phủ cho rằng theo lời khai của các nhân chứng thì ông Phạm Văn Có (tên khai sinh của Đại đức Huệ Hiền) đã giết hai ni cô lần lược vào năm 1972 và năm 1974 sau khi ông ta làm hai người này mang thai...". "…Sau ngày giải phóng, ông Có vẫn tiếp tục nhiều hành động vô đạo đức" (…) "…vì sợ việc làm của mình bị lộ ra ngoài, ông Có đã quyết định tự sát, trước khi đốt chùa và tự thiêu mình, ông đã giết chết 11 người khác trong chùa, trong đó có hai thiếu niên".

Không thể ém nhẹm, bưng bít lâu dài, trước những phản ứng quốc tế và trước những bất mãn âm thầm nhưng quyết liệt của một số chức sắc Phật giáo Ấn Quang, chính quyền cộng sản đã "tổ chức một cuộc điều tra" với sự tham dự của đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Biên bản điều tra kết luận rằng : "Đại đức Huệ Hiền đã tự sát cùng 11 người khác vì các lý do sau : Sợ bị cách mạng trừng trị vì đã làm chỉ điểm cho Mỹ-Ngụy, không còn lương thực để sống vì trước đó được Mỹ-Ngụy chu cấp và sợ chuyện dâm ô với các ni cô bị bại lộ"… "Hòa thượng Thích Quảng Độ, lúc đó là Tổng thư ký Viện Hóa đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, sau này trở thành Tăng thống thứ năm của Giáo hội, nói rằng ông và các vị hòa thượng Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang không chấp nhận lời giải thích của chính quyền".

Không chỉ có ba vị hòa thượng Thiện Minh, Huyền Quang, Quảng Độ "không chấp nhận lời giải thích của chính quyền", mà hầu hết chức sắc giáo hội Phật giáo Ấn Quang và Phật tử đều khẳng định rằng lời giải thích đó là vu khống trắng trợn, là nhục mạ đối với tăng ni chùa Dược Sư và với cả Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tuy nhiên, tùy theo mức độ dị ứng cộng sản nặng nhẹ khác nhau mà các vị lãnh đạo Ấn Quang thể hiện thái độ bất mãn mức độ khác nhau đối với chế độ.

Một số vị ôn hòa và mềm dẻo như các hòa thượng Thích Trí Thủ, Thích Minh Châu…, còn một chút hy vọng vào "công lao quá khứ" sẽ được Đảng cộng sản thừa nhận vai trò nòng cốt của một giáo hội mới trong một nước Việt Nam thống nhất sẽ đươc bầu cử sắp tới.

Một số khác đông hơn như các hòa thượng Thiện Minh, Huyền Quang, Quảng Độ, và các tăng ni trẻ như Thích Tuệ Sĩ, Thích Trí Siêu, Thích Nữ Trí Hải… thì bày tỏ thái độ bất hợp tác quyết liệt. Thậm chí có vị (như Thiện Minh) thì "thà chết chứ không chịu sống mà không có Tự Do". Rất nhiều tăng sĩ, trí thức vượt biên. Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở nước ngoài tố cáo với dư luận thế giới : cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo. Đồng thời, thiền sư Nhất Hạnh cổ vũ cho một phát động phong trào Phật giáo đấu tranh trong nước.

Phật giáo Ấn Quang bị đàn áp

Sau thời gian dài chịu đựng các cuộc cải tạo, thảm kịch chùa Dược Sư xảy ra đã xoáy vào tâm thức Phật giáo Ấn Quang những mũi khoan đau nhức không cứu chữa được.

Ngày 6 tháng 4 năm 1977, khoảng vài trăm tăng, ni, Phật tử tập họp tại chùa Ấn Quang để thảo luận về "một thái độ ứng xử, một kế hoạch đối phó với chế độ". Cuộc hội thảo đang tiến hành thì công an ập vào bố ráp. Đàn áp thô bạo đã diễn ra. Vài chục sư tăng và trí thức Phật tử, đứng đầu là các thượng tọa Huyền Quang, Quảng Độ, Tuệ Sĩ, Thanh Thế, Thuyền Ấn, Thông Huệ…, bị bắt.

Từ đó chùa Ấn Quang bị phong tỏa ngày đêm, Phật tử chỉ được đến chùa một tháng 2 lần, đầu hoặc giữa tháng, để cầu nguyện trước bàn thờ Phật. Không còn có những buổi giảng dạy Phật pháp như thông lệ trước đó. Các chùa khác thuộc giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên khắp miền Nam đều lâm vào tình trạng tương tự. Phong tỏa, kèm kẹp, kiểm tra nhân hộ khẩu, bắt tăng sĩ trẻ vào lính, bắt bất cứ ai tình nghi chính trị vào tù. Hành hạ, tra tấn, giết chóc tàn bạo hơn rất nhiều trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Nhiều chùa bị đập phá, đóng cửa. Thêm nhiều vụ tự thiêu cá thể.

Theo Trần Phương trong bài đã dẫn : "Trong hai năm 1977-1978, ở miền Nam có thêm 18 tăng ni khác tự thiêu". Thêm nhiều vụ vượt biên.

(Cũng theo Trần Phương, "Khoảng sáu tháng sau cuộc bố ráp vào chùa Ấn Quang. Hòa thượng Thích Mãn Giác, Ủy viên trung ương trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã vượt biên đến Paris (Pháp) để tố cáo các cuộc đàn áp đạo Phật đang diễn ra rất trầm trọng tại miền Nam").

Cuộc đấu tranh của thiền sư Thích Thiện Minh

Từ sau khi bị công an đuổi khỏi trụ sở Tổng vụ Thanh niên (trung tâm Thích Quảng Đức), trong gần ba năm (từ tháng 5/1975 đến tháng 3/1978), trong điều kiện không có chùa, bị cách ly tăng thân và Phật tử, không có hộ khẩu, không có sổ gạo, bị theo dõi, kềm kẹp, dọa nạt, răn đe, sỉ nhục, kể cả dụ dỗ, mua chuộc, Thích Thiện Minh vẫn kiên trì chịu đựng, đấu tranh với chính mình, đấu tranh với cái ác để giữ tư cách và sứ mệnh của người tu hành vì Đạo pháp và Dân tộc.

phapnan3

Hòa thượng Thích Thiện Minh (1921-1978). Nguồn : Hoavouu.com

Những người ngoài cuộc không biết những gì ông trao đổi với tăng thân và Phật tử trong các cuộc giao tiếp "bất hợp pháp" mà ông tranh thủ được khi vắng bóng công an. Nhưng độc giả đời sau có thể nắm bắt được nội dung các cuộc giao tiếp ấy qua cuộc đối thoại sau đây giữa người sau này là Bộ trưởng công an Mai Chí Thọ và nhà sư Thích Thiện Minh trước khi ông bị bắt :

Mai Chí Thọ : "Có thể các thầy nói hàng ngàn người nghe, chúng tôi nói không ai nghe, nhưng chúng tôi có súng, có nhà lao, có quân đội. Tất cả chúng tôi có trong tay. Liệu các thầy có chống đối được không và chống đến bao giờ ?"

Thích Thiện Minh : "Tôi nghĩ rằng ông đã nói sai. Hơn ai hết ông biết rằng trong suốt thời gian đương đầu với Pháp và Mỹ, kẻ khác chứ không phải ông đã nói những câu tương tự như vậy. Lịch sử đã chứng minh rằng, súng đạn và nhà tù không phải là tất cả, lại càng không phải là yếu tố tất thắng. Một Ngô Đình Diệm với chín năm cai trị bằng mật vụ, một Tần Thủy Hoàng với chính sách bạo ngược đốt sách chôn học trò. Kết quả như thế nào ? Đúng, chúng tôi không có tất sắt trong tay, và các ông có tất cả. Nhưng chúng tôi biết bài học lịch sử". 

(Trần Phương, tài liệu đã dẫn).

Lời của tướng công an Mai Chí Thọ là lời đe dọa trắng trợn thể hiện lập trường sắt máu cuả Đảng cộng sản : Chỉ có súng đạn, nhà tù và tra tấn, chết chóc để thành tựu cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa và khẳng định quyền lực tuyệt đối của Đảng cộng sản.

Nhưng lời đáp trả của thiền sư Thích Thiện Minh trước sự đe dọa trắng trợn của ông Mai Chí Thọ lại là lời tuyên bố của kẻ sĩ đầy khí phách, thách đố trước bạo quyền.

Sau cuộc đối thoại chát chúa với tướng công an Mai Chí Thọ, Thích Thiện Minh bị bắt. Ông bị nhốt, thẩm vấn ở trụ sở nha cảnh sát chế độ cũ, ở trại Phan Đăng Lưu. Công an tiếp tục tra khảo ông cho đến chết ở trại giam Hàm Tân.

Một ngày cuối tháng 8/1978, hòa thượng Thích Trí Thủ được tin ông chết, đến Hàm Tân xin nhận xác. Công an không cho. Hòa thượng yêu cầu được tham dự lễ chôn cất ông. Công an bảo là không được. Hòa thượng xin được tụng cho ông một hồi kinh. Cũng không được. "Luật của trại giam như thế". Thiền sư Thích Trí Thủ chỉ được phép từ biệt khuôn mặt tím đen, méo mó của người đồng đạo, đồng hương (Triệu Phong, Quảng Trị) trong cái thùng gỗ dùng làm quan tài.

Tin thiền sư Thích Thiện Minh bị giết tại trại tù Hàm Tân lan truyền đến Huế, làm rúng động tâm thức Phật tử và cả người ngoại đạo như tôi. Cuối năm 1978, tôi có viêc đi Sài Gòn, ghé thăm hòa thượng Thích Trí Thủ tại chùa Già Lam, tiện thể để biết thêm tình hình Phật giáo Ấn Quang mà tôi rất quan tâm và cũng để biết rõ hơn về con người và cái chết của thiền sư Thích Thiện Minh mà tôi cho rằng còn nhiều điều mình chưa biết.

Trên khuôn mặt phương phi nhân hậu của nhà sư già, tôi đã diện kiến mấy lần trong năm 1974 (mời độc giả xem thêm hồi ký Không Lên Núi) vơi đi rất nhiều những nụ cười an lạc. Rất nhiều ưu tư, trăn trở ông không hề giấu giếm trong suốt buổi chuyện trò. Ông nói :

"Phật giáo nói riêng từ sau biến cố 1975 đã chuyển qua thời kỳ pháp nạn mới. Thời Việt Nam Cộng Hòa, các chế độ độc tài gia đình, quân phiệt trị còn có những kẽ hở trong cai trị và những lực cản như Mỹ, báo chí và dư luận thế giới một bên, một bên là miền Bắc và Mặt Trận, nên Phật giáo tuy bị đánh phá từ ngoài và chia rẽ từ bên trong, nhưng giáo hội Ấn Quang vẫn tồn tại và phát triển như là một lực lượng văn hóa – chính trị bày tỏ nguyện vọng hòa bình, hòa giải, hòa hợp dân tộc và nhân loại.

Ngày nay, Đảng cộng sản một mình một chợ, ngấm ngầm bảo rằng hòa bình, hòa giải, hòa hợp dân tộc chỉ là vấn đề của quá khứ, là thủ đoạn chính trị trong thời chiến, nay ‘Mỹ đã cút – Ngụy đã nhào, đất nước đã hòa bình, thống nhất, đồng bào các tôn giáo phải chung sức chung lòng cùng với Đảng cộng sản tiến hành cuộc cách mạng vô sản để đưa đất nước tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội’.

Công tác tôn giáo vận của Đảng cộng sản từ sau biến cố 1975, thực chất là cải tạo tôn giáo. Một mặt, Đảng cộng sản thanh lọc hàng ngũ giáo phẩm theo hướng có lợi cho đường lối, sách lược của đảng. Một mặt, Đảng cộng sản giải tán các đoàn thể quần chúng tôn giáo. Mặt khác nữa, Đảng cộng sản quốc hữu hóa tất cả các cơ sở kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội của các giáo hội. Như thế, giáo hội Phật giáo Ấn Quang chỉ còn lại mấy ông già bị trói chân, trói tay. Thậm chí Đảng cộng sản còn muốn biến các ông già trong giáo hội thành cộng cụ để qua đó quy phục Phật tử tuân hành các mệnh lệnh kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự của đảng.

Thầy Thích Thiện Minh bị giết, lý do gần, vì đã nhất quyết chống đối sách lược tôn giáo vận ấy. Lý do sâu xa : Trước 1975, thầy đã công khai truyền bá tư tưởng về một mô hình ‘xã hội chủ nghĩa không cộng sản’. Trong số các đệ tử của thầy Thiện Minh có không ít người là cán bộ cộng sản nằm vùng, họ báo cáo lên trên. Như thế là Thích Thiện Minh đứng đầu sổ đen ‘những tên phản động chiến lược, mưu đồ đấu tranh tư tưởng với đảng thời hậu chiến’".

Tôi hỏi : Thưa Hòa thựơng, thế nào là Xã hội chủ nghĩa không cộng sản ?

Hòa thượng Thích Trí Thủ chậm rãi :

"Xã hội chủ nghĩa không cộng sản là chế độ chính trị tam quyền phân lập, các chính trị gia ở các cơ quan công quyền được nhân dân tự do bầu chọn qua phổ thông đầu phiếu. Xã hội chủ nghĩa không cộng sản chủ trương quyền lợi và nghĩa vụ của những người cùng khổ hài hòa với các giai tầng xã hội khác. Người cùng khổ được chính quyền và các tổ chức xã hội hỗ trợ nâng cao văn hóa và các điều kiện sinh hoạt, thực tập các khả năng quản lý, làm chủ kinh tế, trách nhiệm xã hội. Con cháu họ có đầy đủ các điều kiện giáo dục để có khả năng cạnh tranh bình đẳng với con cháu các giai tầng khác. Xã hội chủ nghĩa không cộng sản không có đảng độc quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, chủ trương gây căm thù qua các cuộc đấu tranh giai cấp nhằm triệt tiêu quyền tư hữu, lật đổ giai cấp Tư sản, đưa giai cấp Công nhân lên hàng thống soái. Các cơ quan công quyền trong chế độ Xã hội chủ nghĩa hành xử quyền hạn và trách nhiệm theo Hiến pháp và Luật pháp, đồng thời là trung tâm hòa giải mọi xung đột xã hội và kiến tạo môi trường sống nhân bản, hài hòa. Xã hội chủ nghĩa không cộng sản phối hợp và điều tiết hài hòa giữa Công quyền, Tư quyền (Nhân quyền, Dân quyền) và Hội đoàn quyền ; giữa Công hữu, Tư hữu và Hội – đoàn hữu ; giũa Công lợi, Tư lợi và Hội Đoàn lợi.

Mô hình chế độ Xã hội chủ nghĩa không cộng sản (còn có thể gọi là Xã hội chủ nghĩa Phật giáo) đã được giáo hội (Phật giáo Việt Nam Thống nhất) bảo trợ, bước đầu áp dụng trong cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành, thị xã thời chính phủ Phan Huy Quát (16/2 – 12/6/1964). Đáng tiếc là chính phủ Phan Huy Quát sụp đổ vị bị các thế lực chủ chiến tố cáo : thân Phật giáo, không kịp tổ chức bầu cử Quốc hội để kiến tạo chế độ Dân chủ – Xã hội, kiến tạo hòa bình theo dự kiến…".

Càng nghe hòa thượng Trí Thủ nói, tôi càng tò mò muốn biết nhiều hơn về vị thiền sư vừa mới tuẫn tiết. Tôi xin hòa thượng nói thêm về người bạn vong niên đồng hương, đồng đạo mà qua ngữ âm và cử chỉ, ông bày tỏ sự thương tiếc sâu nặng. Hòa thượng Thích Trí Thủ tiếp tục :

- Thiện Minh cùng quê Triệu Phong với mình, nhỏ hơn mình mười hai tuổi, vào chùa sau mình 17 năm. Thời ấy (đầu thế kỷ 20) nhiều trẻ em Triệu Phong đói, có em tìm đường vào chùa để kiếm cơm. Chùa không chỉ cho cơm mà chùa còn cho học Đạo (Phật pháp), học đời (các kiến thức văn hóa, lịch sử dân tộc, học thuật, tư tưởng phương Tây) và hun đúc thêm lòng yêu nước. Cả mình và Thiện Minh đều có duyên với Phật pháp, đều kiên trì, quyết đi hết con đường Đạo pháp và Dân tộc, không hề quay đầu lại.

- Thiện Minh thông minh, khỏe mạnh, tinh tấn, siêng năng, cần mẫn, 11 tuổi (1932) vào chùa Thuyền Tôn, trong vòng ba năm đã gây được niềm tin của tôn sư Giác Nhiên và tăng thân. Lúc bấy giờ trên cả ba miền đất nước, phong trào Chấn hưng Phật giáo phát khởi. Thiện Minh được khuyến khích thi tuyển vào lớp đào tạo tăng tài của trường An Nam Phật học. Trường An Nam Phật học được điều hành và giảng dạy bởi những giảng sư uyên thâm Phật pháp, đầy nhiệt huyết với tinh thần chấn hưng và lòng yêu nước : các thiền sư Giác Tiên, Phước Huệ, Trí Độ, Mật Thể, Mật Khế,… đặc biệt với bác sĩ Lê Đình Thám – một người say mê nghiên cứu, thực hành giáo lý đạo Phật và trong chừng mực nào đó, am hiểu tinh hoa nền văn minh phương Tây. Chính bác sĩ Lê Đình Thám đã mớm cho các học trò của mình những biểu biết ban đầu về chế độ dân chủ với mô hình tam quyền phân lập và các khái niệm Tự do, Dân chủ, Công bằng, Bác ái… An Nam Phật học đường đã đào tạo được những tăng sĩ ưu tú. Bốn người xuất sắc nhất là Trí Thuyên (đã bị Tây giết năm 1946), Trí Quang, Thiện Minh, Thiện Siêu.

- Cách mạng tháng 8 (1945) và kháng chiến chống Pháp nổ ra, hầu hết thầy-trò của phong trào Phật giáo Chấn hưng đều tham gia Cứu quốc. Huyền Quang ở Quảng Ngãi, Lê Đình Thám ở Liên khu 5, Trí Độ ở Liên khu 4, Trí Quang ở Quảng Bình, Mật Thể ở Thừa Thiên-Huế, Thiện Minh ở Quảng Trị… Tiếp xúc, chung đụng với kháng chiến cộng sản một vài năm, Huyền Quang, Trí Quang, Thiện Minh và nhiều người khác lục tục quay trở lại vùng Pháp và Quốc gia để tiếp tục công cuộc Chấn hưng. Còn những người khác : Trí Độ, Lê Đình Thám, Mật Thể… đi với cộng sản hết cuộc kháng chiến chống Pháp, sau năm 1954, ở lại miền Bắc.

- Thiện Minh và các tăng sĩ trẻ, sau khi từ bỏ kháng chiến, trở về Huế cùng với những người ở lại quyết định tiếp tục phục hoạt công cuộc Chấn hưng với đường hướng riêng : Đạo pháp và Dân tộc, đứng ngoài cuộc chiến tranh giữa Việt Minh – Cộng sản và xâm lược Pháp – Quốc gia (vua Bảo Đại làm quốc trưởng).

- Vào giữa năm 1947, hai thiền sư Mật Hiển, Mật Nguyện đã đề xuất ý kiến – thành lập Sơn môn Tăng già. Không lâu sau đó, Sơn môn Tăng già Thừa Thiên Huế ra đời. Giữa năm 1948, các tăng sĩ từ chiến khu về, đề nghị thành lập thêm tổ chức vòng ngoài : Hội Việt Nam Phật Học. Mọi người phấn khởi bắt tay vào việc. Như thế là khắp các tỉnh từ Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, đến Bình Định, đều hình thành được hai tổ chức "vòng trong vòng ngoài" là Sơn môn Tăng già và Hội Việt Nam Phật học. Trụ sở đầu não cấp "miền" (Trung) của hai tổ chức này đặt tại Huế. Thiện Minh được "Giáo hội miền Trung" cử vào Nha Trang xây dựng giáo hội tại địa phương này.

- Là người năng động, tràn đầy nhiệt huyết, có tài tổ chức, bất chấp khó khăn trở ngại, trong vòng sáu năm (1948 -1954), với sự tiếp sức hạn chế từ "trung ương miền Trung – Huế, Thiện Minh đã lặn lội khắp các tỉnh phía nam miền Trung : Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết và khắp các tỉnh Tây Nguyên từ Kon Tum, Gia Lai…, xuống đến Đồng Nai Thượng. Đâu đâu Thiện Minh cũng đã đặt xong nền móng giáo hội cấp tỉnh và một số Gia đình Phật tử, một số trường Bồ Đề, xây dựng được mấy chùa mới, mấy Khuôn hội, Niệm Phật đường.

- Ngoài khả năng tổ chức, Thiện Minh còn có tài thuyết phục các đồng sự, đối tác, người đối thoại và cả những ai bất đồng chính kiến.

- Giữa năm 1963, khi cuộc đấu tranh đòi tự do và bình đẳng tôn giáo trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa thời Ngô Đình Diệm đến hồi gay cấn, sau sự kiện thiền sư Thích Quảng Đức tự thiêu gây sững sốt và bất bình trong nước và thế giới, chính quyền Ngô Đình Diệm muốn làm giảm nhẹ dư luận, đề nghị Phật giáo thương thuyết. Phật giáo nắm lấy cơ hội. Tổng thống Diệm cử phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đứng đầu Ủy ban liên bộ. Tham gia cùng Nguyễn Ngọc Thơ là hai ông Nguyễn Đình Thuần (bộ trưởng phủ tổng thống) và Bùi Văn Lương (bộ trưởng nội vụ). Phía Phật giáo, thiền sư Thích Tịnh Khiết, hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, cử thiền sư Thích Thiện Minh dẫn đầu Ủy ban liên phái, hai đoàn viên là thiền sư Thích Tâm Châu và thiền sư Thích Thiện Hoa. Cuộc hội đàm rất căng thẳng, diễn ra trong ba ngày, kết thúc bằng một Thông Cáo Chung với chữ ký của sáu nhà đàm phán và chữ ký xác nhận của hai nhà lãnh đạo cao nhất của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và tổng hội Phật giáo Việt Nam là tổng thống Ngô Đỉnh Diệm và hội chủ Thích Tịnh Khiết.

- Thông Cáo Chung là một thắng lợi đối với Phật giáo : 5 Nguyện vọng Phật giáo đưa ra từ đầu – một ngày sau cuộc đàn áp đẫm máu tại đài phát thanh Huế – được thỏa mãn gần hết. Do vậy, theo sự quyết đoán của cố vấn Ngô Đình Nhu, chính quyền lật lọng, xóa bỏ Thông Cáo Chung, tiếp tục các cuộc đàn áp ngày một khốc liệt hơn. Đêm 20/8, cảnh sát và lực lượng đặc nhiệm của chế độ Ngô Đình Diệm thực hiện kế hoạch Nước Lũ, tấn công vào tất cả các chùa và một số tư gia trên khắp các tỉnh thành miền Nam, đập phá, đánh đập, bắt đi 1400 tăng ni, nhân sĩ, trí thức, lãnh tụ sinh viên Phật tử. Như thế là đầu tàu Lực lượng đấu tranh của Phật giáo bị nhốt hết trong các trại giam (ngoại trừ trường hợp thiền sư Thích Trí Quang trốn thoát khỏi trại giam, tị nạn tại tòa đại sứ Hoa Kỳ), phong trào đấu tranh vì Tự do và Bình đẳng tôn giáo bị gián đoạn. Trước tình thế đó, Sinh viên, Trí thức, Đảng phái và Quân đội vào cuộc, quyết lật đổ chế độ. Ngày 1/11/1963, chế độ Ngô Đình Diệm bị Quân đội (với sự đồng thuận của Mỹ) lật đổ. Phật giáo và đại bộ phận nhân dân miền Nam (ngoài Cần lao – Thiên chúa giáo) được giải thoát.

- Ngày 31/12/1963, các tông phái, các tập đoàn, hệ phái Phật giáo tổ chức đại hội tại chùa Xá Lợi để hình thành một giáo hội duy nhất lấy tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Đại hội đề ra đường hướng, cơ cấu giáo hội và soạn thảo Hiến chương. Cơ cấu giáo hội là một hệ thống bốn cấp : trung ương, miền, tỉnh (thành) và cơ sở (khuôn hội, niệm Phật đường với các đoàn thể quần chúng Phật tử). Giáo hội còn có một phòng Thông tin ở hải ngoại (Paris, do Võ Văn Ái phụ trách). Ở trung ương gồm hai viện Tăng thống và Hóa đạo. Đại lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết được cung thỉnh làm viện trưởng Viện Tăng thống. Hòa thượng Thích Tâm Châu được bầu làm viện trưởng Viện Hóa đạo. Thiền sư Thích Trí Quang được đề cử làm thư ký Viện Tăng thống. Thiền sư Thích Thiện Minh được đề cử phó viện trưởng Viện Hóa đạo, kiêm phụ trách Tổng vụ Thanh niên Phật tử…

- Trên cương vị người đứng đầu tổ chức Thanh niên, Sinh viên Phật tử toàn miền Nam, Thiện Minh đóng góp rất tích cực trong các phong trào Phật giáo Dấn thân từ 1964-1966 : chống quân phiệt Nguyễn Khánh, chống độc tài Trần Văn Hương, ủng hộ chính phủ Phan Huy Quát xây dựng Dân chủ, chống Mỹ – Thiệu – Kỳ tiến hành chiến tranh.

- Nhiều người tiếp xúc với Thiện Minh ngày càng nghe ông nói nhiều hơn về chủ nghĩa Xã hội không cộng sản. Phía Công giáo "chiến đấu" và Thiệu – Kỳ cho rằng ông hành động và nói năng chỉ có lợi cho cộng sản. Phía cộng sản cho rằng Thiện Minh muốn đấu tranh ý thức hệ với chủ nghĩa Mác-Lê Nin, thách thức sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của đảng. Thiện Minh là một tên phản động nguy hiểm trước mắt và lâu dài. Giữa năm 1966, Thích Thiện Minh bị mưu sát, nhưng chỉ bị thương nhẹ. Nhiều lời đồn đoán về kẻ chủ mưu, nhưng không có bằng chứng xác đáng để chỉ đích danh bất cứ ai.

- Sau vụ bị ám sát hụt, đặc biệt sau biến cố đẫm máu Tết Mậu thân ở Huế, Thiện Minh nhận định rằng, ‘sẽ không có chuyện hòa giải hòa hợp trong chế độ cộng sản ; nếu không thận trọng, chúng ta (Phật giáo) có thể vô tình tiếp tay cho một thứ bạo lực mà Việt Nam Cộng Hòa không sánh được’.

- Sau Hiệp định Paris, Thiện Minh khẳng định rằng, cộng sản sẽ thắng và sẽ không có gì hết ngoài bạo lực. Từ đó Thiện Minh ít lui tới chùa Ấn Quang. Năm 1974, giáo hội Ấn Quang tổ chức Lực lượng Hòa giải Dân tộc, tham gia hình thành chính phủ Dương Văn Minh ; Thiện Minh không chống đối, cũng không tham gia.

- Sau biến cố tháng 5/1975, Thiện Minh bị chính quyền cách mạng đuổi khỏi trụ sở Tổng vụ Thanh niên, lang thang khắp nơi, đến Già Lam nhưng không đến Ấn Quang. Vụ công an bố ráp chùa Ấn Quang ngày 6/4/1977, Thiện Minh không có mặt nên không bị bắt cùng các thiền sư Quảng Độ, Huyền Quang, Tuệ Sĩ…

- Thiện Minh chỉ bị bắt sau khi đối đáp thẳng thừng với bộ trưởng công an Mai Chí Thọ đầu tháng 3/1978…

- Được tin Thiện Minh bị bắt, mình chạy đôn chạy đáo, gõ khắp các cửa quyền lực, năn nỉ lạy lục đến sói đầu mà chẳng được gì. Cuối cùng Thiện minh bị giết chết trong tù (bốn tháng sau khi bị bắt), mình được công an thông báo đến thăm ở trại Hàm Tân và chỉ được phép nhìn qua khuôn mặt Thiện Minh tím bầm méo mó trong hòm.

- Là người tu hành, mình biết sống chết là lẽ thường tình, nhưng cái chết của 12 tăng ni chùa Dược Sư, cái chết của Thiện Minh cũng như những cái chết và tù đày khác dưới bạo lực cách mạng đã làm mình đau xót, giằng xé đến bất thường, có cả ăn năn sám hối. Phải chăng, giáo hội trong đó có mình đã ảo tưởng khi chủ trương hòa giải dân tộc với người cộng sản ?".

Đặt vấn đề như thế, nhưng rồi hòa thượng Thích Trí Thủ vẫn tiếp tục ảo tưởng và hợp tác với cộng sản để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam theo chủ trương và sách lược chính trị của đảng này. Phải chăng cuộc Dấn thân đầy ảo tưởng của Phật giáo Ấn Quang đến thời điểm cuối năm 1978, sau khi 12 tăng ni chùa Dược Sư tự thiêu và thiền sư Thiện Minh bị giết… vẫn chưa dừng lại được theo cái đà lăn của nó ?

Đặt vấn đề như thế vì đến thời điểm cuối năm 1981, khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được Đảng cộng sản khai sinh, không chỉ đa số Phật tử mà cả một số đảng viên còn giữ chút lương tri như Nguyễn Quang Huy (trưởng ban tôn giáo chính phủ), Đỗ Trung Hiếu (cán bộ tôn giáo vận thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh)…, cũng thừa nhận sự chân thành đúng đắn trong suy nghĩ về mục tiêu thống nhất Phật giáo trong tự do, nhân quyền của các vị thiền sư thuộc khối Ấn Quang, đặc biệt các vị đã có quá trình cộng tác với Việt Minh – cộng sản trong hai cuộc kháng chiến, như Thích Đôn Hậu, Thích Minh Châu, Thích Thiện Siêu, Thích Trí Thủ…, có điều cái chút lương tri èo uột đó cuối cùng chỉ đủ sức lừa phỉnh các vị tu hành ngây ngô để đưa họ vào tròng làm công cụ rẻ tiền cho guồng máy gian manh toàn trị mà người đại diện trực tiếp, chính danh là các ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trưởng Ban Dân vận Mặt trận, Bộ Công an thay nhau : Xuân Thủy, Nguyễn Văn Linh, Trần Quốc Hoàn.

Thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Khát vọng ngược chiều – Mạnh được yếu thua

Kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh với Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, Đảng cộng sản Việt Nam bày tỏ khát vọng độc tài toàn diện và tuyệt đối qua những cuộc cải tạo các bộ phận nhân dân miền Nam, trong đó có cộng đồng các tôn giáo. Đại hội lần thứ tư (IV) khẳng định, con đường đấu tranh cách mạng đưa đất nước đến thắng lợi Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Riêng đối với Phật giáo, công cuộc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam được Đảng nâng lên tầm chiến lược (xem Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Đối với Phật giáo Ấn Quang, mặc dù rất bức xúc trước các cuộc cải tạo có tính chất khủng bố và bội tín của Đảng cộng sản, nhưng họ vẫn kiên trì mục tiêu thống nhất giáo hội trên bình diện cả nước nhằm truyền bá Phật pháp đến dân tộc và nhân loại. Khát vọng này không có vấn đề gì trong các chế độ Dân chủ Cộng hòa như Tích Lan, Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ, Úc, Tây Âu, Canada…, hay Quân chủ Lập hiến như Nhật Bản, Thái Lan, Nepal… ; tuy nhiên, đối với chế độ cộng sản là một thách thức nghiêm trọng.

Năm 1976, Hòa thượng Thích Đôn Hậu, tổng thư ký Giáo hội Phât giáo Việt Nam thống nhất khối Ấn Quang, đại biểu quốc hội, gởi kiến nghị đến tổng bí thư Lê Duẩn, chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, chủ tịch quốc hội Trường Chinh và thủ tướng Phạm Văn Đồng về việc thống nhất Phật giáo. Hòa thượng nói rõ : 

"Khi đất nước bị xâm lược, tôi làm nghĩa vụ công dân (ông tham gia kháng chiến chống Pháp suýt bị giặc giết, may nhờ bà Từ Cung cứu. Trong chiến tranh chống Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, ông lên chiến khu tham gia Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình với tư cách phó chủ tịch), nay đất nước độc lập, tôi trở lại chu toàn việc đạo, và trước hết là vận động cho công cuộc thống nhất Phật giáo Việt Nam".

Theo hòa thượng Đôn Hậu, thống nhất là hợp nhất hai tổ chức : Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở miền Nam và Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ở miền Bắc thành một tổ chức duy nhất có tên gọi là Giáo hội Phật giáo Viêt Nam. Giáo hội đó cam kết tuân thủ luật pháp quốc gia và đường lối chính trị mà đảng đề ra (khi thành lập Liên minh). Nhựng mọi việc thuộc về tôn giáo thì hàng giáo phẩm, tăng ni và đồng bào Phật tử quyết định (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu , tài liệu đã dẫn).

Kiến nghị của thiền sư Thích Đôn Hậu phản ảnh lập trường của giáo hội Phật giáo Ấn Quang bị Đảng cộng sản từ trên xuống dưới quy kết là xấu, nguy hiểm, phản động.

Trước tình thế đó, Đảng cộng sản, một mặt dùng bàn tay sắt giết chóc, tra tấn, tù đày và cải tạo, một mặt dùng bàn tay sắt bọc nhung – cán bộ Dân vận Mặt trận, trực tiếp là cán bộ Tôn giáo vận từ trung ương xuống địa phương nhằm đưa một số chức sắc già cả và nhẹ dạ của Phật giáo Ấn Quang vào tròng.

Thành lập Giáo hội Phật giáo Viêt Nam là một công tác chiến lược, nên Đảng cộng sản đã bỏ ra nhiều công sức, thời gian, của cải, tiền bạc.

Từ sau khi nước nhà thống nhất trên phương diện hành chánh (1976), Đảng cộng sản cử ông Xuân Thủy, bí thư Trung ương đảng, một nhà ngoại giao nổi tiếng lịch lãm tại hội nghị Paris, làm trưởng ban Dân vận – Mặt trận. Ông Xuân Thủy cũng phụ trách luôn Ban Tôn giáo chính phủ. Ông đã chọn người "lịch lãm" ở miền Bắc để sung vào Ban Tôn giáo, như Nguyễn Quang Huy chẳng hạn. Ông đã đi miền Nam nhiều lần để nghiên cứu tình hình các tôn giáo và tìm kiếm "nhân tài thạo nghề vận động tôn giáo ở các đô thị miền Nam", như Đỗ Trung Hiếu, Nguyễn Chính (nhà thơ Phan Duy Nhân) chẳng hạn.

Là nhà chính trị, ngoại giao lão luyện, nên ông Xuân Thủy khá "được lòng" các đối tượng công tác của ông. Ông cũng tạo được niềm tin và sự kính trọng tuyệt đối nơi hai người cán bộ xuất sắc mà ông đã chọn. Ông đưa Nguyễn Chính từ ban Dân vận Mặt trận Quảng Nam Đà Nẵng ra Hà Nội làm phó ban Tôn giáo (trực thuộc chính phủ), rồi quyền trưởng ban. Đỗ Trung Hiếu vừa là cán bộ tôn giáo vận của thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, vừa làm tham mưu cho ông Xuân Thủy và ban Tôn giáo chính phủ tại Hà Nội.

Qua sự tìm hiểu trực tiếp của chính mình, qua nghiền ngẫm kiến nghị của hòa thượng Thích Đôn Hậu, và cũng qua sự đóng góp ý kiến của hai người cán bộ đáng tin cậy Nguyễn Chính và Đỗ Trung Hiếu, ông Xuân Thủy có nhận định khá chính xác về các tổ chức Phật giáo nói chung, Phật giáo Ấn Quang nói riêng, về kiến nghị của hòa thượng Thích Đôn Hậu, và về công cuộc thống nhất Phật giáo như sau :

"Việc thống nhất Phật giáo Việt Nam theo tôi biết : Đảng ta chủ trương thống nhất Phật giáo của ta (Đảng cộng sản Việt Nam) với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang. Phật giáo của ta là các đoàn thể Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ở miền Bắc và Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước ở miền Nam. Ở miền Bắc, Phật tử đã vào các đoàn thể quần chúng hết rồi, chỉ còn những cụ già đi lễ bái ở chùa ngày rằm, mùng một theo tục lệ cổ truyền. Sự tiêu biểu thật hiếm. Cụ Trí Độ đã luống tuổi, quanh đi quẩn lại vẫn cụ Phạm-Thế-Long, nhưng khả năng đức độ của cụ, ảnh hưởng trong nước và quốc tế hạn chế. Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước có khá hơn một tí. Cụ Minh – Nguyệt có thành tích ở tù 15 năm ở Côn Đảo, cụ Thiện-Hào có thành tích đi kháng chiến, nhưng điều Phật tử cần ở nhà sư, cả hai cụ đều hạn chế. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang là một tổ chức tôn giáo và tổ chức quần chúng có uy tín trên thế giới, nhiều nhà sư tài giỏi. Nếu thống nhất theo kiến nghị của cụ Đôn-Hậu, có nghĩa là giải thể Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước, sáp nhập Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và chịu sự lãnh đạo của họ. Như thế Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phát triển ra toàn lãnh thổ Viêt Nam, chứ không chỉ ở miền Nam như trước năm 1975. Quan trọng là đảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà ngược lại, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức áp lực chính trị thường trực đối với đảng và chính phủ Việt Nam. Thống nhất theo dự án của ban Tôn giáo chính phủ chưa ổn lắm, vì chung qui cũng đưa các cụ ở Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam và Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước xách cặp cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mà thôi. Bởi vì các cụ ta đứng gần thượng tọa Thích Trí Quang sẽ bị hút vào tay áo tràng của thượng tọa hết… (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Nhận định như thế, nên ông Xuân Thủy chỉ đạo cho thuộc cấp thực hiện hai công tác cụ thể sau :

– Cố gắng tranh thủ cho được các hòa thượng Đôn Hậu, Trí Thủ và thượng tọa Trí Quang (đi theo đường lối của ta).

– Giải quyết cho được số cực đoan quá khích, đứng đầu là hai thượng tọa Huyền Quang, Quảng Độ, bằng biện pháp thuyết phục là thượng sách (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn, trang 7).

Có lẽ chỉ đạo này xảy ra sau khi Thiền sư Thiện Minh bị giết chết, tháng 8/1978. Nếu không, ông đã đứng đầu danh sách cần thuyết phục. Còn hai thiền sư Huyền Quang, Quảng Độ (bị bắt tháng từ 1977, sau hai năm ở tù, được thả ra, bị chỉ định cư trú ở Quảng Ngãi và Thái bình vì không để bị thuyết phục.

Tháng 4/1979, ông Xuân Thủy chỉ đạo tiếp về việc thống nhất Phật giáo Việt Nam gồm mấy điểm mấu chốt :

1/ Hệ thống tổ chức Phật giáo sắp tới theo hình tháp ngược và ở trong Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam.

2/ Đạo Phật gắn với dân tộc. Nhưng thời đại ngày nay là thời đại xã hội chủ nghĩa nên phải gắn với xã hội chủ nghĩa.

3/ Nhân sự tiêu biểu là người của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang, nhân sư hành động là người của ta (Đảng cộng sản Việt Nam) (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn, trang 13).

Đáng tiếc là kế hoạch ấy chưa thực hiện thì ông bị thôi chức trưởng ban Dân vận trung ương và bí thư Trung ương đảng vì đấu đá nội bộ (theo Đỗ Trung Hiếu : nhân vụ Hoàng Văn Hoan trốn sang Trung Quốc…).

Nguyễn Văn Linh, ủy viên Bộ Chính trị, được đảng cử làm trưởng ban Dân vận tiếp tục thúc đẩy công cuộc thống nhất Phật giáo.

Ngày 13/2/1980, Nguyễn Văn Linh triệu tập một cuộc họp gồm 20 vị đại diện các tổ chức Phật giáo trong cả nước để bàn về việc thống nhất. Phát biểu khai mạc, Nguyễn Văn Linh nói những lời đãi bôi đầy tính chất giả dối : "Nếu quý hòa thượng cho phép, tôi xin được gọi đạo Phật của chúng ta, và nếu quý hòa thượng không ngần ngại cũng có thể gọi Đảng của chúng ta" (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Những lời đãi bôi giả dối này cán bộ Dân vận Mặt trận quen dùng trong suốt hai cuộc chiến tranh khi đối diện với hiểm nguy gian khó, chưa nắm quyền lực, cần có sự đóng góp xương máu và chia sẻ cơm áo của nhân dân. Nhưng khi đã có quyền lực rồi thì đảng biến nhân dân thành đối tượng cải tạo : Cướp bóc, tù đày, giết chóc và tống xuất ra nước ngoài.

Hơn bất cứ ai tham gia cuộc họp, các vị thuộc Giáo hội Phật giáo Ấn Quang đã đối diện từng ngày trước quá nhiều hành động gian ác của cộng sản từ sau 30/4/1975 (như tôi đã mô tả chưa đầy đủ ở trên). Từ sau tháng 4/1975, đảng xin phép ai mà tiến hành cải tạo ? Đảng xin phép ai mà ngăn sông cấm chợ ? Đảng xin phép ai mà bán bãi vượt biên ? Đảng xin phép ai mà cấu kết với Liên Xô, tiến quân qua Cambuchia để rồi biến dân tộc, đất nước thành kẻ thù của thế giới ?… Có quá nhiều câu hỏi như thế dành cho Đảng cộng sản từ nhân dân và Phật giáo Ấn Quang. Đã như thế thì nhân dân và Phật giáo Ấn Quang không thể gọi Đảng cộng sản là "đảng của chúng ta" được.

Nói xong những lời đãi bôi gian dối thì ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Linh ra về, giao cho cấp phó của ông là Trần Bạch Đằng điều khiển cuộc họp. Trần Bạch Đằng từ trong chiến tranh đến nhiều năm sau 1975, công khai cáo buộc "Thích Trí Quang là CIA chiến lược". Trần Bạch Đằng cũng phản đối quyết liệt kiến nghị của hòa thượng Thích Đôn Hậu (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Thiền sư Thích Trí Quang, Thiền sư Thích Đôn Hậu là linh hồn, là nhà chiến lược, là trụ cột của Phật giáo Ấn Quang đến thời điểm này (1980). Mà Phật giáo Ấn Quang là giáo hội có tầm cỡ to lớn, tập trung nhiều nhân vật "phản động" nhất trong số các tổ chức Phật giáo lúc bấy giờ.

Đảng cộng sản cử Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng đứng ra chủ trì công tác chiến lược Thống nhất Phật giáo là dấu chỉ báo hiệu chẳng có gì hay ho ở phía trước. Sau hai ngày chủ trì cuộc họp, Trần Bạch Đằng nặn ra được một tổ chức mị dân là Ban vận động thống nhất Phật giáo, năn nỉ hòa thượng Thích Trí Thủ làm trưởng ban. Hòa thượng Thích Đôn Hậu từ chối tham gia, nhưng cuối cùng có tên trong danh sách với chức danh cố vấn cùng hòa thượng Thích Đức Nhuận là "nhân sự hành động của ta".

Hòa thượng Thích Đôn Hậu bày tỏ thái độ không bằng lòng. Các thiền sư kiên định lập trường Phật Pháp – Dân tộc, Tự do – Dân chủ, Nhân quyền và Nhân loại trong viện Hóa đạo như Huyền Quang, Quảng Độ, Tuệ Sĩ, Trí Siêu, sư cô Trí Hải…, và các thiền sư miền Trung phản đối quyết liệt.

phapnan4

Trần Quốc Hoàn (trái) và Xuân Thủy. Nguồn : Quân đội nhân dân

Lại có thay đổi từ trung ương. Nguyễn Văn Linh thôi ủy viên Bộ Chính trị và trưởng ban Dân vận, về làm bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Trần Bạch Đằng thôi chức phó ban Dân Vận, về hưu. Trần Quốc Hoàn thôi bộ trưởng công an, vẫn là ủy viên Bộ Chính trị, bí thư trung ương đảng, về làm trưởng ban Dân vận trung ương, kiêm ban Tôn giáo chính phủ.

Trần Quốc Hoàn 30 năm làm bộ trưởng Công an, ngoài các thủ đoạn bạo động hiểm độc với những ai ông cho là kẻ thù nguy hiểm, ông còn lão luyện trong các mánh lới chính trị với các đối tượng cần tranh thủ. Ông lắng nghe ông Nguyễn Quang Huy ở Ban Tôn giáo Chính phủ sau khi ông này đi điều nghiên ở Sài Gòn về. Ông tỏ ra chăm chú lắng nghe Đỗ Trung Hiếu, chuyên gia tôn giáo vận của thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh về tình hình Phật giáo tại miền Nam. Ông dễ dàng chấp nhận đề án thống nhất Phật giáo của "người cán bộ đảng viên sùng Phật" mà ông đã từng nghe tiếng khi còn ở Hà Nội.

Có điều, cũng như ông Xuân Thủy, người đồng nghiệp tiền nhiệm, ông Trần Quốc Hoàn thấy cần bảo vệ quyền lãnh đạo toàn diện tuyệt đối và lợi ích của đảng hơn "nguyện vọng tha thiết và chính đáng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và đồng bào Phật tử là một bộ phận của nhân dân trong vùng địch chiếm được giải phóng còn rất nhiều phức tạp". Do vậy, theo chỉ đạo của ông :

Một mặt, ban Dân vận trung ương, ban Tôn giáo chính phủ và bộ phận Tôn giáo thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh tạo điều kiện cho Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam "hoạt động tự do và tích cực với sự bảo vệ âm thầm của công an" nhằm giải tỏa các dồn nén của họ. Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam long trọng soạn thảo Hiến Chương với rất nhiều hy vọng, đề xuất nhân sự với sự "giúp đở" của Ban Tôn giáo Chính phủ và bộ phận Tôn giáo vận thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là hai ông Đỗ Trung Hiếu và Nguyễn Quang Huy.

Mặt khác, các thiền sư Huyền Quang, Quảng Độ bị lực lượng chuyên chính vô sản quản thúc tại Bình Định và Thái Bình (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Cuối cùng ông Trần Quốc Hoàn chỉ đạo cho thuộc cấp, đặc biệt hai cán bộ chủ chốt là Nguyễn Quang Huy và Đỗ Trung Hiếu thực hiện nghiêm chỉnh cương lĩnh ba điểm ông Xuân Thủy để lại :

1/ Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức theo hình tháp ngược và ở trong Mặt trận Tổ quốc.

2/ Đạo pháp gắn với Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.

3/ Nhân sự tiêu biểu là người của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang, nhân sự hành động là người của ta.

Chúng ta diễn giải thêm về ba điểm chỉ đạo trên của ông Xuân Thủy :

1) Chỉ tổ chức các ban bệ và các chức danh ở trên, không có các tổ chức, đoàn thể Phật tử ở dưới. Như thế là Phật Ấn Quang không có quần chúng để tổ chức hội thảo, ra tuyên ngôn, gởi kiến nghị, tuyệt thực, tổ chức xuống đường đấu tranh như thời Việt Nam Cộng Hòa được nữa. Giáo hội Phật giáo Việt Nam do đảng thành lập chỉ còn là một đoàn thể như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu Chiến binh… đặt dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc.

2) Gắn với xã hội chủ nghĩa là phải hội nhập Phật pháp với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải ủng hộ các cuộc cải tạo, cướp đoạt, tù đày, giết chóc… do Đảng cộng sản đề xướng, phát động và lãnh đạo. Tuyệt đối không được tự ý hành động từ bi hỉ xả (muốn thực hiện từ bi, hỉ xả phải xin phép đảng), càng không đấu tranh dân chủ, tự do, nhân quyền.

3) Các hòa thượng, thượng tọa khối Ấn Quang chỉ được đảng lựa chọn để sắp xếp vào các chức danh tiêu biểu, ngồi chơi xơi nước. Nhân sự hành động là các "nhà sư của Ta", là đảng viên cựu chiền binh hay công an đội lốt tăng ni vào chùa nhất nhất chấp hành mệnh lệnh của đảng.

Ông Xuân Thủy quả thật là một chính trị gia thâm hiểm, Đảng không cần ra lệnh, Chính phủ không cần ký quyết định giải thể, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, khối Ấn Quang mà Đảng cổ xúy đấu tranh trong thời chiến và ông bí thư trung ương đảng "ngưỡng mộ" trong hòa bình sẽ tiêu vong theo kế hoạch ba điểm của ông.

Ông Trần Quốc Hoàn còn nham hiểm hơn ông Xuân Thủy một bậc. Ông đã biến các hòa thượng, thượng tọa của Phật giáo già nua, nhẹ dạ và các cán bộ tôn giáo vận "sùng Phật" như Đỗ Trung Hiếu thành những con rối hăm hở đi xây dựng một giáo hội mà sau này người đời gọi một cách mỉa mai là "giáo hội quốc doanh", làm công cụ cho Đảng cộng sản mà cứ tưởng mình đã hành động đúng đắn có lợi cho Đạo pháp và Dân tộc.

phapnan5

Trần Quốc Hoàn (trái) và Xuân Thủy. Nguồn : UPI và Bảo tàng Công an nhân dân

Thời điểm dự kiến khai mạc hội nghị thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào cuối năm 1981, nhưng từ đầu năm 1980, hai ông Nguyễn Quang Huy và Đỗ Trung Hiếu với sự chỉ đạo sít sao của ban Bí thư, ban Dân vận Trung ương, thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, và sự góp sức của công an, của các cơ quan chính quyền liên hệ từ trung ương xuống địa phương đã tất bật tiến hành các khâu chuẩn bị. Họ "giúp đỡ" Ba Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam (Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam) "hoàn chỉnh Hiến Chương" và điều đình cùng các nhóm Phật giáo sắp xếp nhân sự.

Để thấy rõ sự nghiêm trọng của vấn đề, mời độc giả đọc mấy dòng sau đây trong hồi ký của Đỗ Trung Hiếu :

"Nội dung (Hiến Chương) để Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam tự đề ra và quyết định. Ban Tôn giáo chính phủ và ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh theo dõi từng bước để giúp đỡ và phản ánh với ban Dân vận, cần thì báo cáo với ban Bí thư và Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.

"Tháng 8 năm 1981, Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam gởi dự thảo Hiến Chương cho ban Dân vận Trung ương và ban Tôn giáo chính phủ, sau một tuần đã có ý kiến bổ sung như sau :

– Lời nói đầu thêm đoạn…

– Chương II đến chương IV thêm "…và Tổ quốc xã hội chủ nghĩa".

– Chương V điều 18 qui định hoạt động của Giáo hội gồm váo trong 6 ban một cách hình thức.

– Chương VI, từ điều 23 đến 26, 27 : tổ chức Giáo hội teo dần và cơ sở là Tự viện, Tịnh xá, Tịnh thất, Niệm Phật đường, tức lấy chùa làm cơ sở chứ không phải lấy quần chúng Phật tử làm đơn vị cơ sở của tổ chức Giáo hội.

Như vậy tinh thần của cụ Xuân Thủy được thể hiện trong bản Hiến chương này… (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

– "Tôi cố xoay xở về nhân sự cho các bên đều vui lòng, rất vất vả. Ban Tôn giáo chính phủ giao tôi chịu trách nhiệm các tỉnh miền Nam. Anh Huy phụ trách các tỉnh miền Bắc và thường xuyên quan hệ với tôi để giải quyết các vấn đề khúc mắc. Ban Bí thư cho một nguyên tắc :

"Pháp chủ, chủ tịch, tổng thư ký Hội đồng trị sự, ban Tôn giáo chính phủ trình ban Bí thư duyệt.

– Các thành phần khác trong Hội đồng chứng minh và Hội đồng trị sự, anh Huy và tôi được quyền thông qua khỏi báo cáo.

"Đó là một cố gắng, chúng tôi tranh thủ Ban Bí thư và đã được quyết.

"…Nhân sự tiêu biểu đã xong. Nhân sự hành động, anh Huy đề cử thượng tọa Thanh Tứ và anh Trần Khánh Dư, tôi đề nghị thượng tọa Từ Hạnh và bà Nguyễn thị Thanh Quyên. Ban Bí thư thấy chưa đủ sức lèo lái Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đề nghị anh Huy và tôi tham gia. Cả hai chúng tôi đều từ chối…" (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Bị nhào nặn như thế nên Giáo hội Ấn Quang, nhất là Ôn Già Lam (từ của Đỗ Trung Hiếu) vô cùng bức xúc, phát biểu : "Thống nhất kiểu này tới cũng khó mà lui cũng khó". Tất cả đã bị vào tròng. Cái mà Nguyễn Văn Linh nói "Đảng của chúng ta" như thế đó !

Ngày 1/11/1981,140 đại biểu tề tựu đông đủ tại Hà Nội.

Ngày 4/11/1981 hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam khai mạc tại chùa Quán Sứ. Hội nghị thông qua Hiến Chương, mô hình tổ chức giáo hội, chức năng quyền hạng trách nhiệm của các cơ quan ; suy tôn, suy cử các chức sắc lãnh đạo từ chóp bu xuống dưới. Cơ cấu giáo hội gồm ba cấp : Trung ương, tỉnh và quận-huyện.

Ở trung ương gồm Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự. Dưới địa phương chỉ có Ban Trị sự.

Không có các tổ chức quần chúng Phật tử.

Đứng đầu Hội đồng Chứng minh là Pháp chủ. Hòa thượng Thích Đức Nhuận, phó Hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam (một tổ chức do đảng lãnh đạo, không có quần chúng Phật tử) được suy tôn làm pháp chủ tiên khởi của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng Thích Đôn Hậu được ghi tên làm phó Pháp chủ đặc trách giới luật (ông không tham dự hội nghị này, ông chống từ đầu cho đến ngày viên tịch 23/4/1992, theo Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Đứng đầu Hội đồng Trị sự gọi là chủ tịch. Hòa thượng Thích Trí Thủ, nguyên viện trưởng Viện Hóa đạo của Phật giáo Ấn Quang được suy tôn vào chức vụ này. Phó chủ tịch Hôi đồng Trị sự là hòa thượng Thích Trí Tịnh, nguyên viện phó Viện Hóa đạo Ấn Quang.

Ngày 7/11/ 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra mắt trước báo chí và truyền thông trong và ngoài nước.

Tổ chức được Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một thắng lợi to lớn của đảng và chính quyền cộng sản.

"Thường vụ Thành ủy đánh giá việc thống nhất Phật giáo Việt Nam là một thành công kỳ diệu".

"… Ban Bí thư khen sự chỉ đạo nhạy bén, sát thực tế của Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dầu suốt thời gian sóng gió thường vụ Thành ủy im hơi lặng tiếng. Ban Tôn giáo mỗi người lên một bậc lương. Riêng anh Nguyễn Quang Huy lên hai bậc, lên Vụ trưởng vụ Tôn giáo ban Dân vận Trung ương, rồi Trưởng ban Tôn giáo chính phủ" (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Thống nhất Phật giáo, Đảng cộng sản không chỉ bày mưu tính kế, bỏ công sức, mà còn tiêu tốn của cải, tiền bạc : mua vé máy bay, sắp xếp nơi ăn chốn ở, xe cộ đi lại, tổ chức hội trường… từ A đến Z, đảng bao tuốt. Do vậy, dân gian gọi Giáo hội Phật giáo Việt Nam là giáo hội quốc doanh (như mậu dịch quốc doanh, nông trường quốc doanh…) chẳng có gì là xuyên tạc, bởi : "Ai chi tiền, người đó làm chủ".

Trong ý đồ hủy hoại tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, từ gốc rễ, đảng đưa công an, con buôn vào chùa giả dạng tăng ni thực hành ma đạo, nhanh chóng biến môi trường tu hành thanh tịnh thành chợ trời buôn Thần bán Phật ồn ào náo nhiệt, bày biện muôn hình vạn trạng mê tín dị đoan. Đảng còn hào phóng chọn rừng đẹp, cấp đất rộng, cấp tiền nhiều, cấp phép qua loa, cẩu thả cho sư quốc doanh xây chùa lớn, đúc tượng to, tổ chức Pháp thoại hoành tráng, làm "du lịch tâm linh".

Nhiều lãnh tụ đảng, quan lại tham nhũng và tư sản đỏ liên kết với sư tăng ma đạo, tiến hành bùa phép hối lộ Phật Thánh để giải trừ ác nghiệp, thăng quan tiến chức, củng cố quyền lực. Đảng đưa "Bác Hồ" vào ngồi chung với Phật, Thánh, Thần trong các chùa, đình và bàn thờ gia tiên, đưa học thuyết Mác-Lênin vào chương trình giảng dạy tại các Phật học viện. Như thế là "Từ Bi Hỉ Xả, Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc, Hòa Bình Nhân Loại" bị xiềng chung với "Căm Thù Giai Cấp – Đấu Tranh Cách Mạng, Ta Nhất Định Thắng, Địch Nhất Định Thua".

"Căm Thù Giai Cấp – Đấu Tranh Cách Mạng, Ta Nhất Định Thắng, Địch Nhất Định Thua" đồng nghĩa với cướp của giết người, công cụ hóa và hủy diệt phần còn lại của Dân tộc và Nhân loại.

Năm 1981 đánh dấu một giai đoạn Pháp Nạn mới chưa từng thấy trước 1975 trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất khối Ấn Quang bị giải thể không kèn không trống. Giáo hội Phật giáo Việt Nam lên ngôi với chữ ký xác nhận (ngày 29/12/1982) của bộ trưởng Đặng Thí thay mặt chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Như thế là Giáo hội Phật giáo quốc doanh được công an bảo kê, được báo đài ngày đêm quảng cáo nghênh ngang truyền bá "Phật – pháp – Mác – Lênin", nghênh ngang chiếm chùa, dụ dỗ, răn đe, kèm kẹp, xua đuổi, bắt bớ, tù đày và giết hại những tăng ni không chịu khuất phục.

Hai thiền sư Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị theo dõi chặt chẽ hơn ở nơi chỉ bị định cư trú, Thiền sư Thích Đôn Hậu bị cô lập tại chùa Thiên Mụ, thiền sư Thích Trí Quang bị canh chừng nghiêm ngặt hơn tại chùa Ấn Quang, các tăng sĩ thế hệ sau như Thích Tuệ Sỹ sau hai năm ở tù được thả ra và Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) bị cắt hộ khẩu lang thang đói khổ khắp chốn, hết Sài Gòn đến Đồng Nai, Nha Trang và ngược lại, hết chùa này đến chùa nọ, hết nhà Phật tử này đến nhà Phật kia, không có nơi nào cưu mang họ được cả vì công an địa phương chờ sẵn để xua đuổi họ, như hoàn cảnh khốn cùng của thiền sư Thích Thiện Minh sáu năm trước.

phapnan6

Từ trái : Hòa Thượng Phước An, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Hòa thượng Thích Đức Nhuận và Thích Tuệ Sỹ. Ảnh : Uyên Nguyên

Phản ứng sinh tồn của các thiền sư bất phục chế độ ngày càng trở nên quyết liệt trong tuyệt vọng

1/ Một nhóm tăng, ni trung niên trí thức đi "làm rẫy". Từ "làm rẫy" là nguyên văn trong một lời nhắn của thiền sư Thích Nhất Hạnh gởi kèm theo gói tiền cứu trợ sau khi Giáo hội Phật giáo quốc doanh thành lập. Từ sau 1975, trước tình hình thiếu đói của các tăng thân trong nước, thiền sư Thích Nhất Hạnh đang ở nước ngoài thường gửi tiền và thuốc tây về cứu trợ. Tết 1981, ngoài tiền và thuốc như mọi năm, thiền sư Thích Nhất Hạnh còn gửi kèm một câu hỏi :

– Sao các tăng, ni trẻ không đi "làm rẫy" ?

Câu hỏi này không gợi ý các thiền sư bất phục chế độ đi kinh tế mới như các thành phần quần chúng khác, mà gợi ý "Đi Lập Chiến Khu". Huỳnh Văn Tòng, đệ tử của thiền sư Thích Trí Quang, bạn tôi, kể như thế khi tôi đến nhà hỏi anh về vụ Lê Mạnh Thát (Thích Trí Siêu), Thích Tuệ Sỹ, Thích nữ Trí Hải… bị bắt. Anh bình luận thêm :

"Vài ba, năm bảy nhà sư nam nữ chân yếu tay mềm, thiếu đói mà đi lập chiến khu để chống lại Đảng cộng sản, là ông vua chiến khu suốt hai cuộc kháng chiến, đang làm chủ tuyệt đối tài nguyên quốc gia với hàng triệu đảng viên, hàng triệu bộ đội cụ Hồ và hàng triệu công an trang bị tận răng, là câu chuyện không tưởng, là huyền thoại đối với bất cư ai mới nghe qua.

Tuy nhiên cái không tưởng, cái huyền thoại ấy lại là "sự thật" trước tình hình đất nước và nhân dân ngày càng bị đẩy vào cuối đường hầm bế tắt và tuyệt vọng. Hơn bất cứ thành phần quần chúng nào, người trí thức, đặc biệt trí thức Phật giáo, biết rõ nguyên nhân của sự bế tắt và tuyệt vọng ấy : Đảng cộng sản phát triển tham – sân – si đến đỉnh điểm của các tầng cao, sâu và rộng. Có thể tóm tắt kết quả sách lược đối nội và đối ngoại của Đảng cộng sản từ sau 1975 vào hai điểm sau đây :

– Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã đẩy đại bộ phận nhân dân miền Nam thành nạn nhân, công cụ hay kẻ thù, phí phạm tài nguyên quốc gia, khiến lòng người cả nước thêm ly tán, gieo rắc đói khổ khắp nơi, nhà tù rộng mở, tòa án và pháp trường vang vọng phán quyết án lệnh tử hình, đất nước trở thành ngục tù, người người trốn chạy.

– Cấu kết toàn diện với Liên Xô, nuôi thù với Mỹ, tiến công Campuchia, Đảng cộng sản biến đất nước thành kẻ thù của thế giới còn lại, nhân dân Việt Nam trở thành nạn nhân của cuộc chiến tranh tàn khốc từ phía Trung Cộng.

Trước tình hình ấy, ở Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh), hai "nhà tu hành trí thức trung niên" Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) tập họp lực lượng. Tham gia cùng hai ông là các nam nữ nhà tu hành cũng trung niên trí thức như Thích Nguyên Giác, Thích Như Minh, Thích nữ Huệ Khương, Thích nữ Trí Hải và vài chục nam nử Phật tử cùng trang lứa.

Ở đây xin mở một ngoặc đơn để làm rõ nhóm từ "nhà tu hành trí thức trung niên". Những vị này, đến thời điểm 1981, tuổi đời trên dưới 40, học tập, trưởng thành trong nền giáo dục – văn hóa Việt Nam Cộng Hòa và Tây phương. Họ nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, triết học, tôn giáo, văn học nghệ thuật Dân tộc, phương Đông và phương Tây bài bản và sâu rộng hơn các thiền sư thế hệ trước. Đồng thời họ tiếp thu Phật pháp qua các Tôn Sư tại chùa, tại Phật học viện, qua kinh sách Hán ngữ và các cổ ngữ Pali, Sancrit. Họ đồng thời là nhà tu hành, nhà thơ, nhà văn, học giả, giáo sư sử dụng thông thạo nhiều ngoại ngữ và cổ ngữ : Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán, Pali, Sancrit.

Bình sinh họ nghiêng về chế độ Dân chủ tam quyền phân lập và dị ứng với chế độ cộng sản toàn trị. Trước 1975, họ tham gia các phong trào đấu tranh vì các mục tiêu Tự do Bình đẳng tôn giáo, Nhân quyền, Dận chủ, Hòa bình, Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc. Họ ý thức mạnh mẽ trách nhiệm, quyền hạn công dân và Trí thức trước vận mệnh Dân tộc và Nhân loại.

Sau biến cố1975, sau các cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa mà Trí thức là đối tượng hàng đầu, nhất là sau khi Giáo hội Quốc doanh được nhà nước cộng sản khai sinh, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị đẩy lùi vào quá khứ ; những tăng, ni trung niên trí thức như Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Thích nữ Trí Hải…, chỉ còn một lựa chọn duy nhất là dấn thân vào cái chết trên chiến hào hoặc trên pháp trường để kích thích tinh thần đấu tranh của thanh niên và mọi tầng lớp quần chúng, đồng thời gây tiếng vang đến người Việt ở nước ngoài và dư luận quốc tế.

Sự chọn lựa, dấn thân trong vô vọng và bi tráng ấy chắc chắn sẽ có một kết cục thôi là họ bị bắt bởi vì mật vụ, công an chìm theo sát từng bước chân những người bất phục. Có thể họ sẽ bị đày đọa và giết chết trong ngục tù như thiền sư Thích Thiện Minh năm 1978. Chắc chắn hơn là họ sẽ bị Đảng cộng sản công khai tuyên bố những hình phạt nặng nề nhất nhằm răn đe, ngăn chặn những ý đồ, mưu toan nổi dậy âm ỉ trong nhân dân".

Nhận định của Huỳnh Văn Tòng khá thỏa đáng đối với tôi. Tuy nhiên, những thông tin anh cung cấp đối với tôi là chưa đầy đủ và cần kiểm chứng. Từ nhà anh, tôi đi thẳng tới chùa Già Lam với hy vọng hòa thượng Thích Trí Thủ sẽ cho tôi biết thêm điều gì ?

Hòa thượng Thích Trí Thủ không để tôi ngồi chờ lâu như lần đầu tôi xin gặp (giữa năm 1974, khi đó ngài đang có khách). Chùa Già Lam, lần này (tháng 4/1984) cũng như lần trước (tháng 8/1978, tôi đến sau cái chết của thiền sư Thiện Minh), trông buồn rầu ảm đạm. Vị trụ trì còn buồn rầu, ảm đạm hơn. Tôi ái ngại nhìn ông, hỏi :

– Thưa, Thầy đang bệnh ?

– Ừ, mình đang bệnh, một căn bệnh không chữa được. Căn bệnh tiềm ẩn từ sau 1975, phát tán từ sau khi mình tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam (tức Giáo hội quốc doanh).

Hòa thượng Thích Trí Thủ nhìn tôi. Ông nói chậm, nói rõ từng tiếng. Ông còn như đang nhìn vào chính mình, đang tra vấn mình ? Phải chăng ông đang sám hối ? Tôi đâm hoảng khi nghĩ đến điều này. Khi một nhà tu hành chân chính sám hối công khai là vấn đề đã trở nên trầm trọng, là "căn bệnh không còn đường cứu chữa". Tôi cung kính :

– Thưa Thầy, lỗi do Đảng cộng sản, đâu phải tại Thầy ?

Ông tiếp tục nhìn tôi, và nhìn sâu hơn vào chính mình :

– Đành rằng, không có mình, Đảng cộng sản cũng sẽ làm như thế. Nhưng có mình (tham gia hình thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam), họ làm dễ hơn. Họ duy vật, vô thần, chống phá tôn giáo là tất nhiên. Còn mình, là người tu hành, lại tiếp tay với họ để hủy diệt tôn giáo và loại bỏ giáo hội của mình là một tội lỗi, dù lòng mình không như thế. Đó tại vì mình bất trí, nhẹ dạ, cả tin. Đến thời điểm này, 1984, mình mới hiểu tường tận về Đảng cộng sản mà mình đã từng kêu gọi Phật tử và mọi người hợp tác. Thì ra, họ không có gì cả, ngoài tham – sân – si. Tội của mình không nhỏ…

Tôi xin ngừng ở đây vài phút để tự tra vấn chính mình. Đến lúc này, khi ngồi viết những dòng này, tôi cảm thấy có cái gì đó trong tôi chưa được sáng tỏ và rõ ràng là mâu thuẫn : Tôi lên án, chê bai vai trò tay sai, công cụ của Giáo hội quốc doanh, nhưng tôi chưa hề kết tội hòa thượng Thích Trí Thủ là sư quốc doanh, là tay sai, công cụ của Đảng cộng sản, mặc dù ông là một trong hai chức sắc có vai vế cao nhất trong Giáo hội quốc doanh tay sai công cụ đó.

Tôi đã gặp hòa thượng Thích Trí Thủ năm lần, tại chùa Già Lam. Ba lần khoảng giữa năm 1974 với tư cách là người của Phong trào đô thị của Mặt trận Giải phóng để nghe ông nói về Lực lượng Hòa giải, về Ủy ban Cứu đói, về sự hỗ trợ cho cuộc biểu tình của ký giả đòi tự do báo chí mà Giáo hội Ấn Quang đang tiến hành. Lần thứ tư sau cái chết của thiền sư Thích Thiện Minh vào cuối năm 1988 với tư cách cá nhân, từng là công cụ của chế độ trong chiến tranh đã và đang ăn năn sám hối. Lần thứ năm này, vào tháng 4 năm 1984, để có thêm những thông tin về vụ các tăng, ni trí thức Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Thích Tuệ Sỹ, Thích Nữ Trí Hải… bị bắt.

Tôi biết về hòa thượng Thích Trí Thủ nhiều hơn qua những lần trò chuyện với thiền sư Thích Đức Tâm, đệ tử tâm phúc của ông, và qua những câu chuyện tình cờ nghe được từ những người bạn Phật tử ở Huế như Phan Đạm Hiệp, Tôn Thất Kỳ, Phạm Thị Xuân Quế… Tôi còn biết thêm về ông sau khi đọc Hồi ký của Đỗ Trung Hiếu (tài liệu đã dẫn). Tất cả đều để lại trong tâm trí tôi sự tôn kính và thương cảm đối với ông.

Theo tôi, ông là nhà tu hành chân chính, thật thà, trung hậu. Ông yêu Quê hương Đất nước và thực hành Phật pháp trong bối cảnh chiến tranh tàn khốc với ngoại nhân và xâu xé Dân tộc. Đi với cộng sản, ông như người cứu hộ lên nhầm thuyền (của bọn cường khấu) giữa biển trời mù mịt sóng to bão lớn. Ông tự nhận mình "bất trí" và ông đã sám hối vì sự "bất trí" này.

Trong vòng 30 năm giữa thế kỷ 20 (từ 1945 đến 1975) hàng chục triệu người Việt Nam đã "bất trí" tin theo sự hứa hẹn "Độc lập - Tự do – Hạnh phúc", đã hăng hái "Thi đua – Đoàn kết – Yêu nước, Hòa giải – Hòa hơp Dân tộc" dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, không ngại hy sinh gian khổ, liều chết tham gia hai cuộc kháng chiến "thần thánh" chống Pháp, chống Mỹ. Đến khi "kháng chiến thắng thắng lợi" thì Đảng cộng sản trói chặt mọi người trong câu khẩu hiệu : "Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội". Và một câu khẩu hiệu khác đầy tính chất lật lọng, phản trắc, răn đe, bạo động : "Không yêu chủ nghĩa xã hội là khộng yêu nước". Mà không yêu nước theo quan điểm, chỉ thị và quyền lực toàn trị của Đảng cộng sản thì chỉ có bắt bớ, tra tấn, tù đày và chết chóc…

Trở lại chùa Già Lam với cuộc thăm viếng gián đoạn của tôi.

Tôi thưa với hòa thượng Thích Trí Thủ rằng pháp nạn của Phật giáo cũng là tổn thất và nỗi đau của tất cả các cộng đồng Dân tộc. Nhân dân cần biết sự thật với cuộc "nổi dậy" của các tăng, ni, Phật tử bị đàn áp. Đấu tranh cho tự do tôn giáo vào thời buổi này trên đất nước này cũng là đấu tranh cho Tự do, Dân chủ và Xây dựng đất nước, là trách nhiệm trường kỳ của mọi người. Xin thầy cho tôi biết cảm nhận của thầy về những lời đồn đoán rằng chùa Ấn Quang, chùa Già Lam là xuất phát điểm của một chiến khu ?

Hòa thượng Thích Trí Thủ nhìn tôi với đôi mắt hiền từ và bao dung. Ông nói :

"Những lời đồn đoán như thế là không có căn cứ. Nếu chùa Ấn Quang và chùa Già Lam chủ trương thành lập chiến khu thì đâu còn có chỗ cho anh ngồi ở đây hôm nay ? Tất cả đã trở thành bình địa rồi. Chúng ta đang sống trong chế độ cộng sản. Trong bất cứ chế độ nào, Phật giáo vẫn chủ trương bất bạo động. Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, không có pháp môn nào khuyến khích bạo động cả".

Tôi cảm thấy xấu hổ vì đã đưa ra câu hỏi ngớ ngẫn. Nhưng rồi tôi vẫn tiếp tục chất vấn ông : Thưa thầy, vậy thì các vị tăng, ni Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ, Thích nữ Trí Hải… bị bắt, vì lý do gì ?

Hòa thượng Thích Trí Thủ quay trở người một chút. Trong tích tắc, ông lấy lại tự chủ, nói :

"Hơn mười ngày qua mình cũng tự hỏi và hỏi quanh như anh. Mình đã đi khắp các cơ quan có thẩm quyền, lạy sói đầu (mệnh đề này ông lặp lại, lần trước ông đã nói với tôi trong vụ Thiện Minh), xin bảo lãnh cho họ (Chu Sơn : Các tăng ni Phật tử nổi dậy), nhưng rồi đều bị từ chối. Mãi đến ngày hôm qua, thứ Hai, mình được mời ra trụ sở Ủy ban Mặt trận thành phố để nghe một cuộn băng ghi lại lời nói, nội dung các cuộc họp của một tổ chưc Phật tử hô hào lật đổ chế độ, mình nhận ra giọng nói của mấy người thân quen. Lần trước, năm 1988, như anh đã biết, mình không cứu được Thiện Minh. Lần này, mình cũng không cứu được Trí Siêu, Tuệ Sỹ, Trí Hải… Từ sau khi ở trụ sở Ủy ban Mặt trận về, mình không ngừng tự chất vấn : Mình ở trong giáo hội làm gì mà không cứu ai được cả ? Người tu hành đã từng dấn thân (trong các cuộc đấu tranh kêu đòi Tự do, Dân chủ trước 1975) mà không cứu được ai thì cũng không cứu được mình".

Tôi rời chùa Già Lam mà lòng nặng trĩu. Một tuần sau, tôi bàng hoàng nghe Huỳnh Văn Tòng báo tin, hòa thượng Thích Trí Thủ đã qua đời tại bệnh viện Thống Nhất (bệnh viện Vì Dân do chế độ cũ để lại). Tôi theo Tòng lên bệnh viện Thống Nhất, và đã tháp tùng trong đoàn rước linh cữu của ông về chùa Già Lam.

(Trước tôi và Tòng mấy bước là ông Nguyễn Hộ, một người cao lớn, trưởng ban Dân vận Mặt trận thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Mấy tháng sau, ông Nguyễn Hộ rời bỏ ngôi biệt thự to đẹp tại trung tâm thành phố ra vùng căn cứ kháng chiến xưa, sống trong căn lều tuềnh toàng tự dựng lấy cạnh bờ sông để nhìn nước chảy bèo trôi. Có người nói ông Nguyễn Hộ đi lập chiến khu. Huỳnh Văn Tòng nói ông từ bỏ vai trò và những đặc quyền đặc lợi cán bộ cao cấp trong Đảng cộng sản để ăn năn sám hối trọn đời…).

Tôi tham dự trọn vẹn tang lễ vị hòa thượng mà tôi kính trọng. Trong suốt thời gian ấy, tôi luôn nghĩ về tình cảnh khắc nghiệt mà những người bất phục chế độ đang chịu đựng trong tù. Tôi rùng mình nghĩ đến sự đày đọa và cái chết thảm khốc của thiền sư bất khuất Thích Thiện Minh. Tôi theo dõi quá trình tù tội của họ. Rất nhiều nhân vật và tổ chức đấu tranh Nhân quyền quốc tế lên tiếng can thiệp để họ được trả tự do.

Tháng 9 năm 1988, chính quyền cộng sản đưa vụ "chống đảng, lập chiến khu" ra tòa. Hai án tử hình dành cho Thích Trí Siêu – Lê Mạnh Thát và Nguyên Chứng Thích Tuệ Sỹ, án 4 năm tù giam dành cho Thích Nữ Trí Hải…

45 ngày sau, không biết vì lý do gì, án tử hình của hai vị thiền sư Tuệ Sỹ, Trí Siêu giảm xuống còn 20 năm tù giam, án 4 năm tù giam của ni sư Trí Hải được xóa trắng do một phiên tòa khác.

10 năm sau, năm 1998, Thích Trí Siêu và Thích Tuệ Sỹ được trả tự do.

Thích Trí Siêu ra tù, hợp tác với chế độ, tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam (quốc doanh), nhận chức giáo sư, phó viện trưởng viện Phật học Thành phố Hồ Chí Minh.

Thích Tuệ Sỹ ra tù, tham gia cùng các hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ đấu tranh theo chủ trương của hòa thượng Thích Đôn Hậu.

phap0

Các vị nhân sĩ trí thức trong Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam : Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Luật sư Trịnh Đình Thảo, Tiến sĩ Lê Văn Hảo và bà Nguyễn Đình Chi. Ảnh tư liệu NĐX chụp 1968.

2/ Các hòa thượng Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ cùng hàng vạn tăng ni Phật tử tham gia cuộc đấu tranh kêu đòi phục hoạt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, kêu đòi Tự do, Dân chủ, Nhân quyền.

Để hiểu rõ hơn về cuộc đấu tranh này, tôi xin tóm lược tiểu truyện của ba vị hòa thượng theo các tài liệu : Thích Đôn Hậu (Bách khoa toàn thư mở Wikpedia), Tiểu sử và Công hạnh của Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Đệ tứ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (gdptvietnam.org), Sơ lược Tiểu sử Đại Trưởng lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (1928-2020), Chặng đường dài đấu tranh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (từ năm 1975 đến nay).

Các tiểu truyện này, tôi tập trung vào những hành động đấu tranh và những khổ nạn mà ba vị đã nếm trải trong chế độ cộng sản. Những thành tựu tôn giáo và văn hóa to lớn rất đáng trân trọng, không là nội dung trong bài viết nhỏ này.

Hòa thượng Thích Đôn Hậu

Sinh năm 1905 tại làng Xuân An, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, tên khai sinh là Diệp Trương Thuần, con ông Diệp Văn Kỷ và bà Nguyễn Thị Cựu.

Ông Diệp Văn Kỷ là một thầy thuốc nổi tiếng, sử dụng thành thạo Hán Nôm và hâm mộ đạo Phật. Bà Nguyễn Thị Cựu mất sớm khi con trai Diệp Trương Thuần mới 9 tuổi. Vợ chết, ông Diệp Văn Kỷ xây chùa, học Phật, tu tập, về sau xuất gia làm trụ trì chùa Long An, rồi chùa Tịnh Quang ở Quảng Trị.

Ông mời thầy dạy chữ Nho cho con trai trong vòng 10 năm với hy vọng cậu sẽ thành đạt trên con đường Phật pháp. Diệp Trương Thuần khỏe mạnh, to cao, có ngoại hình tuấn tú, chẳng những không trở ngại gì, mà còn hoan hỉ trước đường hướng xuất gia do cha gợi mở.

Năm 1924, khi 19 tuổi, Diệp Trương Thuần vào chùa Tây Thiên, Huế, xin xuất gia với tổ sư Tâm Tịnh. Là một tăng sĩ có học vấn cao, Phật pháp và lao tác chuyên cần, phẩm hạnh tốt, giới luật nghiêm túc, Thích Đôn Hậu nhanh chóng gây được niềm tin và sự yêu quý của sư tổ và tăng thân. Chỉ một năm sau ngày xuất gia, 1925, ông đã được thụ đại giới Cụ Túc tại giới đàn Từ Hiếu do Bổn sư làm đàn chủ.

Theo sách Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam Thế Kỷ XX – Tập I, do Thích Đồng Bổn chủ biên, sau khi Bổn sư viên tịch, ông tới học Phật với sư huynh Giác Tiên ở chùa Hồng Khê. Theo Nguyễn Lang (trong Việt Nam Phật giáo Sử Luận), thiền sư Đôn Hậu còn học Phật với các đại sư Huệ Pháp, Viên Thành, Hồng Khê và Phước Huệ. Ông bắt đầu và hoàn tất chương trình tiểu học và đại học tại chùa Thập Tháp (1 năm ở Bình Định) và tại chùa Tây Thiên (Huế, những năm còn lại (1927- 1936).

Từ 1932, ông đã được mời làm giảng sư hội An Nam Phật Học. Năm 1836, ông được mời làm giáo sư cho Phật học đường và luật sư cho Sơn Môn Thừa Thiên. Năm 1945, ông được ủy nhiệm trụ trì chùa Linh Mụ và làm hội trưởng Hội An Nam Phật Học. Năm 1946, ông làm chủ tịch Phật giáo Liên Hiệp Trung Bộ (Phật giáo cứu quốc – Chu Sơn).

Đến năm 1947, ông bị quân đội Pháp bắt giữ và tra tấn trong nhiều tuần lễ, nếu không nhờ bà Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại can thiệp, thì ông đã bị quân Pháp đưa ra xử bắn.

Năm 1951, Sơn môn Tăng già Trung phần mời ông giữ chức giám luật. Năm 1952, khi Giáo hội Tăng già Toàn quốc được thành lập tại Hà Nội, ông cũng được mời giữ trách vụ giám luật.

Ông làm chủ nhiệm tạp chí Liên Hoa từ 1959 đến 1966. Năm 1963, ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm giam giữ vì tham gia tích cực vào phong trào chống chính sách kỳ thị tôn giáo của chính phủ này.

Năm 1964, ông nhận chức Chánh Đại diện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại miền Van Hạnh. Năm 1975, ông được thỉnh vào Hội đồng Trưởng lão của Giáo hội và làm Chánh Thư ký cho Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

(Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử lược, trang 972-973).

***

Đoạn tiểu truyện trên đây, Nguyễn Lang (thiền sư Thích Nhất Hạnh) viết với hình thức biên niên, nên độc giả dễ dàng nhận ra rằng, tác giả cố tình không nhắc đến một giai đoạn rất quan trọng trong đời của hòa thượng Thích Đôn Hậu – giai đoạn ông công khai đứng về phía cộng sản miền Bắc chống Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa.

Trong khi đó, sách Tiểu sử Danh Tăng Việt Nam Thế Kỷ XX – Tập I, Thích Đồng Bổn chủ biên, viết rõ về Thích Đôn Hậu giai đoạn này như sau :

"Từ năm 1968, Ngài được mời tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Ngài vào chiến khu, ra Hà Nội. Từ đây, Ngài càng đẩy mạnh sự nghiệp lợi Đạo ích Đời.

– Tháng 1/1968 : Phó Chủ tịch Liên minh Các lực lượng Dân chủ và Hòa bình Việt Nam. Tháng 6/1968 : Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam.

– Năm 1970, đi tham quan văn hóa, tôn giáo ở Liên Xô và Trung Quốc. Năm 1971, đi dự Đại hội thành lập tổ chức Phật giáo Châu Á vì Hòa bình ở Mông Cổ và được cử làm Ủy viên thường trực Ban Chấp hành Hội Phật giáo Châu Á vì Hòa bình" (nguyên văn).

Những thông tin trích dẫn trên đây là sự thật lịch sử. Có điều cái sự thật lịch sử đó lại được bình luận theo sách lược tuyên truyền của tất cả các loa cộng sản, rằng là hòa thượng Thích Đôn Hậu đã hành động "lợi Đạo ích Đời" trong giai đoạn ông đi về phía Đảng cộng sản.

Xin mở ngoặc đơn để nêu một câu hỏi đặt ra cho nhóm chủ biên Thích Đồng Bổn là "Đạo" nào và "Đời" nào ở đây ? Phải chăng "Đạo" là Đạo cộng sản, là ý thức hệ Mác – Lênin và "Đời" là đất nước và xã hội tại những lãnh thổ do các Đảng cộng sản Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc… cai trị toàn diện và tuyệt đối ?

Theo tôi (Chu Sơn), "Đạo" và "Đời" ấy nhất thiết không phải là đạo và đời của nhân dân Việt Nam, bao gồm các cộng đồng Phật tử, giáo dân Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo và cả những người vô thần không cộng sản… Bởi vì Đảng cộng sản từ khi mới thành lập (1930), cho đến thời điểm "định hướng xã hội chủ nghĩa" này (2021), vẫn chủ trương duy vật, vô thần, vô đạo (vô tôn giáo).

Đề nghị độc giả đọc lại từ đầu bài viết này để cùng tôi thấu rõ nhóm từ cực kỳ lưu manh gian trá của Đảng cộng sản : "Lợi Đạo ích Đời".

***

Trở lại câu chuyện tác giả Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) "cố tình không nhắc đến" một đoạn đời rất quan trọng của hòa thượng Thích Đôn Hậu, tôi nêu ra ở trên.

Trong sách Việt Nam Phật giáo sử lược, Nguyễn Lang dành nguyên một chương (chương XXXVI) để viết về Thế Đứng và Con Đường của Phật giáo Việt Nam từ sau 1954 ở miền Nam. Thế Đứng và Con Đường đó là Độc lập và Trung lập trong cuộc chiến tranh giữa hai thế giới tư bản – cộng sản và hai quốc gia "miền Nam", "miền Bắc" trên lãnh thổ Việt Nam.

Theo Nguyễn Lang, sự chọn lựa Thế Đứng và Con Đường ấy thể hiện đúng đắn bản chất Trung Đạo của Phật pháp. Bất cứ ai đi lệch Thế Đứng và Con Đường ấy không còn là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (khối Ấn Quang) nữa.

Điều này Nguyễn Lang không nói ra, cũng như trong tiểu mục "Thiền sư Đôn Hậu", ông cố tình không nhắc tới chuyện hòa thượng Thích Đôn Hậu từ năm 1968, công khai đứng về phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và thế giới cộng sản, nhằm đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa dưới chiêu bài Liên minh Các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình.

Đây là vấn đề tế nhị. Đương nhiên, Thiền sư Đôn Hậu không biết gì và cũng không có trách nhiệm trực tiếp về cuộc tắm máu Tết Mậu Thân tại Huế – nơi ông vừa tạm xa để đón quân Giải phóng về. Và năm 1972, ông cũng không biết gì về đạn pháo của "quân ta" đã làm nên "Đại Lộ Kinh Hoàng" trong "Mùa Hè Đỏ Lửa" với hàng ngàn thân xác dân Quảng Trị và bắc Thừa Thiên, đa phần là những người già, phụ nữ, trẻ em tung tóe máu xương da thịt trên đường chạy về phía nam lánh nạn.

Tuy nhiên, không chỉ những người chống Phật giáo, mà những Phật tử trung thực, kể cả thiền sư Đôn Hậu, sau năm 1975, về lại Huế, đã ăn năn, sám hối vì đã "bất trí" (từ của hòa thượng Thích Trí Thủ) tin những lời đường mật của cộng sản : Dân tộc, Dân chủ, Hòa bình.

Tôi có căn cớ để chứng minh khẳng định của mình : Hòa thượng Thích Đôn Hậu đã dành trọn những năm cuối cuộc đời tu hành, cho đến hơi thở cuối cùng, để làm người bất phục, làm "tên phản động mới", kêu đòi Tư do, Dân chủ, Nhân quyền trong chế độ cộng sản toàn trị. Đây là hành động sám hối cụ thể rất đáng trân trọng và ca ngợi.

Theo tài liệu Chặng Đường Dài Đấu Tranh Của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất  của Phan V. Anh, tôi ghi chép các sự kiện :

– Năm 1978, thời điểm phát triển đến đỉnh điểm tình trạng khủng bố đàn áp của chính quyền cộng sản đối với giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, hòa thượng Thích Đôn Hậu, với tư cách cá nhân, tuyên bố từ nhiệm chức danh đại biểu Quốc hội và thành viên chủ tịch đoàn Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (ông được bầu trước đó, năm 1976). Cùng thời điểm này, với tư cách chánh thư ký Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, ông gởi kháng thư đến nhà cầm quyền Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phản đối việc bắt bớ giam cầm trái phép các chức sắc cao cấp của Giáo hội, tố cáo việc sát hại Thiền sư Thích Thiện Minh, đòi trả tự do cho các Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sỹ…

– Năm 1980, trong buổi họp do Nguyễn Văn Linh, bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh chủ trì tại cơ quan Mặt trận Tổ quốc thành phố, hòa thượng Thích Đôn Hậu với tư cách chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, phản đối ý đồ công cụ hóa giáo hội trong việc thành lập Ban Vận động Thống nhất Phật giáo của Đảng cộng sản.

– Năm 1981, nhà nước cộng sản tổ chức đại hội thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hòa thượng Thích Đôn Hậu không tham dự. Nhưng sau đó tên ông được công bố là thành viên cao cấp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam với chức danh đệ nhất phó pháp chủ kiêm giám luật. Bằng một văn thư ông phản đối việc làm không chính đáng của Đảng cộng sản và từ chối bất cứ chức danh nào trong giáo hội do nhà nước sắp đặt. Ông khẳng định Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn tồn tại hợp pháp, và ông với tư cách chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống có trách nhiệm đấu tranh bảo vệ nó.

– Năm 1982, hòa thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, gởi văn thư đến Giáo hội Phật giáo Việt Nam phản đối việc thành lập Hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam chiếm trụ sở trung ương Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại chùa Ấn Quang.

– Năm 1984, hòa thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, gởi văn thư phản đối Đảng cộng sản đã bắt bớ, giam cầm các tăng ni Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu, Thích nữ Trí Hải, Thích Nguyên Giác…

– Năm 1985, hòa thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, gửi văn thư đến bộ trưởng công an Mai Chí Thọ, yêu cầu trả tự do cho các tăng sỹ Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ, Thích Nguyên Giác…

– Năm 1991, hòa thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, gởi thông điệp đến các tổ chức Phật giáo cùng Phật tử ở nước ngoài, đề nghị thành lập một giáo hội hợp nhất lấy tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại, phối hợp hành động cùng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong nước, đấu tranh bảo vệ sự tồn tại và phát triển Giáo hội, đấu tranh cho Tự do Tôn giáo và Nhân quyền. Phật tử và các tổ chức Phật giáo hải ngoại nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của hòa thượng.

– Ngày 15/11/1991, hòa thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống, gởi Di thư đến Phật tử và các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong và ngoài nước lời kêu gọi cuối cùng : Trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng phải bảo vệ chánh pháp, bảo vệ và phát triển Giáo hội. Hòa thượng Thích Đôn Hậu khẳng định Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là Giáo hội duy nhất truyền thừa của Phật giáo Dân tộc có lịch sử 2000 năm. Ngài trao quyền điều hành Giáo hội cho các hòa thượng Thích Huyền Quang (được ngài chỉ định giữ chức viện trưởng Viện Hóa đạo), Thích Pháp Tri và Thích Quảng Độ với nhiệm vụ trước mắt là tổ chức Đại hội VIII và đặc biệt lưu tâm đến Giáo hội ở hải ngoại.

– Ngày 23/4/1992 hòa thượng Thích Đôn Hậu qua đời tại chùa Linh Mụ. Ông vừa tắt thở thì cán bộ cộng sản bao gồm Mặt trận, công an, ban Tôn giáo chính phủ tràn vào tuyên bố sẽ làm chủ tang lễ và tang lễ sẽ cử hành theo nghi thức và chế độ chính sách dành cho cán bộ cao cấp có công với cách mạng. Điều này trái với lời căn dặn của hòa thượng nhiều ngày trước lúc lâm chung : Giáo hội sẽ tổ chức tang lễ cho ông thật đơn giản, trang nghiêm, đạo vị, miễn tất cả các nghi thức tang lễ thịnh hành như điếu văn kêu khóc bi ai, tuyên dương công trạng tài đức tốt, trái với tinh thần vô ngã, vô tướng của Phật pháp.

Một cuộc đấu tranh căng thẳng diễn ra giữa đệ tử của cố hòa thượng Thích Đôn Hậu là các tăng sĩ Thích Nhật Liên, Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng… với cán bộ cộng sản để giành quyền tổ chức tang lễ. Cuộc đấu tranh căng thẳng đến độ khi tập thể tăng sĩ chùa Linh Mụ tuyên bố, nếu nhà nước cộng sản lấn tới, họ sẽ đồng loạt tuyệt thực trước linh cữu của Tôn sư. Trước thái độ quyết liêt của các tăng sĩ chùa Linh Mụ, chính quyền cộng sản nhượng bộ.

Đồng thời, một cuộc cuộc đấu tranh khác đã diễn ra khi hòa thượng Thích Huyền Quang xin phép chính quyền Quảng Ngãi đi Huế dự đám tang cố hòa thượng Thích Đôn Hậu, chính quyền từ chối. Hòa thượng Huyền Quang tuyên bố tuyệt thực cho đến chết, chính quyền đành cho đi. Hòa thượng Huyền Quang đi Huế, làm chủ tang lễ vị thiền sư bất khuất, tiếp nhận vai trò lãnh đạo giáo hội theo sự ủy thác của Ngài. Cuộc đấu tranh bảo tồn và phục hoạt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chuyển thế hệ.

Cuộc đấu tranh của các sư tăng đệ tử hòa thượng Thích Đôn Hậu :

Ngày 6/1/1983, có 56 hòa thượng, thượng tọa, đại đức và sư tăng ở 17 chùa tại Huế, ký kiến nghị số 1 gởi Ban tôn giáo chính phủ phản đối nhà nước can thiệp vào nội bộ Phật giáo. Kiến nghị tố cáo đích danh các cán bộ đội lốt người tu hành trong ban lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến nghị kêu gọi Đảng cộng sản tôn trọng hiến pháp 1946, tôn trọng tự do tín ngưỡng.

Ngày 12/4/1993, thượng tọa Thích Long Trí dẫn đầu ba đoàn xe chở tăng ni, Phật tử từ Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng đi Huế dự lễ giỗ đầu cố hòa thượng Thích Đôn Hậu. Đoàn xe bị công an ngăn chặn trên đeo Hải Vân. Các tăng ni Phật tử xuống xe tràn ra lòng đường ngồi trong tư thế kiết già, tuyên bố sẽ tuyệt thực cho đến chết… Công an đành cho đi. Cũng trong ngày, một ni cô 16 tuổi ở Quảng Ngãi tự thiêu để cúng dường Tam Bảo.

Ngày 21/5/1993, một nam Phật tử khoảng 50 tuổi đã tự thiêu lúc 9 giờ sáng trước ngôi bảo tháp cố hòa thượng Thích Đôn Hậu trong khuôn viên chùa Linh Mụ. Công an canh gác chùa Linh Mụ đã bao vây khủng bố cướp xác và các vật dụng tùy thân (túi xách, tâm thư, giấy tờ) của đương sự và ảnh chụp của du khách).

Sau vụ tự thiêu này, đài phát thanh Huế loan báo : "Một thanh niên nghiện ngập, mắc bệnh si-đa, quá thất vọng cuộc đời nên đã tự thiêu chết". Các sư tăng chùa Linh Mụ thiết lập một bàn vong trước bảo tháp với bảng ghi : "Một Phật tử đã vị pháp thiêu thân lúc 9 giờ sáng ngày 21/5/1993". Công an lập tức dẹp bàn vong này.

Ngày 22/5/1993, đại đức Thích Trí Tựu gởi thư khiếu nại đến Ủy ban nhân dân tỉnh đòi trả lại xác Phật tử tự thiêu cùng xách tay và giấy tờ tùy thân của ông để chùa Linh Mụ lo tang lễ.

Ngày 24/5/1993, buổi sáng, công an đến chùa Linh Mụ "mời" đại đức Thích Trí Tựu tới trụ sở Ủy ban nhân dân để "trao đổi". "Cuộc mời" thực tế là "cuộc bắt". Đến gần trưa, các sư tăng, Phật tử chùa Linh Mụ và các chùa thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Thừa Thiên – Huế, khoảng 4.000 người, kéo đến Ủy ban nhân dân tỉnh làm cuộc biểu tình giải vây cho đại đức Thích Trí Tựu. 20 vị sư tăng ngồi tuyệt thực trên đường Lê Lợi, trước Ủy ban Nhân dân. Đại đức Thích Trí Tựu được giải thoát về chùa Linh Mụ.

(Tôi, Chu Sơn, tình cờ chứng kiến cuộc biểu tình này và cũng tình cờ gặp một người bạn, Nguyễn Chính – thi sĩ Phan Duy Nhân, đang làm phó Ban Tôn giáo Chính phủ, từ Hà Nội vào để "giải quyết cuộc khủng hoảng". Nguyễn Chính nói nguyên văn : "Bộ công an gởi vào một tiểu đoàn chó nghiệp vụ. Tôi mong là không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra…". Đúng như Nguyễn Chính nói, ngày đó, 24/5/1993, không có gì đáng tiếc xảy ra, không có đàn áp, chó nghiệp vụ không xuất hiện cắn xé người biểu tình trên đường phố Huế, Thích Trí Tựu được giải thoát, cuộc khủng hoảng tạm thời lắng xuống. Đó là công lao của phó Ban Tôn Giáo Nguyễn Chính).

Ngày 27/5/1993 đại đức Thích Trí Tựu gởi một thỉnh nguyện thư tới thủ tướng chính phủ và chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Thỉnh nguyện thư gồm 3 điểm :

1/ Yêu cầu chính quyền chấm dứt tình trạng khủng bố, bắt bớ giam cầm hay quản chế trái phép các thành phần đấu tranh bất bạo động.

2/ Trả lại tự do cho các trí thức, những tù nhân lương tâm.

3/ Trả lại toàn bộ các cơ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã bị chánh quyền cưỡng đoạt từ sau năm 1975.

Ngày 5/6/1993, xe tăng bao vây chùa Linh Mụ, công an vào chùa với lệnh bắt giam đại đức Thích Trí Tựu. Đại đức Thích Trí Tựu, giám tự chùa Linh Mụ bị chửi rủa, bị vật té xuống đất, bị lột y tăng, thay bằng áo quần tù nhân, bị còng tay, bị tống lên xe bịt bùng chở thẳng đến nhà tù Thừa Phủ, không qua xét xử. Cùng thời điểm đó, ở Quảng Trị, đại đức Thích Hải Tạng trụ trì chùa Long An và đại đức Thích Hải Thịnh cũng ở trong tình trạng tương tự.

Ngày 18/11/1993, qua một phiên tòa không có luật sư bào chữa, các đại đức Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng mỗi người bị kết án 4 năm tù ; các đại đức Thích Hải Thịnh, Thích Hải Chánh mỗi người bị kết án 3 năm tù ; 6 Phật tử bị kết án từ 6 tháng đến 3 năm tù.

Vụ đồng bào Phật tử Huế xuống đường và những vụ đàn áp, bắt bớ, tra tấn, tù đày diễn ra trước và sau đó tại Thừa Thiên – Huế – Quảng Trị, gây chấn động dư luận trong nước và quốc tế, trong Phật giáo Quốc Doanh và Phật giáo Quốc Lủi.

Tại Quảng Ngãi, hòa thượng Thích Huyền Quang ra một Tuyên ngôn tố cáo Đảng cộng sản Việt Nam là nguyên nhân của đói nghèo, là lực cản trên con đường phát triển của Đất nước, Dân tộc. Ông kêu gọi Đảng cộng sản bỏ điều 4 Hiến pháp (đảng cai trị toàn diện và tuyệt đối), trả lại các quyền Tự do, Dân chủ cho Nhân dân. 

Hòa thượng Thích Huyền Quang

Tên thật là Lê Đình Nhàn, con ông Lê Vy và bà Ngô Thị Tư, sinh năm 1920 tại làng An Nhơn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.

phapnan8

Hòa thượng Thích Huyền Quang

Năm 1935, thiếu niên Lê Đình Nhàn xuất gia học Phật với lão sư Chơn Hạ Đạo. Lão sư qua đời, ông tới chùa Bích Liên học Phật với sư tăng Chơn Hạ Giám, được tôn sư đặt tên là Thích Huyền Quang.

Năm 1938, tăng sĩ Thích Huyền Quang theo học tại Phật học đường Lưỡng Xuyên, Trà Vinh.

Đầu năm 1945, ông ra Huế theo học trường An Nam Phật Học. Thời cuộc biến đổi : chiến tranh Thế giới lần thứ hai kết thúc, thực dân Pháp quay trở lại, Đảng cộng sản thành lập chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chủ trương chống pháp.

Năm 1946, ông tham gia kháng chiến chống Pháp, phụ trách phó chủ tịch hội Phật giáo cứu quốc Liên khu 5.

Năm 1951, ông bị chính quyền cộng sản bắt giam trong vòng 4 năm vì chủ trương tự do tôn giáo trong vùng kháng chiến.

Năm 1955, trong vùng kiểm soát của chính quyền Quốc Gia (Bảo Đại – Ngô Đình Diệm), ông tham gia quản giáo tại Phật học đường Long Sơn, Nha Trang. Năm 1958, ông tham gia thành lập tu viện Nguyễn Thiều và Phật học viện Nguyễn Thiều.

Năm 1963, ông giữ chức vụ phó hội trưởng Hội Phật học Trung phần.

Năm 1963, ông tham gia cuộc đấu tranh kêu đòi bình đẳng và tự do tôn giáo, bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt.

Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập, ông được cử giữ chức thư ký Viện Hóa đạo kiêm tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ.

Từ năm 1964 đến năm 1966, ông tham gia các phong trào Phật giáo đấu tranh chống độc tài quân phiệt, chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình, hòa giải hòa hợp dân tộc ; cùng với Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ, ông chủ trương xây dựng đất nước theo mô hình "Chủ nghĩa xã hội không cộng sản" hay còn gọi là chủ nghĩa xã hội Phật giáo.

Từ năm 1975 đến tháng 4/1977, trong chế độ cộng sản, thiền sư Thích Huyền Quang cảm thấy đau khổ, tuyệt vọng và bất phục trước các cuộc cải tạo và cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng cộng sản.

Tháng 4/1977, trong một cuộc họp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại chùa Ấn Quang, thiền sư Thích Huyền Quang bị bắt cùng các thiền sư Thích Quảng Độ, Thích Thuyền Ấn, Thích Thông Bửu… bị giam ở số 4 Phan Đăng Lưu. Sau 18 tháng tù, ông bị kết án 2 năm tù. Sau 2 năm tù, ông được tha với lệnh quản chế tại chỗ.

Cuối năm 1981, nhà nước cộng sản thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thiền sư Huyền Quang phản đối quyết liệt. Ông bị chỉ định cư trú tại chùa Hội Phước tỉnh Nghĩa Bình, bị cấm "hành nghề tôn giáo".

Năm 1992, Hòa thượng Thích Đôn Hậu qua đời, ông tranh đấu quyết liệt với chính quyền cộng sản Quảng Ngãi mới được đi Huế dự đám táng vị lãnh đạo cao nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Qua di huấn của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, ông được trao quyền lãnh đạo Viện Hóa đạo, kiêm thường trực viện Tăng thống.

Năm 1992 (ngày 25/6), tại Quảng Ngãi, ông gởi kháng thư đến các cơ quan hữu trách của chính quyền, phản đối tình trạng đàn áp, khủng bố đối với tăng sĩ và Phật tử, tố cáo ý đồ tiêu diệt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất của Đảng cộng sản.

Trong nhiều tháng liền, ông gởi thư đến nhà cầm quyền tố cáo những sai lầm nghiêm trọng của Đảng cộng sản trong việc quản lý đất nước, đàn áp nhân dân, vi phạm các quyền tự do dân chủ. Đồng thời, ông kêu gọi tăng ni, Phật tử, trong tinh thần bất bạo động, cương quyết đấu tranh bảo vệ chánh pháp, bảo vệ và củng cố Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Ngày 2/11/1993, hòa thượng Thích Huyền Quang ra Tuyên bố, tố cáo Đảng cộng sản là nguyên nhân của đói nghèo, là lực cản trên con đường phát triển của Dân tộc. Ông đòi viết lại Hiến pháp, xóa bỏ điều 4 – xóa bỏ độc tài toàn trị của Đảng cộng sản.

Ngày 5/11/1994, Hòa thượng Thích Huyền Quang, viện trưởng Viện Hóa đạo, xử lý thường vụ Viện Tăng thống bị cưỡng bức thay đổi địa bàn quản chế : Từ chùa Hội Phước – thị xã Quảng Ngãi đến chùa Quang Phước – thuộc huyện miền núi Nghĩa Hành. Sự thay đổi này nhằm hạn chế đến tối thiểu sự giao tiếp giữa vị hòa thượng đấu tranh với cộng đồng Phật tử và quần chúng nhân dân đang thiếu đói cơm áo, công lý và tự do, nhân quyền.

Ngày 21/4/2000, nhân mùa Đảng cộng sản huênh hoang kỷ niệm 25 năm chiến thắng, hòa thượng Thích Huyền Quang gửi thư đến các nhà lãnh đạo đảng và nhà nước, yêu cầu thực thi "Linh quyền cho người chết và Nhân quyền cho người sống", đề nghị lấy ngày 30.4 làm Ngày Sám hối và Chúc sinh Toàn quốc.

Tháng 2/2003, hòa thượng Thích Huyền Quang được nhà nước cho ra chữa bệnh tại Hà Nội, nhân dịp này ông diện kiến thủ tường Phan Văn Khải, yêu cầu chính phủ hủy bỏ các hành động can thiệp vào nội bộ Phật giáo, công nhận tính chất hợp pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, trả tự do cho các tăng ni, Phật tử bị bắt. Thủ tướng Phan Văn Khải không đáp ứng được các yêu cầu của ông.

Hòa thượng Thích Huyền Quang từ Hà Nội về, chính quyền cộng sản chuyển địa bàn cư trú của ông từ chùa Quang Phước, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi vào tu viện Nguyễn Thiều, tỉnh Bình Định. Tu viện Nguyễn Thiều gần nơi thị tứ hơn nhưng sự kềm kẹp của công an cộng sản càng siết chặt hơn.

Cuối tháng 9/2003, một cuộc tập hợp được tổ chức âm thầm tại tu viện Nguyễn Thiều, hòa thượng Thích Quảng Độ dẫn một nhóm tăng ni, Phật tử đồng sự từ Sài Gòn ra, các nhóm tăng ni, Phật tử khác từ các tỉnh miền Trung tới. Cuộc tập họp được gọi là Đại hội Bất Thường nhằm mục đích củng cố, phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Đại hội Bất thường đã tôn cử hòa thượng Huyền Quang vào chức vụ viện trưởng Viện Tăng thống và hòa thượng Quảng Độ vào chức vụ viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Đại hội tiến hành tới đó thì công an ập vào giải tán. Các tăng ni bị buộc trở lại nơi xuất phát. Từ đó, hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và các tăng sĩ bất phục bị kiểm soát chặt chẽ hơn.

Ngày 5 tháng 7 năm 2008, hòa thượng Thích Huyền Quang qua đời tại tu viện Nguyễn Thiều. Từ đó, hòa thượng Thích Quảng Độ thay ngài chủ trì công cuộc đấu tranh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đương đầu với chế độ cộng sản.

Hòa thượng Thích Quảng Độ

"Hòa thượng Thích Quảng Độ tên khai sinh là Đặng Phúc Tuệ, sinh năm 1928 tại xã Nam Thanh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, trong một gia đình làm nghề nông, theo Nho học và đời đời sùng tín Phật pháp. Thân phụ ông là cụ Đặng Phúc Thiều, tự là Minh Viễn, thân mẫu là cụ bà Đào Thị Huân, pháp danh là Diệu Hương".

(Trích nguyên văn Sơ lược Tiểu sử Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ… do Văn phòng Thường trực Hội đồng Điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan biên soạn).

Năm 1934, thiếu niên Đặng Phúc Tuệ theo học trường làng, đến năm 1942 xuất gia tại chùa Linh Quang, tỉnh Hà Đông, do lão tăng Thích Đức Hải trụ trì, sư phụ đặt tên Phật là Thích Quảng Độ. Sau đó tiểu tăng Thích Quảng Độ được bổn sư gởi tới tu học tại chùa Quán Sứ – Hà Nội.

Năm 1952, Tổng hội Phật giáo Việt Nam tại miền Bắc tổ chức cho thanh niên tăng Thích Quảng Độ du học tại Phật học viện Pirivena – Tích Lan.

Kết thúc chương trình tu học tại Tích Lan, tăng sĩ Thích Quảng Độ du khảo các di tích và trung tâm Phật giáo tại Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Tây Tạng.

Năm 1958, ông trở về Sài Gòn làm giảng viên tại các Phật học đường, tiếp tục nghiên cứu Phật pháp, nghiên cứu lịch sử, văn hóa và văn học dân tộc, dịch kinh, viết sách.

Năm 1963, ông tham gia phong trào Phật giáo đấu tranh kêu đòi chính phủ Ngô Đình Diệm tôn trọng tự do và bình đẳng tôn giáo. Ông bị bắt trong chiến dịch Nước Lũ (ngày 20/8/1963) và được giải thoát cùng với 2000 tăng ni và Phật tử khác, sau cuộc đảo chính do các tướng lãnh cầm đầu (ngày 1/11/1963).

Ra tù, đại đức Thích Quảng Độ do tình hình sức khỏe kiệt quệ (bị tra tấn trong tù), ông không thể tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, cũng không thể tham gia các cuộc đấu tranh do giáo hội phát động từ năm 1964 đến 1966.

Năm 1966, Giáo hội tổ chức đưa ông đi điều trị tại Nhật Bản. Lành bệnh, phục hồi sức khỏe, Giáo hội gợi ý và tạo điều kiện cho ông du khảo tình hình Phật giáo tại Hồng Kông, Đài Loan, Thái Lan và Miến Điện. Về nước, ông làm giảng sư, giáo sư tại Phật học viện Từ Nghiêm, Phật học viện Dược Sư, Đại học Van Hạnh, Đại học Hòa Hảo.

Năm 1972, thượng tọa Thích Quảng Độ được đề cử làm phát ngôn viên, kiêm thanh tra Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Năm 1973, ông được cử làm thư ký Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Năm 1974, thượng tòa Thích Quảng Độ tham gia Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc do Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bảo trợ.

Từ sau 1975, thiền sư Thích Quảng Độ đau khổ trước sự cai trị hà khắc của chế độ cộng sản. Ông cho rằng Đảng cộng sản đã bỏ qua cơ hội ngàn vàng để thực hiện Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc.

Năm 1976, ông qui kết trách nhiệm cho Đảng cộng sản về sự kiện 12 tăng, ni chùa Dược Sư tự thiêu. Ông nhấn mạnh rằng sự kiện tự thiêu tập thể này là phản ứng tuyệt vọng trước các sách lược và hành động sai trái và tội ác của chế độ.

Tháng 4/1977, trong một cuộc họp của khoảng 200 tăng, ni và Phật tử tại chùa Ấn Quang để tìm giải pháp thích ứng trước nguy cơ tôn giáo bị cấm cách, giáo hội bị đàn áp, đất nước dân tộc bị suy tàn bởi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và sách lược ngoại giao thể hiện bản chất tham sân si ngoại hạng của Đảng cộng sản, thiền sư Thích Quảng Độ, Thiền sư Thích Huyền Quang và 5 vị tỳ kheo khác bị công an ập vào trấn áp và bắt giam. Tháng 12/1978, được thả sau một phiên tòa xử trắng án. Thực tế, phiên tòa là kết quả của áp lực từ chính giới và truyền thông châu Âu sau chuyến công du đầu tiên của thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Đầu năm 1982, do phản đối trước việc Đảng cộng sản tổ chức đại hội thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, công cụ của chế độ, hòa thượng Thích Quảng Độ cùng với hòa thượng Thích Huyền Quang bị chính quyền cộng sản chỉ định cư trú tại quê nhà. Hòa thượng Huyền Quang bị áp giải đi Quảng Ngãi. Hòa thượng Quảng Độ (cùng mẹ) bị áp giải đi Thái Bình.

(Thái Bình là quê nhà xưa cũ, hòa thượng Quảng Độ đã rời xa tròn nửa thế kỷ, gia đình, xóm giềng chẳng còn mấy ai thân thuộc, chùa Phật đã trở nên điêu tàn sau chừng ấy thời gian trong chế độ xã hội chủ nghĩa, lại bị cấm "hành nghề tôn giáo" và bị công an theo dõi, kềm kẹp nghiêm ngặt, ông chẳng biết làm gì ngoài việc dịch kinh, viết sách trong bối cảnh Đảng cộng sản "tự chuyển biến, tự chuyển hóa" : Chính quyền Công Nông chuyển dần qua Tư sản Đỏ, kinh tế chỉ huy – ngăn sông cấm chợ, ồ ạt chuyển qua kinh tế thị trường – chợ búa đến trụ sở đảng trung ương, ngoại giao từ độc kết Liên Xô chuyển qua "thế giới đại đồng" với kẻ cựu thù Đế quốc xâm lược Tư bản Mỹ và đương kim bành trướng hung ác Trung cộng. Trước tình thế đó, thiền sư Quảng Độ tự ý rời bỏ Thái Bình, về lại miền Nam quê hương tranh đấu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất…).

Hòa thượng Thích Quảng Độ về lại Sài Gòn vào khoảng giữa năm 1992. Lang thang thiếu đói khá lâu mới tìm được chỗ ở là Thanh Minh Thiền viện ở số 90 Trần huy Liệu, phường 25, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh do thiền sư Thích Thanh Minh trụ trì. Chắc là thiền sư Thích Thanh Minh thành tâm chia sẻ những mục tiêu và khát vọng đấu tranh của ông mới gồng mình che chở cho một nhân vật nguy hiểm như vậy trong mắt của chính quyền cộng sản.

Ba mục tiêu hòa thượng Quảng Độ đề ra vào thời điểm này : Một là kêu đòi chính quyền cộng sản tôn trọng quyền hoạt động tôn giáo hợp pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ; hai là đấu tranh kêu đòi Tự do, Dân chủ và Nhân quyền ; ba là tham gia các hoạt động xã hội, đóng góp ý kiến cùng chính quyền trong những vấn đề xây dựng, bảo vệ đất nước.

Hòa thượng Thích Quảng Độ âm thầm tập họp lực lượng. Ông quy tụ những tăng, ni bất phục chế độ ở Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Ông tìm cách thiết lập mối quan hệ với Quảng Ngãi và Bình Định, nơi hòa thượng Thích Huyền Quang, vị lãnh đạo mới của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được ủy nhiệm bởi cố hòa thượng Thích Đôn Hậu, đang bị quản thúc. Ông cũng tìm cách thiết lập mối quan hệ với các thiền sư đang sôi sục đấu tranh Bảo Vệ Chánh Pháp theo Di chúc của Ngài Thích Đôn Hậu tại Huế, Quảng Trị, Quảng Nam. Ông thiết lập mối quan hệ với Phòng thông tin hải ngoại thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Pháp và các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Úc và Mỹ.

Ngày 9/8/1994 hòa thượng Thích Quảng Độ, chánh thư ký viện Hóa Đạo trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất gởi thư cho tổng bí thư Đảng cộng sản Đỗ Mười để phản đối lệnh quốc tang cho Kim Nhật Thành, lãnh tụ Đảng cộng sản Triều Tiên. Theo thiền sư Quảng Độ, nhân dân Việt Nam không để tang cho lãnh tụ độc tài đàn áp nhân dân Triều Tiên.

Ông khẳng định rằng nếu nhân dân Việt Nam để tang thì để tang cho hàng chục ngàn người bị giết chết trong Cải cách ruộng đất ở miền Bắc, 5.000 người bị giết trong Tết Mậu Thân ở Huế, hàng chục ngàn người bị chết trong các trại cải tạo sĩ quan và công chức Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1975, hàng trăm ngàn người bị chết trong các cuộc vượt biên trên biển hay trên đất liền trong nhiều năm liền Đảng cộng sản tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Qua kháng thư này, thiền sư Thích Quảng Độ chứng tỏ ông không chỉ là một nhà tu hành đấu tranh cho tự do tôn giáo và sự tồn vong của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, ông đã trở thành nhân vật đấu tranh vì các mục tiêu to lớn hơn là Dân chủ, Nhân quyền và Xã hội dân sự trên bình diện cả nước.

Kèm theo kháng thư này, thiền sư Thích Quảng Độ còn gởi đến tổng bí thư Đỗ Mười một bản nhận định tổng quát về những sai trái mà Đảng cộng sản Việt Nam mắc phải từ sau năm 1975 đối với đất nước, dân tộc và các tôn giáo, trong đó có Phật giáo.

Ngày 10/10/1994, hòa thượng Thích Quảng Độ khai dựng bảng "Văn Phòng Viện Hóa đạo Lưu Vong" tại Thanh Minh Thiền Viện số 90 Trần Huy Liệu, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh (văn phòng chính của viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đặt tại chùa Ấn Quang đã bị giáo hội Phật giáo quốc doanh chiếm dụng từ năm 1991). Nhân dịp này, thiền sư Quảng Độ gởi thư cho các tăng ni ngoài Phật giáo quốc doanh trên toàn quốc, đề nghị dựng bảng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại chùa và tu viện do mình trụ trì.

Ngày 24/10/1994. hòa thượng Thích Quảng Độ và nhóm các vị tăng thân thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận nhóm họp tại Thanh Minh Thiền Viện, để bàn thảo chương trình cứu trợ đồng bào bị lũ lụt ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Thượng tọa Thích Long Trí được cử đi tiền trạm nhằm quan sát tình hình cụ thể để Giáo hội có kế hoạch cứu trợ thích ứng. Thượng tọa bị công an chận bắt trên đường đi, đem về giam tại Thành phố Hồ Chí Minh. Công an lục soát Thanh Minh Thiền Viện, lục soát các chùa có tăng thân tham gia công cuộc cứu trợ ; công an ngăn chặn các xe chở hàng cứu trợ và lấy đi tất cả của cải Giáo hội quyên góp được. Một số tăng, ni, Phật tử bị bắt như đại đức Thích Trí Lực, các thượng tọa Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, các Phật tử Phạm Văn Xua, Nguyễn Thị Em…

Ngày 1/12/1994, hòa thượng Thích Quảng Độ bị công an vào Thanh Minh Thiền Viện bắt, đưa ra miền bắc, giam tại trại tù B14, bị đưa ra tòa ngày 15/8/1995 cùng với 6 tù nhân phản đối chế độ khác. Hòa thượng Thích Quảng Độ bị kết án 5 năm tù.

phapnan9

Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ

Ngày 30/8/1998, hòa thượng Thích Quảng Độ được trả tự do, nghe đâu nhờ sự can thiệp của chính phủ Mỹ và các tổ chức Bảo vệ Nhân quyền trên thế giới.

Nhân dịp này, hòa thượng Thích Quảng Độ được chính quyền cộng sản và tòa đại sứ Mỹ đề nghị sang cư trú tại Hoa Kỳ. Ông đã từ chối vì lý do : "Ở lại với quần chúng Phật tử". Hòa thượng Thích Quảng Độ trở lại Sài Gòn, tiếp tục cư trú tại Thanh Minh Thiền Viện, tiếp tục thực hiện "Quyền Công Dân" trước sự kiểm soát nghiêm ngặt của công an.

Ngày 19/3/1999, hòa thượng Thích Quảng Độ đi Quảng Ngãi thăm hòa thượng Thích Huyền Quang (sau 18 năm cách biệt). Cùng thời điểm, từ Quảng Trị, đại đức Thích Hải Tạng cũng đến Quảng Ngãi thăm vị hòa thượng đứng đầu Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Công an giải tán cuộc họp mặt tình cờ này. Hai vị khách bị công an áp tải về nơi xuất phát. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn bị chính quyền cộng sản đặt ngoài vòng pháp luật.

Ngày 21/2/2001, hòa thượng Thích Quảng Độ công bố Lời kêu gọi Dân chủ cho Việt Nam nhân danh Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Ngày 9/4/2002, hòa thượng Thích Quảng Độ (cùng hòa thượng Thích Huyền Quang, linh mục Nguyễn Văn Lý) được Tổ chức People in Need, Cộng hòa Séc, trao giải thưởng Homo Homini. Cả ba vị được vinh danh là "những người bảo vệ nhân quyền, tự do dân chủ và tự do tôn giáo ở Việt Nam".

Ngày 22/9/2003, Đại hội Bất Thường gồm đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất các địa phương khai mạc tại tu viện Nguyên Thiều, Bình Định, nhằm mục đích củng cố và phát triển giáo hội. Tại Đại hội này, hòa thượng Thích Huyền Quang được tôn cử chính thức viện trưởng Viện Tăng thống, hòa thượng Thích Quảng Độ được tôn cử chính thức viện trưởng Viện Hóa đạo. Trong khi Đại hội đang tiếp diễn thì công an ập vào trấn áp, giải tán. Hòa thượng Thích Quảng Độ bị công an áp tải trở lại Thành phố Hồ Chí Minh để tiếp tục quản chế.

Tháng 9/2006, hòa thượng Thích Quảng Độ được trao giải Thorolf Rafto, Na Uy, vì "đã dũng cảm và kiên trì chống đối ôn hòa chế độ cộng sản Việt Nam". Ông cho biết, sẽ không rời Việt Nam để tới Na Uy nhận giải vì ngại chính quyền sẽ không cho trở về Việt Nam nữa, buộc ông phải sống lưu vong. Ông ủy thác cho ông Võ Văn Ái, giám đốc Phòng Thông tin hải ngoại của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhận giải thay ông. Ông không muốn xa lìa nhân dân và quần chúng Phật tử.

Tháng 7/2007, hòa thượng Thích Quảng Độ tham gia cứu trợ những người dân đang khiếu kiện đòi lại đất tại Thành phố Hồ Chí Minh và kêu gọi "chấm dứt cái nạn độc quyền cai trị tại Việt Nam". Ngày 23/8, ông cử thượng tọa Thích Không Tánh mang tiền ra miền Bắc cứu trợ những người khiếu kiện. Cùng ngày, cả hại vị thiền sư đều bị công an bắt vì cho rằng "đã hoạt động phá rối trật tư trị an". Đảng cộng sản đã huy động nhiều cơ quan và phương tiện truyền thông như báo Nhân Dân, báo Tiền Phong, báo Tuổi Trẻ Online tố cáo ông, nào là "lợi dụng tôn giáo mưu đồ chính trị, kích động phản loạn, gây rối…".

Năm 2008, hòa thượng Thích Huyền Quang qua đời, để lại chúc thư, cử hòa thượng Thích Quảng Độ thay ông làm đệ ngũ tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Trên cương vị và chức danh mới, dưới mắt chính quyền cộng sản, hòa thượng Thích Quảng Độ càng "nguy hiểm" hơn, công an càng kiểm soát nghiêm ngặt hơn, Phật tử không còn ai lui tới, Thanh Minh Thiền Viện vắng vẻ như chùa Bà Đanh. Áp lực từ phía công an, cộng thêm áp lực từ tình hình thực tế thiếu đói của cộng đồng tu viện, hòa thượng trụ trì Thích Thanh Minh đề nghị hòa thượng Thích Quảng Độ rời đi. Đó là ngày 15/9/2018.

Rời Thanh Minh Thiền Viện, thiền sư Thích Quảng Độ lang thang hết chùa này đến chùa nọ, trước áp lực của công an, không chùa nào chứa chấp ông cả. Ngày 5/11/2018, ông lên tàu về quê Thái Bình. Thái Bình cũng không ở được. Ngày 18/11/2018, ông vào lại Thành phố Hồ Chí Minh, tạm trú tại chùa Từ Hiếu, quận 8.

Ngày 22/2/2019, thiền sư Quảng Độ qua đời ở tuổi 92. Theo di ngôn, đám tang của Ngài sẽ được hòa thượng Thích Nguyên Lý và các Sư Tăng chùa Từ Hiếu cử hành đơn giản. Không vòng hoa. Không điếu văn. Không trướng liễn. Không để quá 3 ngày. Ngài muốn được thiêu để trở về với cát bụi.

Trớ trêu là cát bụi cũng không được ngủ yên. Phật giáo Quốc doanh ào ào kéo tới can thiệp vào tang lễ, nhưng mục đích chính là can thiệp vào việc đề cử chức danh tăng thống. Không có thông tin nào được kiểm chứng về ý chỉ của Đức đệ ngũ tăng thống Thích Quảng Độ về vấn đề quan trọng này.

Thiền sư Thích Tuệ Sĩ đã xuất hiện bên cạnh đệ tứ tăng thống Thích Huyền Quang từ năm 2003, bên cạnh đệ ngũ tăng thống Thích Quảng Độ từ sau năm 2008 với chức danh phó tăng thống, nhưng năm 2019 này, không thấy ông tham dự tang lễ vị tăng thống quá cố. Phải chăng sức khỏe và tâm nguyện của thiền sư thi sĩ không thích hợp với vai trò vị trí này ?

Tre tàn mà măng không mọc là thực trạng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ! Đây là mục tiêu và thủ đoạn của Đảng cộng sản.

Hòa thượng Thích Không Tánh

Hòa thượng Thích Không Tánh tên khai sinh là Phan Ngọc An, sinh 1943, cùng thế hệ, cùng được giáo dục, đào tạo trong nhà trường dân chủ và nhân bản Việt Nam Cộng Hòa và các học viện Phật giáo trước thời điểm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập, như các sư tăng Thích Huệ Hiền, Thích Huệ Thâu, Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Hải…

Từ sau năm 1975, trong chế độ cộng sản, ông là một sư tăng bất khuất, một con người hành động vì những giá trị tự do, nhân quyền, dân chủ, và xã hội dân sự. Đời ông là một chuỗi liên tiếp những nghĩa cử, khổ nạn và hoạt động thiện nguyện.

Năm 1976, Thích Không Tánh gởi thư cho thủ tướng chính phủ cộng sản ở Hà Nội để phản đối chủ trương của chế độ bắt những tăng sĩ trẻ thi hành nghĩa vụ quân sự. Đảng cộng sản đang trong thời kỳ thiết lâp guồng máy toàn trị không chấp nhận một con người ngang tàng như thế. Ông bị bắt và trải qua 10 năm tù (1976 – 1986) trong các trại cải tạo.

Ra tù, ông về chùa cũ Liên Trì ở phường An Khánh, quận Thủ Đức. Lúc bấy giờ Liên Trì còn là chùa vô danh và Thủ Thiêm chưa phải là khu đất vàng, khêu gợi sự thèm khát của các lãnh tụ cách mạng vô sản. Chùa Liên Trì chưa gây chú ý cho nhiều người ngoại trừ nhóm công an đặc nhiệm. Bởi vì trong cái chùa không mấy khang trang to đẹp này có một sư tăng bất phục chế độ làm trù trì.

Thượng tọa Thích Không Tánh lần hồi biến ngôi chùa vô danh của mình trở thành nơi giao tiếp, hội họp của những người cùng chí hướng, bất kể tôn giáo và tầng lớp xã hội nào. Ông tìm cách liên hệ với các đệ tử của thượng tọa Thích Huyền Quang ở Quảng Ngãi, Bình Định và các nhóm tăng thân, Phật tử khắp các tỉnh thành miền Nam. Sau khi hòa thượng Thích Quảng Độ từ Thái Bình về tạm trú tại Thanh Minh thiền viện, ông trở thành người cộng tác đắc lực cho nhà lãnh đạo thứ hai của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Tháng 10/1992, thượng tọa Thích Không Tánh bị bắt, bị kết án 5 năm tù vì tội lưu hành các tài liệu có nội dung chống phá nhà nước như kháng thư của hòa thượng viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Thích Huyền Quang gởi cho các lãnh tụ và cơ quan quyền lực của Đảng cộng sản, và thư từ liên lạc giữa giáo hội trung ương gởi đến các giáo hội địa phương trong và ngoài nước.

Được trả tự do trước thời hạn, thượng tọa Thích Không Tánh tiếp tục các hoạt động nhân quyền, tự do tôn giáo và xã hội dân sự. Tận dụng các khoảng thời gian tự do và khả năng vận động, thượng tọa Thích Không Tánh đã tiến hành các công cuộc từ thiện, như tặng quà cho các bệnh nhân ung bướu, các bệnh nhân phong cùi, các thương bệnh binh gốc Việt Nam Cộng Hòa, các gia đình thuyền nhân bị cưỡng bách hồi hương, các gia đình dân oan, đặc biệt là dân oan ở Thủ Thiêm.

Tháng 11/1994, thượng tọa Thích Không Tánh bị công an thành phố Hồ Chí Minh bắt vì tội quyên góp và phân phát phẩm vật cứu trợ các nạn nhân bão lụt miền Tây.

Tháng 8/1995, thượng tọa Thích Không Tánh cùng thượng tọa Thích Quảng Độ bị tòa án thành phố Hồ Chí Minh xử mỗi người 5 năm tù, vì tội "phá hoại chính sách đoàn kết của Đảng cộng sản và lợi dụng quyền tự do dân chủ phá hoại ích lợi nhà nước".

Sau 5 năm ở tù, thượng tọa Thích Không Tánh về chùa cùng thời điểm Việt Nam tham gia Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp quốc. Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng trong bài "Tại sao nhà cầm quyền quyết tâm cưỡng chế và giải tỏa chùa Liên Trì" đã viết như sau :

"Các tổ chức xã hội dân sự độc lập phát triển thì chùa Liên Trì là nơi họp mặt của các tổ chức Xã hội dân sự. Những tổ chức Xã hội dân sự họp tại đây để sáng lập và thành lập các hội đoàn độc lập nhằm phản biện xã hội, cải thiện nhân quyền, dân quyền. Hòa thượng Thích Không Tánh cũng là sáng lập viên của Hội cựu tù nhân lương tâm, Hội đồng Liên tôn Việt Nam.

Từ những việc làm nhân đạo, giúp đỡ các tổ chức Xã hội dân sự, đấu tranh cho tự do nhân quyền nói trên, hòa thượng Thích Không Tánh chùa Liên Trì đã bị nhà cầm quyền xem như thành phần đối kháng và họ đã quyết tâm cưỡng chế và giải tỏa chùa để họ bỏ đi cái gai này. Theo thông tin loan truyền trên mạng, hòa thượng Thích Không Tánh cho biết, mặc dù không có lệnh cưỡng chế nhưng chính quyền phường An Khánh và chính quyền quận 2 đã họp kín, quyết định ngày 23/6/2016 tới họ sẽ cưỡng chế và phá dỡ chùa".

Chùa Liên Trì bị san bằng trong tháng 9/2016. Hòa thượng Thích Không Tánh khẳng định chùa và quí thầy không chấp nhận cơ sở do chính quyền dựng sẵn ở Cát Lái để đền bồi cho chùa. Linh mục Đinh Hữu Thoại, thuộc Phòng Công Lý và Hòa Bình, Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, cho là việc san bằng này vì lý do chính trị.

phapnan10

Thượng tọa Thích Không Tánh ngồi tại đống đổ nát của ngôi chùa Liên Trì sau khi ngô chùa bị phá bỏ. Ảnh : Quảng Đức

Lý do chính trị đầu tiên và cuối cùng để chùa Liên Trì bị san bằng là vị trụ trì của nó. Hòa thượng Thích Không Tánh, chẳng còn chốn dung thân ; các nhóm phản biện xã hội, các thành phần đối kháng chế độ, các tổ chức Xã hội dân sự không còn địa điểm để hội họp, và các cơ quan truyền thông, tổ chức nhân quyền quốc tế không biết hòa thượng Thích Không Tánh ở đâu để phỏng vấn, đưa tin. Đảng cộng sản đã vô hiệu hóa sự tồn tại của hòa thượng Thích Không Tánh qua việc san bằng xóa bỏ chùa Liên Trì. Thủ đoạn này áp dụng vào hai năm sau, năm 2018, khi hòa thượng Thích Quảng Độ bị tống xuất khỏi Thanh Minh Thiền Viện.

Theo các thông tin trên mạng, hòa thượng Thích Không Tánh có tham dự đám tang hòa thượng Thích Quảng Độ, năm 2019. Ông không tuyên bố gì, cũng không có động thái nào thể hiện ý chí bất khuất như trước đây.

Hai nhân vật năng nổ nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đến thời điểm này, một người thì chuyển hóa thành cát bụi, người còn lại, tuổi tác đã bào mòn ý chí đấu tranh. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất xem như cáo chung.

***

Khi MA CHƯỚNG HOÀNH HÀNH TRONG CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN thì PHÁP NẠN không thể nào tránh được, tôn giáo bị cấm cách là lẽ đương nhiên. Chắc là Đảng cộng sản Việt Nam thở phào nhẹ nhõm vì đã tiêu diệt được cái vật cản lớn nhất trên con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Một thông tin đáng mừng cho Đảng cộng sản là con số tín đồ Phật giáo ngày một giảm. Cuộc tổng điều tra dân số do chính quyền tổ chức năm 2009, xác định số tín đồ Phật giáo trong cả nước năm 2009 là 6,7 triệu người. Cuộc tổng điều tra dân số cũng do chính quyền tổ chức năm 2019 xác định số tín đồ Phật giáo là 4,6 triệu người.

Thái Thanh, tác giả bài viết ngày 18/2/2021 "Thống kê số tín đồ Phật giáo : Nhà nước nói giảm, giáo hội hụt hẫng", đăng trên Luật Khoa, còn cho biết là : Theo báo Giác Ngộ, các thông tin của nhà nước đã làm một số nhà sư "bị sốc toàn tập", tín đồ thì "hụt hẫng và bật khóc". Tín đồ Phật giáo nói riêng, tín đồ các tôn giáo nói chung, bật khóc và Đảng cộng sản thì sảng khoái cười. Bởi vì Đảng cộng sản chủ trương "vô tôn giáo" từ Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 và bài trừ tôn giáo từ sau năm 1975.

Trong số những tín đồ bật khóc, có nhiều người biết rằng, tại miền Nam, năm 1963, khi Phật giáo phát động cuộc đấu tranh đòi bình đẳng và tự do tôn giáo trong chế độ Ngô Đình Diệm thì con số đồng đạo của họ từ 9 đến 11 triệu, chiếm tỷ lệ từ 70% đến 80% (theo điều tra của CIA, Thái Thanh, tài liệu đã dẫn). Từ 70% đến 80% tổng dân số trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa rớt xuống 4,78% tổng dân số trong chế độ cộng sản, bật khóc thôi. Chắc là họ sẽ khóc to khi nhìn lại mô hình Giáo hội quốc doanh được tổ chức theo hình tháp ngược, có ban bệ, chức sắc ở trên mà không có Phật tử ở dưới. Tôn giáo mà không có giáo đồ thì tiêu vong rồi, còn gì nữa ?

Mô hình tháp ngược nếu để nó đứng tự nhiên trong không gian thì nó sụp đổ tức thì. Giáo hội Phật giáo Việt Nam quả thật là Giáo hội nhà nước, Giáo hội quốc doanh, Giáo hội công cụ, sẽ giải tán khi Đảng cộng sản thấy cần buông tay.

Vấn đề đặt ra cho các triết gia, các nhà văn hóa là dân tộc, đất nước (và cả nhân loại, thế giới) có cần tôn giáo không ? Tiêu diệt nó có phải là tội ác không ?

***

Tôi kể một câu chuyện nhỏ để kết thúc bài viết có nhiều chi tiết tự sự này :

Anh bạn tôi, cha mẹ đặt tên là Phan Chánh Dinh. Chánh Dinh là thi sĩ từ buổi thiếu thời. Yêu đương và khắc khoải siêu hình, anh làm thơ, ký tên là Phan Duy Nhân. Theo cộng sản và làm cán bộ Mặt trận, anh sửa tên thơ là Thiết Sử, tên họ là Nguyễn Chính cho gần gũi với giai cấp công nông và thể hiện ý chí chiến đấu.

phapnan11

Phan Duy Nhân – Nguyễn Chánh Dinh – Nguyễn Chính khi còn trẻ. Ảnh : Báo Thanh Niên

Anh Nguyễn Chính đi kháng chiến, ở tù Côn Đảo, sau "giải phóng" làm cán bộ đến chức phó ban Dân vận Mặt trận tại tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng. Năm 1982, Nguyễn Chính được ông Xuân Thủy, bí thư trung ương Đảng cộng sản chọn làm "nhân tài" chuyển ra Hà Nội làm phó ban Tôn giáo chính phủ.

Sau nhiều năm công tác, Nguyễn Chính tiếp xúc nhiều với các vị chức sắc và nhân vật trong Công giáo, Phật giáo… mà Đảng cộng sản cho là trùm phản động như Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận, Thượng tọa Thích Trí Quang để vận động họ "gắn liền Tôn giáo với Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội".

Thế rồi, chuyển biến chuyển hóa ra sao mà đảng viên – cán bộ tôn giáo vận Nguyễn Chính qui y Phật, được hòa thượng Thích Trí Quang nhận làm đệ tử. Ngưỡng mộ, tri ân và thương cảm, đệ tử Nguyễn Chính – Phan Duy Nhân đã làm thơ kính tặng Tôn sư Thích Trí Quang như sau : 

Tràn đầy mà rỗng lặng

Biển vô lượng thủy triều

Đường về tâm bất động

Tuyệt chiêu mà vô chiêu

Đã thương đời vạn dặm

Vân du vượt núi đèo

Thôi hòa lòng với bụi

Thanh tịnh vầng trăng treo.

(Hành thiền – Nguyễn Chính PDN – Báo Thanh Niên thứ năm, ngày 5/12/2002).

Hòa thượng Thích Trí Quang là linh hồn, là trụ cột lớn nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã tiêu vong trong chế độ cộng sản như tôi trình bày ở trên. Vậy thì đảng viên Nguyễn Chính PDN mong cầu được gì nơi một lãnh tụ giáo hội đấu tranh thất bại ? Phải chăng anh nhận ra Phật pháp qua vị Thiền Sư anh đã theo lệnh đảng đi vận động làm sư quốc doanh ?

Chúng ta biết rất rõ trước khi trở thành đảng viên, Nguyễn Chính đã khẳng định mình là một Con Người – DUY NHÂN. Đã là Con Người, tất nhiên, không thể không Từ Bi, Bác Ái.

Chu Sơn

Nguồn : Tiếng Dân, 15/06/2021

Additional Info

  • Author Chu Sơn
Published in Tư liệu
lundi, 05 juillet 2021 16:02

Phật giáo Việt Nam sẽ hồi sinh ?

Hai tuần trước, Tiếng Dân có đăng loạt bài nhiều kỳ : "Pháp nạn – Ma chướng trong chế độ cộng sản", của ông Chu Sơn, một cựu "cán binh cộng sản". Loạt bài này, ông cung cấp những tư liệu, với nhiều chi tiết về những gì xung quanh "phong trào" Phật giáo Việt Nam từ năm 1954 đến nay, một dòng chảy từ cuồng nộ cho đến thời lụi tàn của nó hôm nay, điều mà ông gọi là Pháp nạn.

Có hai điều rút ra sau khi tôi đọc xong loạt bài này. Thứ nhất, hiểu rõ được thân phận của thiền sư Thích Trí Quang, và thế đứng giữa hai dòng nước của Phật giáo Việt Nam.

phatgiao1

Hòa thượng Thích Trí Quang (21/12/1923 – 8/11/2019)

Giải oan cho một thiền sư

Hòa thượng Thích Trí Quang là một nhân vật đặc biệt của lịch sử Việt Nam hiện đại. Ông là thủ lãnh của phong trào phản chiến Phật giáo, chống bức hại Phật giáo từ thời chính phủ Ngô Đình Diệm, cho đến khi bị chính quyền cộng sản quản thúc vài năm sau 1975.

Hòa thượng Trí Quang từng làm hao tốn bao mút mực của giới báo chí Âu – Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Sau năm 1975, người ta không nghe đến ông nữa. Từ đó, dấy lên những đồn đoán rằng, ông là "cộng sản nằm vùng", nhẹ hơn là "bị cộng sản giật dây"… làm sụp đổ miền Nam Việt Nam.

Tư liệu của ông Chu Sơn, dẫn lời Trần Bạch Đằng, một tay cách mạng cộng sản lão thành, cho thấy rằng những lời đồn đoán đó đều sai. Trần Bạch Đằng cho rằng, hòa thượng Trí Quang là người được gián điệp Mỹ gầy dựng nên (sic) và có thái độ rất hằn học với hòa thượng.

Ứng xử của những nhà lãnh đạo cộng sản sau năm 1975, theo tài liệu của ông Chu Sơn, cho thấy, họ sợ vai trò của hòa thượng đối với chế độ toàn trị của họ như thế nào. Tư liệu của ông Chu Sơn khẳng định quan điểm của một viên tướng Việt Nam Cộng Hòa là ông Đỗ Mậu. Trong hồi ký của mình, ông Đỗ Mậu khẳng định những đồn đoán rằng, Thích Trí Quang làm tay sai cho cộng sản là sai.

Khoảng năm 2000, hòa thượng Trí Quang có viết một quyển hồi ký. Đọc quyển hồi ký ấy, người đọc tinh ý sẽ thấy rằng, hòa thượng Trí Quang không hề mơ hồ về những người cộng sản, mà ông đã biết rõ về họ từ những ngày đầu tiên tham gia kháng chiến chống Pháp.

Xâu chuỗi lại những sự kiện, những thông tin mà chúng ta có ngày càng nhiều, với một khoảng thời gian lùi lại hơn nửa thế kỷ, có thể thấy rằng, Thích Trí Quang mong muốn xây dựng một miền Nam không cộng sản và lành mạnh, không độc tài. Chỉ có như vậy mới mong chống lại được cộng sản ở Việt Nam.

Cố gắng của ông bất thành, nó chỉ đạt được mong muốn nhỏ bé của nhà sư xuyên suốt quyển hồi ký của ông, giải thích những hành động của mình là để nói với hậu thế rằng, nước Việt "từng" có Phật giáo, "để còn có một chút này", theo nguyên văn lời ông.

Giữa hai dòng nước

Nhà văn Nguyễn Thanh Việt sống ở Mỹ có viết rằng, người cầm bút nào bị cả hai phe đối nghịch chỉ trích, mắng chửi, thì đó là dấu hiệu người ấy đã đi đúng đường. Người cầm bút đúng đắn nên đứng giữa hai giòng nước.

Phật giáo Việt Nam từ sau năm 1954 đến lúc những hòa thượng tên tuổi cuối cùng của giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất viên tịch, cũng đứng giữa hai dòng nước. Có những nhà sư bị tù đày từ chế độ Việt Nam Cộng Hòa, sang chế độ Việt Nam cộng sản.

Nhưng con đường giữa hai dòng nước của Nguyễn Thanh Việt có vẻ ngày càng khởi sắc hơn trong thể chế dân chủ.

Phật giáo Việt Nam xem như tàn lụi. Pháp nạn bắt đầu bằng dụ số 10 thời Ngô Đình Diệm, và đến những năm đầu của thế kỷ 21 thì Phật giáo tại Việt Nam xem như kết thúc, bằng những thủ đoạn của nhà nước cộng sản.

Cái gọi là Phật giáo ở Việt Nam hiện nay gói gọn trong bốn chữ "Phật to Chùa lớn". Phật giáo Việt Nam chỉ còn có hình hài, và bên trong của nó là một loại mê tín dị đoan, nhũng lạm của tầng lớp sư sãi. Phật giáo quốc doanh xem như thống lĩnh toàn bộ chùa chiền trên cả nước, trong đó, không ít điện thờ Phật có cả tượng Hồ Chí Minh.

Những người được gọi là "truyền thừa" của giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng không khá gì hơn. Sau khi các vị Trí Quang, Huyền Quang và Quảng Độ viên tịch, gương mặt được xem là đại diện cho phong trào Phật giáo phản kháng cộng sản như thượng tọa Thích Không Tánh, lại là một người tin vào thuyết âm mưu QAnon bên Mỹ, liên tục phát biểu chỉ trích cuộc bầu cử năm 2020 ở Mỹ là gian lận. Thích Không Tánh không phải là một biệt lệ trong tầng lớp sư sãi ở Việt Nam hiện nay.

Có cả những Thích Không Tánh tại hải ngoại và tình trạng Phật to chùa lớn cũng không tránh khỏi cộng đồng người Việt hải ngoại, nơi đáng lẽ phải là thành trì cuối cùng của dòng suối Phật giáo dân tộc hơn ngàn năm qua.

Sinh, trụ, dị, diệt, bốn giai đoạn của sự sống theo quan niệm của Phật giáo, có lẽ cũng ứng vào chính Phật giáo Việt Nam hay chăng ?

Vô thần hay hữu thần và sự hồi sinh

Có người bảo rằng, sự tàn lụi của Phật giáo Việt Nam hiện nay là chiến thắng của học thuyết cộng sản vô thần. Tôi không nghĩ như thế.

cộng sản thật ra chỉ là một đứa con lạc loài của truyền thống Do Thái Ki Tô từ phương Tây. Nó đã thất bại ở phương Tây và cái gọi là cộng sản ở Đông Á, trong đó có Việt Nam, thật sự chỉ là sự lai tạp giữa hai hệ thống áp bức : Một là di sản của phong kiến hủ nho Đông Á và hai là hệ thống công an trị phản động nổi lên ở phương Tây đầu thế kỷ 10, phát xít ở Đức và toàn trị theo mô hình Lenin ở Nga.

Hệ thống lai tạp ở Đông Á hiện nay không có một định chế tinh thần nào, nên khó mà gọi nó là vô thần hay hữu thần. Đó là về hệ thống, còn về con người thì đa số những người cầm quyền mang tên cộng sản ở Việt Nam hiện nay, là những kẻ đầy mê tín dị đoan.

Phật giáo, nhìn từ một góc cạnh triết học không phải là một tôn giáo hữu thần, quan niệm không có thượng đế.

Ở Việt Nam, Phật giáo không chỉ bị đàn áp mới đây, mà từ ngàn năm trước, các nhà sư thời Lê Long Đỉnh từng bị róc mía trên đầu. Phật giáo thịnh lên ở thời Lý – Trần, với nhiều vị quốc sư và có lẽ cái mầm suy vi cũng bắt đầu từ đó, khi tôn giáo triết học này bắt đầu dính líu nhiều vào chính trị, cũng tương tự Phật giáo Tây Tạng, nơi thần quyền và thế quyền xoắn xít với nhau, gây ra những vụ bê bối, tạo nhiều di hại về sau (vụ giấu nhẹm cái chết của một vị Lạt Ma nhiều quyền lực, chẳng hạn).

Đầu bài viết này, tôi viết chữ "phong trào" Phật giáo trong ngoặc kép, vì đã là phong trào thì phải có lúc lụi tàn.

Tôi không cho rằng Phật giáo ở Việt Nam là một phong trào. Nó có thể sinh, trụ, dị, diệt, nhưng trong cái dòng vô thủy vô chung của vũ trụ, nó lại sẽ hồi sinh. Phật giáo đã từng hồi sinh ở Tây Tạng vào thế kỷ 11, ở Việt Nam với những cố gắng chấn hưng Phật giáo tại miền Trung thời Pháp thuộc.

Cái yếu điểm của Phật giáo là nó không có một cơ cấu giáo hội chặt chẽ như các tôn giáo khác, nhưng đó cũng sẽ là một thế mạnh của nó, với những mầm Phật giáo ở khắp nơi, không chịu một sự áp chế tinh thần Chùa to Phật lớn nào, sẽ hồi sinh.

Jackhammer Nguyễn

Nguồn : Tiếng Dân, 01/07/2021

Additional Info

  • Author Jackhammer Nguyễn
Published in Diễn đàn

Vở diễn ‘Yêu Bác’

Mạnh Kim, VOA, 21/05/2019

Hàng năm, sắp đến sinh nht H Chí Minh, báo chí li nhn nhp các bài viết v "hc tp và làm vic theo tm gương "Bác". Năm nay không khí còn "d di" hơn vì Tuyên giáo yêu cu đy mnh chiến dch tuyên truyn nhân "50 năm thc hin di chúc Bác H". Hàng trăm tờ báo đã đng lot đăng nhng bài viết na ná nhau, ca tng "Bác" vi cùng mt ging, tôn vinh "Bác" vi cùng mt ngôn ng. Nó như mt v kch khng l vi cách din quen thuc cùng dàn din viên quen thuc.

yeu1

Thượng ta Thích Thanh Quyết, cũng là đi biu Quc hi Vit Nam, gii thiu bc tranh "Đo pháp và dân tc" ti mt bui l mng ngày sinh ca Đc Pht ti Hc vin Pht giáo Sóc Sơn, Hà Ni, hôm 10/5. (nh chp màn hình VTC)

Tại l "biu dương các tp th, cá nhân thc hin tt hc tp và làm theo tư tưởng, đo đc, phong cách H Chí Minh năm 2018-2019" vào ngày 14/5/2019, Bí thư Thành phố Hồ Chí Minh Nguyn Thin Nhân "nhn nh" : "Nhng lúc khó, cc, lúc không hài lòng vi công vic, hãy nghĩ tới Bác" (Tuổi Tr 14/5/2019). Cùng ngày, Đảng y Khi Dân-Chính-Đng Thành phố Hồ Chí Minh cũng t chc "L tuyên dương đin hình hc tp và làm theo tư tưởng, đo đc, phong cách H Chí Minh" và trao tng Huy hiu Đng cho các đng viên. Phát biu ti bui l, ông Dương Công Khanh, Bí thư Đng y Khi Dân-Chính-Đng Thành phố Hồ Chí Minh, nói rng cuc đi H Chí Minh là "mt cuc đi trong sáng, cao đp ca mt người cng sn vĩ đi ; Người là biu tượng cho nhng giá tr tt đp nht ca dân tc ta, mà ni bt hơn là lòng yêu nước, thương dân". Ông Khanh "gi gm" thêm : "Đ xng đáng vi Bác hơn na, mi cá nhân phi thường xuyên t soi ri đ nhn thc mt cách đy đ trách nhim ca mình vi mc tiêu, lý tưởng mà Đng, Bác H và nhân dân ta đã la chn" (Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 14/5/2019).

Theo Hướng dn s 90-HD/BTGTW ngày 10/4/2019 ca Ban Tuyên giáo Trung ương, gn như không cơ quan đoàn th nào không "hình thc hóa" chiến dch tuyên truyn này. B Giáo dục và đào tạo t chc cuc thi "Tui tr hc tp và làm theo li Bác năm 2019", với ba nhóm đối tượng : 1/ Hc sinh ph thông (k c hc viên các trung tâm giáo dc thường xuyên) ; 2/ Công dân Vit Nam đang theo hc ti các đi hc, hc vin, trường đi hc, cao đng sư phm và hc sinh trung cp sư phm trong và ngoài nước ; 3/ Cán b quản lý giáo dc, ging viên, giáo viên tr, đoàn viên, thanh niên, lưu hc sinh Vit Nam, nhng người quan tâm và d thi (dưới 35 tui)... Chiến dch còn được "đa phương hóa", t các khu vc min Trung Tây Nguyên, tnh thành, qun-huyn-phường-xã…, đến "khối đng y công an, quân đi…" và thm chí "khi doanh nghip". "Huy đng c h thng chính tr vào cuc" là cm t miêu t ngn gn và chính xác hot đng tuyên truyn này.

Mặc dù tp chí Đng Cng sn (dangcongsan.vn) ngày 17/4/2019 viết rng chiến dch này thể hin s "sáng to t cách làm" và "la chn nhng đt phá đ thc hin theo Di chúc ca Ch tch H Chí Minh" nhưng kiên nhn đc hàng chc, thm chí c trăm bài viết, liên quan ni dung tuyên truyn cũng s không thy bt kỳ "sáng to" hoc "đt phá" nào. Ngôn ngữ ca tng "Bác" cùn mòn đến sáo rng. Nó quen thuc đến mc đc câu trước, người ta có th đoán được ý câu sau. Hàng chc năm qua, viết mãi mt đ tài như thế thì còn gì đ viết. Nói mãi mt điu như thế thì còn gì đ nói. Ca tng mãi mt người như thế thì còn gì đ ca tng. "Luc" mãi mt v kch cũ mèm như thế thì còn gì đ "sáng to" trong "cách nghĩ và cách làm" ! Thế nhưng hu du "Bác" vn lp đi lp li không biết ngượng. Người ta vn neo vào "Bác", bám vào "Bác", li dng hình nh "Bác", và nói không ngoa, thậm chí "trc li" t vic khai thác "Bác". Mi chiến dch tuyên truyn hàng năm như vy ngn bao nhiêu tin thuế ca dân ? Nó được phân b và chi xài như thế nào ? Chng có cuc "tng kết" màn trình din "hc tp và làm theo" nào có nêu ra minh bạch ngun ngân sách "dành cho" "Bác".

Một thc tế không th không nhn thy : sô din v "Bác" càng "hoành tráng" thì nó càng mâu thun vi thc trng. Hình nh "Bác" càng được c tình nâng lên thì tư cách đng viên càng lún thp. Đo đc "Bác" càng được tô v "sáng ngi" thì đo đc đng viên càng ti m. "Hc tp và làm theo" ngày càng là mt sáo ng rng tuếch mà bn thân đng viên sau khi d các cuc thi "noi gương "Bác" có th s cười thm v mc đ "thuc bài" ca nhau đ "tr n" Tuyên giáo. Vở din này, do đó, không ch din trên sân khu qun chúng. Nó còn là v din ca đng viên vi Đng. V din này không ch "gt bà con". Đám din viên còn gt nhau, bp nhau, xem ai din tt và ai làm đo din tt. "Nhng lúc khó, cc, lúc không hài lòng với công vic, hãy nghĩ ti Bác" – phát biu này ca Nguyn Thin Nhân có l nhn được nhiu tiếng cười thm nht trong hàng ngũ đng viên.

Có lẽ không ch người dân, mà chính đng viên, cũng nhìn thy rng s phát trin kinh tế đt nước, s hưng thịnh quốc gia, s tiến b xã hi…, chng liên quan gì đến "Bác". Các cuc phát đng "hc tp và làm theo", thm chí ngay c khi đng viên có thc tâm "làm theo", không my may đóng góp vào t l tăng trưởng GDP. Các chương trình mi vn đu tư nước ngoài hoặc kêu gọi s đóng góp ca cng đng kiu bào cũng chng liên quan đến "Bác". Mc đ hin đi hóa, công nghip hóa, "4.0 hóa", "rng hóa"… ca tương lai quc gia không dính dáng gì đến hình nh mt lãnh t quá c. S phát trin ca thế gii ngày nay, k c trong lịch s, cho thy không đt nước nào xây dng và kiến thiết "da trên nn tng" ca ngi gi di và sáo rng mt lãnh t, cho dù ch đng trong quá kh ca ông ta như thế nào. Đòn by đưa đt nước đi đến phú cường là chính sách đúng đn, là th chế thuận lòng người, là nn chính tr trong sch được dân tin. Hãy thôi ly "Bác" làm "đim ta". V din "yêu Bác" nhàm chán đã đến lúc cn phi h màn.

Mạnh Kim

Nguồn : VOA, 21/05/2019

*****************

Phật giáo Việt Nam biến đổi nhanh nhưng đang phát triển hay suy thoái ?

Nguyễn Lễ, Gửi tới BBC, 20/05/2019

Phật Đản năm nay ở trong nước làm lớn thật lớn.

Ở hải ngoại không có điều kiện làm lớn như vậy. Trước đó một tuần, Phật tử người Việt khắp vùng đông bắc Hoa Kỳ tề tựu lại một ngôi chùa nhỏ ở Maryland rồi đi xe hoa rước Phật đến một hội trường thuê trong trường học để làm Lễ Phật đản chung.

phat1

Phật Đản năm nay ở trong nước làm lớn thật lớn.

Người Mỹ thì đến các trung tâm Phật giáo ở thủ đô Washington D.C. dự buổi thiền quán tưởng niệm Đức Phật.

Cũng dễ hiểu là vì năm nay là lần thứ ba Phật đản ở Việt Nam được nâng lên thành Đại lễ Tam hợp Liên hiệp Quốc. Chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Nam đã đem sức dốc núi từ chỗ không có gì dựng lên một cảnh chùa hùng vĩ giữa trời mây non nước của tỉnh Hà Nam để tiếp đón các phái đoàn quốc tế bằng tất cả tấm lòng trọng thị của người Việt.

Được dốc sức chuẩn bị như thế là vì Lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc bên cạnh ý nghĩa tôn vinh Đức Phật còn là cơ hội thể hiện hình ảnh đất nước, con người và chính quyền Việt Nam. Nhưng đối với mỗi người Phật tử, Lễ Phật đản dù lớn hay nhỏ trước hết vẫn là cảm giác thuần khiết của sự an lạc, hoan hỉ vì tưởng nhớ ngày Đấng Từ phụ ra đời.

phat2

Với ý nghĩa đó, Lễ Phật đản năm nay dù lớn nhưng cảm giác của người Phật tử không còn tròn vẹn như những năm trước.

Phật giáo vừa trải qua cơn rúng động với tai tiếng nối tiếp tai tiếng.

Hết hóa vàng, dâng sao giải hạn đến thỉnh vong báo oán, từ hòm công đức 'không minh bạch' cho đến xây chùa to để 'buôn thần bán thánh'. Đến nỗi có người đã nói về sự suy đồi của Phật giáo và đòi phải chấn hưng. Thậm chí còn có lời mạt sát Tam bảo.

Tuy nhiên, nói chấn hưng Phật giáo là chấn hưng cái gì ? Chấn hưng làm sao ? Chứ nói khơi khơi như vậy khiến cho các Phật tử hoang mang quá. Giáo hội chẳng phải đã nói các hiện tượng kể trên không có trong giáo lý nhà Phật đó sao ?

Có lật hết ngàn trang vạn quyển kinh văn Phật giáo cũng không thấy có chỗ nào nói về thỉnh vong, đốt vàng hay giải hạn hết. Vậy thì làm sao bãi bỏ một cái không có cho được ?

Từ tín ngưỡng dân gian…

Mặc dù nói không có trong giáo lý nhà Phật nhưng rành rành nhà chùa có làm, và các hiện tượng nói trên không chỉ bó hẹp trong nhà chùa mà còn nhan nhản trong đời sống quảng đại của người Việt. Vậy thì, muốn chấn hưng thì phải bỏ tận gốc những tập quán, tín ngưỡng đó chứ ?

Trước hết, thật lòng mà nói tôi cũng đốt vàng bạc vì từ nhỏ đã thấy ông bà, cha mẹ đốt giấy tiền mỗi khi tang ma hay giỗ quẩy rồi đến lượt mình tôi cũng làm theo.

Đành rằng chết là hết vì đã rã xác tan hình, còn theo nhà Phật vong linh phải luân hồi trả nghiệp thì còn đâu mà tiêu xài vàng bạc cõi trần gửi cho, đó là chưa kể đốt mọi thứ thành tro bụi thì lãng phí biết bao nhiêu. Biết là vậy nhưng đến ngày giỗ mà không đốt giấy tiền tôi lại thấy thiếu. Hơn nữa, vì thương ông bà mình đã quá vãng chẳng thà làm để được an lòng còn hơn là không làm, dù chỉ là một chút cho có lệ.

Cũng thành thật mà nói là tôi cũng từng được cúng sao mặc dù không tin tưởng. Năm đó tôi gặp nạn liên tục trong mấy ngày Tết nên khi được người thân cúng cho tôi cũng không có gì phản đối. Trông chờ vào thần thánh nào đó là phi lý và trái luật nhân quả của nhà Phật, nhưng suy cho cùng những người dâng sao cũng chỉ mong được hóa giải nạn tai.

Trong lúc bấn loạn có thêm chút cảm giác bình an dù sao vẫn tốt hơn. Và nếu nói mê tín thì xây nhà, tang ma, cưới hỏi, vốn là những việc ai cũng mong được bình an, đừng chọn ngày lành tháng tốt gì hết, cứ đụng ngày nào làm ngày đó có được không ?

…đến chùa Ba Vàng

Còn việc thỉnh vong báo ứng nhân quả của chùa Ba Vàng ở Quảng Ninh, vốn là đỉnh điểm tai tiếng của Phật giáo, cũng mang đầy màu sắc dân gian nhưng có pha lẫn Phật giáo. Màu sắc dân gian là niềm tin vào linh hồn, còn giáo lý nhà Phật là nhân quả, nghiệp lực và cúng dường.

phat3

Những lời 'giảng' của bà Phạm Thị Yến chùa Ba Vàng nói rằng Cao Mỹ Duyên, cô gái giao gà bị hãm hiếp, sát hại là do "ác nghiệp từ tiền kiếp" đã gây bức xúc lớn trong dư luận

Trước hết, những ai nói vong linh là mê tín thì liệu có dám dọn vào ở trong một căn nhà vừa có người chết oan do bị sát hại hay hỏa hoạn không ? Thử hỏi xung quanh xem có bao nhiêu người tin rằng ông bà mình dù chết đi nhưng linh hồn vẫn còn đâu đó và sẽ về sum họp vào ngày giỗ, Tết ?

Tại sao người Việt hàng ngàn năm nay vẫn duy trì tục lệ xá tội vong nhân mà trong Nam gọi là cúng cô hồn ?

Tại sao người dân xây am thờ dọc các quốc lộ để an ủi vong linh các vụ tai nạn ?

Mà đâu chỉ người Việt Nam. Trên thế giới có tôn giáo nào không tin là có thế giới sau khi chết ?

Khác với dâng sao hay hóa vàng vốn thuần túy là tín ngưỡng dân gian, câu chuyện chùa Ba Vàng còn lồng ghép các yếu tố giáo lý của nhà Phật.

Để giải nghiệp, chùa Ba Vàng cho rằng cần cúng dường cho chùa để hồi hướng cho vong linh nhưng vào cửa chùa mà đòi tiền bạc thì quá phản cảm.

Cái gốc của cúng dường là tâm hướng thiện. Hơn nữa, đó cũng để học cách cho đi để nhận lại.

Lên chùa nghe kinh, thính pháp, tu tập, học điều hay lẽ phải, được đãi cơm chay ai mà không cảm thấy cần đóng góp trở lại để tạo phước duyên cho người khác cũng được lợi lạc ? Cho nên, cúng dường tự thân nó không có lỗi mà lỗi ở chỗ nó bị lợi dụng.

Sự việc ở chùa Ba Vàng đúng là có dấu hiệu lợi dụng Phật giáo để trục lợi, nhưng vẫn còn đó những chỗ chưa rõ. Làm sao bác sĩ một bệnh viện lớn lại khuyên bệnh nhân đến chùa Ba Vàng ?

Rồi số tiền được cho là hàng ngàn tỉ bị chiếm đoạt đã đi đâu về đâu ?

phat4

Lễ cầu siêu cho cố Chủ tịch nước Trần Đại Quang được tổ chức tại Việt Nam Quốc tự, Thành phố Hồ Chí Minh, hồi 9/2018

Sau khi báo chí phanh phui sao không thấy có nạn nhân nào đòi tiền lại ?

Và nếu là để kiếm chác từ tiền cúng dường thì vị trụ trì phải nói là 'Càng giàu càng phải cúng dường' chứ sao lại nói là 'càng nghèo' ?

Đạo Việt Nam ?

Ở đây chắc sẽ có người thắc mắc là bàn về 'chấn hưng Phật giáo' sao lại đi sâu vào tín ngưỡng dân gian, hai phạm trù đó gần như hòa lẫn làm một khó phân biệt được.

Khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã linh động, mềm dẻo để tùy nghi, tiếp biến những yếu tố văn hóa, tâm linh của người Việt, chứ không ở thế đi giáo hóa bản địa. Phật tử Việt Nam cũng thờ cúng ông bà, đốt vàng mã, xá tội vong nhân, dâng sao giải hạn, trong nhà có thờ thêm ông Công ông Táo (hay trong nam là Thần Tài, Thổ Địa).

Các chùa miền Bắc ngoài Phật còn thờ bà Chúa, Thánh mẫu, ban Cô, ban Cậu và những bậc tiên hiền, anh hùng dân tộc có công với nước. Nhiều chùa trở thành nơi phục vụ tín ngưỡng dân gian, từ tụng kinh ma chay cho đến coi ngày coi tháng.

Giáo lý nhà Phật đã ăn sâu vào tâm lý dân tộc hơn là chúng ta nhận ra. Nhiều người chưa từng quy y tam bảo, chưa từng học Phật nhưng gặp chuyện vẫn niệm Phật, ngày Tết vẫn đi chùa, tin vào nhân quả và khi chết vẫn được tung kinh siêu độ.

Có thể nói Phật giáo tuy xuất phát từ nơi khác nhưng khi được trao cho dân tộc Việt Nam, người Việt đã biến nó hoàn toàn thành của mình, không còn lệ thuộc gì vào nơi sinh ra nó nữa.

Người Phật tử vì thế không bị giằng xé giữa đất nước và tín ngưỡng nên hòa thành một khối với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc suốt mấy ngàn năm.

Thời kỳ hưng thịnh nhất của dân tộc cũng là thời kỳ đỉnh cao của Phật giáo khi triết lý từ bi của nhà Phật thấm nhuần vào đạo trị quốc của nhà vua. Có vị vua kiệt xuất xuất gia làm sư (Trần Nhân Tông) và có nhà sư lỗi lạc vào triều giúp vua (thiền sư Vạn Hạnh, Khuông Việt…). Vị vua khai quốc nhà Lý sinh ra ở cửa Thiền còn vị vua khai quốc nhà Trần viết sách luận về Thiền (Khóa hư lục).

Tuy nhiên, tiếp biến quá mức thì có thể dẫn đến hoán chuyển hoàn toàn. Ở nhà đốt vàng mã thì được chứ đến chùa cũng hóa vàng thì Trời Phật nào nhận cho ? Dâng sao khác nào phỉ báng luật nhân quả ?

Nhà chùa thờ Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo… thì không ai nói nhưng thờ Hồ Chí Minh sẽ làm tổn thương tình cảm một số người.

Với lại, đạo pháp đi với dân tộc thì nhuần nhuyễn, nhưng gắn thêm 'chủ nghĩa xã hội' thì không thuận tai vì Phật giáo chủ trương giải phóng tư tưởng, sửa mình, từ bi, không cố chấp - chỏi hoàn toàn với tin tưởng tuyệt đối, đấu tranh giai cấp, bạo lực cách mạng và chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Chấn sao mới hưng ?

Cũng may, Phật giáo chính tông - tức là theo sát lời dạy của Đức Phật là Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo để tìm sự an lạc, giải thoát - đang ngày càng lan tỏa, nhất là ở các chùa miền Nam.

Khai phóng chứ không áp đặt, không bắt tin mà phải hành, không dạy cầu mà phải tự tạo, không chấp 'có' cũng chẳng chấp 'không', thấy trong bát nước có hằng hà sa số sinh vật, nhìn chúng sinh là 'vạn vật hữu tình', trong vũ trụ có tam thiên đại thiên thế giới, hiếu đạo phải đến bảy đời…,

Phật giáo chính tông đang phát triển song song với Phật giáo dân gian tạo thành hai nền Phật giáo. Chánh tín càng lan tỏa thì càng có thể cân bằng và trung hòa mê tín.

Mê tín thì phải bỏ nhưng cũng không thể dẹp hết tín ngưỡng dân gian cho được vì nó đã thành một phần máu thịt của dân tộc.

Cấm hóa vàng, cấm giải hạn thử xem có dẹp được không ? Phê phán ô nhiễm thế nào cũng không ngăn người Ấn tắm sông Hằng.

Mấy chục năm xây dựng xã hội chủ nghĩa', trong đó có chủ trương triệt hạ tôn giáo, mà xã hội Việt Nam giờ còn tâm linh hơn trước. Cán bộ, đảng viên cộng sản vốn phải quán triệt vô thần mà giờ đây cũng cúng bái, lễ lạy không thua gì thường dân.

Tuy nhiên, Giáo hội Phật giáo cũng không thể nhắm mắt bịt tay trước những đòi hỏi chấn hưng mà có đòi hỏi rất bức thiết, nhất là trong thời đại ngày nay.

Phật giáo Việt Nam vốn có truyền thống nhập thế, khác với chủ trương xuất thế của Đức Phật, cho nên đời xưa mới có các bậc Quốc sư ra giúp vua trị nước.

Nhưng nay tu hành nếu chỉ toàn họp hành, hội nghị, tiếp khách thì còn thời gian đâu mà tham thiền nhập định, thời gian đâu để tinh tấn tu tập nữa ?

Cửa thiền lâu nay rất dễ bị kẻ xấu len lỏi vào trục lợi.

Dẫu biết là con đường thoát khổ tự nguyện nên Phật giáo không chủ trương tổ chức chặt chẽ để ràng buộc tín đồ, nhưng chính vì thế đã lọt nhiều kẽ hở. Đã xảy ra không ít trường hợp trụ trì trộm chuông bán tượng hay hòa thượng chơi bời hút chích.

Có tướng cướp 'buông hạ đồ đao' thành sư thì cũng có sư hành xử như tướng cướp.

Có những kẻ xem đi tu là một 'nghề' mà vào đó họ tu ăn, tu ngủ, tu hưởng thụ.

Siết chặt kỷ cương, tuyển lựa kỹ càng và sàng lọc cẩn thận là điều Giáo hội nhất thiết phải làm để trả lại sự thanh tịnh cho chốn Thiền môn và giữ gìn uy tín cho Phật giáo.

Thêm nữa, cúng dường trong hoàn cảnh xưa, nay cũng khác.

Thời Phật tại thế, cúng dường chỉ là vật thực, thau, bồn, đèn, đuốc, nhang, dầu. Bây giờ thời đại kim tiền, người tu hành quá gần gũi mùi tiền công đức thì làm sao mà Giới, Định, Tuệ cho được ?

Xây chùa lớn cũng giúp cộng đồng Phật giáo phấn khởi vì có thêm chỗ nương theo Phật, Pháp, Tăng và tiếp nối 'tứ đại khí' của cha ông, chưa nói lượng khách hành hương đến còn có thể giúp cải thiện thu nhập của dân địa phương.

Có điều nó cũng đặt ra gánh nặng rất lớn về duy tu, quản lý. Nhưng nhà tu hành thì làm sao quản lý theo kiểu kinh doanh cho được ? Tôi thấy chùa Phật Quang Sơn, Đài Loan, vốn cũng hết sức hùng vĩ, có mô hình hoạt động rất hay mà Phật giáo Việt Nam có thể tham khảo.

Thấy lỗi mình và biết sửa lỗi mới là làm đúng lời dạy của Đức Phật. Có như vậy, Phật giáo Việt Nam mới vững vàng tiếp nối truyền thống gần 2.000 năm đồng hành cùng dân tộc.

Nguyễn Lễ

Nguồn : BBC, 20/05/2019

Tác giả là thạc sĩ ngành Quan hệ Quốc tế tại Đại học California, San Diego và từng là thực tập sinh tại Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế ở Washington D.C.

Published in Diễn đàn
Trang 1 đến 2