Nguyên bản (PDF)
Phần Bốn - 1
Vài trang bị cho tương lai
*****************
Mười triệu năm đánh đu
Tôi không phải là một nhà khảo cổ hay một nhà nhân chủng học. Kiến thức của tôi về nguồn gốc con người chỉ rất sơ sài. Một vài hiểu biết của tôi về vấn đề này có được do một sự tình cờ. Tôi có hai con nhỏ và hàng năm vào mùa hè chọn đi nghỉ tại thị xã Menton trên bờ biển Địa Trung Hải miền Nam nước Pháp, giáp ranh với nước Ý. Thị xã Menton này là một thành phố rất dễ thương, nóng suốt mùa hè, rất ít khi có mưa. Trong suốt sáu mùa hè liên tiếp, tôi chưa bao giờ bị một trận mưa nào trong lúc nghỉ hè, có nghĩa là được tắm biển mỗi ngày. Đó là một điều rất quan trọng. Ngày hè ngắn ngủi, mất ngày nào là uổng ngày đó. Menton lại có một vũng biển rất tốt, kín gió và hầu như không có sóng, các con tôi có thể bơi lội an toàn. Hai đứa rất thích Menton và hàng năm cứ đến gần tháng bảy là chúng nô nức rạo rực chờ đợi đi Menton.
Menton là một thành phố dành cho trẻ con và người già. Thanh niên rất ít đến đây vì không nhộn nhịp như các bờ biển khác, Saint Tropez, Saint Maxime, Nice, Cannes chẳng hạn. Nhưng cái duyên của Menton cũng là ở chỗ đó. Thành phố yên tĩnh, khang trang và lịch duyệt. Dân ở đây phần lớn là người giàu có đã về hưu, họ lịch sự và hòa nhã.
Nhưng Menton còn có một đặc điểm khác mà tôi rất thích. Menton có nhiều lịch sử. Chung quanh Menton có nhiều hang động mang vết tích con người từ vài chục ngàn năm (tại nước ta những dấu vết về sự sống của con người không quá mười ngàn năm). Đi về hướng Bắc một chút có Vallée des Merveilles trong đó người ta còn thấy những vách đá có chạm trổ những tranh vẽ thô sơ của con người cách đây cả chục ngàn năm. Mỗi lần đứng trước những chạm trổ tôi đều có một xúc cảm lớn, tưởng chừng như những con người đó còn đâu đây ngay gần sát với mình. Ở Menton người ta cũng đào được một hài cốt một người đã chết cách đây trên mười ngàn năm nhưng còn nguyên vẹn. Đây quả là một kỳ quan. Xác người này rất đẹp. Đó là một người đàn ông cao độ 1,80 mét, một chiều cao phi thường vào thời đại đó, khi chiều cao trung bình của con người chỉ vào khoảng 1,40 mét. Không biết hồi đó kỹ thuật ướp xác đã cao đến mức nào, hay chỉ do một sự tình cờ, nhưng xác còn nguyên vẹn, còn nguyên cả da thịt dù đã khô lại. Xác nằm cong queo, hình như là do cách bố trí chôn cất thời đại đó, đầu đội mũ làm bằng những vỏ óc nhỏ xiên thành từng chuỗi, cái mũ cũng còn nguyên vẹn. Xác này được đặt ngay chính giữa viện bảo tàng tiền sử, một kiêu hãnh của thành phố Menton.
Trong viện bảo tàng này có rất nhiều dụng cụ và di tích từ vài trăm ngàn năm, và nhiều cảnh sinh hoạt được các nhà khảo cổ dựng lại giúp cho những người thường như tôi hiểu người xưa đã sống như thế nào. Trên tường lại có cả những bản chỉ dẫn tóm lược về diễn biến của trái đất kể từ ngày khai thiên lập địa. Đặc sắc hơn, có một phòng chiếu phim tân kỳ với đủ mọi loại phim tài liệu có tính giáo dục. Khách vào thăm viện bảo tàng chỉ cần bấm một cái nút vào bên cạnh tên một phim là sau đó được bình thản ngồi xem những phim tài liệu về nguồn gốc con người. Năm nào tới Menton tôi cũng vào thăm viện bảo tàng trên dưới mười lần và say sưa xem những phim ảnh đó. Có những phim đã xem mấy chục lần vẫn chưa biết chán.
Qua những phim ảnh đó và những dấu tích của viện bảo tàng tôi được biết là khoảng mười lăm triệu năm trước đã xuất hiện các loài khỉ lớn, thủy tổ của loài người. Nhưng sau đó, trong mười triệu năm người ta không còn tìm thấy một vết tích nào về sự sống của các loài khỉ này cả. Cái gì đã xảy ra ? Có thể chẳng có gì là đặc biệt cả, các loài khỉ vẫn sống và tiếp tục tiến hóa nhưng người ta đã không tìm ra vết tích. Cũng cần phải nói là các dấu tích khám phá được rất rời rạc, sự mất dấu tích có thể chỉ là tình cờ. Nhưng từ năm triệu năm gần đây, người ta lại tìm thấy dấu tích của một số loài khỉ lớn, và lần này với một thay đổi nhỏ : bàn tay của một loài trong các loại dã nhân đã dài ra, bốn ngón tay trước nhô ra đằng trước trong khi ngón tay cái thụt về phía sau. Tại sao ? Không có ai có thể giải thích một cách rõ ràng. Rất có thể là, do điều kiện sinh sống, có những loài khỉ đã tìm được lá cây và trái cây ngay sát mặt đất và tiếp tục bò đi kiếm ăn, nhưng cũng có những loài khỉ đã phải đu cây thường xuyên, và kết quả của mười triệu năm đánh đu đó là hình dạng bàn tay thay đổi. Sự thay đổi tình cờ và nhỏ bé này đã có hậu quả vô cùng lớn là tạo ra giống người và thế giới con người.
Do sự sắp xếp bàn tay mới mà lần này khi bàn tay nắm lại, ngón tay cái trở thành đối diện với bốn ngón kia tạo ra một sức nắm chắc và mạnh hơn hẳn so với một bàn tay mà cả năm ngón đều ở gần cùng một mức. Sức nắm này tạo ra một khả năng mới : con người có thể dùng dụng cụ và dần dần biết dùng dụng cụ, rồi với thời gian biết tìm cách cải tiến dụng cụ. Sự suy nghĩ bắt đầu, từ đó khối óc mở mang ra. Hơn nữa, có lẽ cũng do mười triệu năm đánh đu mà con người thẳng ra, dần dần biết đứng, biết đi. Hai bàn tay được giải tỏa, không cần phải dùng cho việc di chuyển nữa, để dùng hoàn toàn vào việc sử dụng dụng cụ. Trí óc lại càng mở mang. Và sau đó, cách đây khoảng hai triệu rưỡi năm, giống người thực sự xuất hiện. Các nhà bác học về khảo cổ ước lượng con người xuất hiện cách đây khoảng ba triệu hay hai triệu rưỡi năm tại châu Phi, vào lúc đã biết chế tạo những dụng cụ đầu tiên bằng đá. Rồi từ châu Phi mà tỏa ra châu Âu và châu Á.
Giả thuyết về nguồn gốc con người này - dầu sao cũng chỉ là một giả thuyết dù nó được tất cả mọi nhà bác học chấp nhận - nhắn nhủ chúng ta, tất cả loài người, cần có một thái độ khiêm tốn. Chỉ nhờ một biến đổi rất chi tiết và rất vô tình của cấu trúc bàn tay mà có loài người văn minh. Nếu không, có lẽ chúng ta vẫn chỉ là loài khỉ lom khom hái lá mà ăn trong rừng núi. Nếu không, chúng ta cũng đã chẳng có các tín ngưỡng, thượng đế, máy điện tử, xe hơi, máy bay, những tư tưởng lớn và Internet.
Đồng thời nó cũng cho ta một nhận định : một biến cố rất nhỏ bé và tình cờ lúc ban đầu có thể có khả năng với thời gian dẫn tới những thay đổi thật vĩ đại.
Như chúng ta sẽ thấy trong những trang sau, lịch sử của sự phát triển của những nền văn minh rất huy hoàng cũng khởi đầu bằng những sự kiện rất tình cờ.
Đoạn này là một dẫn nhập có mục đích chuẩn bị tinh thần cho một cuộc thảo luận chi tiết về hiện tượng phát triển, đặc biệt là phát triển kinh tế, ở những trang sau. Nhưng ngay bây giờ ta có thể làm một con tính nhẩm. Loài người xuất hiện cách đây ba triệu năm, nền văn minh công nghiệp mới xuất hiện từ khoảng 300 năm nay tại một vài nước. Như vậy nếu đem so sánh cả quá trình tiến triển ba triệu năm của loài người với một năm thì hiện tượng phát triển chỉ mới bắt đầu vào hồi 23 giờ 59 phút ngày 31 tháng 12, phút cuối cùng của năm.
Phát triển như vậy là một hiện tượng rất mới và cũng chỉ giới hạn trong một số quốc gia nhỏ do một vài yếu tố mà dân tộc Việt Nam, cũng như mọi dân tộc còn lạc hậu và đang ao ước phát triển, cần nhìn rõ để chụp bắt.
***************
Từ bóng đêm dày dặc
Ngày nay khi nói loài người từ giống khỉ mà ra chúng ta không còn xúc phạm tới tín ngưỡng nào cả. Sự kiện này đã được chứng minh rõ ràng tới mức không ai có thể phủ nhận. Các tôn giáo tin ở một thượng đế tạo ra trời đất và con người, hay tin ở một vòng luân hồi huyền bí, không còn phản bác lập luận loài người từ giống khỉ mà ra nữa mà chỉ cố thuyết phục để các tín đồ hiểu kinh sách một cách tượng trưng thay vì một cách từ chương. Dầu sao đi nữa thì chính sự tiến hóa từ loài khỉ lên loài người cũng là một phép mầu mở cửa cho mọi suy luận.
Một cách thực tiễn chúng ta có thể coi thủy tổ của loài người là con khỉ đầu tiên (đúng hơn phải gọi là cụ khỉ đầu tiên) nghĩ ra việc đập hai hòn đá vào nhau để đẽo thành dụng cụ. Cử động này đã khai sinh ra loài người bởi vì chính vào giây phút đó con khỉ đó biến thành người và dần dần giúp những con khỉ chung quanh thành những con người đầu tiên.
Từ đó loài người đã bước nhiều bước tiến vĩ đại, đã biết dùng lửa, biết chăn nuôi, trồng trọt, đắp đê ngăn nước, chế tạo vật dụng bằng kim loại, khám phá ra bánh xe, thuyền bè, đặc biệt là biết phát minh và sử dụng ngôn ngữ để trao đổi. Những khám phá đó đã cải thiện một cách trọng đại đời sống con người và đã giúp cho tổ chức của xã hội con người dần dần hình thành. Nhưng đó không phải là những tiến bộ có chủ ý. Đó chỉ là một sự gặp gỡ tình cờ giữa một trí tuệ sơ sinh và cuộc sống hằng ngày. Một hiện tượng tự nhiên - lửa cháy do sấm sét, những trái cây tròn lăn trên mặt đất, những thân cây nổi trên sông, v.v... rồi một lúc nào đó một ánh sáng vụt lóe lên trong đầu óc đơn sơ, con người biết lặp lại điều mình đã thấy nhiều lần và đem ứng dụng cho cuộc sống.
Đó là giai đoạn mà trí tuệ mộc mạc chưa ý thức được sự hiện hữu của chính mình. Những tiến bộ, vì là sự gặp gỡ tình cờ và mầu nhiệm của rất nhiều yếu tố, đã chỉ đến một cách vô cùng chậm chạp. Thí dụ, từ "ngày" mà vị thủy tổ của loài người xuất hiện, loài người đã phải chờ đợi gần hai triệu năm mới tìm ra lửa. Nhờ biết dùng lửa để sưởi ấm loài người mới dám rời bỏ châu Phi nóng ấm để lan tràn qua châu Á và châu Âu. Con người đã săn thú và lượm trái cây ăn ngay từ khi chưa thành con người nhưng phải đợi mãi đến cách đây khoảng 20.000 năm mới bắt đầu biết chăn nuôi và trồng trọt.
Ta có thể coi giai đoạn đầu tiên của loài người như là một bóng đêm mênh mông và dày dặc, con người sờ soạng tiến tới có khi rơi vào vực thẳm, có khi đụng đầu vào đá, nhiều khi đi giật lùi. Phải sau ba triệu năm người bộ hành mỏng manh nhưng ngoan cố đó mới may mắn tìm được vùng có ánh sáng. Đó thực sự là một phép mầu không ai giải thích nổi. Nếu bảo đó là mầu nhiệm của tạo hóa thì cũng không phải là không có lý do. Giai đoạn "đầu tiên" này thực ra đã kéo dài quá 99% lịch sử loài người.
Chính nhờ chăn nuôi và trồng trọt mà xã hội loài người đã thay đổi lớn về mặt tổ chức và các tiến bộ đã đến với một nhịp độ hơn hẳn. Lần này trí tuệ ý thức được mình, con người suy nghĩ và biết mình suy nghĩ, con người động não tìm cách chinh phục thiên nhiên, cải thiện đời sống của mình và cải thiện liên hệ giữa các thành phần trong xã hội một cách có chủ ý.
Trong giai đoạn thứ hai này, loài người đã phát minh ra các mô hình tổ chức xã hội và cũng đã đặt những viên đá đầu tiên cho hầu hết các bộ môn của kiến thức : triết học, chính trị học, vật lý, toán, cơ khí, y khoa, kinh tế, luật pháp, v.v...
Những xã hội xuất hiện đầu tiên lẽ dĩ nhiên đều là những xã hội nông nghiệp với những đặc tính khác nhau theo môi trường thiên nhiên. Tuy nhiên với thời gian hai kiểu mẫu xã hội chính đã trở thành áp đảo.
Kiểu mẫu thứ nhất là một xã hội tản canh dành một trọng lượng đáng kể cho chăn nuôi và ngư nghiệp, và trong đó việc trồng trọt không tập trung vào một loại cây lương thực. Các xã hội này, hình thành tại châu Âu, đã rất chật vật lúc ban đầu, nghĩa là trong gần hết dòng lịch sử kể từ ngày thành hình. Dân số không tăng trưởng mạnh vì luôn luôn thiếu thực phẩm. (Châu Âu đã chỉ tạm giải quyết được nạn đói từ thế kỷ 17 nhờ cây ngô đem từ châu Mỹ về). Chính sự sống còn cũng là một công trình phấn đấu thường ngày để cải thiện kỹ thuật nuôi trồng và trao đổi các hàng hóa giữa các cụm sản xuất nhỏ và đa dạng. Các xã hội đa dạng này không khuyến khích sự ra đời của những cơ cấu quyền lực lớn, trái lại thuận lợi cho tự do cá nhân và sự tồn tại của những cộng đồng nhỏ trong đó bạo lực và sự khống chế không phải là nét đậm nhất, bởi vì bạo lực chủ yếu là sản phẩm của sự bất lực trong việc điều hành đúng đắn một tập thể lớn. Sau buổi đầu chật vật, chính mô hình này đã vươn lên chinh phục và chế ngự toàn thế giới và thúc đẩy thế giới đi những bước thực nhanh chóng.
Kiểu mẫu thứ hai là các xã hội phù sa tại châu Á và Trung Đông, thành lập trên lưu vực những con sông lớn, nặng về trồng ngũ cốc. Các xã hội này sống nhờ dòng sông và lệ thuộc dòng sông. Dòng sông trước hết đem lại hoa màu - lúa gạo và tôm cá - dồi dào. Chính nhờ thế mà các xã hội phù sa đã mau chóng đạt tới mức độ tạm đủ về thực phẩm và vượt hẳn các xã hội thuộc kiểu mẫu thứ nhất về mọi mặt. Ngày nay không thiếu những người Trung Đông nhắc lại rằng khi thành phố Babylone rực ánh sáng với những lâu đài nguy nga thì toàn châu Âu vẫn còn chìm đắm trong sự man mọi. Cũng không thiếu người châu Á nhắc lại rằng người Trung Hoa đã biết xem thiên văn và làm ra lịch từ rất lâu trước khi người châu Âu khám phá chữ viết.
Nhưng nếu dòng sông đem lại hoa màu và sự sống thì nó cũng thường xuyên đe dọa cuốn đi cả hoa màu lẫn cuộc sống. Con người phải thường xuyên đắp đê ngăn nước lũ ; công trình này đòi hỏi những cố gắng rất to lớn của toàn thể xã hội, nếu cần nó đòi hỏi hy sinh cả một phần của cộng đồng để cuộc sống có thể tiếp tục với phần còn lại. Các xã hội phù sa cần một bạo quyền để áp đặt những hy sinh rất phi thường. Dần dần nền tảng của các xã hội này chính là một "khế ước bạo quyền", trong đó một bạo chúa có "nhiệm vụ" áp đặt những hy sinh mà quần chúng phải phục tùng một cách không bàn cãi. Đó là cái giá phải trả để xã hội có thể tiếp tục. Bạo quyền được chính đáng hóa. Những người bị hy sinh có thể nguyền rủa bạo chúa nhưng con cháu họ sẽ cảm ơn bạo chúa. Dần dần chính những người bị hy sinh cũng không còn nguyền rủa bạo chúa nữa, họ chấp nhận cái chết như một định mệnh. Bạo quyền được bình thường hóa.
Cũng tương tự như dòng nước, các bạo quyền một mặt bảo đảm sự tồn tại của các xã hội phù sa, một mặt tiêu diệt tự do và sáng kiến và trói buộc chúng tại chỗ. Các xã hội phù sa tiến rất mau chóng đến một mức độ văn minh khá cao, rồi đứng lại ở đó. Chúng gần như trưởng thành ngay sau khi thành hình rồi không tiến hóa nữa.
Trước khi thảo luận thêm về hai kiểu mẫu xã hội chính này, xin mở một dấu ngoặc để nói về một vài kiểu mẫu xã hội khác.
Trên bờ Địa Trung Hải, tại thành phố Tyr và vùng phụ cận thuộc nước Lebanon hiện nay, một sắc dân đã tìm ra một nếp sống độc đáo ngay từ hơn sáu ngàn năm về trước : đó là nền văn minh hàng hải và thương mại. Trái với cuộc sống trên đất liền, nếp sống này đòi hỏi một sự can đảm rất lớn, có thể là quá lớn đối với những con người còn chưa nắm được hết những bí mật của thiên nhiên. Giữa trời nước và sóng gió, con người chỉ còn trông cậy vào sự khôn ngoan và liều lĩnh của chính mình. Sắc dân Phénicien này đã là những con người đầu tiên dám chinh phục biển cả. Để hình dung sự dũng cảm của họ nên nhận định cách ứng xử của người Á Đông, nhất là Việt Nam, trong nhiều ngàn năm đã đứng bên bờ biển nhìn Thái Bình Dương với con mắt kính sợ. Nhưng người Phénicien không phải chỉ phát minh ra ngành hàng hải, họ còn phát minh ra cả sự buôn bán, yếu tố cốt lõi của giàu mạnh. Chính nhờ sự khôn ngoan và liều lĩnh của kẻ đi biển và buôn bán mà sắc dân Phénicien ít ỏi đã mau chóng chế ngự được cả vùng Địa Trung Hải. Nhưng có lẽ vì những cố gắng đã quá lớn đối với họ mà người Phénicien đã gục ngã. Họ đã dám chinh phục biển cả nhưng sự liều lĩnh trong bất trắc và bao la đã khiến họ thờ nhiều thần linh, trong đó có thần Baal-Hammon, vị thần độc hại nhất đã đưa họ tới tiêu diệt. Mỗi gia đình phải đem chặt đầu để cúng cho Hammon đứa con trai đầu tiên vừa đủ 12 tuổi để đền đáp lại những chiến thắng và ân huệ của Hammon. Những hy sinh gớm ghiếc cho thần Hammon dần dần khiến họ thiếu chiến sĩ trong khi niềm tin ở thần Hammon lại thường thôi thúc họ gây chiến. Cuối cùng họ bị người La Mã tiêu diệt sau khi đã hấp thụ được những kiến thức hàng hải của họ.
Trên các cao nguyên hoang vu tại miền Bắc châu Á, Mông Cổ và Tân Cương, đã hình thành những xã hội du mục dựa trên bộ tộc, bạo lực và đẳng cấp. Các xã hội này đã phát triển khá mạnh dưới thời Trung Cổ nhưng ngày nay kiểu mẫu xã hội này kể như đã bị tiêu diệt. Có thể nói khẩu súng mà người phương Tây chế tạo ra đã bắn chết nền văn minh cao nguyên này. Khẩu súng của người phương Tây và nhất là những con vi trùng mà họ đem tới cũng đã tiêu diệt những nền văn minh gần giống như nền văn minh này tại châu Mỹ, từ thế kỷ 16.
Ngoại trừ năm nước da trắng ở phía Bắc, lục địa châu Phi, cái nôi của nhân loại, đã lạc vào một lối đi hoàn toàn khác, đó là phủ nhận mọi tình cảm có thể có giữa người với người. Các bộ lạc hoàn toàn được xây dựng trên huyết thống. Chế độ nô lệ ra đời cùng với trí thông minh và khiến trí thông minh không phát triển được. Ngoài quan hệ huyết thống, liên hệ giữa các cá nhân và các bộ lạc hoàn toàn dựa trên sức mạnh. Những nô lệ bị đánh đập, giết bỏ, mua bán, và sau này xuất nhập cảng như thú vật và đồ vật. Lục địa châu Phi hoặc không có khái niệm về giống người hoặc không cho khái niệm này một tầm quan trọng nào. Chính vì thế mà châu Phi đã dừng lại ở sự dã man. Nếu có dịp tôi sẽ còn trở lại vấn đề châu Phi trong phần sau của cuốn sách này. Nhưng ở đây ta có thể tạm rút ra một quan sát : các xã hội dành cho cá nhân sự kính trọng lớn nhất cũng là những xã hội dễ tiến lên nhất. Châu Phi đã khinh miệt con người một cách tuyệt đối nên châu Phi cũng lạc hậu một cách tuyệt đối. Trước khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài, khó có thể nói lục địa châu Phi Da Đen có một nền văn minh.
Trở lại với hai kiểu mẫu xã hội chính, ta có thể nói trong gần như cùng một thời điểm, hai nền văn minh Đông và Tây đã đạt tới cao điểm tương đương, châu Âu với Hy Lạp, châu Á với Trung Quốc của thời Xuân Thu. Cùng một trình độ nhưng hai hướng đi khác nhau. Phương Tây đã mò mẫm theo hướng tự do, mạo hiểm và sáng kiến trong khi phương Đông lạc vào ngõ cụt của tự mãn và thủ cựu. Nền văn minh Hy Lạp là một điểm khởi hành trong khi nền văn minh Thương Chu là một điểm tận cùng. Sau gần hai ngàn năm, từ thế kỷ 15 trở đi, tuy tương quan lực lượng không thay đổi nhưng phương Tây đã tìm thấy hướng đi đến nền văn minh hiện đại trong khi phương Đông vẫn chỉ nhìn thấy chỗ ngồi cũ. Phương Tây bắt đầu chuyển động và bỏ xa phương Đông.
Tôi xin lỗi đã làm mất thì giờ của độc giả qua một tóm lược thô vụng về lịch sử loài người, một điều mà một lần nữa tôi xin nhắc lại là tôi không có kiến thức nào đáng nói. Mục đích của phần trên chỉ là để độc giả ghi nhận hai điều.
Một là, cho đến một ngày rất gần đây, nghĩa là trong hầu như tất cả lịch sử của thế giới, tất cả mọi tiến bộ đều đã đến một cách rất tình cờ. Do một sự tình cờ mà bàn tay một vài giống khỉ đầu tiên đã biến đổi, do một sự tình cờ mà một con khỉ đầu tiên đã đẽo đá thành dụng cụ ; do tình cờ mà có lửa, có các nghề chăn nuôi, trồng trọt, có thuyền bè. Cũng do sự tình cờ của điều kiện thiên nhiên mà các xã hội phù sa đã chọn sự bất động trong khi các xã hội châu Âu đã được xô đẩy tới hướng đi của tự do và tiến bộ. Chúng ta có thể lấy làm tiếc cho nguồn gốc của chúng ta nhưng không có lý do gì để phải hổ thẹn. Mặt khác cũng không có lý do gì để cảm thấy có bổn phận phải gắn bó với truyền thống. Truyền thống chỉ là kết quả tình cờ của những sờ soạng trong bóng đêm dày dặc. Người phương Tây cũng sờ soạng trong bóng đêm như chúng ta ; họ chỉ đã may mắn mà tìm được lối thoát ra ánh sáng. Chính từ lúc này, khi mọi dân tộc đã có thể nhìn ra con đường phải đi, sự vinh nhục mới đặt ra. Cái vinh là ở chỗ nhìn thấy, cái nhục là ở chỗ không nhìn thấy hay nhìn thấy mà không dám đi vào. Các dân tộc thông minh là các dân tộc biết mau chóng nhìn ra và bước lên lối đi của tiến bộ. Các dân tộc đần độn là các dân tộc tự bịt mắt để ngoan cố trong bế tắc.
Hai là, những hơn kém giữa phương Tây và phần còn lại của thế giới chỉ là một hiện tượng rất gần đây thôi, khoảng ba, bốn trăm năm vừa qua. Ba trăm năm trong ba triệu năm chỉ là một vài giây trong một ngày. Nếu có đôi khi chúng ta cảm thấy tủi nhục thì chúng ta cũng nên tự an ủi rằng đó chỉ là một hiện tượng nhất thời và có thể chấm dứt rất mau chóng. Nhật Bản đã cho chúng ta một bằng cớ.
Tôi xin phép được nhấn mạnh : kinh nghiệm sống, học hỏi và làm việc với người phương Tây đã cho tôi niềm tin chắc chắn là con người phương Tây không hơn con người phương Đông. Sở dĩ các nước phương Tây phát triển và giàu mạnh hơn các nước khác là vì xã hội của họ được xây dựng trên những giá trị đúng mà họ tình cờ được đẩy tới gần và sau đó nhờ cố gắng mà đạt tới. Họ đã tìm ra lối đi ra khỏi sự nghèo khó và dẫn tới sự phồn vinh, tại sao chúng ta không nhanh chóng chọn lựa lối đi đó ?
Cần chấm dứt một kịch bản đã lặp lại quá nhiều lần và trở thành nhàm chán : phương Tây đi trước, phương Đông chạy theo sau và làm những cố gắng phi thường để bắt kịp. Đến khi phương Đông tưởng sắp qua mặt được phương Tây thì phương Tây lại tìm ra một khám phá mới, lao vút về phía trước và bỏ phương Đông lại đàng sau. Cứ như thế mà tiếp diễn. Lần duy nhất mà phương Đông tưởng rằng mình đã đi trước phương Tây là khi một số nước phương Đông đi theo chủ nghĩa cộng sản, tưởng rằng mình đã tìm ra cách tổ chức xã hội tương lai của nhân loại để rồi vỡ mộng nhận ra rằng đó chỉ là một ảo tưởng đẫm máu. Lý do của sự thua kém dai dẳng này là một khác biệt về văn hóa. Văn hóa phương Tây tôn trọng cá nhân và do đó phát triển được tối đa ý kiến và sáng kiến, trong khi các văn hóa phương Đông đều coi thường con người và làm thui chột trí tuệ. Điều mà phương Đông phải học hỏi trước hết của phương Tây lại là điều họ cố phủ nhận : chủ nghĩa cá nhân tự do.
Vả lại, mọi thái độ thủ cựu xét cho cùng đều ngây ngô. Tiến bộ là gì nếu không phải là sự từ bỏ không ngừng nếp sống cũ và khám phá không ngừng những nẻo đường mới ? Nếu những người tiền sử cũng khư khư giữ nguyên "văn hóa" của họ chắc chắn ngày nay loài người vẫn chỉ là những bộ lạc ăn thịt lẫn nhau.
Nhân nói chuyện ăn thịt người, cách đây không lâu lắm, vào cuối tháng 11/1998, tôi được xem một phim tài liệu về một hòn đảo trong quần đảo Nam Dương (Indonesia). Trên đảo có một số bộ lạc làm nhà trên cây và ăn thịt người. Ngày nay họ đã khá tiến bộ, đã biết mặc quần áo của các tổ chức từ thiện cấp cho nhưng vẫn còn giao chiến giữa các bộ lạc và ăn thịt tù binh. Viên lãnh chúa bộ lạc giải thích việc ăn thịt tù binh là chính đáng, bởi vì nó thể hiện ý chí tiêu diệt tội ác và các tù binh là biểu tượng của tội ác. Viên lãnh chúa này chắc chắn coi việc ăn thịt người là một văn hóa cần phải gìn giữ. Cũng như các dân tộc thuộc văn minh Trung Hoa coi cái ách tam tòng quàng lên đầu phụ nữ là một truyền thống tốt đẹp.
***********************
Cái tuổi dại khờ
Tuổi hai mươi tuổi của không ngờ
Tuổi hai mươi tuổi của dại khờ
Nguyễn Chí Thiện
Trong thập niên 1960, tại châu Âu, và nhất là tại Pháp, nở rộ lên một phong trào nghiên cứu phát triển kinh tế. Có cả một trường đại học chỉ chuyên giảng dạy về phát triển kinh tế, như thể êphát triển kinh tếê phải được coi là một khoa học riêng. Trường này tên là Institut d'Etudes de Développement Economique et Social [IEDES hay Viện Nghiên Cứu Phát Triển Kinh Tế và Xã Hội]. Nhiều bạn tôi đã tốt nghiệp tại trường này. Nhưng dù học trường này hay không thì mọi người đều bị lôi cuốn vào các cuộc tranh luận về phát triển kinh tế. Thời trang lúc đó là cố gắng động não để tìm ra những kế hoạch và mô thức kinh tế có khả năng phát triển một nước lạc hậu. Các mô thức được đặc biệt quí trọng, nhất là nếu chúng lại được trình bày bằng những phương trình toán học phức tạp với những dấu hiệu dẫy số, vi phân, tích phân, lũy thừa, v.v... Vô số các mô thức đã được "phát minh" ra trong các quán cà phê Paris bởi những ứng cử viên giải Nobel kinh tế không qua bất cứ một kinh nghiệm thực tiễn nào. Kinh nghiệm lúc đó gần như bị phủ nhận, vì một lý do rất hùng hồn là người ta coi những gì học hỏi được trong các nước tư bản là không thể áp dụng cho các nước chưa mở mang. Hầu hết các nước châu Phi và châu Mỹ La Tinh đã là những nạn nhân đau đớn của những lý thuyết thành hình trong giai đoạn này. Đặc biệt nước Algeria đã tiêu hao hết cả tài nguyên về dầu khí cho hai lý thuyết thời thượng của giai đoạn đó : thuyết lệ thuộc và thuyết các kỹ nghệ kỹ nghệ hóa.
Như mọi thanh niên có chút tâm huyết, tôi cũng đã tốn nhiều thì giờ và công sức cho những lý thuyết đó, để rồi nhận ra sự trống rỗng của chúng và sự khờ khạo của chính mình. Than ôi, cái tuổi dại khờ ! Những mô thức phát triển kinh tế có thể rất khác nhau về góc nhìn, về lý luận, về các thông số và phương trình, nhưng chúng đều có một đặc điểm chung : chúng đều sai.
Lý do đầu tiên là không thể có công thức giải quyết được sự nghèo khổ. Vấn đề chỉ giản dị như vậy thôi sao ? Làm sao có thể coi những sự kiện thực tế như là những thông số của toán học ? Mô thức toán học nào hội nhập được những đức tính như chuyên cần hay lười biếng, thực thà hay gian dối, trách nhiệm hay phá hoại ? Và còn vấn đề tham nhũng ? Dĩ nhiên các lý thuyết gia về phát triển không giải đáp được những câu hỏi đó và tác phẩm của họ nói chung, thay vì là những lý thuyết về phát triển phần lớn chỉ là những phân tích hiện tượng không phát triển, kèm theo những cáo trạng gay gắt đối với các nước tư bản phát triển và các công ty đa quốc gia bị coi như là nguyên nhân của sự nghèo khổ tại các nước chưa phát triển. Lý thuyết "thực dân mới" rất thời thượng trong giai đoạn này. Nó có thể tóm tắt như sau : các nước tư bản sau khi đã thấy chính sách chiếm đóng và thống trị không áp dụng được nữa bèn chuyển qua ý đồ thống trị kinh tế, dùng viện trợ và các công ty đa quốc gia làm vũ khí. Tinh thần chủ đạo của nùó là các nước tư bản và phát triển có dụng ý ác độc muốn giữ các nước chưa mở mang trong tình trạng lạc hậu để có thể tiếp tục thống trị. Các lý thuyết gia cố quên đi là sự nghèo khó đã có từ muôn kiếp trước và chính nhờ tiếp xúc với các nước phát triển mà các nước lạc hậu đã bớt lạc hậu.
Lý do thứ hai, trầm trọng hơn nhiều, là họ đã nhầm đối tượng nghiên cứu. Điều cần phân tích và nhận định là hiện tượng phát triển chứ không phải là hiện tượng không phát triển, bởi vì không phát triển là tình trạng chung của cả thế giới từ hồi khai thiên lập địa đến giờ, có gì là lạ đâu. Phát triển trên qui mô quốc gia là một hiện tượng rất mới và cũng chỉ giới hạn ở một số rất ít quốc gia mà thôi. Nó xuất hiện tại nước Hòa Lan nhỏ xíu khoảng hơn 400 năm về trước, rồi non một thế kỷ sau đó tại Anh và Hoa Kỳ, các nước Tây Âu khác đã chỉ biết đến hiện tượng phát triển sau đó. Nhiều cụ già người Pháp vẫn còn nhớ rất rõ những ngày đói lạnh. Các thống kê cho thấy cho đến cuối thế kỷ 19, quá phân nửa trẻ em các nước Tây Âu chết trước tuổi dậy thì. Các nước tiến bộ nhất cũng chỉ mới thực sự khắc phục được sự đói khổ khoảng chừng một thế kỷ nay thôi, trong khi đối với ba phần tư của nhân loại đói khổ vẫn còn là người đồng hành cố hữu. Điều lạ chính là hiện tượng phát triển. Tại sao một số quốc gia bỗng dưng trở thành giàu có và phồn vinh, vượt hẳn phần còn lại của thế giới ? Đó mới là câu hỏi đáng đặt ra và cần phải trả lời. Các lý thuyết gia về phát triển khi tập trung phân tích hiện tượng không phát triển không những chỉ lầm đối tượng mà còn sai về phương pháp : có rất nhiều lý do để không phát triển, nhưng chỉ có rất ít lý do để có phát triển, cũng như có muôn vàn cách để giải sai một bài toán nhưng thường thì chỉ có một cách để giải đúng, và chính cách đó mới cần khám phá. Điều rất đáng ngạc nhiên, và phải được coi là một may mắn lớn, là ở tất cả mọi nơi hiện tượng phát triển luôn luôn có cùng một giải thích.
Cuộc phiêu du trí tuệ của thập niên 1960 đã sản xuất ra vô số lý thuyết về phát triển mà tôi xin tóm lược sau đây một vài "mẫu hàng" chính và đã có hậu quả đáng kể còn sót lại trong trí nhớ để độc giả tiêu khiển.
Lý thuyết lệ thuộc [théorie de la dépendance], theo đó các nước tư bản tiên tiến chỉ chuyển giao cho các nước chưa mở mang những kỹ thuật sơ đẳng, thuộc "khâu dưới". Các trung tâm nghiên cứu vẫn nằm tại "mẫu quốc", các kỹ thuật hiện đại nhất cũng chỉ được áp dụng tại mẫu quốc, các chi nhánh tại các nước lạc hậu chỉ làm công việc ít giá trị thặng dư như chùi bóng, lắp rắp, đóng thùng, v.v... Hậu quả là họ bị kềm giữ trong thế lệ thuộc thường trực. Đây là cả một phương thức phân công lao động quốc tế trong đó các quốc gia chưa mở mang hy sinh thị trường tiêu thụ của chính mình để chỉ được trao những công tác thấp kém. Lý thuyết này quên hẳn rằng các công ty đa quốc gia không có tổ quốc mà chỉ có lợi nhuận. Một công ty Mỹ sẽ quyết định đầu tư tại Bombay thay vì Detroit nếu đầu tư tại Bombay đem lại một lợi nhuận 1% cao hơn mà cũng không rủi ro hơn. Họ thiết lập những nhà máy tân tiến ở một nước không phải vì đó là nước họ hay nước có cùng chủng tộc và văn hóa với họ mà chỉ vì ở đó có nhân công giỏi và giá rẻ, thuế nhẹ và xã hội ổn vững, nói chung là có lợi nhuận cao và rủi ro thấp. Các lý thuyết gia cũng quên rằng điều mà các nước thiếu mở mang cần học nhất không phải là kỹ thuật mà là tâm lý, tổ chức và phương pháp làm việc, những điều mà chính sự tiếp xúc với các công ty lớn có thể đem lại. Lý thuyết ngây ngô này sở dĩ rất thời thượng trong thập niên 1960 vì nó chống tư bản, đặc biệt là chống Mỹ, và do đó phù hợp với tâm lý khuynh tả của đa số trí thức lúc đó.
Lý thuyết các kỹ nghệ kỹ nghệ hóa [théorie des industries industrialisantes], theo đó các đầu tư không có tác dụng kích thích phát triển như nhau. Cùng một khoản tiền đầu tư vào hai ngành khác nhau sẽ có hậu quả khác nhau trên sinh hoạt kinh tế. Có những ngành trong khi phát triển cũng kích thích sự phát triển của nhiều ngành khác, nói khác đi chúng có tác dụng "kỹ nghệ hóa". Ngược lại, cũng có những đầu tư không có, hoặc chỉ có rất ít, tác dụng thúc đẩy đối với các hoạt động kinh tế khác. Do đó, theo lý thuyết này, các nước thiếu mở mang nên tập trung cố gắng vào những kỹ nghệ có tác dụng kỹ nghệ hóa mạnh. Đây là một thí dụ điển hình của một quan sát đúng dẫn tới một kết luận sai, tương tự như thấy người đeo kính đọc sách rồi kết luận đeo kính có lợi cho sự đọc sách. Lý thuyết này cùó ít nhất hai sai lầm. Sai lầm thứ nhất là nó quên rằng người đầu tư, dù là người bản xứ hay người ngoại quốc, phải đầu tư để có lợi nhuận chứ không đầu tư vì nhà máy lập ra có tác dụng kỹ nghệ hóa. Đó là công việc của nhà nước. Nhưng nhà nước cũng phải đầu tư làm sao cho có lợi nhuận, nếu không sẽ phải tài trợ bằng ngân sách và như thế vừa phải đánh thuế nặng hơn đối với các hoạt động khác vừa phải giảm bớt những chi tiêu tối cần thiết như giáo dục và sức khỏe. Sai lầm thứ hai, ngớ ngẩn hơn nhiều và rất tai hại, là cho rằng kỹ nghệ nặng mới là kỹ nghệ kỹ nghệ hóa, trong khi thực tế trái ngược hẳn, kỹ nghệ tiêu dùng thúc đẩy kỹ nghệ nặng chứ không phải kỹ nghệ nặng thúc đẩy kỹ nghệ nhẹ. Nhu cầu sản xuất vật dụng bằng sắt thép đẻ ra nhu cầu có nhà máy luyện kim, chứ không phải kỹ nghệ luyện kim đẻ ra nhu cầu sản xuất vật dụng bằng sắt thép. Lý thuyết này là một phó sản của lý thuyết lệ thuộc.
Lý thuyết về sự trật khớp [théorie de la désarticulation], theo đó các công ty nước ngoài gây xáo trộn trong các xã hội truyền thống vì nó tạo ra một lớp người mới, làm việc cho các công ty nước ngoài, hưởng mức lương cao hơn, có nếp sống khác, văn hóa cao và cách suy nghĩ khác, hậu quả là làm mất đi sự đồng bộ trong xã hội, mặt khác chúng cũng làm gia tăng hố phân cách giàu nghèo và gây căng thẳng trong xã hội. Đây cũng là một lý thuyết cực kỳ ngớ ngẩn bởi vì phúc lợi lớn nhất của sự tiếp xúc với các nước tân tiến chính là bẻ gãy cái sự "đồng bộ" đã là nguyên nhân của sự lạc hậu và đem lại một văn hóa mới, một cách suy nghĩ mới, một cách làm việc mới. Chắc chắn là có sự xáo trộn, nhưng đây là một xáo trộn phải có và có ích. Vấn đề là phải quản lý sự xáo trộn đó, làm sao cho cách suy nghĩ và làm việc mới được phổ biến nhanh chóng để xã hội thay da đổi thịt, chứ không phải là để ngăn chặn.
Lý thuyết về các mô hình hướng nội và hướng ngoại [modèles endogènes et modèles exogènes], theo đó có hai công thức chính để phát triển, một là cố gắng sản xuất ra những hàng hóa để thay thế hàng nhập cảng [substitutions des importations] theo mô hình hướng nội, hai là dồn hết sức để xuất cảng thật nhiều theo mô hình hướng ngoại. Rất ít nhà lý thuyết nào đặt vấn đề lợi nhuận (sản xuất hàng thay thế hàng nhập cảng có tốn kém hơn nhập cảng hay không ? xuất cảng lời hay lỗ ? v.v...). Khi có đặt ra vấn đề lợi nhuận thì các lý thuyết gia lại hoàn toàn đồng ý là phải chịu lỗ trong giai đoạn đầu, nhưng không nói giai đoạn đầu có thể kéo dài bao lâu và một nước nghèo khổ có thể tiếp tục chịu đựng mãi sự thua lỗ này mà không sụp đổ hay không. Lý thuyết này quả là sản phẩm của các lý thuyết gia cố tìm khoái lạc trong việc xây dựng ra những lý thuyết phù phiếm rồi cố gượng ép chúng vào thực tại. Cứ như là một nhà nước không mất trí có thể nhân danh chủ trương hướng nội để cấm cản một hoạt động xuất nhập cảng đang phồn thịnh, hay ngược lại nhân danh mô hình hướng ngoại để trù dập một sinh hoạt nội địa cần thiết.
Điều lạ lùng nhưng có thật là lý thuyết này đã được đem thử nghiệm. Lý do là chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản đã đưa rất nhiều phần tử vô học lên cầm quyền.
Nói chung tất cả những lý thuyết này đều có cùng ba đặc tính : hoàn toàn không kể đến vai trò của thị trường, coi phát triển kinh tế chủ yếu là một vấn đề kỹ thuật có thể giải quyết được bằng một kế hoạch, và đề cao vai trò quyết định gần như duy nhất của chính quyền. Các trở ngại về tâm lý và văn hóa chỉ được đề cập đến một cách qua loa, có lệ. Những lý thuyết này đã cổ võ cho các chế độ độc tài duy ý chí và đưa tới sự phá sản của đại đa số các nước cộng sản, châu Phi và châu Mỹ La Tinh.
Điều đáng ngạc nhiên của giai đoạn này là các nước châu Á không cộng sản đã không bị ảnh hưởng của những lý luận này, nhất là đã không bị ảnh hưởng tai hại của lý thuyết lệ thuộc. Họ đã nồng nhiệt tranh thủ đầu tư quốc tế và đã bắt chước một cách giản dị cách làm việc của các nước đã phát triển. Họ cũng cố gắng xuất cảng thật nhiều nhưng không phải là vì họ chọn mô hình phát triển hướng ngoại mà chỉ vì xuất cảng có lời và họ cũng cần ngoại tệ để nhập cảng nguyên liệu và trang thiết bị. Họ sản xuất tất cả những gì có lợi dù là để xuất cảng hay để tiêu thụ trong thị trường nội địa. Nhờ thế họ đã không bị phá sản trong thập niên 1970 như các nước chậm tiến khác, không những thế họ còn tiến lên cho đến mùa hè 1997, khi lâm vào khủng hoảng vì tham nhũng chồng chất, vay nợ bừa bãi và đầu cơ điên dại vào nhà đất.
Ngày nay trường IEDES không còn nữa, môn phát triển kinh tế cũng không còn được giảng dạy như một bộ môn riêng nữa. Người ta trở lại với những nhận định mà các nhà nghiên cứu đứng đắn đã nói từ rất lâu : phát triển không phải là một vấn đề kinh tế mà là một vấn đề văn hóa xã hội.
Vì đâu đã có phát triển ?
Rất may là sự quan sát các nước đã cất cánh bay bổng từ lạc hậu tới phồn vinh cho phép chúng ta rút ra những kết luận rất rõ rệt, rõ rệt đến nỗi phải ngạc nhiên là tại sao người ta đã không nhận ra ngay lập tức. Tôi sẽ mời độc giả cùng quan sát những kinh nghiệm phát triển đầu tiên và những nước mới phát triển gần đây. Ở đây xin hãy tạm nói một cách cô đọng, các độc giả còn phân vân sẽ nhìn rõ hơn khi đọc tiếp những trang sau.
Phát triển đã nảy sinh tại một số quốc gia khi, do một sự tình cờ của hoàn cảnh lịch sử, bộ máy chính quyền trở thành vắng mặt hay gần như vắng mặt, quần chúng được một không gian tự do hơn hẳn và vì thế đã tổ chức cuộc sống cộng đồng trên căn bản đồng thuận và tương kính. Hoặc vì không muốn hoặc vì không được phép, họ đã không tìm kiếm uy quyền để khống chế lẫn nhau mà chỉ thi đua nhau làm giàu trong một luật chơi công bình.
Nhận xét này đúng với Hòa Lan, cái nôi phát triển của nhân loại, đúng với nước Anh, càng đúng với nước Mỹ và cũng đúng cả với nước Nhật, nếu ta nhìn lịch sử nước Nhật một cách đúng đắn. Phát triển đã đến sau khi xã hội trở thành tự do và dân chủ. Ngày nay chúng ta có thể liệt kê những yếu tố cần thiết cho phát triển :
- một chế độ tự do, dân chủ và đa nguyên ;
- một nhà nước nhẹ nhường không gian tối đa cho xã hội dân sự, cho ý kiến và sáng kiến cá nhân ;
- một sinh hoạt kinh tế thị trường bảo đảm cạnh tranh công bằng ;
- một xã hội linh động và bình đẳng, không bị trói buộc bởi những thành kiến, không bị ngăn cách bởi những giai cấp hay những đại gia đình ;
- một tâm lý tôn vinh kinh doanh và buôn bán ;
- một tinh thần quốc gia (hay cộng đồng) mạnh ;
- một xã hội trong đó thông tin được tự do, các kinh nghiệm và kiến thức được truyền bá nhanh chóng và dễ dàng.
Tất cả đều là những yếu tố vô hình. Tư bản và nguyên liệu chỉ là những yếu tố phụ.
Nói chung, phát triển là một vấn đề tâm lý và văn hóa. Có những tâm lý kích thích phát triển và cũng có những tâm lý ngăn cản phát triển. Có những nền văn hóa có lợi cho phát triển và cũng có những nền văn hóa cấm cản sự phát triển. Chính vì thế mà một nước không phát triển không giống như một nước giàu mạnh trước khi phát triển. Có những quốc gia phát triển nhanh, có những quốc gia phát triển chậm và cũng có những quốc gia không thể phát triển nếu không tháo gỡ được một số tắc nghẽn tâm lý. Chính vì thế mà phát triển đã chỉ xuất hiện tại một số ít quốc gia mà thôi. Phát triển rất dễ mà lại rất khó. Rất dễ vì không đòi hỏi một lý thuyết phức tạp hay một kế hoạch cao siêu nào cả. Rất khó vì đòi hỏi một tâm lý và một văn hóa mới. Mà thay đổi tâm lý và văn hóa là điều khó nhất. Có ai nhận là tâm lý của mình tồi đâu ? Và có dân tộc nào nhận văn hóa của mình là kém đâu, trừ ra là một dân tộc đã rất tiến hóa ?
Chính vì khó thay đổi tâm lý và văn hóa mà có những dân tộc rất phồn vinh và những dân tộc vô cùng cơ cực, mặc dù mọi nhà bác học đều đồng ý rằng mọi con người thuộc mọi chủng tộc đều có những khả năng ngang nhau vì đều có một khối óc nặng trung bình 1.600 gam.
Chúng ta khó có thể từ bỏ một văn hóa bởi vì nó là một phần của chính chúng ta. Vậy thì cái gì có thể giúp chúng ta thay đổi văn hóa ? Chúng ta cần một hiến pháp qui định rõ là trên đất nước Việt Nam không có ý kiến nào cấm nêu ra và cũng không có đề tài nào cấm bàn đến, nhờ thế chúng ta mở tung cửa cho những phê phán các giá trị truyền thống và làm cho chúng mất đi tính thiêng liêng không thể bàn cãi. Chúng ta cũng cần một chính sách cổ võ cho tự do dưới mọi hình thức : tự do suy nghĩ và phát biểu, tự do chọn lựa lối sống, kể cả tự do cơ thể, bởi vì chính nhờ thay đổi cách sống mà ta có thể thay đổi cách cách suy nghĩ.
Nhờ thay đổi cách sống và cách suy nghĩ mà ta có thể làm quen với những giá trị mới và dần dần thấy chúng chấp nhận được.
Tôi thường được nghe hai quan điểm, mỗi lần nghe là mỗi lần đau nhói.
Một lập luận cho rằng văn hóa của chúng ta rất cao siêu. Nếu quả thật văn hóa của ta cao siêu như thế thì tại sao chúng ta lại thua kém thê thảm như ngày nay và tại sao ngay cả những công trình nghiên cứu văn hóa phương Đông có giá trị nhất cũng là do người phương Tây ? Và nếu quả thật văn hóa của chúng ta cao siêu như thế thì tại sao nó lại không có một sức thu hút nào đối với tuổi trẻ, tại sao thanh thiếu niên Việt Nam hải ngoại lớn lên lại thành Mỹ con, Pháp con, Đức con trong một thời gian kỷ lục ? Càng khư khư ôm lấy một văn hóa độc hại, chúng ta càng ngụp lặn trong sự thấp kém.
Lập luận thứ hai, mà tôi thường được nghe từ miệng những người có học vị cao về kinh tế (và vì thế khiến tôi vững tin rằng phát triển kinh tế không thể phó thác cho các kinh tế gia, cũng như chiến tranh không thể phó thác cho các tướng lãnh), là chúng ta cần phát triển trước đã rồi hãy nói đến dân chủ và tự do. Vấn đề là chúng ta không thể có phát triển nếu không có dân chủ và tự do. Nhưng đây lại là một điều không nằm trong chương trình huấn luyện của các nhà kinh tế thuần túy. Nếu trong cuộc thảo luận về phát triển các nhà kinh tế khiêm tốn hơn một chút và các nhà tư tưởng tích cực hơn một chút nữa thì may mắn biết bao !
***********************
Và ánh sáng bừng lên
(Hành hương về cội nguồn của phát triển và phồn vinh)
Vượt lên trên mọi đam mê chính trị, thảm kịch của chúng ta ngày nay là một sự tụt hậu đầy hổ nhục cho mọi người Việt Nam dù thuộc quá khứ nào hay theo khuynh hướng nào. Mọi cuộc đấu tranh chính trị đều là vô nghĩa nếu không nhắm mục đích sau cùng là đưa đất nước tiến lên và cũng vô nghĩa nếu không biết con đường nào sẽ đưa đất nước đi lên.
Điều chúng ta cần nhắc lại một lần nữa là hiện nay, trên thềm thế kỷ 21 và thiên niên kỷ thứ ba, phát triển là một hiện tượng rất mới và chỉ giới hạn trong một số rất ít quốc gia, nhờ một số điều kiện rất đặc biệt mà ta cần quan sát.
Tôi xin mời độc giả làm một cuộc du lịch thăm viếng một số nước, nơi hiện tượng phát triển đã xuất hiện trước tiên và một cách ngoạn mục. Đây là một cuộc thăm viếng có hướng dẫn, rất nhanh chóng và có chủ đích. Chúng ra sẽ chỉ quan sát những gì giúp chúng ta trả lời câu hỏi "tại sao họ đã phát triển ?". Cuộc tham quan này tuy vội vã nhưng vẫn thật thà, không giấu giếm. Những gì không được quan sát sẽ không phản bác kết luận mà chúng ta sẽ rút ra. Đây là một cuộc hành hương về cội nguồn của hiện tượng phát triển để tìm hiểu. Chúng ta sẽ thành công nếu vào một lúc nào đó ánh sáng bỗng dưng bừng lên và chúng ta vui mừng thốt lên : "Hiểu rồi, thì ra thế !".
Hiện tượng phát triển trên qui mô quốc gia đã xuất hiện hầu như cùng một lúc tại châu Âu và Hoa Kỳ. Châu Âu đi trước một chút và phát triển nhanh chóng hơn trong giai đoạn đầu. Nói là châu Âu nhưng thực ra, nếu muốn chính xác hơn, phải nói là Hòa Lan và Anh, các nước khác đã chỉ bị, hay được, lôi kéo theo. Một cách vắn tắt, có thể nói thế kỷ 17 đã là thế kỷ Hòa Lan, thế kỷ 18 là thế kỷ Anh, từ cuối thế kỷ 19 Hoa Kỳ lên ngôi bá chủ hoàn cầu. Cũng từ nửa sau thế kỷ 19, Nhật Bản vươn lên mạnh mẽ dù chưa bao giờ đạt tới sức mạnh của Hoa Kỳ.
Viết tới đây tôi sợ bị một số học giả chê là quá sơ sài, vì thực ra hiện tượng phát triển vốn đã có từ trước với các thành phố buôn bán. Venice (tại Ý) ngay từ thế kỷ 12 đã đạt tới một sức mạnh kinh tế, chính trị và cả về quân sự rất huy hoàng. Antwerpen (tại Bỉ) từ thế kỷ 15 đã trở thành trung tâm thương mại số một của thế giới. Nhiều thị trấn khác trong vùng biển Baltic băng giá, một Địa Trung Hải của Bắc Âu, cũng đã trở nên rất phồn thịnh trong cùng một thời điểm. Nhưng tất cả những thành tựu ngoạn mục này, ngay cả trường hợp Venice, chỉ là những ốc đảo phồn vinh cô lập. Điều tôi muốn nhận định ở đây là hiện tượng phát triển trên qui mô quốc gia.
Sẽ là một sự lố bịch, có thể nói là một sự xúc phạm đối với trí tuệ, nếu muốn tóm tắt lịch sử phát triển của Hòa Lan, Anh, Hoa Kỳ và Nhật Bản trong một vài trang giấy. Mục đích ở đây là tìm ra cái gì đã làm nảy sinh ra phát triển và sau đó đã duy trì được đà phát triển. Xin nói ra ngay rằng kết luận sẽ chẳng có gì thực sự độc đáo. Điều quan trọng là sau đó chúng ta thực sự tin. Và niềm tin là tất cả, nó sẽ tránh cho chúng ta những hoang mang, bối rối và lạc lối trong những biện luận mông lung. Chúng ta đang rất cần niềm tin đó.
Bây giờ, xin mời độc giả khởi hành.
Hòa Lan : cái gì đã xảy ra ?
Cho tới giữa thế kỷ 16, quyền lực tại châu Âu tập trung về phía Nam, với Tây Ban Nha làm bá chủ. Đế quốc của Charles Quint, trong đó Tây Ban Nha vượt trội nhất, bao phủ gần hết châu Âu và cả miền đất rộng lớn vừa khám phá ra, nghĩa là châu Mỹ. Nhưng đột nhiên vào giữa thế kỷ 16, năm 1568, châu Âu rúng động vì cuộc nổi dậy tại Hòa Lan. Càng ngạc nhiên hơn nữa vì đất nước nhỏ bé này đã kháng cự thắng lợi trước sức mạnh của quân lực Tây Ban Nha hùng hậu trong hơn bốn mươi năm, trong một cuộc chiến được mệnh danh là "chiến tranh cho tự do", buộc Tây Ban Nha phải ngừng chiến, chấp nhận thực tế của sự ly khai và sau đó ký thỏa ước Den Haag chính thức nhìn nhận "Nước Cộng Hòa Hòa Lan". Từ đó Hòa Lan, với không đầy mười triệu dân, tiếp tục tiến lên mạnh mẽ, trở thành siêu cường số một của thế giới trong thế kỷ 17. Cái gì đã xảy ra ?
Montesquieu (1681-1755), thủy tổ của lý thuyết "tam quyền phân lập" và lý thuyết "những bất lợi tiên khởi", nhận định rằng người Bắc Âu đã bị thiên nhiên ngược đãi nên phải phấn đấu để tiến lên, và để tiến lên cần tự do, trong khi các dân tộc Nam Âu vì được thiên nhiên ưu đãi nên không cần phấn đấu và do đó dễ chấp nhận cuộc sống nô lệ.
Max Weber (1864-1920), dựa vào thành tựu của Hòa Lan, và của Anh và Mỹ sau đó, cho rằng phát triển là do ảnh hưởng của đạo Tin Lành năng động và cởi mở hơn đạo Công Giáo. Weber lặp lại một cách mạnh mẽ hơn lập luận của một vài nhà tư tưởng trước ông cho rằng chủ nghĩa tư bản là một sản phẩm của đạo Tin Lành. Karl Marx, thiên tài trong nghệ thuật lấy ý kiến của người khác làm khám phá của mình bằng cách nói ngược lại, cho rằng chính chủ nghĩa tư bản đã khai sinh ra đạo Tin Lành. Quanh quẫn vẫn chỉ là một ý : có một liên hệ mật thiết giữa một tôn giáo (Tin Lành) và phát triển.
Phải nghĩ gì về những giải thích này ?
Dĩ nhiên dân tộc nào cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của điều kiện địa lý, nhưng lý thuyết "những khó khăn tiên khởi" rất khó đứng vững. Nếu bảo rằng nhờ bị thiên nhiên ngược đãi mà nhiều dân tộc đã phải phấn đấu, rồi nhờ đó tiến lên thì rất khó giải thích tại sao nước Mỹ, với tài nguyên bao la và điều kiện sinh sống dễ dãi, đã vươn lên mạnh mẽ ? Ngược lại, một số dân tộc khác như Mali, Ethiopia, Bangladesh lạc hậu cùng cực và bị coi là tuyệt vọng chính vì thiếu tài nguyên thiên nhiên. Các giải thích của những nhà nghiên cứu về điều kiện thiên nhiên thường rất mâu thuẫn. Có khi cùng một sự kiện được sử dụng cho hai giải thích hoàn toàn trái ngược nhau : có lúc họ nói rằng nước Anh đã trở thành hùng mạnh nhờ than đá và sắt, có khi họ lại lý luận rằng nước Nhật đã phát triển vì người Nhật bắt buộc phải sản xuất nhiều để xuất cảng lấy ngoại tệ mua nguyên liệu và nhiên liệu. Lý thuyết "những khó khăn tiên khởi" độc đáo ở chỗ nó vừa ngược đời vừa hùng hồn, nhưng không đúng. Tài nguyên thiên nhiên chắc chắn là có ảnh hưởng, và dĩ nhiên về lâu về dài có ảnh hưởng tốt, nhưng không thể giải thích tất cả.
Khí hậu cũng thường được viện dẫn như một lý do giải thích sự phát triển, dựa vào nhận xét chung là các nước khí hậu lạnh thường phát triển hơn các nước nhiệt đới. Nhưng Nga và Mông Cổ (chưa nói dân Esquimo !) cũng có khí hậu rất lạnh mà tại sao không phát triển ?
Còn lý do tôn giáo ? Chắc chắn là các dân tộc theo một tín ngưỡng tiêu cực coi cuộc đời không đáng sống và không đáng cải thiện, như Ấn Độ và Tây Tạng, sẽ rất khó ra khỏi cảnh nghèo khổ nếu không thay đổi tâm lý, vì một lý do dễ hiểu là họ không coi nghèo khổ là một tai họa. Nhưng bảo rằng đó là do ảnh hưởng của đạo Tin Lành thì phải trả lời thế nào về sự trỗi dậy ngoạn mục của Nhật Bản ?
Chắn chắn phải có một lý do căn bản hơn trong khi những lý do khác như tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, tôn giáo chỉ là những biểu hiện ngoài mặt.
Từ thế kỷ 15, trung tâm quyền lực tại châu Âu dời về miền Nam, các vùng phía Bắc chung quanh Hòa Lan ít được quan tâm tới. Đó lại là vùng đất thấp, sình lầy và giá lạnh, cảnh trí chẳng có gì là hùng vĩ, thành quách lâu đài cũng khó xây dựng. Các vùng này ở trong một tình trạng đặc biệt : một mặt họ nằm dưới quyền lực của các triều đình lớn và không thể lập ra một chính quyền mạnh của mình mà không sợ búa rìu, mặt khác vì gần như bị bỏ quên nên họ phải tự tổ chức sinh hoạt riêng của mình. Công thức duy nhất và bắt buộc là cố gắng tìm ra đồng thuận để sống yên với nhau, tránh mọi xung đột có thể lôi kéo sự can thiệp của triều đình Tây Ban Nha. Một xã hội tự do dân chủ dần dần thành hình với một chính quyền rất giản dị, người cai trị Hòa Lan không phải là một ông vua, cũng không phải là một lãnh chúa mà chỉ được gọi là một "đại thường trú", vì ông cư ngụ và làm việc ở tòa nhà được dựng ra để giải quyết các vấn đề hành chính tối cần thiết.
Những người Hòa Lan cũng không thể có vinh quang được làm vương, làm tướng, họ chỉ còn một lý tưởng là làm giàu. Một thanh niên Hòa Lan lớn lên không thể nuôi mộng gì khác hơn là kinh doanh buôn bán thành công.
Một xã hội mới dần dần thành hình. Chính cái xã hội tự do dân chủ này, với một guồng máy chính quyền thật nhẹ và thu hẹp nhường không gian tối đa cho cá nhân, và trong đó mọi cá nhân theo đuổi lý tưởng làm giàu, đã thúc đẩy sáng kiến và cố gắng và tạo nên sự phồn vinh của Hòa Lan. Vào năm 1551, khi hoàng đế Charles Quint phong cho dòng họ Bourguignon 12 quận đất thấp phía Bắc (gồm Hòa Lan và Bỉ ngày nay), vùng đất này đóng thuế cho triều đình Tây Ban Nha một số tiền gấp bảy lần lợi nhuận quan trọng đem về từ toàn châu Mỹ. Hòa Lan đã phồn vinh hơn hẳn Tây Ban Nha. Mười bảy năm sau, họ nổi dậy tuyên bố rũ bỏ ách thống trị của mẫu quốc. Sức mạnh kinh tế và quyết tâm sống tự do đã khiến họ đẩy lùi được đạo binh hùng hậu của Tây Ban Nha.
Trái với nhận xét của Max Weber, không phải đạo Tin Lành đã tạo ra sự phồn vinh của vùng đất thấp bao gồm Hòa Lan và Bỉ, bởi vì phần lớn của cải vẫn nằm trong tay những nhà kinh doanh theo đạo Công Giáo. Ở một khía cạnh nào đó, có thể nói người Công Giáo còn năng động hơn cả người Tin Lành trong giai đoạn đầu. Nhưng dần dần do sự bách hại đạo Tin Lành tại Pháp, Ý và Tây Ban Nha, những người Tin Lành đã di cư tới Bỉ và nhất là Hòa Lan để tị nạn. Họ là một đóng góp quan trọng cho sự phồn vinh của Hòa Lan, nhưng họ không phải là yếu tố quyết định nhất. Đóng góp quyết định nhất là những nghệ nhân, thợ khéo, thương gia di cư tới Hòa Lan để tránh những chính quyền độc tài khắc nghiệt. Không khí tự do dân chủ tại Hòa Lan đã giúp họ làm giàu cho mình và cho quê hương mới. Descartes (1596-1650), nhà toán học và tư tưởng lớn bậc nhất của nước Pháp vào thời đại của ông, năm nào cũng phải tới Hòa Lan sống vài tháng để lấy hứng sáng tác trong không khí tự do, dù ông là người Công Giáo.
Anh : một dân tộc bán tiệm
Nước Anh, từ sau khi vua John "Lack Land" [Jean Sans Terre] ký Đại Hiến Chương [Magna Carta] năm 1215 nhìn nhận những quyền tự do lớn cho giới quí tộc, đã không còn là một nền quân chủ tuyệt đối trung ương tập quyền nữa. Sự áp bức vẫn còn nhưng là những áp bức của các lãnh chúa địa phương không đủ mạnh, phải dựa vào dân chúng, do đó cần người dân và phải tương đối nể nang người dân. Đặc điểm của Đại Hiến Chương là nó định chế hóa đối thoại chính trị, buộc nhà vua phải tham khảo với một nghị viện. Nó cũng nhìn nhận cả quyền nổi loạn chống bạo quyền.
Cuộc cách mạng của Oliver Cromwell (1599-1658), năm 1649 giáng một đòn chí tử vào cả quyền lực lẫn danh giá của triều đình London (vua Charles I bị hành quyết và một thể chế cộng hòa ngắn ngủi được thành lập). Năm 1688, sau một cuộc cách mạng ngắn, các nguyên tắc tự do dân chủ được chính thức ban hành, mở đầu một giai đoạn phát triển huy hoàng. Sự hiện diện của chính quyền từ đó trở nên giới hạn và ngay cả các giá trị cũng thay đổi. Làm quan tướng trong triều đình không vinh quang hơn là làm những phú nông, phú thương. Phải nói ngay rằng những thay đổi ngoạn mục này có rễ từ rất lâu đời. Thói quen sinh sống trong bối cảnh phóng khoáng đã đem lại cho người Anh, kể cả quí tộc, một tâm lý rất khác so với lục địa châu Âu. Họ không khinh thường những hoạt động sản xuất (có cả một huân tước được mang danh hiệu "huân tước củ cải" vì trở thành giàu có nhờ sản xuất và cổ võ cho củ cải đường). Cuộc sống hải đảo đã đem lại cho họ một tâm lý đặc biệt, phiêu lưu mạo hiểm nhưng lại không màng những danh giá phù phiếm của quyền lực. Vả lại, cũng tương tự như trường hợp Hòa Lan, họ vừa được các đế quốc hùng mạnh ở lục địa bỏ quên, vừa không thể xưng hùng xưng bá để tránh búa rìu. Sau này từ thế kỷ 18 trở đi, khi họ tự nhận ra mình đã quá mạnh và đi chinh phục thế giới, là một chuyện khác.
Nét đặc thù của nước Anh từ trước thế kỷ 17, khi hiện tượng phát triển bắt đầu xuất hiện một cách rõ rệt, là một không khí cởi mở, phóng khoáng và tự do. Nước Anh đã là nước dân chủ đầu tiên trên thế giới, trước rất lâu so với các nước khác. Tại sao ? Đó là câu hỏi rất phức tạp mà một cuốn sách vài trăm trang cũng không thể trả lời một cách đầy đủ, nhưng lý do chủ yếu có lẽ là địa lý. Đối với chúng ta ngày nay, Anh là một đảo nhỏ về diện tích, nhưng cho tới thế kỷ 16 đó là một lãnh thổ bao la đối với khoảng 3 hay 4 triệu dân. Cuộc sống tản mác trên một lãnh thổ phì nhiêu đồng đều đó không cho phép ra đời một chính quyền trung ương mạnh. Cuộc sống hải đảo biệt lập cũng không làm nảy sinh ra những tham vọng quyền lực điên cuồng. Thêm vào đó, những con người sống với biển cả và dám thách thức biển cả cũng không dễ chấp nhận cuộc sống phục tùng tuyệt đối của những kẻ nô lệ.
Cuộc sống thủy thủ cũng đã đem lại cho họ tập quán yêu thích buôn bán. Napoléon I có lần nhận định một cách không mấy nể nang rằng người Anh là một "dân tộc bán tiệm" [un peuple de boutiquiers]. Ông đã lầm, người Anh không chỉ "bán tiệm", họ là những thương gia có viễn kiến rất sớm. Ngay từ thế kỷ 15, họ đã thành lập nhiều công ty buôn bán có tầm vóc lớn. Một trong những công ty đó mang một tên đầy ý nghĩa "Đồng Đội Của Những Nhà Mạo Hiểm Thương Mại Luân Đôn" [Fellowship of the Merchant Adventurers of London]. Cần ghi nhận "mạo hiểm" nhưng cũng cần ghi nhận "đồng đội".
Người Anh có một đặc điểm là rất thích những kết hợp ngoài chính quyền, những kết hợp của những người cùng theo đuổi một mục đích và cùng chấp nhận một luật chơi. Chính họ đã phát minh ra các Club, mà hầu hết mọi ngôn ngữ khác đều dùng và chúng ta phiên âm là câu lạc bộ. Xã hội dân sự tại Anh xuất hiện rất sớm và phát triển rất nhanh, rất mạnh. Cho đến nay, tham gia các hội đoàn và câu lạc bộ vẫn là một nét đặc thù của người Anh. Tất cả những yếu tố đó đều là đặc tính của một sinh hoạt dân chủ. Người Anh gieo hạt giống dân chủ một cách vô tình, rất lâu trước khi họ có tư tưởng dân chủ. Và họ cũng đã có tư tưởng dân chủ rất sớm. Vài dẫn chứng :
Một nhà tư tưởng, Dudley North, viết năm 1691 : "Hòa bình, cố gắng và tự do, chứ không phải bất cứ một lý do nào khác, đem lại thương mại và giàu có" và "vai trò của luật pháp là đảm bảo hòa bình, công lý và khuyến khích các công nghệ bằng cách tôn vinh chúng". Vài năm sau, năm 1699, Charles Davenant (1656-1714), dân biểu Anh, viết : "Tự do và phồn vinh đi cùng với nhau tay trong tay".
Lý do nào đã khiến một dân tộc vài triệu dân trên một hòn đảo vào thế kỷ 16 trở thành bá chủ hoàn cầu hai thế kỷ sau đó ? Câu trả lời ở đây rất là hiển nhiên : một chế độ tự do dân chủ, nhà nước nhẹ, một xã hội dân sự năng động và lòng yêu thích thương mại. Nhưng điều cần được đặc biệt chú ý ở đây là bối cảnh tự do đã xuất hiện rất lâu trước khi sự giàu có ló dạng. Những hạt giống của tự do dân chủ đâm mộng, thành cây, rồi trổ hoa kết trái. Trái cây ở đây là sức mạnh và sự phồn vinh.
Hoa Kỳ : đất nước của những con người tự do và dũng cảm
Châu Mỹ đã được khám phá ra từ năm 1492 và hầu như ngay sau đó các chính quyền Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ra công khai phá và khai thác. Sự khai thác này đã rất thành công, nếu ta không nghĩ đến chính sách diệt chủng của những đoàn conquistadors đầu tiên. Châu Mỹ được coi như một kho của vô tận. Ngày nay nếu được hỏi về nước Peru, đa số chúng ta sẽ chỉ biết mang máng rằng đó là môt nước ở Nam Mỹ, có một ông tổng thống người Nhật tên là Fujimori gì đó, không lớn lắm, không giàu lắm và khá lộn xộn. Hơi giản lược nhưng mà đúng. Vậy mà cho tới thế kỷ 19, Peru đồng nghĩa với thiên đường hạ giới. Trong tiếng Pháp, thành ngữ "trouver le Pérou" [tìm thấy nước Peru] vẫn được coi là đồng nghĩa với may mắn và đạt ước mơ.
Sự khai thác châu Mỹ tiến triển mạnh ngay sau khám phá của Columbus, nhưng chỉ giới hạn ở vùng "châu Mỹ La Tinh" thuộc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Vùng đất phía Bắc thuộc Hoa Kỳ và Canada hiện nay vẫn bị bỏ hoang. Anh và Pháp cạnh tranh nhau khai phá vùng đất này nhưng cả hai nước đều gặp nhiều vấn đề nội bộ, và lại còn bận chống nhau nữa, nên không đặc biệt chú ý đến châu Mỹ. Việc di dân và khẩn hoang vùng đất này không nằm trong một chính sách quốc gia nào mà do sáng kiến của những công ty tư nhân. Từng đoàn người lẻ tẻ trên những con tàu mong manh kéo nhau tới đó. Trong tuyệt đại bộ phận họ là những người bị phân biệt đối xử nên phải ra đi chứ không phải vì Pháp hay Anh thiếu đất. Nước Pháp vào thế kỷ 16 tuy là nước đông dân hạng nhì thế giới (sau Trung Quốc nhưng trước Ấn Độ) nhưng chỉ có khoảng 20 triệu dân mà thôi. Nước Anh lúc đó không có tới 4 triệu dân. Những người ra đi đều là thành phần nghèo khổ và bị hắt hủi, phần lớn là người Anh ; nước Pháp trong suốt tiến trình di dân chỉ gởi qua Québec sáu ngàn người và một số ít hơn tới Louisiana.
Cho tới ngày 9 tháng 6 năm 1620, khi con tàu Mayflower cập bến, với một trăm người di dân, trên cả lãnh thổ Hoa Kỳ bao la chỉ có khoảng hai ngàn người da trắng. Những người di dân tới đây không sống dưới một chính quyền nào, họ ít quá để triều đình Anh chú ý, những người chủ bỏ tiền cho họ vượt đại dương thì ở quá xa và cũng chỉ quan tâm lấy lại vốn cộng thêm lời của số tiền đầu tư bỏ ra, còn lại thì để mặc họ muốn làm gì thì làm. Khoảng 40 người trên tàu Mayflower rủ nhau đi lập nghiệp tại Provincetown, trong bang Massachussetts. Đến nơi họ thảo chung với nhau một kết ước sống chung, Kết ước Mayflower [The Mayflower Compact]. Không biết họ có ý thức được không, nhưng những con người thô sơ và mỏng manh đó (phân nửa đã chết trong mùa đông giá lạnh đầu tiên) đã làm một trong những hành động sáng tạo vĩ đại nhất trong lịch sử loài người. Đó là tuyên ngôn thành lập một xã hội tự do, dân chủ và pháp trị :
"[...] Chúng tôi thỏa thuận thành lập với nhau một tập thể. [...] Mỗi khi thấy cần thiết cho phúc lợi chung, chúng tôi sẽ làm ra và ban hành các luật lệ đúng đắn và đồng đều cho tất cả, và chúng tôi sẽ tuân phục những luật lệ đó".
Tinh thần Mayflower đã mau chóng trở thành tinh thần nền tảng của xã hội Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có một đặc điểm nổi bật : đó là quốc gia ngay từ lúc thai nghén đã không hề biết một chế độ nào khác ngoài tự do và dân chủ. Đó quả là đất nước của những con người tự do [land of the free]. Năm 1776, khi tuyên bố độc lập, dù đã tiến bộ rất nhiều, họ mới chỉ có hai triệu rưỡi dân nghèo đói, trình độ văn hóa thấp, phần lớn không biết đọc biết viết và hơn nữa rất xa lạ với nhau. Dân chủ và tự do đã dần dần đem đến sự gắn bó, ý thức quốc gia, sáng kiến và sức mạnh. Tân quốc gia Hoa Kỳ đã lôi cuốn những người yêu chuộng tự do dân chủ tại châu Âu. Lòng tin vào tương lai đã cho họ một tỷ lệ sinh đẻ cao. Một thế kỷ sau, năm 1890, họ là quốc gia tiến bộ nhất và hùng mạnh nhất thế giới với 63 triệu dân. Bước vào thế kỷ 21 và thiên niên kỷ thứ ba, họ là siêu cường độc nhất của thế giới với gần 300 triệu dân. Thế kỷ 21 sẽ còn là thế kỷ Hoa Kỳ, sự hơn hẳn sẽ còn gia tăng lên chứ không giảm đi trong nhiều thập niên. Trường hợp Hoa Kỳ chứng tỏ tự do và dân chủ không đòi hỏi một trình độ văn hóa hay kinh tế nào, trái lại còn là lý do thúc đẩy phát triển kinh tế và văn hóa.
Nhật Bản : tự do trá hình và dân chủ giấu mặt
Người Việt Nam sùng bái sự học một cách quá đáng và lệch lạc nên bất cứ một điều gì, dù sai tới đâu, mà đã được nhồi sọ ở trường học cũng trở thành một chân lý rất khó lay chuyển. Một trong những sai lầm lớn mà hầu như mọi người Việt Nam, bất luận có bằng cấp nào, cũng tin một cách chắc nịch là nhờ vua Minh Trị sáng suốt biết canh tân kịp thời mà nước Nhật đã trở thành tân tiến và hùng mạnh. Tôi đã gặp không biết bao nhiêu trí thức tiếc rằng các vua Minh Mạng, Tự Đức đã không được như Minh Trị, nếu không Việt Nam chắc đã không thua Nhật Bản.
Sự thực Minh Trị không hơn gì Tự Đức, và nước Nhật đã không tiến lên nhờ Minh Trị. Không những thế, còn có thể nói chính Minh Trị đã bẻ gãy, hay đúng hơn đã là dụng cụ để giúp đám quân phiệt bẻ gãy đà tiến hài hòa của Nhật Bản về tương lai. Cuối "lộ trình Minh Trị" là một cuộc chiến tự hủy, hai trái bom nguyên tử và một phần quan trọng của lãnh thổ bị mất.
Minh Trị lên ngôi năm 1867, lúc mới 14 tuổi. Phải mê tín dị đoan mới có thể tin một cậu bé bằng ấy tuổi và được nuôi nấng trong hoàng cung có thể có cả một dự án canh tân đất nước. Thực ra Minh Trị lên ngôi vào đúng lúc quyền bính nước Nhật rối loạn hoàn toàn, các sứ quân liên kết với nhau lật đổ và chấm dứt chế độ chúa công [shogun] được thiết lập từ thế kỷ 12 theo một mô hình tương đương như vua Lê chúa Trịnh tại nước ta. Lúc đó nước Nhật đã tiếp xúc với phương Tây từ hơn ba thế kỷ, từ năm 1543, nghĩa là cùng một lúc với Việt Nam.
Vào thời điểm Minh Trị lên ngôi, nước Nhật đã thay đổi rất nhiều rồi, khác hẳn với Việt Nam. Câu chuyện sau đây đủ nói lên mức độ phát triển của nước Nhật trước khi người phương Tây đến. Một người Bồ Đào Nha, tên là Pinto, đến nước Nhật vào khoảng cuối thế kỷ 16 đem theo một cây súng. Ông ta khoe hiệu lực của cây súng hơn hẳn những thanh kiếm của các hiệp sĩ Nhật, rồi cho mượn. Vài tháng sau, khi ông ta ra đi, người Nhật đã chế ra được 500 khẩu súng giống hệt như vậy. Hai năm sau trên toàn nước Nhật có tới 300.000 khẩu súng Pinto. Kỹ năng của người Nhật đã tiến tới một trình độ rất cao ngay từ thế kỷ 16.
Các tài liệu của nước ta, cũng như phần lớn các tài liệu phiến diện của phương Tây mà ta sao dịch lại, đánh dấu sự mở cửa của Nhật về phương Tây từ năm 1853 (tức mười bốn năm trước khi Minh Trị lên ngôi) khi phó đề đốc [comodore] Perry chỉ huy một đoàn chiến hạm Mỹ tiến vào cảng Đông Kinh đưa tối hậu thư buộc Nhật mở cửa khẩu cho tàu bè phương Tây, và Nhật nhượng bộ. Thực ra, một cách không chính thức, Nhật đã mở cửa cho phương Tây và đã tiếp thu rất nhiều kỹ thuật và phương pháp phương Tây từ ba thế kỷ trước rồi. Người Nhật đã quen với phương Tây và đã đủ tiến hóa để hiểu sức mạnh của phương Tây. Họ nhượng bộ vì hiểu biết chứ không phải vì nhát sợ. Họ đã quen sử dụng lịch phương Tây từ lâu, cho nên năm 1873 họ bỏ hẳn lịch Tàu để chỉ dùng lịch Tây. Họ cũng đã mở những trường học về y khoa và khoa học cơ bản từ thập niên 1720, nổi tiếng nhất là Trường Hòa Lan (người Nhật quả nhiên biết chọn thầy !). Năm 1744, họ xây một đài quan sát thiên văn vùới hai kính viễn vọng lớn. Từ năm 1810, họ tổ chức cả một cơ quan chuyên môn dịch sách khoa học kỹ thuật phương Tây. Ngày 7 tháng 1 năm 1870, đúng ba năm sau khi Minh Trị lên ngôi, bức điện tín đầu tiên được đánh đi từ Tokyo.
Nước Nhật đã rất tiến bộ khi người phương Tây đến. Chính nhờ tiến bộ mà họ đã nhận thức được sự hơn hẳn của phương Tây và đã hấp thụ rất mau chóng các kỹ thuật phương Tây. Tại sao ? Đó là nhờ một sự kiện ngoài chủ đích của mọi người. Xã hội Nhật do các lãnh chúa thống trị dựa trên giai cấp hiệp sĩ. Các lãnh chúa và các hiệp sĩ cực kỳ kiêu căng không thèm hòa trộn với dân chúng mà để mặc quần chúng tự tổ chức lấy cuộc sống của mình, miễn là nộp đủ thuế. Trong tình trạng ấy, quần chúng Nhật tuy ở sát nhưng thực ra lại sống rất xa giai cấp thống trị. Họ không thể tổ chức thành chính quyền nếu không muốn lãnh búa rìu và họ phải tìm cách sinh sống với nhau trong đồng thuận để tránh những can thiệp của bọn hiệp sĩ. Một cách tiệm tiến và thầm lặng, một sinh hoạt tự do đã hình thành giữa quần chúng với nhau, dưới sự giám sát từ xa của các lãnh chúa. Đó là lý do khiến xã hội Nhật đã phát tri%ển, rồi chính sự phát triển này đã tạo ra áp lực buộc giới cầm quyền Nhật nhượng bộ dần dần.
Ở đây, Nhật cũng không phải là một ngoại lệ. Nhật cũng đã phát tri%ển nhờ tự do dân chủ, dù là tự do trá hình, dân chủ giấu mặt. Không hiểu được điều này là không hiểu phép mầu Nhật Bản, một phép mầu đã bắt đầu từ trước khi người phương Tây tới và đã gia tăng vận tốc sau đó. Minh Trị sau khi lên ngôi đã chỉ là một biểu tượng giúp cho đám quân phiệt tiêu diệt dần tự do dân chủ và đưa Nhật Bản đến bế tắc. Những năm cuối của triều đại Minh Trị còn là những năm đen tối cho nước Nhật : bành trướng quân sự, chiếm Đài Loan và Cao Ly, đàn áp đẫm máu ở trong nước. Khi Minh Trị chết, năm 1912, chế độ Nhật trở thành một chế độ độc tài quân phiệt thuần túy với hậu quả mà chúng ta đã thấy. Sau thế chiến II, Nhật bại trận, phải đầu hàng không điều kiện, chấp nhận một hiến pháp tự do do Hoa Kỳ áp đặt và giám sát, và nước Nhật lại vươn lên.
Những xã hội phồn vinh khác
Đến đây chúng ta đã xong một cuộc hành trình qua những kinh nghiệm phát triển. Chúng ta đã dừng chân ngắn ngủi tại các chặng đường Hòa Lan, Anh, Mỹ và Nhật. Cuộc hành trình vội vã này đã không cho phép chúng ta dừng lại ở một số phép mầu tại một số quốc gia khác.
Như Thụy Sĩ, quốc gia nhỏ bé và bị quên lãng trong nhiều thế kỷ, không có bờ biển, không tài nguyên thiên nhiên, lại thêm núi non trùng điệp, vậy mà đã trở thành quốc gia giàu có nhất thế giới. Trong nhiều thế kỷ Thụy Sĩ đã là vùng đất không nước nào dòm ngó, nó đã thành đất dung thân của người Đức, người Pháp, người Ý muốn xa lánh bạo lực và sự bất dung. Người Thụy Sĩ đã xây dựng với nhau một xã hội tự do dân chủ theo phương châm dĩ hòa vi quí. Và họ đã tìm được hạnh phúc. Đặc điểm của Thụy Sĩ mà mọi người đều biết là có một chế độ dân chủ đi xa nhất trong mọi chế độ dân chủ : dân chủ trực tiếp ở một số địa phương.
Hay như trường hợp của các nước Bắc Âu, Đan Mạch và Thụy Điển (cho tới gần đây Thụy Điển là nước có lợi tức bình quân trên mỗi đầu người cao nhất châu Âu). Các quốc gia xa xôi băng giá và ít người này cũng ở trong thế "chẳng ai để ý đến họ và họ cũng chẳng dám vênh váo thách thức với ai". Họ tổ chức với nhau một xã hội đồng thuận và khiêm nhường, tôn trọng tự do và sáng kiến của mỗi người. Và họ đã là những quốc gia phát triển đầu tiên ; như phần đầu bài này đã nói, vùng biển Baltic đã phát triển rất sớm.
Cùng một hiện tượng
Điều ngạc nhiên và lý thú là dưới những bề ngoài có vẻ rất khác nhau cùng một hiện tượng đã được lặp lại.
Hiện tượng diễn ra như sau : một cộng đồng quốc gia vào một lúc nào đó, do một tình cờ địa lý hay lịch sử, rơi vào một hoàn cảnh đặc biệt, quyền lực khống chế không quan tâm tới họ và để mặc họ sống với nhau. Một tổ chức xã hội mới đã dần dần hình thành với bốn đặc tính : một là vì không có chọn lựa nào khác họ đã tổ chức với nhau một chính quyền tối thiểu, thậm chí không chính thức, và sinh sống với nhau theo qui luật tự nhiên của thị trường ; hai là do không thể có tham vọng quyền lực, mọi người tập trung cố gắng làm giàu ; ba là do chính quyền không can thiệp vào đời sống hàng ngày, người dân được hưởng một mức độ tự do lớn, do đó phát huy tối đa sáng kiến ; bốn là thương mại được ưa chuộng và tôn vinh. Yếu tố thứ tư thực ra chỉ là một hậu quả của yếu tố thứ hai và nhất là thứ ba. Đã chủ tâm làm giàu và lại được tự do phát huy sáng kiến thì chắc chắn con người trở thành mạo hiểm, thích trao đổi và buôn bán.
Chính quyền nhẹ, tự do và dân chủ, kinh tế thị trường, ham mê làm giàu, trọng thương mại và cởi mở với thế giới bên ngoài là những yếu tố đem tới sự giàu có. Những yếu tố đó là nguyên nhân thực sự của phát triển, cho dù chúng xuất phát trong hoàn cảnh nào. Chúng ta có thể coi đó là một định luật đúng trong mọi trường hợp. Ngay cả các thị trấn thương mại đã phát triển sớm nhất cũng không phải là ngoại lệ. Kiến thức của tôi rất nhiều giới hạn, nhưng những kinh nghiệm phát triển mà tôi có dịp nghiên cứu, và tôi có cảm tưởng không bỏ sót trường hợp quan trọng nào, cho tôi một nhận xét là trong chiều sâu mọi phát triển trên phạm vi quốc gia đều có cùng một nguyên nhân, dù bề ngoài chúng có thể bộc lộ dưới một lý do đặc biệt : tôn giáo, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, v.v... Điều đáng lưu ý là thực ra nhiều chế độ độc tài hoặc thiếu dân chủ cũng đã nhận ra điều này. Đó là lý do khiến họ cho phép lập ra những khu chế xuất, vùng kinh tế đặc biệt, v.v... mà đặc tính là ở đó tự do được thả lỏng, các thủ tục được giảm nhẹ, sự hiện diện của chính quyền bớt lộ liễu. Các vùng này đều đã thành công và khiến nhiều kinh tế gia coi chúng như một giải pháp. Nhưng đây chỉ là một biện pháp nửa chừng. Nếu các khu chế xuất có lợi, tại sao không mở rộng cho cả nước ?
Nét đậm nhất cần ghi nhớ sau những dòng này là, một mặt, xã hội tự do dân chủ kích thích cố gắng và cho phép con người phát huy tối đa khả năng của mình, và mặt khác, tự do dân chủ không đòi hỏi một điều kiện nào, nó phù hợp với mọi xã hội và mọi trình độ. Các dân tộc vươn lên đầu tiên đã tình cờ đạt tới tự do và dân chủ trong trường hợp đặc biệt. Ngày nay, đã hiểu được phúc lợi của tự do và dân chủ, chúng ta có thể cố ý tạo dựng tự do và dân chủ để vươn lên.
Kết luận trên đây có phải là hiển nhiên quá đến độ nhạt nhẽo không ? Nếu được như vậy thì còn gì hơn, nhưng điều đáng buồn là không. Tôi đã quá nhiều lần được nghe từ miệng những vị khoa bảng cao, kể cả những vị tự coi và được coi là những chuyên viên kinh tế, kể cả một số người hoạt động chính trị dưới danh nghĩa dân chủ, nói tới một trình độ dân trí tối thiểu để có dân chủ, hay tự do quá trớn, dân chủ quá trớn, hay dân chủ tự do có nguy cơ dẫn tới vô trật tự và hỗn loạn v.v... Những lúc đó tôi chua chát nhớ tới lời nói của một ông thầy tôi : "Có bằng cấp chưa phải là có kiến thức và thực học".
Trước khi chấm dứt chương này, tôi thấy cần thêm hai chú thích.
Một là, những dòng trên có thể khiến độc giả nghĩ tôi phản bác Max Weber. Sự thực là không, Weber là một trong những nhà lý luận về kinh tế và xã hội mà tôi ngưỡng mộ nhất. Những đóng góp của ông thật là to lớn. Nếu nhìn mặt trăng thay vì chỉ nhìn ngón tay chỉ mặt trăng thì ta thấy Weber nói đúng. Đạo Tin Lành chỉ là ngón tay mà thôi, điều mà Weber thực sự khám phá ra cho chúng ta là tầm quan trọng quyết định của văn hóa. Chính vì thế mà các quốc gia tự do dân chủ như nhau đã có những nhịp độ phát triển khác nhau vì văn hóa khác nhau. Phát triển, kể cả phát triển kinh tế, chủ yếu là do tâm lý con người, mà tâm lý con người là sản phẩm của văn hóa. Ở thời đại mà Weber nghiên cứu, thời đại của các thế kỷ 16, 17 và 18, tôn giáo là yếu tố áp đảo của văn hóa. Văn hóa Tin Lành cởi mở, phóng khoáng, lấy đối thoại làm căn bản thay cho giáo điều, khuôn phép. Đó là một văn hóa tự do. Đạo Tin Lành đã đem lại phồn vinh (không ai có thể chối cãi là các dân tộc theo đạo Tin Lành tiến bộ hơn hẳn các dân tộc theo các tôn giáo khác) vì nó chuyên chở văn hóa tự do và đối thoại. Nhưng chúng ta cũng có thể đạt tới một văn hóa tự do, lấy chính tự do, dân chủ và đa nguyên làm những giá trị căn bản, mà không cần cỗ xe Tin Lành.
Hai là, những biện luận trên đây có một chỗ yếu là đã gán ghép tự do và dân chủ, trong khi các kinh nghiệm chỉ chứng tỏ tự do đã đóng vai trò quyết định. Các nước phát triển đầu tiên đã bắt đầu phát triển ngay từ khi chưa hẳn có dân chủ, nếu hiểu dân chủ là thể chế chính trị khác tôtrong đó những người cầm quyền được dân chúng tự do bầu ra trong một nhiệm kỳ giới hạn nhất định. Trong một phầni sẽ trở lại vai trò của dân chủ. Ở đây chỉ xin nói một cách vắn tắt : quả thực tự do mới cần thiết và mới là cứu cánh, nhưng dân chủ là yếu tố cần thiết để đảm bảo tự do, để đà phát triển có thể tiếp tục thay vì bị gãy đổ giữa đường.
********************
Những thí dụ phản bác ?
Tự do, dân chủ đi trước và tạo ra phát triển kinh tế chưa phải là một niềm tin phổ cập. Cho tới nay vẫn có một số khá đông người cho rằng phát triển kinh tế tạo ra dân chủ, với hệ luận là các dân tộc đang chịu ách độc tài hãy cứ tạm gác những đòi hỏi về tự do dân chủ để tập trung cố gắng phát triển kinh tế, sau đó chính phát triển kinh tế sẽ mang lại tự do dân chủ. Đây là một lý luận rất tiện nghi cho các chế độ độc tài như Việt Nam ; không có gì ngạc nhiên nếu họ sử dụng nó. Điều đáng tiếc là nhiều người khao khát tự do dân chủ cũng hoài nghi và không thể phản bác luận điệu "kinh tế đi trước chính trị" một cách thực dứt khoát.
Những phân vân về tương quan giữa dân chủ và phát triển có ít nhất ba nguyên nhân.
Một là, trên thực tế phát triển kinh tế cũng thúc đẩy dân chủ và tự do vì thế mà chúng ta dễ lẫn lộn hậu quả với nguyên nhân.
Hai là do chính hiệu lực nhanh chóng của tự do dân chủ : nó lập tức đưa đến tiến bộ về mặt kinh tế, do đó một số người không nhận ra cái gì trước cái gì sau.
Ba là, vì nhiều lý do, trong đó lý do quan trọng nhất là sự kháng cự của những người lãnh đạo không chịu từ bỏ lập tức những đặc quyền đặc lợi, dân chủ và tự do không tới toàn bộ cùng một lúc mà thường tới từng đợt một, dưới sức ép của thực tại xã hội theo từng mức độ phát triển, người quan sát thiếu chăm chú khó thấy được rằng ở mỗi giai đoạn một mức độ dân chủ tự do lớn hơn đã cho phép một mức độ phát triển lớn hơn.
Trong cuộc kháng cự lồng lộn để cố giữ nguyên quyền lực của họ, các chế độ độc tài dùng đủ mọi lập luận, nhiều khi dựa vào những giải thích gian trá của chính hiện tượng phát triển tại các quốc gia đang dân chủ hóa. Những kinh nghiệm thường được viện dẫn để phản bác những đòi hỏi dân chủ và nhân quyền là trường hợp của những nước được mệnh danh là "các con rồng châu Á" như Đài Loan, Nam Hàn, Mã Lai, Thái Lan, Singapore, Indonesia và Brunei, và đôi khi ngay cả Hồng Kông. Các chế độ độc tài châu Á, nhất là Việt Nam, thường căn cứ vào đó để nói rằng có thể phát triển mà không cần dân chủ và chính phát triển kinh tế sẽ đem lại dân chủ. Sự thực như thế nào ? Chúng ta lại thử làm một vòng khảo sát.
Cần loại bỏ ngay trường hợp Hồng Kông. Đó là một nhượng địa của nước Anh cho tới ngày 30-6-1997. Một toàn quyền người Anh đại diện cho nước Anh, giao toàn bộ việc quản lý đời sống hàng ngày cho một guồng máy hành chính người Hồng Kông. Vị toàn quyền không ở đó để áp đặt một ách thống trị, vai trò của ông là đảm bảo các quyền tự do theo quan niệm của nước Anh. Trong những năm cuối cùng trước khi trao trả Hồng Kông cho Bắc Kinh, toàn quyền Chris Patten còn xuất hiện như một người luật sư của tự do, dân chủ và nhân quyền tại châu Á. Ông bị nhiều chế độ châu Á đả kích như một nhân vật "giáo điều nhân quyền".
Dưới sự giám sát và bảo vệ của nước Anh, Hồng Kông là một mẫu mực thành công của khuôn mẫu dân chủ tư bản phương Tây. Hồng Kông không những không chứng minh rằng có thể phát triển mà không cần dân chủ, trái lại nó còn là bằng chứng đầu tiên tại châu Á về phép mầu dân chủ tư bản.
Cũng phải loại bỏ trường hợp của Brunei trong cuộc thảo luận về tương quan giữa dân chủ và phát triển. Đúng là vương quốc nhỏ bé này không có dân chủ, chế độ của nó là một chế độ quân chủ tuyệt đối, mặc dầu vậy nó vẫn có một mức sống rất cao. Nhưng trước hết Brunei chỉ giàu chứ không phát triển. Brunei là một quốc gia giàu có lạc hậu. Hãy cứ nhìn trong những phim tài liệu những rác rưởi trôi lềnh bềnh và ngập ngụa dưới chân những làng cất trên cọc cao bên mé sông, mé biển. Brunei cũng không phải là một quốc gia mà chỉ là một giếng dầu. 260.000 dân sống trên một diện tích nhỏ xíu chưa đầy 6.000 km2, trong đó quá ba phần tư là rừng hoang. Brunei không muốn độc lập mà đã bị nước Anh bắt phải độc lập và đã tự an ủi bằng cách xây một hoàng cung tốn kém 350 triệu USD, tốn kém này nếu đem chia cho dân số thì mỗi người phải "đóng góp" 1.500 USD. Muốn hình dung sự hoang phí này phải tưởng tượng nước Mỹ bỏ ra 350 tỷ USD để xây tòa Bạch Ốc. Sự giàu có của Brunei không do con người làm ra mà đã phun từ lòng đất lên. Con người ở đây không cần làm gì cả, cũng không phải đóng một loại thuế nào, mà được chu cấp tất cả một cách dồi dào. Chắc chắn họ có thể chấp nhận bỏ qua dân chủ và tự do với giá này. Nhưng thực ra là họ cũng không mất gì cả. Họ sống quá sung túc và không cần tranh đấu đòi hỏi bất cứ gì, do đó không có ý định chống lại nhà vua, và ngược lại nhà vua cũng không cần kiểm soát họ. Nhà vua cũng không cần cấm đoán họ đi đâu vì đi đâu họ cũng không sung túc như ở chính nước họ. Cũng không có một quốc gia nào ngăn cản những du khách Brunei tới nước họ để tiêu xài. Kết quả là do sự sung túc cực kỳ người Brunei có tất cả mọi quyền tự do, trừ quyền tự do trai gái hôn nhau ngoài đường do phong tục Hồi Giáo. Brunei vẫn thiếu mở mang.
Singapore : một thị trưởng xuất sắc
Singapore cũng là một trường hợp rất hi hữu. Nó là một thành phố thương cảng hơn là một quốc gia và cũng không phải là một thành phố lớn, với một diện tích 639 km2 và một dân số chưa đầy ba triệu. Nhưng Singapore không phải là một ngoại lệ đối với qui luật "tự do dân chủ tạo ra phát triển". Được thành lập từ đầu thế kỷ 19 bởi một người Anh, bắt đầu từ một làng đánh cá với khoảng một trăm người, Singapore chưa hề biết tới một tổ chức xã hội nào khác hơn là khuôn mẫu tự do dân chủ phương Tây. Singapore được hoàn toàn tự trị dưới sự giám sát của người Anh tương tự như Hồng Kông từ 1959 và trở thành một nước độc lập từ 1965. Chính quyền nằm trong tay một quốc hội xuất phát từ bầu cử tự do và quốc hội chỉ định một thủ tướng. Chắc chắn Singapore không phải là một chế độ dân chủ gương mẫu. Đảng Nhân Dân Hành Động, cầm quyền từ ngày độc lập, đã sử dụng những biện pháp không mấy lương thiện để tiếp tục nắm chính quyền, chẳng hạn như trợ cấp cho những khu nào bầu cho đảng cầm quyền. Nhưng các đảng đối lập không bị cấm, người đối lập không bị bỏ tù, báo chí không là độc quyền của nhà nước. Đảng cầm quyền dùng các biện pháp bất chính để thắng cử nhưng không cấm đối lập ứng cử và không gian lận kết quả các cuộc bầu cử. Singapore cũng là một nước có luật lệ khá khe khắt, nhưng với một diện tích quá nhỏ và một mật độ dân số 5.000 người trên một cây số vuông, đó có lẽ là cái giá phải trả để giữ gìn trật tự an ninh. Vả lại luật pháp tuy khe khắt nhưng lại được áp dụng một cách đứng đắn cho tất cả mọi người. Và dầu sao nhu cầu dân chủ cũng không đặt ra cho một thành phố nhỏ như Singapore một cách gay gắt như đối với một quốc gia lớn. Dân chủ chủ yếu là phương thức sinh hoạt cho một nước có tầm vóc đáng kể, phải đương đầu với những chọn lựa lớn và phải cai trị một dân số đông đảo với những điều kiện sinh hoạt, những ưu tư và nguyện ước khác nhau. Singapore không có những vấn nạn đó. Chức năng của nó rất rõ rệt vì con người ở đây không có mục đích nào khác hơn là làm giàu ; điều mà họ mong muốn là được tự do sinh sống và làm ăn, và họ đã đạt được. Nhu cầu dân chủ chỉ là thứ yếu.
Trong những năm gần đây, cựu thủ tướng Lý Quang Diệu, người đã có công dẫn dắt Singapore trong hơn ba mươi năm trên con đường đi tới phồn vinh, đã lên tiếng nhiều lần đề cao "những giá trị châu Á" với một giọng điệu bài bác chung chung các giá trị của phương Tây. Vì tự do, dân chủ và nhân quyền được coi là những giá trị của phương Tây nên những phát biểu của họ Lý được hiểu là không thuận cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã lập tức tôn ông Lý làm bậc thầy (trên thực tế họ đã mời ông làm cố vấn, để rồi có lúc bị ông mắng là không chịu cải tổ kịp thời).
Nhưng đối với Singapore, chúng ta không nên quên hai sự kiện rất cơ bản :
Một là, dù Singapore có phồn vinh đến đâu đi nữa nó cũng chỉ là một thành phố trung bình và dù ông Lý Quang Diệu có thành công đến đâu đi nữa ông cũng chỉ có kinh nghiệm của một viên thị trưởng. Ông có thể lấy kinh nghiệm của mình để làm cố vấn cho một thành phố thương cảng như Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng nhưng ông không thể dạy bảo một quốc gia với những vấn đề mà ông chưa bao giờ biết tới.
Hai là, có một cái gì rất khôi hài trong "những giá trị của châu Á" mà Lý Quang Diệu đề cao khi đã về hưu. Hơn tất cả mọi quốc gia và hơn cả Hồng Kông, Singapore là nước châu Á bị Tây phương hóa nặng nhất. Mọi người Singapore đều thạo tiếng Anh và đa số không viết thạo tiếng Tàu. Tập tính của người Singapore là tập tính buôn bán, tôn giáo của Singapore là của cải vật chất, cái Khổng Giáo mà ông Lý đề cao chỉ là một thứ Khổng Giáo đô-la. Trong suốt cuộc đời hoạt động của ông, Lý Quang Diệu đã dồn mọi cố gắng để bắt chước phương Tây tối đa. Chỉ đến khi về già, ông mới bày tỏ một sự lưu luyến muộn màng với nguồn gốc Trung Hoa của ông. Đó chẳng qua là tâm lý lá rụng về cội thông thường của con người. Người ta có thể hiểu ông nhưng không thể lấy những lời nói của ông làm tiền mặt.
Mã Lai : dân chủ ngay từ khi thành lập
Mã Lai cũng không khác Singapore bao nhiêu về quan hệ với phương Tây. Đó cũng là một quốc gia hoàn toàn do người phương Tây thành lập ra, lãnh thổ chỉ mới tạm ổn định từ năm 1963. Lịch sử của quốc gia này, với một diện tích 330.000 km2 (đúng bằng Việt Nam) nhưng chỉ có khoảng 20 triệu dân, chỉ thực sự bắt đầu từ thế kỷ 16. Trước đó, trong những thế kỷ đầu của công nguyên bán đảo Mã Lai chỉ là một vùng rừng núi hoang vu với một số rất nhỏ thổ dân, và là trạm dừng chân của các đoàn thuyền buôn từ phương Bắc, phần lớn từ Ấn Độ, tới Sumatra. Những người Bumiputra, tự coi là chủ nhân của đất Mã Lai, chỉ bắt đầu đến từ Sumatra từ thế kỷ thứ 8. Dấu vết chính trị đầu tiên được ghi nhận là một vương quốc nhỏ được thành lập ở phía Nam bán đảo đầu thế kỷ 15. Khi một số người Bồ Đào Nha đến chinh phục mỏm Malacca năm 1511, họ chỉ gặp một sự kháng cự rất yếu ớt của những bộ lạc rất lẻ tẻ. Người Bồ Đào Nha đã đóng góp làm cho sinh hoạt thương mại phát triển mau chóng. Hơn một thế kỷ sau, năm 1641, Mã Lai lại được may mắn khác : người Hòa Lan, một dân tộc rất sáng tạo và giàu óc kinh doanh, hất cẳng người Bồ Đào Nha và chiếm lấy Mã Lai. Sự thịnh vượng lại càng gia tăng dưới sự cai trị của người Hòa Lan, nhưng nó cũng bắt đầu cám dỗ một đế quốc mới vừa qua mặt Hòa Lan về sức mạnh : nước Anh. Năm 1795 Hòa Lan phải nhường bán đảo Mã Lai và vùng Bắc Borneo cho Anh để rút về cố thủ quần đảo Indonesia.
Sự khác biệt rất lớn giữa hai đế quốc thực dân lớn nhất trong thế kỷ 19, Anh và Pháp, là ở chỗ người Pháp cố gắng phá vỡ mọi giềng mối quốc gia có sẵn để dễ thống trị, trong khi người Anh cố thành lập ra những quốc gia ngay cả ở những nơi không có quốc gia để có những đối tác kinh doanh. Trong suốt một thế kỷ họ đã tạo dựng ra nước Mã Lai bằng cách kết hợp những cộng đồng rất khác khau trên bán đảo. Họ thành lập ra Liên Bang Mã Lai năm 1891, mở rộng dần dần lãnh thổ và quyền tự quản của người địa phương, rồi trả độc lập cho Mã Lai năm 1957, sau khi đã ký kết một hiệp ước quân sự. Cũng chính người Anh năm 1963 đã sáp nhập vùng đất phía Bắc đảo Borneo vào Liên Bang Mã Lai.
Sự nhắc lại vắn tắt lịch sử Mã Lai này cho thấy nó hoàn toàn được tạo dựng lên do người phương Tây, cho nên tinh thần nền tảng của nó không thể khác phương Tây, nghĩa là tự do và dân chủ. Quốc gia tân lập này gồm 55% người Bumiputra nói tiếng Mã Lai (tiếng nói chung của nhiều sắc dân thuộc quần đảo Indonesia nơi họ xuất phát), hơn 30% người gốc Trung Hoa và non 10% người gốc Ấn Độ. Người Trung Hoa tuy ít hơn về dân số nhưng lại hơn hẳn người Bumiputra về kiến thức và tài sản. Với một cấu tạo nhân chủng như vậy, Mã Lai không thể tồn tại dưới một chế độ độc tài. Nó đã tồn tại được nhờ một thỏa thuận : người Hoa nhường nhịn người Bumiputra, và người Bumiputra chấp nhận người Hoa. Cũng cần lưu ý một đặc điểm của người Hoa ở Mã Lai : họ là những người thích buôn bán làm giàu hơn là thích quyền lực chính trị. Trong thời gian thế chiến II, hầu như đã chỉ có một nhóm nhỏ cộng sản gốc Hoa kháng chiến chống lại quân chiếm đóng Nhật. Tháng 8-1945 khi Nhật đầu hàng, họ đã nắm được chính quyền tại Mã Lai nhưng đã hạ khí giới khi người Anh trở lại vì tự thấy không đủ sức mạnh và hậu thuẫn quần chúng để chống lại. Người Anh vì thế đã lấy lại được quyền lực một cách không tốn kém và tiếp tục tạo dựng ra Liên Bang Mã Lai. Về sau này, khi Đảng Cộng Sản Mã Lai phát động kháng chiến trở lại, họ cũng chỉ qui tụ được, ở lúc mạnh nhất, không đầy bảy ngàn người, chủ yếu là người Hoa, và dần dần tàn lụi đi. Tập tính hiếu hòa, chăm làm giàu và không ham quyền lực của người gốc Hoa là bí quyết của sự phát triển của Mã Lai sau này, đồng thời cũng là lý do khiến cho Mã Lai tiếp tục đứng vững.
Gần đây, những lời tuyên truyền chống các giá trị phương Tây, hàm ý chống dân chủ và nhân quyền, của thủ tướng Mahathir Bin Mohamad đã làm những người dân chủ Việt Nam khó chịu và chính quyền cộng sản Việt Nam khoái chí, nhưng ta cần phải hiểu rằng đó chỉ là những lời tuyên bố dùng cho nhu cầu tiêu thụ nội địa mà thôi. Sự thực không phải như vậy. Mã Lai ngay từ ngày thành lập đã được hưởng không khí tự do dưới sự giám sát của người Anh. Từ khi có độc lập nó là một nước dân chủ (chế độ chính trị của Mã Lai là quân chủ lập hiến nhưng rất ít ai biết đến vua Mã Lai). Nền dân chủ đó không hoàn chỉnh do điều kiện dân trí, nhưng có tất cả mọi yếu tố cốt lõi của dân chủ : tự do ngôn luận, tự do kết hợp, tự do bầu cử và ứng cử. Các chính đảng được hoạt động tự do, các cuộc bầu cử diễn ra một cách đúng hạn kỳ và lương thiện từ ngày độc lập. Mã Lai hoàn toàn không phải là một chế độ độc tài. Luật pháp Mã Lai có nhiều khe khắt nhưng do một quốc hội dân cử biểu quyết ra. Những diễn văn bảo thủ của Mahathir chỉ có mục đích tuyển cử : toàn bộ giới lãnh đạo Mã Lai, kể cả Mahathir, đều thuộc giai cấp trưởng giả thành thị Tây phương hóa 100%, nên luôn luôn lo sợ bị một đảng bảo thủ mị dân nổi lên đánh bại. Mahathir bài xích phương Tây chỉ để tỏ ra mình vẫn là Mã Lai, vẫn truyền thống và không mất gốc.
Mã Lai hoàn toàn không phải là bằng chứng cho rằng một quốc gia có thể phát triển mà không cần tự do dân chủ. Ngược lại, hoàn toàn ngược lại, đó là bằng chứng rằng dân chủ và tự do đã có khả năng biến một quốc gia tân lập, với dân trí thấp và chủng tộc phức tạp thành một trong những quốc gia giàu mạnh nhất vùng Đông Nam Á.
Đại Hàn Dân Quốc : sự thành công của những chế độ độc tài sáng suốt ?
Một ngộ nhận khác của người Việt Nam là trường hợp Nam Cao Ly (tên chính thức là Đại Hàn Dân Quốc). Quốc gia nhỏ bé này, với diện tích 98.500 km2, chưa bằng một phần ba Việt Nam, và dân số 47 triệu, trong vòng ba thập niên đã vươn lên từ địa vị một nước nghèo và bị chiến tranh tàn phá thành cường quốc kinh tế thứ 11 của thế giới. Trong vòng hơn ba mươi năm, từ 1960 đến 1993, Nam Cao Ly được các tướng lãnh cai trị cho nên dưới mắt thế giới đó là một nước độc tài quân phiệt. Thành công ngoạn mục của Nam Cao Ly vì thế đã được nhiều tập đoàn độc tài, đặc biệt là chính quyền cộng sản Việt Nam, lấy làm bằng cớ là một chế độ độc tài sáng suốt có khả năng phát triển kinh tế hiệu lực hơn là một chế độ dân chủ. Sự thực như thế nào ?
Các tướng lãnh thay nhau lên làm tổng thống Nam Cao Ly chắc chắn không phải là những người yêu chuộng dân chủ và nhân quyền. Pak Chung Hee [Phác Chính Hy] đã bắt cóc và định thủ tiêu lãnh tụ đối lập Kim Dae Jung [Kim Đại Trung], tướng Chun Doo Hwan [Toàn Đầu Hoán] đã tàn sát hàng trăm sinh viên tại Kwangju. Họ là những tay võ biền, và chính tình trạng căng thẳng do sự hiện diện của một chính quyền quân phiệt hung dữ tại Bắc Hàn đã đưa họ lên cầm quyền. Nhưng vấn đề là họ không áp đặt được chế độ độc tài. Nam Cao Ly vẫn là một nước dân chủ, với đầy đủ những yếu tố cơ bản của một chế độ dân chủ : tự do ngôn luận, tự do kết hợp, tự do bầu cử và ứng cử. Trên thực tế, những cuộc bầu cử tại Nam Cao Ly đã rất sôi nổi với những kết quả rất khít khao. Syng Man Rhee [Lý Thừa Vãn] bị lật đổ năm 1960 bởi những cuộc xuống đường rầm rộ phản đối bầu cử gian lận. Tướng Pak Chung Hee chỉ hơn đối thủ Djang Myon không đầy 1% trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1963. Do thành công ngoạn mục về kinh tế, ông đắc cử vẻ vang năm 1967 (87%), nhưng bốn năm sau đó, năm 1971, chỉ thắng khít khao đối thủ Kim Dae Jung (54% / 46%). Một giai đoạn sôi động diễn ra sau đó khi Pak Chung Hee, dựa vào hậu thuẫn mà quần chúng dành cho ông ta, sửa đổi hiến pháp để tiếp tục nắm chính quyền. Dù bản hiến pháp mới đã được dân chúng Nam Cao Ly ủng hộ mạnh mẽ (73% qua trưng cầu dân ý), trí thức và sinh viên đã tỏ ra sáng suốt và dũng cảm, họ nhìn thấy một âm mưu thiết lập chế độ độc tài mị dân và đã chống đối mãnh liệt. Chun Doo Hwan, cầm quyền sau khi Pak Chung Hee bị ám sát, đắc cử với 90% số phiếu của một "Đại Hội Quốc Dân Thống Nhất Đất Nước" năm 1982 đã chống trả hung bạo những tranh đấu của sinh viên trí thức, nhưng càng ngày cuộc đấu tranh càng được quần chúng hiểu và ủng hộ đưa tới những cuộc biểu tình khổng lồ. Chun Doo Hwan phải nhượng bộ và chấp nhận rút lui, tướng Roh Tae Woo [Lư Thái Ngu] chấp nhận trở lại cách bầu tổng thống theo phổ thông đầu phiếu và chỉ thắng cử với 36% trong cuộc bầu cử năm 1987 nhờ sự chia rẽ của đối lập dân chủ mà tổng số phiếu của hai ứng cử viên, Kim Dae Jung và Kim Yong Sam, cộng lại là 55%. Lực lượng dân chủ ngày càng mạnh lên, buộc đảng cầm quyền phải làm một thỏa hiệp kỳ lạ với đảng của cựu ứng cử viên tổng thống Kim Yong Sam [Kim Đồng Tam] theo đó hai đảng hợp nhất, với Kim Yong Sam làm chủ tịch và là ứng cử viên tổng thống. Năm 1992, Kim Yong Sam đắc cử tổng thống trong một cuộc bầu cử lương thiện. Cuối năm 1997 Kim Dae Jung đánh bại ứng cử viên đảng cầm quyền và đắc cử tổng thống.
Các cuộc bầu cử quốc hội cũng diễn ra một cách đều đặn và lương thiện từ 1963, trong đó đảng cầm quyền chưa bao giờ được đa số tuyệt đối.
Như vậy, Nam Cao Ly đã là một nước dân chủ từ thập niên 1960. Cho tới đầu thập niên 1990 đó chưa phải là một nền dân chủ hoàn hảo, nhưng vẫn là một nền dân chủ thực sự, một lần nữa nếu hiểu dân chủ là một chế độ bảo đảm tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do kết hợp, tự do bầu cử và ứng cử. Điều khác với Mã Lai là tại Nam Cao Ly các tướng lãnh cầm quyền đã chủ trương áp đặt chế độ độc tài và trí thức Nam Cao Ly đã phải tranh đấu cam go để đánh bại họ và bảo vệ dân chủ. Thật là sai khi nói rằng Nam Cao Ly đã phát triển mạnh mẽ trong hơn ba mươi năm dưới chế độ độc tài quân phiệt. Càng bất lương khi lấy trường hợp Nam Cao Ly để lập luận rằng có thể phát triển mà không cần có dân chủ. Không, Nam Cao Ly đã chỉ bắt đầu phát triển sau khi loại bỏ chế độ độc tài Syng Man Rhee, và từ đó đã tiến lên nhờ dân chủ và tự do. Sự thực là Nam Cao Ly đã vươn lên nhờ trí thức của nó đã sáng suốt và dũng cảm để bảo vệ dân chủ và do đó duy trì được đà phát triển. Không những không phải là một ngoại lệ, trường hợp Nam Cao Ly còn chứng tỏ phải dân chủ hóa mới có thể phát triển và dân chủ phải đi trước phát triển. Cũng đừng nên quên rằng điều nổi bật nhất và đáng chú ý nhất là Cao Ly đã bị chia cắt làm hai, miền Bắc (Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên) theo chế độ độc tài cộng sản trong khi miền Nam (Đại Hàn Dân Quốc) theo chế độ dân chủ tư bản, miền Nam tư bản đã trở thành một cường quốc trong khi miền Bắc suy sụp và đói nặng.
Thái Lan : mãi đến 1992
Thái Lan chỉ được biết tới như một con rồng hay con cọp tương lai trong vài năm trước cuộc khủng hoảng tài chánh châu Á khởi đầu từ tháng 7/1997 tại chính Bangkok. Thái Lan không phải là một mẫu mực thành công về kinh tế và vì thế về cơ bản không chứng minh điều gì rõ rệt. Điều đáng nói là Thái Lan đã phải thành công hơn.
Quốc gia này may mắn nhất Đông Nam Á, có lịch sử khá lâu đời và không bị ngoại thuộc, ngoại trừ thời gian ngắn ngủi bị Nhật chiếm đóng nhưng không gây đổ vỡ. Thái Lan đã kháng cự một cách rất hình thức trong vòng vài giờ rồi đầu hàng và sau đó cũng chỉ bị Nhật chiếm đóng một cách hình thức cho đến khi Nhật đầu hàng. Thái Lan cũng may mắn có một hình thức dân chủ thật sớm, ngay từ 1932 khi một cuộc đảo chánh buộc vua Thái chấp nhận chế độ quân chủ lập hiến, nhường thực quyền cho một chính phủ xuất phát từ một quốc hội do dân bầu.
Với sự chuyển hóa mau chóng và bình ổn lâu dài như vậy đáng lẽ Thái Lan phải là nước phát triển bậc nhất châu Á, nhất là Thái Lan có đất rộng, vị trí khá thuận lợi và tài nguyên khá phong phú. Nhưng sự thực đã không diễn ra như vậy, vì có bề ngoài nhưng cũng còn có bề trong. Mà bề trong là gì ?
Đó là các tập đoàn tướng lãnh đã thay nhau cầm quyền dưới một chế độ dân chủ trong hình thức nhưng độc tài quân phiệt trong nội dung. Lịch sử cận đại của Thái Lan có thể tóm tắt như thế này : khi một nhóm tướng lãnh cảm thấy đủ sức mạnh, họ đảo chính lật đổ đám tướng lãnh đang cầm quyền và nhóm tướng lãnh bị hất cẳng quay ra làm thương mại hoặc cạo đầu đi tu chờ cơ hội trở lại cầm quyền. Những cuộc đảo chánh không đổ máu kế tiếp nhau trước sự dửng dưng thụ động của quần chúng. Tình trạng này đã chỉ thật sự chấm dứt tháng 9-1992, khi tập đoàn quân phiệt phải nhượng bộ, sau khi đã đàn áp đẫm máu mà không dẹp được, những cuộc xuống đường rầm rộ đòi dân chủ. Chế độ độc tài quân phiệt Thái Lan đã kéo dài suốt sáu mươi năm bởi vì nó dựa trên một liên minh rất vững chắc giữa quân phiệt, tài phiệt và nhà vua, nghĩa là một liên minh vừa có bạo lực, vừa có tiền lại vừa có tính chính đáng do lịch sử và truyền thống. Chưa kể là nó còn có một đồng minh gián tiếp là Phật Giáo Tiểu Thừa, một tôn giáo nhẫn nhục và thụ động.
Nếu trường hợp Thái Lan có chứng minh điều gì thì đó là dân chủ không do phát triển kinh tế mang lại. Trong suốt thời gian sáu mươi năm, mặc dù mức độ tăng trưởng không cao nhưng sinh hoạt kinh tế xã hội cũng đã thay đổi rất nhiều. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh giành dân chủ đã chỉ do sinh viên chủ động, mà sinh viên thì không thuộc một thành phần kinh tế nào, còn gia đình họ thì hầu hết thuộc thành phần quân phiệt hoặc tài phiệt, nghĩa là những thành phần được ưu đãi và đáng lẽ phải gắn bó với chế độ. Người ta không ghi nhận một cuộc đấu tranh có động cơ kinh tế nào trong suốt thời gian này. Các sinh viên đã chỉ xuống đường vì những lý tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền do ảnh hưởng của văn hóa và truyền thông. Mọi cuộc biểu tình của sinh viên đều bị đàn áp thẳng tay, mỗi lần vài chục sinh viên thiệt mạng, trong khi những cuộc đảo chánh quân sự rất ít khi có người chết hay bị thương. Mùa Xuân 1992, sau một cuộc bầu cử gian dối, lực lượng sinh viên xuống đường đã mạnh gấp bội những lần trước, không phải vì cơ cấu kinh tế đã thay đổi mà vì sự sụp đổ của bức tường Bá Linh và khối cộng sản đã đẩy thế giới vào kỷ nguyên dân chủ. Khí thế đấu tranh cho dân chủ đạt một cường độ chưa từng có, trong khi tập đoàn quân phiệt Thái vừa lung lay như mọi tập đoàn độc tài trên thế giới, vừa mất lý cớ cầm quyền để chống nguy cơ cộng sản. Chế độ quân phiệt Thái cáo chung.
Về mặt kinh tế, Thái Lan đã chỉ phát triển chậm chạp cho tới giữa thập niên 1960, sau đó Thái Lan, nhờ vị trí hậu cần cho đoàn quân Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã nhận được một khoản viện trợ lớn và kinh tế đã có phần khởi sắc, tuy vậy Thái Lan cũng vẫn còn thua xa nước láng giềng Mã Lai. Phải chờ đợi đến sau 1992, khi chế độ quân phiệt chấm dứt, kinh tế Thái Lan mới thực sự cất cánh. Từ đó trở đi người ta mới bắt đầu nói tới Thái Lan như con rồng mới. Cuộc khủng hoảng tài chánh ập tới, đưa Thái Lan trở lại với một tham vọng khiêm nhường hơn. Mùa hè 1998, đúng một năm sau cuộc khủng hoảng, tôi có dịp trở lại thăm viếng Thái Lan và nhận xét một cách rất khác với nhiều người. Tôi thấy đó là một quốc gia dân chủ, với sinh hoạt kinh tế đang được lành mạnh hóa và một tâm lý kinh doanh rất rõ rệt. Trái với nhiều người, tôi lạc quan cho Thái Lan sau này hơn là trước mùa hè 1997.
Điều cần chú ý là Thái Lan đã phát triển mạnh sau khi dân chủ hóa, và từ đó không còn những xung đột đẫm máu như trước nữa. Trường hợp Thái Lan như vậy cũng không phải là một ngoại lệ của qui luật dân chủ đi trước và kéo theo phát triển. Hơn nữa nó còn bẻ gãy một lý cớ quen thuộc của các tập đoàn độc tài là dân chủ đưa tới hỗn loạn. Chính dân chủ đã tránh cho Thái Lan một thảm kịch. Thử tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra vào mùa hè năm 1997, khi một cách rất đột ngột kinh tế gần như sụp đổ hoàn toàn, nếu chế độ vẫn là độc tài quân phiệt ? Chắc chắn sẽ có bạo loạn và đổ máu lớn.
Phi-líp-pin : sự bịp bợm của Marcos
Cho đến năm 1521, khi Magellan, một nhà mạo hiểm người Tây Ban Nha đặt chân đến, Phi-líp-pin là một quần đảo không tên không tuổi với hơn 7.000 đảo và hàng trăm bộ lạc nhỏ.
Quốc gia tân lập này đã hoàn toàn do người Tây Ban Nha tạo dựng ra, tên của nó cũng được đặt theo tên vị vua Tây Ban Nha đương thời. Như thế Phi-líp-pin đã được Tây phương hóa ngay từ thời thành lập. Trước đó không hề có một dấu tích đáng kể nào của nền văn minh châu Á, dù là Phật Giáo, Khổng Giáo, Hồi Giáo hay Ấn Độ Giáo. Hiện nay tôn giáo chính của Phi-líp-pin là Công Giáo, do người Tây Ban Nha mang tới, với trên 60% dân chúng. Tuy là một quốc gia rất mới, nhưng nhờ ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, Phi-líp-pin lại là một trong những dân tộc có tinh thần quốc gia đầu tiên tại châu Á, trong khi Việt Nam và Trung Quốc chỉ có tinh thần trung quân. Các phong trào đòi độc lập đã xuất hiện ngay từ thế kỷ 18 và được nuôi dưỡng bởi những tư tưởng của các nhà văn. Năm 1896, một phong trào dân tộc được ủng hộ rộng rãi đã tuyên bố độc lập. Hai năm sau Tây Ban Nha bối rối phải nhượng bộ trước áp lực của Hoa Kỳ sau khi bị đại bại trong một cuộc hải chiến và đã chấp nhận bán lại toàn bộ quần đảo Phi-líp-pin cho Hoa Kỳ với giá tượng trưng 20 triệu USD. Hoa Kỳ không có truyền thống thực dân và cũng không cần đất đai mà chỉ tìm kiếm các đầu cầu thương mại, nên đã lập tức chuẩn bị trả độc lập cho quốc gia tân lập này. Tuy vậy một nửa thế kỷ tiếp xúc với Hoa Kỳ vẫn không lay chuyển được ba thế kỷ rưỡi do Tây Ban Nha nhào nặn.
Nền văn minh phương Tây mà Phi-líp-pin tiếp nhận vẫn là nền văn minh Tây Ban Nha với những nhược điểm của nó : thiếu tinh thần trách nhiệm và đối thoại, tập tính giáo điều và ưa bạo lực. Có thể nói Phi-líp-pin đã tiếp thu văn hóa phương Tây ở dạng kém nhất. Tuy chỉ có một chế độ dân chủ xô bồ, Phi-líp-pin vẫn tiếp tục phát triển một cách tương đối khả quan - cần nhấn mạnh tĩnh từ "tương đối" - từ ngày được độc lập, năm 1946.
Tình hình Phi-líp-pin đã xấu đi từ 1965 khi Ferdinand Marcos, với sự hỗ trợ của giai cấp giàu có, đã đắc cử tổng thống. Marcos đã khéo dùng mọi thủ đoạn mị dân như tô vẽ thành tích chống Nhật trong thế chiến II, tạo cho mình hình ảnh một anh hùng võ nghệ cao cường, dũng lược hơn người, có vợ từng là hoa hậu, để thu hút quần chúng. Để kéo dài vô hạn định thời gian tại chức thay vì hai nhiệm kỳ bốn năm như hiến pháp qui định, Marcos ban hành lệnh giới nghiêm năm 1971, rồi quân luật năm 1972. Những năm cuối trào của Marcos đã là những năm cực kỳ đen tối cho Phi-líp-pin : loạn quân Hồi Giáo, loạn quân cộng sản, cướp bóc, đàn áp, thủ tiêu và biểu tình bạo động v.v... trong một bối cảnh tham nhũng cực kỳ trắng trợn ; kinh tế Phi-líp-pin hoàn toàn suy sụp và nợ nước ngoài chồng chất. Hoa Kỳ và các định chế tiền tệ quốc tế thấy không còn tiếp tục ủng hộ Marcos được nữa, các áp lực càng ngày càng tăng cao đòi Marcos từ chức, giới giàu có cũng cảm thấy quyền lợi của họ không còn đi đôi với chế độ Marcos nữa.
Giọt nước làm tràn ly là cuộc ám sát lãnh tụ đối lập Benigno Aquino trên cửa chiếc máy bay đưa ông từ Mỹ về nước. Chống đối bùng lên dữ dội, buộc Marcos phải chấp nhận bầu cử lại quốc hội năm 1984 đúng hạn kỳ hiến định. Đối lập dân chủ tuy không giành được đa số nhưng đã thắng lớn tại Manilla. Đây là tiếng chuông báo hiệu ngày tàn của chế độ Marcos vì trước đó, những cuộc đầu phiếu và trưng cầu dân ý luôn luôn đem lại cho ông ta gần như toàn bộ số ghế trong quốc hội và những đa số 80%, 90%. Lúng túng trước áp lực trong nước cũng như ngoài nước, Marcos chơi bạo tổ chức bầu cử tổng thống năm 1986 trước hạn định một năm. Tính toán của Marcos là buộc đối lập phải tranh cử vào lúc chưa kịp chuẩn bị. Marcos đã có lý vì quả nhiên ông ta đã thắng bà quả phụ Cory Aquino trên 500.000 phiếu. Nhưng đối lập dân chủ đã dựa vào hậu thuẫn của trí thức và hỗ trợ quốc tế, nhất là của Hoa Kỳ, đã tự tuyên bố bừa là thắng cử và phủ nhận kết quả của cuộc bầu cử mà họ cho là gian lận, dù sau này các tài liệu chứng tỏ Marcos đã thực sự thắng cử. Quân đội và giới tài phiệt bỏ rơi Marcos, ông ta đào thoát khỏi Phi-líp-pin và chết trong cảnh lưu vong.
Từ đó dân chủ được tái lập, sinh hoạt chính trị và kinh tế dần dần trở lại bình thường, hòa bình cũng dần dần được vãn hồi. Từ đó Phi-líp-pin tiến những bước đều đặn và chắc chắn trên đường phát triển với một mức độ tăng trưởng rất khả quan, và may mắn hơn, không bị tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng châu Á mùa hè 1997. Nhiều nhà bình luận bắt đầu nói tới một "phép mầu Phi-líp-pin". Nhưng điều không may cho người Phi-líp-pin là họ đã không biết rút kinh nghiệm của bài học Marcos và vẫn duy trì chế độ tổng thống, một chế độ rất dễ đưa đến lạm quyền trong những nền dân chủ non trẻ. Sau hai nhiệm kỳ tổng thống bình thường, năm 1998 một tài tử kịch ảnh là Joseph Estrada đắc cử tổng thống và lợi dụng chức quyền để tham nhũng và ăn chơi trác táng, gây nhiều thiệt hại lớn về vật chất cũng như tinh thần cho Phi-líp-pin. Tuy nhiên dân chủ đã được thiết lập và người dân Phi-líp-pin nhiều lắm cũng chỉ phải chịu đựng viên tổng thống tồi này trong một nhiệm kỳ.
Những gì đã xảy ra tại Phi-líp-pin chứng tỏ rõ rệt hai điểm :
Một là, trái ngược hẳn với luận điểm của Marcos, dân chủ đã không đem lại hỗn loạn, nó đem lại h^òa bình và trật tự. Trái lại, chính chế độ độc tài đã đem đến hỗn loạn và suýt nữa đẩy Phi-líp-pin xuống vực thẳm.
Hai là, dân chủ đã đem lại phát triển và một lần nữa dân chủ đã đi trước phát triển.
Indonesia : sự ra đời vội vã của một nước lớn
Nước duy nhất có thể coi là độc tài trong khối ASEAN cho tới gần đây là Indonesia. Nhưng Indonesia cũng là nước lạc hậu nhất trong sáu nước thành viên kỳ cựu của khối ASEAN, với lợi tức bình quân trên mỗi đầu người là 800 USD mỗi năm. Cần lưu ý là con số bi đát này dầu sao cũng cao gấp ba lần lợi tức của người Việt Nam.
Một nước độc tài quân phiệt rồi bị nghèo khổ lạc hậu thì có gì đáng nói ? Indonesia cùng lắm chỉ chứng minh một chế độ độc tài quân phiệt không đến nỗi tai hại bằng một chế độ cộng sản như tại Việt Nam. Nếu có gì cần ghi chú, nhưng ngoài khuôn khổ của cuộc thảo luận ngắn này mà mục đích là tìm ra tương quan giữa dân chủ và phát triển, thì đó là thực ra chế độ quân phiệt tại Indonesia không đến nỗi độc tài như người ta tưởng.
Ngay trong thời gian bị Hòa Lan đô hộ, các đảng phái chính trị vẫn được phép thành lập và hoạt động nhưng họ quá yếu để có thể đe dọa guồng máy cai trị của Hòa Lan. Sau thế chiến II, dưới chế độ Sukarno, các chính đảng còn gặp thời cơ thuận tiện hơn, đặc biệt đảng cộng sản phát triển mạnh nhất. Vào năm 1965, trước khi âm mưu đảo chánh thất bại và bị tiệu diệt, đảng cộng sản Indonesia đã có tới ba triệu đảng viên và hai mươi triệu đoàn viên. Từ năm 1965 trở đi quân đội khống chế chính trường Indonesia nhưng cũng không cấm đoán các đảng đối lập ; báo chí vẫn còn được hưởng một mực độ độc lập tương đối.
Những khó khăn của Indonesia thực ra là những khó khăn của một quốc gia được thành lập một cách vội vã, dựa trên bạo lực và bất chấp đồng thuận. Cho tới khi người Hòa Lan đến, vào thế kỷ 16, Indonesia hoàn toàn không có đặc tính nào của một quốc gia, mà là cả một thế giới phức tạp với khoảng 17.000 hòn đảo lớn nhỏ, trải rộng 5.000 km từ Đông sang Tây và 2.000 km từ Bắc xuống Nam, với hàng trăm sắc dân và thổ ngữ. Vô số vương quốc không tên không tuổi được thành lập rồi bị tiêu diệt. Một cuộc kiểm kê không đầy đủ năm 1939 cho thấy trên quần đảo Indonesia còn có 269 vương quốc hoàn toàn độc lập với nhau. Ánh sáng leo lét của văn minh đã chỉ dừng lại tại hai hòn đảo Sumatra và Java ; càng về phía Đông sự bán khai càng gia tăng. Mặc dầu đã tiến bộ khá nhiều nhờ tiếp xúc với thế giới bên ngoài, phần lớn các bộ lạc trên các đảo phía Đông vẫn còn ở trong tình trạng tiền sử, một số vẫn còn ăn thịt người, chiến tranh giữa các bộ lạc không cần một lý do nào cả vì là một tập quán. Việc thành lập nước Indonesia với lãnh thổ hiện nay trên thực tế chỉ là trao cho đảo Java trách nhiệm khai hóa các đảo miền Đông : Borneo, Irian Jaya, Sulawesi, v.v..., một trách nhiệm hoàn toàn vượt quá khả năng của đảo Java nghèo nàn và lạc hậu. Hoa Kỳ đã phản đối việc thành lập này và đã có lý. Đáng lẽ đã phải đặt các đảo này dưới quyền sở hữu của Liên Hiệp Quốc và sau đó Liên Hiệp Quốc ủy nhiệm cho các quốc gia tiên tiến và giàu mạnh khai phá. Với sự thành lập duy ý chí như vậy, đảo Java không có cách gì để giữ sự gắn bó giữa các đảo ngoại trừ quân lực, cho nên việc quân đội nắm chính quyền có thể coi như cái giá mà Indonesia đã phải trả cho tham vọng thành lập nhanh chóng một nước lớn. Điều đáng lưu ý là quân đội Indonesia do người Hòa Lan thành lập ra và chịu ảnh hưởng của tinh thần Hòa Lan, một tinh thần không quân phiệt chút nào, do đó quân đội Indonesia rất hợp hiến, họ không trực tiếp nắm chính quyền mà luôn đứng sau một chính quyền dân sự. Quân đội cũng tôn trọng chính quyền dân sự đó, chỉ can thiệp trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả là vẫn có một mức độ tự do dân chủ tương đối và quân đội một phần nào đó còn xuất hiện như một bảo đảm cho dân chủ trước những tham vọng chuyên chính của đảng cộng sản và của các lực lượng Hồi Giáo sau đó.
Nếu muốn nhận diện tương quan giữa dân chủ và phát triển thì có lẽ nên nhìn vào sự thay đổi nhanh chóng của đảo Java, trung tâm quyền lực của Indonesia. Nhờ một sinh hoạt ít nhiều dân chủ, hòn đảo bán khai này đã tới một mức độ phát triển khả quan, cao hơn cả Trung Quốc, một nước đi trước họ cả ngàn năm với tài nguyên và nhân lực hơn hẳn. Nếu không mang gánh nặng khai phá các đảo phía Đông chắc chắn đảo Java còn mở mang hơn nhiều. Indonesia, mặc dầu khởi hành rất sau Trung Quốc với những điều kiện khó khăn hơn nhiều, đã phát triển hơn Trung Quốc vì đã mở cửa tiếp nhận các giá trị tự do và dân chủ trong khi Trung Quốc đã chỉ chọn một thứ chế độ Khổng Giáo hiện đại hóa, nghĩa là cộng sản.
Tháng 5/1998, chế độ độc tài quân phiệt Suharto sụp đổ sau gần một năm chao đảo vì cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Một năm sau, một cuộc tổng tuyển cử đã đem lại thắng lợi cho các lực lượng đối lập dân chủ. Cuộc chuyển hóa về dân chủ của Indonesia sẽ không dễ dàng bởi vì tình hình Indonesia quá phức tạp và vì chính các lực lượng dân chủ cũng chưa đủ trưởng thành. Nhưng dù gặp khó khăn thế nào đi nữa, Indonesia cũng đã khá hơn trước và chắc chắn sẽ vươn lên, trừ trường hợp các thế lực quân phiệt một lần nữa phản công bẻ gãy tiến trình dân chủ hóa.
Đài Loan : từ một chiến khu tới một quốc gia
Trường hợp duy nhất tại châu Á có vẻ như chứng minh rằng có thể phát triển mà không cần dân chủ là Đài Loan. Cần nhấn mạnh là có vẻ vì đó chỉ là một cái nhìn phiến diện.
Quả thực từ năm 1949, khi đám tàn quân của Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Đài Loan và thiết lập tại đó một quốc gia ly khai với Hoa Lục, Đài Loan đã chỉ có những chính quyền xuất phát từ Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Hai cha con Tưởng Giới Thạch và Tưởng Kinh Quốc kế tiếp nhau làm tổng thống trong gần bốn mươi năm cho tới năm 1988. Quân luật được thi hành cho tới 1987. Mặc dầu vậy, kinh tế Đài Loan vẫn tiếp tục phát triển một cách mạnh mẽ và hiện nay Đài Loan đã trở thành một nước dân chủ với một sức sống gần tương đương với Tây Âu, với một nền kinh tế lành mạnh hơn hẳn : thất nghiệp hầu như không có, dự trữ ngoại tệ tính trên mỗi đầu người cao hơn hẳn mọi quốc gia trên thế giới. Trường hợp Đài Loan đã được một số người viện dẫn để bảo vệ lập trường cho rằng có thể bỏ qua dân chủ, tập trung mọi sức lực xây dựng kinh tế rồi phát triển kinh tế sẽ đem đến dân chủ. Sự thực như thế nào ?
Đảo Đài Loan cho tới thế kỷ thứ VIII gần như hoang vu, với một số ít thổ dân gốc Mã Lai (điều này cho thấy các sắc dân gốc Mã Lai từ ngàn xưa đã trải rộng khắp Đông Á). Dần dần người di dân từ hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến đã khiến người gốc Hoa trở thành đa số, nhưng những người gốc Hoa này coi họ là người Đài Loan hơn là người Trung Hoa. Từ cuối thế kỷ 15 đảo này đã bị người Tây Ban Nha, rồi Hòa Lan chiếm đóng và khai thác. Giữa thế kỷ 17, sau những đợt di dân lớn từ Hoa Lục, Đài Loan trở thành một vương quốc độc lập, rồi bị nhà Thanh chinh phục và sáp nhập thành một tỉnh của Trung Quốc.
Năm 1895, nhà Thanh thua trận phải nhường đảo này cho Nhật. Lưu Vĩnh Phúc, viên chủ tướng tài ba của quân Cờ Đen từng tận lực giúp Việt Nam chống Pháp, đã cùng với tổng đốc Đài Loan Dương Tinh Tùng tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Đài Loan. Nước cộng hòa đầu tiên tại châu Á này đã bị quân Nhật đánh bật khỏi Đài Bắc trong vòng một tuần lễ, dù Lưu Vĩnh Phúc vẫn còn kháng cự tại miền Nam gần mười năm nữa. Sau thế chiến II, Đài Loan, với khoảng 10 triệu dân, được trao trả lại cho Trung Quốc.
Bước ngoặt lớn của Đài Loan xảy ra năm 1949 khi Tưởng Giới Thạch bỏ lục địa đem gần hai triệu người gồm gia đình, đảng viên và quân đội Quốc Dân Đảng sang đây. Trong những thập niên đầu, Đài Loan không phải là một quốc gia mà là một chiến khu. Lực lượng Quốc Dân Đảng di tản sang đây tự coi là một chính phủ Hoa Lục di tản, với đầy đủ quốc hội, chính phủ và quân đội ; họ vẫn tiếp tục tự nhận là chính quyền của toàn thể Trung Quốc và chỉ coi Đài Loan là một tỉnh. Qui chế chiến khu là một thực tế. Chiến tranh vẫn tiếp tục xảy ra tại eo biển, cạnh các hòn đảo Kim Môn, Mã Tổ, Trần Thành. Bên ngoài thì Hạm Đội 7 của Mỹ túc trực. Cần hiểu rõ tình trạng này khi nhận định về vấn đề dân chủ tại Đài Loan.
Dân chủ là một phương thức sinh hoạt quốc gia cho phép đạt tới một đồng thuận được chấp nhận giữa các khuynh hướng khác nhau dù không thỏa mãn mọi người. Nhưng tại Đài Loan vấn đề đồng thuận không đặt ra. Những người Quốc Dân Đảng sang đây hoàn toàn đồng ý với nhau trên hầu như tất cả và rất đoàn kết trong một mục tiêu chung là chống lại Hoa Lục, dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch mà họ coi là một lãnh tụ anh minh. Vấn đề dân chủ thực sự chỉ đặt ra vài thập niên sau đó, khi những người bản địa Đài Loan đã tiến lên về kinh tế và văn hóa, và đòi hỏi tổ chức Đài Loan như một quốc gia. Trong những thập niên đầu, đoàn người di tản từ Hoa Lục sang hơn hẳn dân bản địa về mọi mặt. Họ là tập hợp tinh nhuệ nhất của Trung Quốc, đồng thời họ cũng mang theo những tài sản rất lớn. Có thể nói vào năm 1949 đại bộ phận của lớp người đã Tây phương hóa cùng với chất xám và tư bản của Trung Quốc đã tản cư qua Đài Loan làm sinh hoạt kinh tế và mức sống Đài Loan gia tăng mau chóng, cải thiện một cách ngoạn mục mức sống của những người bản địa Đài Loan. Đối lập với Quốc Dân Đảng trên đảo Đài Loan cũng không có vì các thành phần cộng sản đã bị tiêu diệt hoàn toàn một năm trước cuộc di tản, vào năm 1948, khi các cuộc bạo động xuống đường bị đàn áp trong một biển máu, với hơn mười ngàn người bị hành quyết trong vài ngày, phần đông là đảng viên cộng sản.
Sự sáng suốt của chính quyền Quốc Dân Đảng là đã hiểu ngay rằng họ sẽ phải biến Đài Loan thành một quốc gia thật sự. Họ đã nỗ lực nâng cao mức sống và trình độ văn hóa người địa phương, mà đại đa số có gốc Trung Hoa, để hội nhập người địa phương vào sinh hoạt chính trị. Mức sống và trình độ văn hóa càng tiến triển họ càng nới rộng tự do và dân chủ, và luôn luôn đi trước yêu cầu. Trường hợp Đài Loan về thực chất là một cố gắng xây dựng một quốc gia và một chế độ dân chủ từ một chiến khu. Điều mà thế giới đang chứng kiến là sự ra đời của một quốc gia thật sự tại Đài Loan.
Thất bại mau chóng của Quốc Dân Đảng tại Hoa Lục cũng như hào quang của chế độ cộng sản và lãnh tụ Mao Trạch Đông sau đó đã khiến dư luận thế giới miệt thị tập đoàn Tưởng Giới Thạch như một tập đoàn bất lực và tham nhũng, nhưng ngày nay chúng ta đã có bước lùi cần thiết để nhìn lại lịch sử cận đại Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch và bộ tham mưu của ông không tồi dở như người ta tưởng. Chính di sản Trung Quốc do nhà Thanh để lại mới là tồi tàn. Kinh tế lụn bại, đất nước phân tán dưới những sứ quân tham tàn và xâu xé nhau. Tưởng Giới Thạch đã phải có bản lãnh lắm mới thống nhất được Trung Quốc, nhưng ông đã thất bại trước Mao Trạch Đông vì thử thách mà chính quyền của ông tự đặt cho mình quá lớn : đó là xây dựng một Trung Quốc theo mô hình dân chủ phương Tây, điều mà người Trung Quốc không hiểu và do đó không chia sẻ. Cuộc tương tranh quốc - cộng tại Trung Quốc cũng như tại Việt Nam chủ yếu là một cuộc xung đột giữa hai mô hình xã hội được đề nghị để thay thế ý thức hệ Nho Giáo đã lỗi thời và sụp đổ. Một bên là mô hình dân chủ kiểu phương Tây và một bên là mô hình cộng sản. Về bản chất, chủ nghĩa cộng sản là một thứ Khổng Giáo cải tiến khá gần gũi với xã hội Nho Giáo : cũng đặt nền tảng trên một chủ nghĩa nửa chính trị nửa tôn giáo, cũng giáo điều độc tôn, cũng tập trung tuyệt đối, cũng khống chế tư tưởng, cũng bóp nghẹt xã hội dân sự và đè bẹp cá nhân, cũng cấm đoán thương mại và sự giàu có, nhưng quan tâm tới quần chúng hơn và có tổ chức tinh vi hơn. Chính vì thế mà chủ nghĩa cộng sản dễ hiểu đối với người dân các nước thuộc văn hóa Khổng Giáo và đã được ủng hộ. Ngược lại mô hình dân chủ phương Tây đòi hỏi một đoạn tuyệt văn hóa quá lớn nên đã không được hưởng ứng. Tưởng Giới Thạch đã thua vì xã hội Trung Hoa sau hơn hai ngàn năm Nho Giáo chưa chín muồi cho thay đổi, chứ không phải vì ông ta kém Mao Trạch Đông. Giờ này chắc không còn ai ngờ vực là nếu Tưởng Giới Thạch thắng, thay vì Mao Trạch Đông, thì Trung Quốc đã khá hơn rất nhiều so với hiện nay.
Không thực hiện được cuộc canh tân theo mô hình phương Tây trên đất nước Trung Quốc bao la và phân rã, phe Quốc Dân Đảng đã thực hiện nó trên khuôn khổ hạn hẹp của Đài Loan và họ đã thành công. Điều cần chú ý là tại Đài Loan chính quyền Quốc Dân Đảng đã luôn luôn chủ động, nới rộng tự do một bước trước khi những thay đổi về kinh tế xã hội đòi hỏi. Chính vì vậy mà Đài Loan đã ổn vững và liên tục tiến lên. Ngay từ 1969, chính quyền Quốc Dân Đảng đã tổ chức những cuộc bầu cử bổ túc các dân biểu địa phương vào quốc hội, các quyền tự do phát biểu và hội họp đã được thừa nhận. Năm 1986, các chính đảng được phép thành lập và tranh cử. Năm 1987, quân luật được bãi bỏ hẳn. Từ 1991 mọi đạo luật của thời kỳ quân luật đều được bãi bỏ, Đài Loan trở thành một nước dân chủ thật sự, và cũng là nước dân chủ nhất châu Á, ngoại trừ Nhật Bản. Đa số những cấp lãnh đạo tối cao của Đài Loan hiện nay là người địa phương. Sự thành công của Quốc Dân Đảng chính là ở chỗ họ đã biết thăng tiến người địa phương và sau đó tự hội nhập vào với người địa phương. Trong cuộc bầu cử quốc hội hoàn toàn tự do và lương thiện năm 1998 họ đã thắng lớn. Họ đã thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 vì chia rẽ chứ không phải vì không được cử tri tín nhiệm.
Trong cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á bắt đầu từ mùa hè 1997, Đài Loan đã là nước ít bị thiệt hại nhất, bởi vì nó là quốc gia dân chủ và lành mạnh nhất trong những nước vừa vươn lên.
Không, Đài Loan không phải là một ngoại lệ của qui luật dân chủ đi trước và tạo ra phát triển. Đó chỉ là quốc gia ra đời trong một trường hợp đặc biệt.
Châu Mỹ La Tinh : một thế kỷ rưỡi trong bóng đêm
Vòng du lịch vội vã một số nước châu Á trên đây đã chứng minh, nếu cần phải lặp lại một lần nữa, là dân chủ, tự do và nhân quyền không hề đưa đến hỗn loạn mà trái lại còn đem tới hòa bình và ổn vững, không hề cản trở mà còn tạo ra và thúc đẩy phát triển kinh tế. Vì vấn đề chủ yếu của chúng ta là nhận diện liên hệ mật thiết giữa dân chủ và phát triển nên có lẽ chúng ta sẽ còn thiếu sót nếu không nhìn qua, dù chỉ là một cách sơ lược các nước châu Mỹ La Tinh.
Các quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên này đã được độc lập từ đầu thế kỷ 19, nghĩa là gần hai thế kỷ nay, nhưng trong hơn một thế kỷ rưỡi đã quằn quại trong nghèo khổ và bạo loạn. Vì sao ? Đó là vì ngay từ khi được độc lập, họ đã phải chịu đựng những chế độ độc tài, với những người hùng oai phong lẫm liệt, tài ba xuất sắc, ngự trị trong hàng mấy chục năm. Người hùng nào cuối cùng cũng đã có công lớn là làm cho đất nước kiệt quệ và phân rã. Các nước châu Mỹ La Tinh đã chỉ vươn lên bắt đầu từ thập niên 1980 khi dứt khoát chuyển hóa về dân chủ. Một lần nữa qui luật dân chủ đi trước và tạo ra phát triển được ứng nghiệm.
Một ngoại lệ : nước Chile. Nhưng đây không phải là ngoại lệ của qui luật dân chủ đi trước và tạo ra phát triển mà lại là ngoại lệ của châu Mỹ La Tinh. Chile đã là nước châu Mỹ La Tinh duy nhất chọn con đường dân chủ rất sớm. Và, trùng hợp làm sao, Chile cũng là nước phát triển hơn hẳn mọi nước châu Mỹ La Tinh khác.
-----------------------
Trong cuộc lược duyệt này chúng ta đã bỏ qua bốn nước châu Á : Miến Điện, Lào, Kampuchea và Việt Nam. Có gì cần nhận định về trường hợp bốn nước này ? Có, và có hai điều mà không ai có thể chối cãi : một là cả bốn nước này đều đã phải chịu đựng từ lâu các chế độ độc tài, đồng thời cả bốn đều là những nước nghèo khổ và tụt hậu nhất trong vùng ; hai là, cả bốn nước đều đã đạt được một số tiến bộ trong những năm gần đây sau khi đã chấp nhận nới rộng một phần nào tự do.
Chú thích thêm về trường hợp Chile
Vào lúc tôi đang viết những dòng này, thế giới đang sôi nổi vì cựu tổng thống Chile Augusto Pinochet bị giữ lại tại Anh và có thể bị dẫn độ sang Tây Ban Nha để bị xét xử về tội ác đối với loài người. Các thủ tục kéo dài và sau cùng Pinochet được phép về nước vì đã già yếu.
Chế độ Pinochet khiến người ta dễ đồng hóa Chile với chế độ độc tài. Thực ra Pinochet chỉ là một ngoặc đơn ngắn trong lịch sử Chile. Chile đã có một chế độ dân chủ lưỡng đảng ngay từ năm 1823. Sau đó thỉnh thoảng vẫn có những người hùng thiết lập những chế độ độc tài nhưng dân chủ vẫn được mau chóng vãn hồi. Chile cũng là một nước có hiến pháp ổn định. Hiến pháp năm 1823 được áp dụng tới 1925, và sau 1925 một hiến pháp dân chủ khác được ban hành và kéo dài tới 1973. Năm 1969, một người cộng sản, ông Salvador Allende, đắc cử tổng thống một cách khó khăn. Bản tính cực đoan và nóng nảy, Salvador Allende đã muốn mau chóng biến Chile thành một nước cộng sản và tỏ ra chống Mỹ kịch liệt. Trong một thời gian ngắn, kinh tế Chile hoàn toàn suy sụp, các công ty ngoại quốc rút ra hoặc chuẩn bị rút ra. Bất mãn tăng cao, dân chúng xuống đường biểu tình phản đối liên tục. Allende còn làm một phiêu lưu nguy hiểm khác là thành lập các đoàn võ trang riêng của mình. Cơ quan tình báo Mỹ, CIA, một mặt ráo riết thúc đẩy chính phủ Mỹ và các công ty Mỹ tẩy chay Chile, mặt khác xúi giục quân đội và các đảng cánh hữu lật đổ Allende. Năm 1973, quốc hội Chile, định chế đã chung quyết bầu ra Allende sau khi cuộc bầu cử tổng thống qua phổ thông đầu phiếu không đem lại kết quả ngã ngũ, biểu quyết coi Allende không còn là tổng thống hợp pháp nữa. Quân đội, dưới quyền tướng Pinochet, coi quyết định này như một lệnh truất phế và tiến đánh dinh tổng thống, Allende bị giết chết. Về mặt thuần túy pháp lý, cuộc đảo chánh của Pinochet không phải hoàn toàn phi pháp. Pinochet chỉ trở thành bất hợp pháp sau khi ông ta nắm được chính quyền, giải tán quốc hội và thi hành chính sách khủng bố. Pinochet đã lãnh đạo Chile với bàn tay sắt, đàn áp thô bạo các phần tử cộng sản và thân cộng, thủ tiêu hơn 3.000 người. Nhưng chính Pinochet cũng chuẩn bị để vãn hồi dần dần dân chủ. Năm 1988, sau một cuộc trưng cầu dân ý trong đó ông thất bại, Pinochet nhường quyền cho một chính quyền dân sự, nhưng vẫn giữ quân đội và đã chỉ chấp nhận từ bỏ quân đội sau khi đã đòi được làm thượng nghị sĩ suốt đời để hưởng qui chế bất khả xâm phạm.
Chế độ độc tài của Pinochet kéo dài tổng cộng 17 năm, tuy nhiên trong mười năm về sau các đảng không cộng sản vẫn được tự do hoạt động. Trong lịch sử gần hai trăm năm của nền dân chủ Chile khoảng thời gian độc tài của Pinochet tương đối ngắn. Việc Pinochet bị dư luận thế giới và đa số nhân dân Chile lên án là bằng chứng rằng nhân loại đã văn minh hơn. Nếu cứu cánh có thể biện minh cho phương tiện thì chắc chắn Pinochet không thể bị lên án. Ông ta đã sử dụng những biện pháp bạo ngược nhưng đã đạt được cứu cánh tốt đẹp là ngăn chặn âm mưu thiết lập một chế độ chuyên chính, ổn định được xã hội, phát triển được đất nước và sau cùng xây dựng được dân chủ. Nhưng ngày nay dân chủ đã đủ trưởng thành để kết án cả những kẻ đã phục vụ nó bằng những biện pháp thô bạo. Những tập đoàn độc tài không bằng Pinochet, nghĩa là không những đã thô bạo mà còn làm cho đất nước kiệt quệ đi, càng đáng bị lên án một cách quả quyết hơn.