Các sử gia và các nhà bình luận vô tình hay cố ý đã làm cho nhiều người, Việt Nam cũng như ngoại quốc, quên rằng miền Nam Việt Nam đã được mở ra chủ yếu do một cuộc di dân hòa bình để khai phá đất hoang chứ không phải do một cuộc lấn chiếm bằng bạo lực bờ cõi sẵn có của một nước tên là Campuchia hiện nay.
Lãnh thổ Phù Nam và Chân Lạp thế kỷ 7 - Ảnh minh họa
Có thể nói đất nước Chân Lạp (tiền thân của Campuchia ngày nay) đã ra đời bằng bạo lực, đã trưởng thành trong bạo lực và đã suy tàn vì bạo lực. Được bồi đắp từ lòng biển do phù sa sông Cửu Long, vùng đất gồm nước Chân Lạp và miền Nam Việt Nam mới đầu thuộc đế quốc Phù Nam với những sắc dân đến từ biển, nhất là từ Indonesia và từ Ấn Độ, qua ngả Miến Điện và Thái Lan. Phù Nam đã mau chóng biến thành một đế quốc. Vào thế kỷ thứ 7, người Khmer, một sắc dân theo văn minh Ấn Độ, từ miền Nam Lào tràn xuống tiêu diệt đế quốc Phù Nam và dần dần khắc phục các sắc dân địa phương, chiếm quyền bá chủ trong vùng để lập ra đế quốc Khmer.
Vương quốc Chân Lạp và Đế quốc Khmer
Năm 600-611 có triều vua Mahendravarman, tiếp theo là vua Isanavarman đóng đô tại Ankor Borey. Năm 750 vua Jayavaman I mở rộng lãnh thổ, xây thêm đền đài. Ngài cho khẩn hoang và trồng lúa cùng các loại hoa màu dọc bờ sông Cửu Long xuống tới miền Tây Việt Nam ngày nay.Khoảng năm 780 dòng Vương cũ của Phù Nam giờ thành Vương triều Sailendra của đảo Java (Indonesia) trở nên hùng mạnh đã dùng binh lực ép buộc vương quốc Chân Lạp của người Khmer phải triều cống và lệ thuộc. Từ năm 800 đến 887 nước chân Lạp dưới sự lãnh đạo của vua Jayavaman II (802-887) và Jayavaman III (850-887) đã giành lại được độc lập từ dòng Sailendra của Java. Vương quốc Chân Lạp được đổi tên là Kampuchia. Trong thời này những thế lực phong kiến có khuynh hướng chia đế quốc Chân lạp thành Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp (vùng đồng bằng miền Nam tức Phù Nam xưa).
Jayavaman II còn có tên là Puskarak đã từng bị bắt trong trận chiến, và bị đày qua đảo Java. Sau ông trốn thoát về tổ chức nghĩa quân giải phóng đất nước chống lại quân chiếm đóng Java và quân người Chăm nước Champa (Trung Việt ngày nay). Năm 803 Puskarak lên ngôi Vương lấy hiệu là Jayavaman II rồi tuyên bố độc lập. Tuy nhiên quyền lực của đảo quốc Java không ngừng dòm ngó vương quốc Kampuchia của Jayavaman II. Trong suốt 50 năm trị vì ông đã dời đô 5 lần vì chiến tranh với Java. Khi Jayavaman III qua đời không con nối dõi nên một người bà con họ mẹ đã lên ngôi xưng vương hiệu là Indravaman I (877-889).
Vua Indravaman I là một vị vua anh hùng, có tài thao lược và cũng yêu nghệ thuật văn thư. Trong đời ông đã có công thống nhất Lục Chân Lạp với Thủy Chân Lạp và xây dựng thêm nhiều thành phố lớn, khuyến khích nông nghiệp và thương mãi. Indravaman I cũng khởi đầu nới rộng Ðế quốc Khmer (Kampuchia), thay đổi bản đồ chính trị trên bán đảo Ðông Dương bằng những chiến công nổi bật. Con của Indravaman I nối sự nghiệp của cha xưng hiệu là Yaksovaman I (889-900).
Yaksovaman I dời kinh đô từ Hari Hara Ley đến Yaso Tha Bura trên cao nguyên Bakheng. Chính vào thời điểm này sự phú cường của Ðế quốc Kampuchia đã cho phép nhà vua khởi công nhiều công trình kiến trúc vĩ đại trong đó có Angkor Wat (Ðế Thiên Ðế Thích), đền đài Lo Ley, đền đài Phnom Bok. Angkor Wat đã là một công trình kiến trúc vĩ đại nhất của vùng Ðông Nam Châu Á.
Nhà vua còn cho đào hồ Ðông Baray dài 7 km, ngang 1800 km. Một công trình vĩ đại vào thời đó. Những công trình to tát này đa phần nhờ vào hàng vạn tù binh và nô lệ bắt được từ những trận chiến chinh phạt Xiêm và Lào. Suốt thế kỷ thứ 9 Ðế quốc Khmer-Chân Lạp có 6 triều vương đó là Hashavaman I (900-922), Isanavaman II (922-928), Jayavaman IV (928-941), Harshavaman II (941-944), Rajendravaman II (944-968) và Jayavaman V (968-1001).
Rajendravaman II vốn là một vị tướng của vương quốc sau khi gom quyền lực vào tay đã lên ngôi vương tại Angkor Wat (Ðế Thiên Ðế Thích). Trong 24 năm cầm quyền ông cho xây thêm nhiều đền tháp lâu đài và đánh bại quân Chăm của Vương quốc Chiêm Thành (Champa, Trung Việt). Khi nhà vua băng hà con là Jayavaman V lên thay. Sau cái chết của Jayavaman V năm 1001 toàn lãnh thổ Chân Lạp rơi vào cảnh đại loạn kéo dài 9 năm.
Lãnh chúa Suryavaman I (1002-1050) đã đàn áp được những thế lực khác và thống nhất ngôi Vương tại Angkor Wat. Từ năm 1050 đến 1177 đế quốc Khmer tiếp tục bành trướng. Phía bắc giáp Trung Hoa, phía nam giáp biển Xiêm La (Thái Lan), phía tây giáp Miến Ðiện, phía đông giáp Chiêm Thành. Trong thời gian này hùng cường nhất là vua Suryavaman II (1113-1150). Nhà vua xông pha trận mạc để lại nhiều võ công oai hùng.
Ngài đã đụng trận với Trung Hoa, Ðại Việt, Chiêm Thành, Xiêm và Miến-Mường. Ngài đã chết tại sa trường một cách oanh liệt. Năm 1177 quân Chăm của Vương Quốc Chiêm Thành (Champa) xâm lăng và giết được vua Khmer là Tri-Bhuvanadit-yavarman khởi đầu cho quá trình suy tàn của đế quốc Khmer từ thế kỷ thứ 13. Trên thế giới lúc đó là thời điểm đế quốc Mông Cổ đang bành trướng vào Ấn Ðộ phía Tây, xâm chiếm Trung Hoa phía Bắc và phía Ðông hai vương quốc Ðại Việt và Chiêm Thành đang nắm tay hợp sức đẩy lui đoàn quân viễn chinh Mông Cổ.
Sự suy nhược của Ðế quốc Khmer vào thế kỷ 13 tạo cơ hội cho người Thái (Xiêm) nổi dậy giành độc lập. Danh xưng ‘Thái’ có nghĩa là ‘tự do’ không còn nô lệ nữa. Quân đội người Thái đã tấn công đế đô Angkor (trong khoảng thời gian 1431-1432) và tàn sát hàng mấy vạn người gà chó không chừa để trả thù sự tàn bạo hà khắc mà người Khmer đã áp đặt lên họ trước kia. Sự tàn sát đã khủng khiếp đến độ không còn ai sống sót để nhớ lại nơi chốn này. Ðế đô Angkor đã bị quên lãng bởi chính người Khmer trong suốt 500 năm mãi đến thế kỷ 19, ông Henri Mouhot, người Pháp, trong lúc đi thám hiểm rừng sâu mới tìm lại phế tích Angkor Wat năm 1860.
Năm 1401 vua Chân Lạp Ponhea Yat dời đô về Phnom Penh (Nam Vang) đánh dấu một triều đại mới, chấm dứt kỷ nguyên Angkor. Chữ Phạn Ấn Độ cổ Sanscrit không còn được sử dụng nữa. Lối chữ mới theo thể Pali giống Mã Lai được thay vào. Toàn thể những dòng dõi vương tôn, quí tộc cũ theo văn hóa Ấn Ðộ biết đọc, viết chữ Sanscrit đã bị người Thái tận diệt. Năm 1528 vua Ong Chân I lại phải dời đô về Lovek (La Bích). Ðến năm 1593 quân Xiêm lại tấn công La Bích. Từ đó người Thái nắm quyền phế lập các vua chúa Khmer.
Nhìn lại di sản đế quốc Khmer
Đế quốc Khmer còn tỏ ra hiếu chiến và bạo ngược hơn hẳn đế quốc Phù Nam. Đế quốc Khmer đã chế ngự được cả một vùng rộng lớn bao gồm cả Thái Lan, một phần Miến Điện và cả miền đất Phù Nam (ngày nay là miền Nam Việt Nam). Vào thế kỷ 12 đế quốc Khmer còn bành trướng về phía Bắc, chiếm gần hết đất Chiêm Thành, đến tận đèo Hải Vân của Việt Nam hiện nay. Nhưng lãnh thổ thực sự của nó tập trung ở vùng Angkor. Còn vùng đất gọi là Thủy Chân Lạp thì vẫn còn là vùng hoang vu hẻo lánh và gần như không có chính quyền.
Nhưng đền đài tại Angkor không phải chỉ là dấu tích của một nền văn minh mà trước hết là di tích của sự tàn bạo. Những sử liệu ít ỏi còn lại, mà đặc sắc nhất là ký ức của Chu Tá Quan, một sứ giả của nhà Nguyễn có mặt tại Cam-bốt, mô tả cảnh những người nô lệ bị xiềng xích vào nhau để xây đền đài dưới sự điều động tàn bạo của các tăng sĩ và chiến sĩ Khmer. Họ phải lao lực đến kiệt sức và khi chết thi hài được lôi ra làm thức ăn cho cầm thú.
Từ thế kỷ 13 trở đi, người Thái Lan bắt đầu tiến lên, sức mạnh của họ đã dần dần bắt kịp và vượt người Khmer. Họ giành được độc lập rồi tiến đánh trả thù người Khmer trong hàng thế kỷ đã bắt họ làm nô lệ xây đèn đài cung điện. Họ đã hủy diệt đế quốc Khmer, tàn phá Angkor Vát và bắt người Khmer về làm nô lệ xây đền đài cho họ. Nền văn minh Angkor cáo chung vào năm 1431 với sự phá hủy lần cuối cùng thủ đô Angkor. Như vậy Đế quốc Khmer (tiền thân của nước Chân Lạp hay Lục Chân Lạp) được xây dựng trên sự tàn bạo đã sụp đổ trong sự tàn bạo. Sự tàn phá và tàn sát của người Thái Lan đã khủng khiếp đến độ tất cả dấu tích đồ sộ của trung tâm Angkor bị chìm mất trong rừng sâu và không một nhân chứng nào sống sót để nhớ lại sự hiện hữu của nó.
Phải đợi đến năm 1850, một nhà khảo cứu Pháp mới tình cờ khám phá lại di tích Angkor mà ngay những người Campuchia cách đó hai trăm cây số cũng không hề biết đến di tích đó. Kể từ 1431 chung quanh Phnom Penh chỉ còn lại một triều đại Chân Lạp yếu nhược với ảnh hưởng không đáng kể trên những vùng đất trước kia thuộc ảnh hưởng của đế quốc Khmer.
Nhìn lại cuộc Nam tiến của người Việt
Cuộc Nam tiến của người Việt đã đến rất lâu sau khi vùng đất miền Nam Việt Nam ngày nay trở thành vô chủ.
Những người Việt đầu tiên khai phá miền Nam không phải là những đạo quân viễn chinh mà phần lớn là những người nông dân nghèo khổ, chạy trốn cuộc chiến phân tranh Trịnh-Nguyễn. Từ năm 1623 trở đi, trong khoảng một thế kỷ rưỡi, Việt Nam đã sát nhập nhiều vùng đất mới ở phía Nam. Những những sát nhập hành chánh này chỉ là sự hợp thức hóa một thực tại là những phần đất ấy từ lâu đã do người Việt sinh sống và khai thác.
Cuộc Nam tiến của nước Việt chủ yếu là một sự bành trướng trong hòa bình. Vua Sihanouk, bằng thái độ và bằng hành động của ông, lập lại y hệt hình ảnh của những vị vua Chân Lạp trong hai thế kỷ 17 và 18. Sihanouk trở mặt như chong chóng và đổi đồng minh như thay áo, ông được nhiều nhà bình luận chính trị phương Tây coi là khôn ngoan và mưu lược, nhưng tài trí của ông đã chỉ khiến nước Cam-bốt phải chịu những tàn phá kinh khủng nhất.
Các vị vua Chân Lạp, tổ tiên của Sihanouk, cũng đã cư xử không khác gì ông. Một vị vua Chân Lạp có thể ngày hôm nay cầu viện Việt Nam để tranh ngôi vua với một người anh em họ, để rồi ngày mai lại cầu viện Thái Lan chống lại Việt Nam và ít lâu sau thần phục Việt Nam chống lại Thái Lan. Mỗi lần cầu viện ngoại bang họ đầu dâng lễ vật hay dâng đất. Việc dâng đất đối với họ không có gì là quan trọng vì trên thực tế đó là những vùng đất mà họ đã mất chủ quyền từ lâu.
Việc dâng đất chỉ có nghĩa là nhìn nhận một thực lại và cam kết sẽ không quấy nhiễu. Một câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao người Campuchia lại thù ghét Việt Nam hơn Thái Lan, trong khi Thái Lan đã xung đột nhiều hơn với Chân Lạp, đã sát nhập nhiều đất của Chân Lạp hơn, đã từng tàn sát người Chân Lạp một cách dã man nhất, và nhất là đã tiêu diệt đế quốc Khmer-thủy tổ của Chân Lạp ?
Chính sách chia để trị của người Pháp
Trước hết là sự xung đột giữa hai nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa. Người Cam-bốt và người Thái Lan cùng chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ nên dù đã có cả một quá khứ xung đột vô cùng đẫm máu họ vẫn thấy gần gũi với nhau trong khi người Việt Nam có văn hóa khác biệt văn hóa Ấn Độ, nên đối với Chân Lạp là những kẻ lạ mặt. Nhưng trầm trọng hơn nữa là chính sách chia để trị của chính quyền thuộc địa Pháp.
Người Pháp đã tạo ra cái huyền thoại nước Việt Nam tham đất và đói đất để biến Việt Nam thành một đe dọa và một đối tượng thù ghét cho người Campuchia. Họ thường có thái độ thù địch đối với Việt Nam vì trong nhiều giai đoạn họ nhận định Việt Nam vừa không có lợi gì cho họ lại vừa không làm gì được họ. Cũng nên nhìn rô một đặc tính của người Khmer : trong suốt dòng lịch sử họ luôn luôn phải chịu đựng những chế độ hung bạo cho nên sự hung bạo đã ăn rễ trong dân gian ; người Chân Lạp rất dễ bị sách động vào các cuộc thảm sát.
Lịch sử mới đây của triều đại cộng sản Pol Pot cho thấy bản tính hung bạo và khát máu của người Campuchia. Nhìn vào những gì người Chân Lạp hay Campuchia đã làm với nhau, ta sẽ thấy rằng sự hung bạo của họ không phải là bằng chứng của hận thù, bởi vì họ hung bạo ngay với đồng bào họ.
Một số đông người Việt không hiểu rõ lịch sử của chính nước mình, nhất là cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, do đó vẫn còn bị ảnh hưởng của luận điệu của chính quyền thuộc địa Pháp. Cũng đừng quên rằng về phương diện địa lý Campuchia cần Việt Nam hơn là Việt Nam cần Campuchia. Trong tương lai, nếu Campuchia gượng dậy được từ thảm kịch Pol Pot, họ sẽ không có chọn lựa nào khác là hợp tác chặt chẽ với Việt Nam, và lúc đó họ sẽ hợp tác với chúng ta một cách rất nồng nhiệt.
Đối với cuộc Nam tiến mở nước của cha ông, chúng ta cần ghi ân trước hết những hy sinh của những tổ tiên rất khiêm nhường của ta, những tấm áo nâu dắt dìu nhau vào chốn rừng sâu và dắt dìu nhau vào tới Cà Mau.
Bất cứ lúc nào cũng người Việt chạy trốn một sự bất hạnh thì lại vô tình đi thêm một bước đường mở nước. Sau năm 1975, nước Việt lại rơi vào tay một bạo quyền khác là Cộng Sản Việt Nam nên đàn chim Việt đã phải vượt trùng dương, tạo ra cộng đồng người Việt hải ngoại, tỏa sự hiện diện của Việt Nam ra khắp thế giới.
Trên danh nghĩa Vương quốc Chân Lạp làm chủ khu vực miền Nam Việt Nam từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 17 sau Công Nguyên, nhưng thật sự miền đất mệnh danh là Thủy Chân Lạp nầy gần như vô chủ và hoang vu suốt thời kỳ đó.
Về cuộc Nam tiến của người Việt
Một biến cố chính trị tại phương đông, miền cực nam nước Ðại Việt đã làm thay đổi tình thế lúc đó là sự xuất hiện của chúa Nguyễn Hoàng, truyền nhân của Nguyễn Bặc, Nguyễn Trãi và Nguyễn Kim. Chính sách Nam tiến của các chúa Nguyễn sau đó nhằm để chống lại thế lực của chúa Trịnh ở Thăng Long tạo nên áp lực to tát cho hai lân quốc Champa và Chân Lạp. Trong khoảng thời gian từ năm 1611-1653 vương quốc Champa đã bị dồn nén bởi thế lực của chúa Nguyễn nên co cụm lại một vùng nhỏ từ Nha Trang đến Phan Thiết. Không dừng lại ở Champa, chúa Nguyễn bắt đầu dòm ngó đến Chân Lạp.
Sau một thời gian ở Xiêm làm con tin, Chey Chetta II về Chân Lạp lên ngôi vương năm 1618. Tân vương cải canh mọi việc và mang lòng không không phục người Xiêm. Chey Chetta II dời đô về Oudong (Long Úc), thuộc tỉnh Kompong Luông. Tân vương tổ chức quân đội có thực lực. Mấy năm liền không thấy Chân Lạp dâng phẩm vật triều cống, Xiêm vương mang quân tấn công vào Chân Lạp hai lần đều bị quân của Chey Chetta II đẩy lui. Tuy nhiên về lâu về dài Chân Lạp sẽ không thể đương đầu với quân Xiêm.
Chey Chetta II quyết định nhờ vào thế lực của chúa Nguyễn Ðàng Trong, lúc đó là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). Quốc sử Cao Miên đã chép như sau về giai đoạn này : ‘Vua Xiêm muốn tái lập uy quyền trên đất Cao Miên, nên xua binh tấn công. Năm 1623, một đạo quân từ phía Bắc xâm nhập lãnh thổ, bị quốc vương Chey Chetta II thân chinh đánh tan rã ở Bâribaur cách biển Hồ lối 50 km. Ðạo thứ hai tiến vào tỉnh P. Meas bị Hoàng đệ Prah Outey đẩy lui. Năm sau, 1624 quân Xiêm theo đường biển đổ bộ miền duyên hải, bị phản công dữ dội phải rút về. Ðể đề phòng quân Xiêm quấy nhiễu, quốc vương Chey Chetta II cưới một công chúa xứ Ðàng Trong hầu dựa vào thế lực của nhà Nguyễn ở Huế’.
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã quyết định gả con gái là Quận chúa Ngọc Vạn cho vua Cao Miên-vua Chey Chetta II, năm 1620. Chúa Sãi còn hai Quận chúa khác là Ngọc Khoa gả cho vua Chiêm Pô Romê và Quận chúa Ngọc Hoa lại gả cho một thân vương người Nhật Bản. Mặc khác vua Cao Miên nghe truyền rằng Sãi Vương là người mộ đạo Phật, trong người có nhiều Phật tính nên muốn kết tình gia đình.
Ði theo hộ tống đám cưới bà hoàng Ngọc Vạn xinh đẹp là đông đảo quan lính người Việt của Sãi Vương trang bị khí giới, tàu thuyền có súng ống, thuyền được trang hoàng lộng lẫy hình chim phượng mạ vàng. Tham dự lễ cưới có nhiều người ngoại quốc từ Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Nhựt Bổn, Ý Ðại Lợi, Trung Hoa. Bà Ngọc Vạn ngồi kiệu 8 người khiêng sánh duyên với vị vua hào hùng anh tuấn. Hoàng nữ Ngọc Vạn được tấn phong Hoàng Hậu với tước hiệu là Sô Dach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey.
Tiếp theo sau cuộc hôn nhân vương giả này, Hoàng hậu Ngọc Vạn đã xin với vua Cao Miên cho nhiều người tùy tùng nắm giữ chức quyền trong triều đình Chân Lạp. Dưới sự bảo trợ của Hoàng hậu Ngọc Vạn lưu dân người Việt từ Ðàng Trong ồ ạt theo đường biển vào lập nghiệp tại vùng Thủy Chân Lạp. Họ làm nghề nông, buôn bán, tiểu công nghiệp, đánh cá, thợ rèn v.v. chỉ 3 năm sau, tức năm 1623 lưu dân Việt định cư tại Thủy Chân Lạp lên đến 20,000 người. Sãi vương liền viết thư cho con rể xin ‘cho mượn’ đất tại Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) để tiện việc thâu thuế người Việt tại đây. Vua Cao Miên chấp thuận.
Sau khi quốc vương Cao Miên băng hà chỉ sau 5 năm lấy vợ Việt, toàn vùng Bà Rịa giáp giới Chiêm Thành, Kâmpéâp Srekatrey (Biên Hòa), Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) đều thuộc quyền người Việt cai trị và thâu thuế. Từ sau khi vua Chey Chetta II băng hà các hoàng tử con của các bà phi người Chân Lạp liên tiếp lên làm vua : Ponhea To (1629-1630), Ponhea Nu (1630-1640).
Sau cái chết mờ ám của vua Ponhea Nu năm 1640 quan phụ chính Prah Outey (là hoàng thúc của vua) đưa con mình là Ang Non I (1640-1642) lên ngôi. Vào năm 1642 một người con của vua Chey Chetta II liên hiệp với người Mã Lai nổi dậy giết toàn gia hoàng thúc Prah Outey để lên ngôi xưng hiệu Ponhea Chan I (1642-1659). Sử Việt gọi vị vua này là Nặc Ông Chân. Các hoàng thân thuộc phe cánh Ang Non I vào cung bà Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn xin cầu viện chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687).
Chúa Hiền nhân cơ hội có lời yêu cầu nên hưng binh chinh phạt Chân Lạp vào tháng 10 năm 1658. Quân Chân Lạp thua to tại ngoài khơi Bà Rịa và trận Gò Bích. Quân Nguyễn tiến vào Nam Vang bắt quốc vương Nặc Ông Chân bỏ vào cũi sắt đem về tỉnh Quảng Bình. Vua Nặc Ông Chân chết tại đây. Chúa Hiền đưa Hoàng tử So con trai bà Thái hậu Ngọc Vạn lên ngôi vua lấy hiệu là Batom Réachea (1658-1672). Vào thời điểm này triều đình Chân Lạp hợp thức hóa chủ quyền của nhà Nguyễn tại Ðồng Nai. Năm 1672 vua Batom Réachea bị ám sát chết. Con trai là Ang Chey tức Nặc Ông Ðài lên nối ngôi. Tân vương dựa thế lực người Xiêm mang quân lấn ép vùng Ðồng Nai.
Lưu dân người Việt kêu cứu triều đình chúa Nguyễn lúc đó đóng đô ở Kim Long. Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai các tướng Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Diên Thái và Văn Sùng mang quân tới tận Oudong hỏi tội Nặc Ông Ðài rồi đưa Ang Saur tức Nặc Ông Thu hiệu Chey Chetta IV, em của Nặc Ông Ðài lên ngôi Chính Vương ở Oudong Lục Chân Lạp. Chúa Hiền lại đồng thời cho Ang Non tức Nặc Ông Nộn con trai thứ của bà Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II làm Thứ Vương vùng Ðồng Nai –Mô Xoài. Vua Nặc Ông Nộn đóng đô tại Sài Gòn tức Prey Nokor. Lúc đó là năm 1674. Cả hai vị vua Chân Lạp đều phải triều cống xưng thần với chúa Nguyễn tại Kim Long. Vua Nặc Ông Nộn ở Sài Gòn đến khi chết năm 1691 thì toàn quyền cai trị tại đây thuộc về chúa Nguyễn.
Vào năm 1679 tức năm Khang Hy thứ 18 nhà Ðại Thanh có di thần của nhà cựu Minh bên Tàu vì không cự lại quân Thanh triều đến xin hàng phục chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nhóm di thần nhà Minh nầy gồm có Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Ðịch, Phó tướng Hoàng Tiến, và Tổng Binh các phủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó tướng Trần An Bình mang 3000 binh lính thủ hạ và gia quyến trên 50 chiến thuyền đến cửa Tư Dung và Ðà Nẵng xin được làm thần dân của chúa Nguyễn. Chúa Hiền chấp thuận cho giữ nguyên binh hàm chức tước rồi truyền cho vua Cao Miên cho phép người Minh vào định cư xứ Ðồng Nai và sau đó thay mặt cho nhà Nguyễn lấn dần đến Cần Thơ.
Nhờ đợt di cư này mà ảnh hưởng của nhà Nguyễn tại đất Thủy Chân Lạp ngày càng to tát. Các tướng nhà Minh giờ làm quan cho triều đình nhà Nguyễn. Họ cũng góp phần xông pha trận mạc mở rộng lãnh thổ cho nhà Nguyễn, nổi bật là Thống Binh Trần Ðại Ðịnh con của Trần Thượng Xuyên triều chúa Ninh Vương. Người Minh vốn cùng văn hóa với người Việt nên hợp nhau khai hoang khẩn đất, lập chợ, xây dựng phố phường, buôn bán tấp nập. Những nơi như Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Ðức, Cần Thơ không mấy chốc trở nên sầm uất vô cùng. Triều đình nhà Nguyễn lại được dịp có thêm dân thêm đất và thêm thuế thu nhập.
Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần băng hà năm 1687 ở ngôi 39 năm, Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (còn gọi là Trăn) lên thay (1687-1691). Nghĩa Vương dời đô về Phú Xuân (Huế). Trong thời gian chúa mới lên ngôi có một di thần nhà Minh là Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Ðịch ở Mỹ Tho rồi tự xưng là Phấn Dũng Hổ Oai Tướng Quân thống lĩnh quân sĩ Long Môn người Minh đóng đồn ở Ðịnh Tường. Hoàng Tiến thả quân qua Cao Miên cướp của giết người. Vua Cao Miên là Nặc Ông Thu bất bình vì việc làm sai quấy này và ngờ là chủ ý của Thiên Vương nhà Nguyễn. Vua Nặc Ông Thu quyết định bỏ triều cống và chuẩn bị binh lính chống lại triều đình nhà Nguyễn.
Mở rộng và phát triển miền Nam
Tháng Giêng năm 1690 Chúa Nghĩa sai lão tướng là Vạn Long mang quân đến Rạch Gầm dàn trận. Vạn Long dùng kế bắt được Hoàng Tiến rồi xua quân qua Cao Miên đánh thốc tới Nam Vang và Long Úc (thành Oudong). Vua Cao Miên cả sợ dâng 30 thớt voi, 150 lạng vàng, 600 lạng bạc, 6 con tê giác để xin hòa và giữ lệ triều cống như xưa. Quan quân nhà Nguyễn rút về Phú Xuân tháng 8 năm đó. Chúa Nghĩa không thọ lâu, ngài băng hà năm 1691 thọ 43 tuổi.
Năm 1698 chúa Minh vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sai Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh Cao Miên và kinh lược mấy tỉnh miền Nam. Lễ Thành Hầu chia cắt giới phận, canh cải địa điền, kiểm kê nhân khẩu, lập sổ đinh điền cho có nề nếp. Lúc đó toàn miền Nam có dân số 40,000 gia đình (hộ) đất đai mở ra 1000 dặm. Thành quả này đạt được trong vòng 70 năm. Sự trù phú của miền Nam nhờ một phần vào sự tiếp sức của di thần nhà Minh và chế độ bắt người thổ dân, các dân tộc miền núi về làm nô lệ. Theo lời kể của người phương Tây thì việc buôn bán nô lệ để giúp người Việt canh tác có cả thuế nông nô của triều đình.
Năm 1671 có người Minh tên là Mạc Cửu quê ở Lôi Châu, Quảng Ðông mang gia quyến binh lính 400 người và 10 chiếc thuyền di cư sang Thủy Chân Lạp đổ bộ lên bờ biển Panthaimas vịnh Thái Lan. Mạc Cửu đến Oudong xin yết kiến vua Nặc Ông Thu và ở lại hợp tác giữ chức Óc Nha cho đến năm 1681. Lúc ấy thấy chính sự Chân Lạp rối ren, ông xin vua Chân Lạp cho đi khai khẩn vùng đất hoang Panthaimas. Vua thuận cho.
Mặc Cửu chiêu tập đám cướp biển lại mở sòng bạc, chiêu mộ dân phiêu bạt chạy trốn nhà Thanh về lập nên 7 xã là : Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Konpong Som), Sài mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Ngoài ra còn có người Ấn Ðộ, người Nam Ðảo, người Kinh, người Thái, người Cao Miên đến sinh sống. Thủ phủ đặt tại Hà Tiên tức Căn Khẩu.
Mạc Cử đặt tên vùng đất của mình là ‘Căn Khẩu Quốc’. Lãnh địa này thuộc Chân Lạp nhưng vua Chân Lạp không đủ sức cai quản nên được qui chế tự trị. Không bao lâu Căn Khẩu Quốc của Mạc Cửu trở nên giàu có, người đi vào buôn bán, cờ bạc, đổi chác tấp nập. Thấy kinh tế vùng Căn Khẩu nổi lên như sóng vua Xiêm chuẩn bị thôn tính vùng đất này.
Năm 1678 quân Xiêm tràn sang cướp phá bắt Mặc Cửu và gia quyến về Muang Galapuri (Vạn Tuế Sơn). Hai năm sau nhân lúc nước Xiêm có loạn ông mang quyến thuộc trốn về lại Căn Khẩu. Ông lại bắt tay khôi phục lại Căn Khẩu. Mạc Cửu nhiều lần xin triều đình Chân Lạp cứu nhưng Vương triều Chân Lạp lúc đó quá yếu, tự giữ mình còn không xong nên từ chối không thể giúp gì cho họ Mạc.
Năm 1711 Mạc Cửu cùng tùy tùng là Trương Cầu, Lý Xá mang vàng lụa đến gỏ cửa Khuyết ở Huế xin thần phục chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Mạc Cửu được giữ chức Tổng Binh toàn quyền cai trị xứ Căn Khẩu mà không phải nộp thuế cho triều đình. Nghe được tin này vua Xiêm cho 20,000 quân tấn công Căn Khẩu quốc, một thuộc địa mới của nhà Nguyễn. Mạc Cửu thua chạy về Gia Ðịnh xin triều đình Huế cứu giúp. Quân Triều Nguyễn đánh đuổi người Xiêm đi và trả lại toàn vẹn đất đai cho Mạc Cửu cai trị nhưng đổi tên Căn Khẩu thành Hà TiênTrấn với mục đích lưu lại dấu ấn của triều đình họ Nguyễn.
Sử Cao Miên chép về chuyện này như sau : ‘Năm 1710, sau khi quốc vương Thomo Réachea bỏ thủ đô, Nặc Ông Em lên ngôi. Ðây là lần thứ nhì ngài trị vì. Trong ba năm 1711-1716 và 1722, ngài đẩy lui ba lần tấn công của Thomo Réachea nhờ quân Xiêm trợ giúp. Ngài nhờ triều đình Huế che chở và giúp về mặt quân sự. Ngài phó thác việc phòng thủ các tỉnh Peam (Hà Tiên), Kampot, Kampong Som cả cù lao Phú Quốc cho một người Trung Hoa tên Mạc Cửu. Họ Mặc gốc người Quảng Ðông di cư sang Cao Miên sau khi bị nhà Thanh lật đổ.
Ông gầy dựng được sự nghiệp to tát nhờ mở sòng cờ bạc. Ông xây dựng một pháo đài ở Peam, tuyển mộ quân sĩ và thủy thủ. Có lần một hạm đội Xiêm đến gần thị trấn định đổ bộ giúp Thomo Réachéa bị quân Mặc Cửu tiêu diệt gần hết. Tuy nhiên đến năm 1715, Mặc Cửu qui phục chúa Nguyễn, quốc vương Ang Em thuận cho người Việt Nam kiểm soát bờ biển từ miền Nam đến Xiêm. Về sau hoàng triều Cao Miên lấy lại quyền hành trực tiếp hai tỉnh Kampot và Kompong Som, nhưng tỉnh Peam (Hà Tiên) và cù lao Phú Quốc vẫn còn bị hậu duệ của Mặc Cửu cai trị cho vua Việt Nam’.
Mùa hạ năm 1735 Mạc Cửu chết, hưởng thọ 81 tuổi. Chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ (có sử ghi là Trú :1725-1739) phong ông làm Khai Trấn Thượng Trụ Quốc Ðại Tướng Quân, tước Cửu Lộc Hầu. Ðến đời Minh mạng được phong làm Thần hiệu là Thọ Công Thuận Mỹ Trung Ðẳng Thần. Năm 1738 chúa Nguyễn Phúc Thụ ban cho dòng họ Mạc ‘Thất Diệp Phiên Hàn’ (bảy chữ quí tộc) nối đời vinh hiển là : Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Con trai Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ lên nối quyền cai trị Hà Tiên. Con của Tứ là Mạc Công Du, Con của Du là Mạc Hầu Lâm, con của Lâm là Mạc Bá Bình, con của Bình là Mạc Tử Khâm, con của Khâm là bà Mạc Nam Lan. Bà Nam Lan tuyệt tự hết người thừa kế nhưng cũng vừa tròn bảy chữ vua ban.
Năm 1731 quân Chân Lạp đánh Gia Ðịnh. Ninh Vương sai Tướng Trương Phước Vĩnh và Cai Cơ Ðạt Thành cùng tướng quân Trần Ðại Ðịnh (con của Trần Thượng Xuyên người Minh) đem quân ra chống đỡ. Cai Cơ Ðạt Thành bị quân Cao Miên giết ở Bến Lức. Trần Ðại Ðịnh mang quân bản bộ Long Môn đắp đồn Cây Mai ở Sài gòn để cầm cự. Cai đội Nguyễn Cửu Triêm đem quân cứu ứng đến Bến Lức, quân Miên lại rút về Tân An. Tháng 4 năm 1731 Trần Ðại Ðịnh đánh vào Lovek (La Bích). Cha con quốc vương Chân Lạp là Nặc Yêm (Ang Em) và Nặc Tha (Satha II) xin nhường đất Mésa (Mỹ Tho) và Longhor (Dinh Long Hồ tức Vĩnh Long bây giờ) để cầu hòa.
Chúa Nguyễn sai khổn thần đo đạt đặt thành Châu Ðịnh Viễn và dinh Long Hồ. Riêng Trần Ðại Ðịnh có công không có thưởng lại bị tội. Vốn Ninh Vương nóng lòng chiến thắng nhưng nghe tin Ðại Thành tử trận nên viết thư quở Phước Vĩnh. Phước Vĩnh hãi quá đổ hết tội cho Trần Ðại Ðịnh là người Hoa mưu phản xin mang ra xử trảm. Trần Ðại Ðịnh trốn chạy nhưng không về Quảng Ðông mà ra Huế kêu oan. Chúa sai bỏ vào ngục chờ điều tra rồi mới xử. Khi điều tra ra việc Phước Vĩnh vu oan thì Trần Ðại Ðịnh vì buồn rầu nên bị ốm nặng đã chết. Ninh Vương truy tặng Ðại Ðịnh hàm Ðô Ðốc Ðồng Tri thụy là Trương Mẫn. Trương Phước Vĩnh bị gián xuống làm Cai Ðội.
Mạc Thiên Tứ cai trị trấn Hà Tiên rất thịnh vượng. Tứ mở văn đàn làm thơ, phổ nhạc, vịnh phú, lập Chiêu Anh Các để chiêu nạp nhân tài. Về võ công Tứ cũng lẫy lừng không kém. Năm 1739 Tứ dẹp tan một trận tấn công của vua Cao Miên. Năm 1747 Tứ dẹp yên bọn cướp biển ở Long Xuyên. Năm 1753 vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên (Ang Snguôn) hà hiếp người Chăm từ Chiêm Thành tị nạn Việt Nam qua Cao Miên đồng thời thông mưu với chúa Trịnh ngoài Bắc để đánh úp chúa Nguyễn đòi lại đất đai đã mất. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765) sai Nguyễn Cư Trinh hưng binh đánh Cao Miên mùa hạ năm 1754. Binh triều đi tới sông Vàm Cỏ thì quân địch cả sợ ra hàng. Nặc Nguyên chạy ra Vĩnh Long. Ở vùng Vàm cỏ Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ người Chăm tị nạn bây giờ không nơi nương tựa có tới 10,000 người và hộ tống họ đi về Ðồng Tháp Mười (Tà Vô Ân). Ở đây phục binh của vua Cao Miên ùa ra đánh giết người Chăm chết mất 5000 người.
Quân tiếp ứng của ông Thiện Chính đến không kịp để cứu. Về sau Vũ Vương gián ông Thiện xuống làm Cai Ðội. Nguyễn Cư Trinh cứu được 5000 người Chăm cho về định cư ở núi Bà Ðen, Châu Ðốc. Nguyễn Cư Trinh lại tuyển người Chăm khoẻ mạnh đưa cho khí giới thúc họ đi tiên phong đánh quân Cao Miên. Quân triều đi sau ủng hộ. Thanh thế to lớn nên vua Cao Miên bỏ chạy xuống Hà Tiên nhờ Thiên Tứ cứu mạng. Vua Cao Miên nhờ Tứ xin với Võ Vương cho dâng hai phủ Tầm Bôn (Gò Công) và Lôi Lập (Tân An) để chuộc tội.
Chúa Nguyễn thuận cho và truyền cho nhập vào Châu Ðịnh Viễn. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho vua Cao Miên Nặc Ông Nguyên về nước. Vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên băng hà năm 1758. Dòng họ vua Cao Miên tranh nhau làm vua. Mạc Thiên Tứ giúp cho Nặc Ông Tôn làm vua nên được tặng Tầm Phong Lâm (Meat Chruk) tức Châu Ðốc và Sa Ðéc. Nội chiến ở Cao Miên vẫn không dứt. Các vua Cao Miên lại sang triều Nguyễn dâng đất cầu cứu. Thế là Nặc Ông Thuận (Thommo Réchea) hiến Sóc Trăng, Bạc Liêu. Nặc Ông Tôn (Ang Tong) hiến hết đất từ núi Thất Sơn, Sa Ðéc, Kiên Giang và Long Xuyên về sau đều thuộc chủ quyền chúa Nguyễn.
Định chế hóa lãnh thổ miền Nam
Từ đây chấm dứt cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam đến vùng đất Thủy Chân Lạp. Ðến đây dân tộc Việt đã tạm dừng chân sau một cuộc hành trình dài đến vùng đất hoang vu Thủy Chân Lạp để thiết lập các định chế hành chính và công quyền trên các địa phương do triều đình Lục Chân Lạp chuyển nhượng (dù thực tế là Lục Chân Lạp không cai trị trực tiếp vùng Thủy Chân Lạp).
Khởi nguồn từ miền Nam Trung Hoa khu vực rộng lớn phía Nam sông Dương Tử vào thời quá khứ xa xôi. Những di dân người Việt vào thế kỷ 17 đã lần đầu tiên nhìn thấy đồng bằng sông Mékong. Tại đây có đồng bằng, sông lạch, rồi lại đồng bằng. Nhiều đồng bằng hơn cả đồng bằng sông Hồng, một vùng đất duy nhất tổ tiên chúng ta có thể biết được để so sánh. Ðối với một dân tộc sống nhờ vào trồng lúa ngập nước thì vùng đất này là ‘vàng’. Khi mà nhà Thương Trung Quốc ngày xưa chỉ có 70 dặm mà xưng Ðế thì chúa Nguyễn và dân tộc Việt Nam vào thế kỷ 17 đã có 1000 dặm dư đồ. Một ngàn dặm vàng. Một thành quả không nhỏ.
Miền Nam có một khí hậu không bao dung cho nhiều người đến từ phương Bắc. Ở đây mưa triền miên 6 tháng rồi lại nắng liên tục 6 tháng. Ðầm lầy đầy những muỗi mồng rắn rít cực độc. Rừng rậm nhiều lau sậy chứa đựng những hiểm nguy khôn lường, những ác thú như cọp, gấu, cá sấu có thể giết và ăn thịt người. Sau rừng cây ẩn hiện những người thổ đen đúa trần truồng tâm tính bất tường đối với chúng ta. Rất có thể những người thổ dân tại đây có những bùa mê ngải lú mà chúng ta không biết ? Lo âu ! Cả một vùng đất hoàn toàn xa lạ mà những thần linh quen thuộc dường như không còn quyền phép để nhường chỗ cho những quyền lực thần bí khác.
Chúng ta có thể phần nào cảm thông được nỗi lo sợ của những người Việt đầu tiên đến đây theo lịnh của chúa Sãi qua câu ca dao xưa :
‘Tới đây non nước lạ lùng,
nghe tiếng chim kêu cũng sợ,
con cá vẫy vùng cũng lo’.
Theo sử liệu triều Nguyễn thì vùng đất mới miền Nam gần như hoang vu, có chăng chỉ là rải rác những srok của người Khmer. Srok tiếng Khmer có nghĩa là vương quốc nhưng cũng lại có nghĩa là một vùng mà cư dân có thể đi lại bằng chân. Tương tự như chúng ta dùng danh từ nước để chỉ nước uống và quốc gia. Tuy thế đơn vị srok vào thời đó lại không có nhà thương, trường học, đạo giáo thì tùy tâm, quan lính thỉnh thoảng mới đến chỉ để thâu thuế và vua thì ở xa.
Vào thế kỷ 17, vương quốc Chân Lạp ở giai đoạn suy yếu. Một giai đoạn suy yếu đã kéo dài từ thế kỷ 13 sau hơn 1000 năm thành công theo văn hóa Bà La Môn giáo (Hindu). Nhưng với tình thế thay đổi nhanh chóng nền văn hóa cổ này với những hệ lụy đẳng cấp bất di dịch không còn thích hợp với không khí chính trị nơi đây. Người Khmer, trong sự lấn cấn sau khi thất thủ đế đô Angkor đã từ bỏ Bà La Môn giáo để thay vào đó bằng Phật giáo, vốn cũng đã từng tồn tại song song với Bà La Môn giáo nhưng giờ lại trở nên có nhiều ưu thế hơn trong hoàn cảnh mới đầy loạn lạc.
Khác với Bà La Môn giáo là đạo thật sự của giới quí tộc cầm quyền mà thôi vì nó giúp cho giới này duy trì quyền lực, Phật giáo tạo một cảm giác bình đẳng cho mọi người. Thế nhưng vương quốc Khmer vẫn không thể tạo lại nét huy hoàng quá khứ, sau khi trở thành nước Chân Lạp. Văn hóa Phật giáo cân bằng sự khắt khe của Bà La Môn giáo nhưng lại mang tính chấp nhận hiện tại như một định mệnh ‘karma’. Tại miền Nam những dấu vết của một đế quốc Phù Nam được dựng lên bởi những võ công bằng thủy quân, một nền kinh tế cường thịnh nhờ thương mãi đã theo những di tích xa xưa chôn vùi trong lớp bùn đất tại Óc Eo.
Và tiếp đến là vùng đất Thủy Chân Lại hoang vu sau khi đế quốc Phù Nam suy tàn. Người di dân Việt Nam sau cùng đã đến đây để chinh phục vào thế kỷ 17. Người Việt sau 4000 năm Nam tiến giờ đã mang trong mình nhiều dòng máu pha trộn của người Việt cổ, Lạc hầu lạc tướng gốc Mường, Hán tộc, Chăm, Nam đảo-Malay-Polynésiên và giờ đây những cuộc hôn nhân giữa Việt-Cao Miên lại cho chúng ta yếu tố Môn-Khmer trong dòng máu người miền Nam.
Dù không đem thành bại luận anh hùng, yếu tố quyết định cho sự thành công hay thất bại của một dân tộc vẫn là yếu tố văn hóa. Ðặt biệt là văn hóa tổ chức. Di dân Việt Nam là một tạp chủng về mặt huyết thống nhưng văn hóa lại là văn hóa Bách Việt. Vì đề cao sự học nên không có phân chia đẳng cấp vĩnh viễn của Bà La Môn giáo. Một người bần dân nếu học giỏi vẫn trở thành Công Hầu vinh hiển trong một kiếp người và ngược lại từ Công Hầu có thể trở thành ‘Cai Ðội’ ngay nhãn tiền nếu không có học vấn khá.
Thêm vào đó người Việt Nam lại cũng có thêm chút đỉnh Phật giáo nhưng đa phần là đạo thờ tổ tiên và vai trò phụ nữ trong gia đình vẫn hãy còn mạnh. Một chút gì sót lại của chế độ mẫu hệ mà người Chiêm Thành và người Việt cổ cùng chia sẻ. Ðến đây chúng ta có cảm tưởng chỉ có một hướng đi xuống phương nam mà thôi. Thực ra không phải thế. Từ thượng cổ trước thời điểm có sự phân chia quốc gia, Hán tộc tức người Tàu hay Trung Hoa chỉ tập trung ở khu vực sông Hoàng Hà, cái nôi của nền văn minh Trung Hoa. Chung quanh họ lúc đó không phải là đất hoang mà là nơi tập trung của những giống dân khác trong đó có Việt tộc. Người Việt cổ, đã cộng cư với những giống dân anh em khác như Chăm cổ, Malay-Polynesien cổ từ phía nam kéo lên phương bắc.
Tóm lại, các chủng tộc Champa, Phù Nam và Chân Lạp đều chỉ là sắc tộc thuộc nhóm người Bách Việt cổ đại, kể cả người Malaysia, Indonesien, Brunei, Phillipines và thổ dân Úc cũng đều là nhóm dân Bách Việt xưa. Nhóm dân Bách Việt nầy sống rải rác từ phía Nam sông Dương Tử (Trường Giang bên Tàu) kéo dài đến Bắc Úc từ thời cổ sơ tiền sử./.
Đan Tâm
Nguồn : VNTB 09/01/2021
__________________
Tài liệu tham khảo :
- Charles Kimball 2000 : The history of Funan.
- History of the Kingdom of Cambodia by the Royal Government of Cambodia website.
- Nguyễn Hữu Hiếu 2001 : Chúa Nguyễn và các giai thoại mở đất phương Nam.
- Phạm Văn Sơn 1960 : Việt Sử Toàn Thư.
- Ðại Nam Thực Lục Tiền Biên.
- Lê Hương 1970 : Sử Cao Miên.
- Serge Thion 1988 : Remodelling broken images : manipulation of identities. Towards and beyond the Nation.