Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Trong quá trình truyền bá đo Công giáo Vit Nam, các v tha sai ngoi quc ngoài vic phi đi đu vi nhng chính sách bt đo, cm cách ca các vua chúa Vit Nam Đàng Trong cũng n Đàng Ngoài, h còn phi tn dng n lc tri thc đ vượt qua rào cn ca văn t, ngôn ng nhm tìm ra phương thc chuyn ti ni dung ca Đc Tin đến vi qun chúng trên quê hương chúng ta. Công vic này có nhiu khó khăn nhưng qua đó biu l quyết tâm của các ngài trong n lc truyn bá Tin Mng theo lý tưởng đã la chn.

chunom2

Các giáo sĩ Dòng Tên đã phiên âm và biến đổi chữ Nôm thành một thứ chữ biểu âm La tinh hóa về sau gọi là chữ Quốc ngữ. Như vậy chữ Quốc ngữ chính là chữ Nôm được La tinh hóa và hiện đại hóa. Ảnh minh họa tư liệu chữ Hán Nôm trong các thư khố của Pháp.

Để vượt qua nhng tr ngi ca vic truyn thông giao tiếp và trong khi ch Quc ng còn trong giai đon hình thành, các nhà truyn giáo đã biết vn dng ch Nôm là mt th văn t s dng ch Hán đ ghi li cách đc tiếng Vit mà người Vit Nam vn còn dùng khá ph thông trong xã hi bên cnh ch Hán trong sinh hot văn chương và giao tiếp hng ngày, qua s cng tác ca mt s thy ging am tường Nho hc đ ghi li kinh bn, giáo lý trong các công tác mục v.

1. Chữ Nôm, mt thoáng nhìn li

Chữ Nôm là văn t ghi li tiếng nói ca người Vit Nam, theo s bin gii đơn gin ca mt nhà nghiên cu, có l do ch Nam đc chch đi, "ch Nôm" có nghĩa là "ch ca người phương Nam, đi vi "ch Hán" của người phương Bc, tc Trung Hoa" (1).

Trong lời gii thiu cuĐại T Đin Ch Nôm của c Vũ Văn Kính, mt tác gi Công giáo ngoài 80 tui trong nước, ông Mai Quc Liên đã viết rng "chữ Nôm là mt th ch ‘ghi âm’, nhưng ghi qua vic dùng ch Hán tuy nhìn chung có tính qui lut, nhưng còn biết bao cái ngoài qui lut, biết bao cái bit l, ngu nhiên, thay đi qua tng thi, tng tác phm. Nó chưa h được đin chế hóa, chưa h được hoàn thin đến cùng, mc dù nó được hình thành khá lâu, ít nht cũng đã có lch s mười thế k" (2).

Theo Giáo sư Đoàn Khoách, "chữ Nôm là loi văn t xây dng t cht liu ch Hán, do đó trước khi tìm hiu cách cu to ch Nôm, chúng ta th tìm hiu sơ qua cách kết cu ch Hán mà người xưa gi là lc thư六書" (3). Giáo sư Đoàn Khoách cũng cho biết : "Trong việc cu to ch Nôm, ngoài vic dùng ch nghĩa Hán âm Vit (gi là Hán t Vit đc hay Vit đc hoc Hán-Vit) như gia đình 家庭 hay xã hi社會 v.v…, trước đây người Vit thường ch mượn ba trong sáu cách của lc thư là Hi ý, Hình thanh, Gi tá. Tuy nhiên, trong quá trình chuyn biến ca lch s, do âm đc ch Hán ca người Vit có sai khác, nên phn ng âm lch s Vit Nam cũng có mt nh hưởng nht đnh trong vic cu to ch Nôm" (4).

Theo Trần Văn Giáp, trong quyLược kho vn đ ch Nômthì "chữ Nôm là mt th ch khi vuông ca Vit Nam dùng đ phiên âm tiếng Vit, mi xut hin trên đt Vit Nam t cui đi Hán Minh đế, dưới thi thng tr ca Sĩ Nhiếp, thế k th II sau công nguyên, do người Vit Nam t sáng to ra" (5). Ý kiến ca Trn Văn Giáp là da vào quan đim ca sư Pháp Tính 法性 tác gi cuChỉ Nam Ngc Âm Gii Nghĩa指南玉音解義 được khc in vào năm Tân t th 22 triu Lê Cnh Hưng (1761). Bài tựa sách này có đon như sau : "Từ khi thánh nhân lp ra li ch có b phn đ ch nghĩa, ch tên gi cho chính xác, khiến cho người Trung Quc d hiu, còn các dân tc khác thì hãy còn khó hiu. Mãi đến thi Sĩ Vương sang đóng nước ta trong khoảng hơn 40 năm, ra sc giáo hóa, gii nghĩa bng tiếng Nôm đ thông hiu tng đon, tng câu, hp li thành thơ ca quc ng, đ ghi tên gi, ghép vn làm thành sách Ch Nam Phm Vng指南品彙 chia ra thượng h 2 quyn…" (6).

Dưới thi T Đc (1848-1883), Văn Đa cưNguyn Văn Xan 文多居士阮文餐 cũng đ cp niên đi thành lp ch Nôm trong cuĐại Nam Quc Ng大南國語 ta đ năm T Đc th 33 (1880) trong có đoạn (dch) : "Nước ta t đi Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp) đã đem dch tiếng Nam bng tiếng Bc (Trung Quc) ; trong s tiếng dch y, có nhiu tên còn chưa rõ, như "thư cưu" (chim uyên ương" chng biết gi là chim gì, "dương đào" (cây khế) chng biết gi là cây gì…" (7).

Những người chung ý kiến vi Trn Văn Giáp có Lê Dư, Nguyn Đng Chi.

Các học gi P. Pelliot và L. Cadière cho rng ch Nôm được sáng chế t cui thế k XIII, dn đon sau đây trong sách Hải đông chí lược海東志畧 ca Ngô Thời Sĩ : "Ngã quốc văn hc đa dng quc ng t Thuyên thy" (văn học nước ta dùng nhiu quc ng bt đu t ông Thuyên) ; li nêu nhng danh sĩ đng thi vi Nguyn Thuyên như Nguyn Sĩ C có tQuốc Âm thi phú, Chu Văn An có Quốc Ng thi tp… để minh chứng nhng hot đng văn ngh nói trên nm trong phong trào lưu hành thi phú bng tc ng trong thi đi nhà Trn. T đó hai ông suy lun rng ch Nôm là th ch đ biên ký tc ng Vit Nam, có l được sang chế t cui thế k th XIII (trong đi nhà Trần) là mt thi kỳ văn hc tc ng (quc âm thi) rt phát đt ti Vit Nam (8). Ch tc ng nói đây xin hiu là tiếng Vit s dng hng ngày. Người ta cũng tương truyn câu chuyn Nguyn Thuyên, (bt chước Hàn Dũ năm 819) làm bài thi đuổi cá su xut hin sông Phú-lương (Nh Hà), sau đó được vua Trn Nhân Tông đi tên Hàn Thuyên, nhưng theo Trn Văn Giáp trong Lược truyn các tác gia Vit Nam, tập I, bài thơ đui cá su in trong T Dân Văn Uyn hi đu thế k XX nói là của Hàn Thuyên và được mt s sách báo in li, đúng ra là ca Phó bng Nguyn Can Mng ngy to đ đùa chơi, tiếc rng li ci chính in trên mt s báo sau đó ít người được đc nên nhiu người vn tưởng là ca Hàn Thuyên thc. Song nếu đc k s thy toàn bài không có lấy mt t ng c, thơ cũng không viết theo th Hàn lut, khó có th tin là ca Hàn Thuyên" (9).

Theo học gi Nguyn Văn T, ch Nôm được s dng vào thế k VIII là vì Phùng Hưng khi nghĩa đánh dit Cao Chính Bình năm 791, chiếm ph l, được dân chúng tôn là "B Cái đi vương" 布蓋大王. V ý nghĩa ch B Cái, sách Cương Mc chua rằng : "C tc hiu ph viết B, mu viết Cái" (theo c tc nước ta gi cha là B, m là Cái). H Nguyn ly đon s y như mt thc l chữ Nôm đã được s dng vào thế k VIII và đt niên đi thượng hn (terminus ad quem) ca ch Nôm vào cui thế k th VIII. Đào Duy Anh, trong cuChữ Nôm, ngun gc-cu to-din biến đã phản bác ý kiến ca Nguyn Văn T khi cho rng "Việt s lược là sách tóm tắt b S ca Lê Văn Hưu không thy chép hiu B Cái Đi Vương, mà bia đ đn th Phùng Hưng xã Cam lâm, huyn Phúc th, tnh Hà tây dng năm Quang Thái th 3, tc năm 1390 đi Trn Thun-tôn cũng không thy chép hiu y. Mãi đến sách Đi Vit Sử Ký Toàn Thư thi Lê sơ mi thy chép hiu B cái đi vương. Hiu nước thi nhà Đinh là Đi c vit cũng đến by gi mi thy chép. Như thế thì cũng chưa có th tin chc rng nhng ch nôm b và cái đã có t thế k th VIII" (10).

Cụ S Cung Lê Dư cho rng quc hiu Vit Nam hai triu Đinh và Tin Lê là Đi C Vit 大瞿越 . Đó là mt thí d ch Nôm được s dng trong thế k X (11).

Theo ý kiến ca Giáo sư Chen Ching Ho 陳京和 (Trn Kinh Hòa) vi chuyên môn v lch s các nước Đông Nam Á, tng đm trách chc v Giáo sư môn S hc ti các đi hc : Đi hc Keio, Tokyo, Japan, National University Taipei, Taiwan, Soka University Hachioji, Tokyo, Japan, Korea University, Seoul, Korea, Chinese University of Hong Kong, Southern Illinois University, Carbondale, Illinois, USA, và các đại hc Sài Gòn, Đà Lạt, Huế… ch Nôm được sáng chế sau khi Vit đc thành lp, bt đu t triu đi nhà Lý (12).

Khởi nguyên ca ch Nôm, theo Giáo sư Chen, phi vào giai đon sáng chế ch hình thanh mi là hp lý và thích đáng. Mun gii quyết niên đi sáng chế ch Nôm, phi kim tho hai vn đ : niên đi hoàn b ca "khi th" ch Hán và niên đi Vit ng áp dng Hán ng làm ng vng.

Vấn đ th nht, theo kết qu nghiên cu ca Văn Hu, mt hc gi Trung Hoa (13) thì ch Nôm dt khoát không th xut hin vào thi c đi. Vn đ th hai, theo kết qu nghiên cu ng âm hc lch s tiếng Vit ca H. Maspéro li cho biết gn mt na ng vng trong tiếng Vit là nhng tiếng mượn ca Hán ngữ. Tuy nhiên đi đa s Hán ng li truyn nhp vào Vit ng mt thi đi tương đi mun và phi qua trung gian ca Vit đc (âm Hán-Vit), nghĩa là sau khi có cuc phân ly chính tr gia Trung Quc và Vit Nam, mi được thành lp. Có điu, hai vương triều đc lp đu tiên ca Vit Nam là nhà Đinh (968-980) và nhà Tin Lê (980-1009) đu b ni tranh quá nhiu và mau chóng b lt đ, nên phi ch đến nhà Lý (1010-1225) mi xut hin mt vương triu tương đi lâu bn và n đnh. S chnh đn v chế đ văn vật, s xut hin cuc vn đng văn hóa, s thiết lp chế đ khoa c đu bt đu t triu đi nhà Lý. Sách Lịch triu hiến chương loi chícủa Phan Huy Chú cũng khi bút t triu Lý. Bi thế Giáo sư Chen suy lun rng Vit đc đi khái được thành lp trong thời đi nhà Lý.

Cũng nên thấy thêm rng hin nay phn nhiu tiếng mượn ca Hán ng trong t vng Vit ng đu thoát thai t Vit đc. Hin tượng y chng t rng nhng tiếng mượn y được truyn vào t vng Vit Nam trong thi kỳ Vit Nam đc lp. Điu đáng chú ý nữa là trong quy chế ch Nôm, các ch Hán gi tá hoc hu hết thanh phù ca ch Nôm đu căn c vào Vit đc c. Do đó mà Giáo sư Chen đoán đnh niên đi thượng hn ca ch Nôm là bt đu t triu đi nhà Lý" (14).

Có lẽ ai cũng biết s khó khăn ca ch Nôm khi mun hiu nó thì phi hc ch Hán trước, tuy vy đến người Hoa cũng không th viết được hoc đc được ch Nôm. L dĩ nhiên, biết được ch Nôm s giúp cho vic hiu biết thêm trong phm trù nghiên cu s hc hay văn học, tôn giáo hoc các ngành ngôn ng hc khác.

Trong cuốn Lược kho vn đ ch Nôm, Trần Văn Giáp (1902-1973) đã viết : "Chính Ngô Thời Nhim, thế k th XVIII, đã phi nói trong bài ta sách t đin ca ông : "故我國字較難於中國 C ngã quc t hiu nan ư Trung Quốc ("Chữ nước ta so ra khó hơn ch Trung Quc…") . Đó là nhng lý do chính khiến cho ch Nôm không còn có th thông dng d dàng được. Nhưng, mc du thế, do s tranh đu không ngng ca nhân dân, ch Nôm vn đã được s dng. Nó đã đng thi tự phát với s tiến trin ca ng ngôn dân tc và văn hc c đin Vit Nam. Cho nên, chúng ta không th không nghiên cu ch Nôm mt cách sâu rng đ thu tàng ly vn c quí báu ca ta v mi lãnh vc" (15).

Trong khi đó Giáo sư Đoàn Khoách lại đã viết : "Nhưng cái ưu đim ln nht ca ch Nôm là ghi âm được tiếng Vit mt cách tương đi trung thc, trong khi ch quc ng ngày nay chưa xut hin. Nh thế mà ngày nay người Vit biết được phn nào tình cm và suy tư ca t tiên mình. Ngoài ra chữ Nôm có th phân bit được tiếng Vit đng âm d nghĩa mà thường rt khó phân bit, ví dmay rủi vmay vá, bụng dạ với vâng d, đầđủ với đu đủ, vợchồng vớchồng chất, v.v… Ưu đim này thì ch quc ng hin nay chưa bì được… Lch s ch Nôm ở Việt Nam đã có gn chín, mười thế k nay, các loi s liu bng ch Nôm không nhng có giá tr v phương din s hc, mà còn có giá tr v nhiu phương din khác na như ngôn ng, phong tc, xã hi, kinh tế, triết hc, văn hc v.v… mà các hc gi đi nay cần sưu tm, khai thác (16).

Như vy, ch Nôm là ngun ký thác tình cm và suy tư ca t tiên qua trường kỳ lch s mà con cháu là chúng ta cn có bn phn tìm hiu và quý trng bo lưu. Theo cun sách ca Đào Duy Anh được nhc trên, hiện nay ti Thư vin Khoa hc Xã hi Hà Ni còn tàng tr khong 1186 cun sách ch Nôm, đó là mt kho tàng văn hóa cn được s dng khai thác.

Tiếp đây là ý kiến ca mt người ngoi quc nhưng cuc đi đã cng hiến nhiu cho s nghip văn hóa dân tc Việt Nam, Giáo sư Chen Ching Ho cũng đã viết rng : "Sở dĩ chúng tôi đưa vn đ ch Nôm ra tho lun, là vì chúng tôi mun nhn mnh đến các giá tr các loi s liu bng ch Nôm v phương din s hc. Đưa ra mt vài nhn thc v nguyên lai và cu to ca ch Nôm, là ct đ tin vic đc và gii thích văn Nôm, vì văn Nôm là mt di sn văn hóa ca Vit Nam" (17).

Luận đim ca Giáo sư Chen Ching Ho trên khiến chúng tôi nh li mt câu vè ca người dân Bình Tr Thiên v các c Ngô Đình Khả, c Nguyn Hu Bài v vic "đày vua" và "đào m". Các câu vè đó thường viết : "Phế (đày) vua không Kh, đào m không Bài". Ý muốn nói c Ngô Đình Kh phn đi vic người Pháp phế vua Thành Thái, và c Nguyn Hu Bài phn đi vic khâm s Mahé đào m vua Tự Đc. Trong cuĐại Nam Thc Lc Chính biên Đ lc k Ph biên, do Quốc s quán Triu Nguyn biên son, câu vè đó được in li bng ch Nôm và chúng tôi đc thy là : "Bỏ vua không Kh, bi m không Bài" (18). Chbỏ viết chbổ đbỏchữbới (phương ng Bình Tr Thiên thường dùng chbớithay vì chữđào) viết ch bãi đc Nôm là bới. Thí dụ va nói đây cũng có cơ duyên giúp gii thích đọc s (nếu biết ch Nôm) đính chính được câu nói theo đúng nguyên văn ca nó.

Trong một bài báo có tên Những li th ca Lê-Li (văn Nôm đu thế k 15) của c Hoàng Xuân Hãn, đăng trên Tp chí S Đa, s 1 ca Nhóm Giáo sư, Sinh viên Đi Hc Sư Phm (Nguyễn Nhã) Sài Gòn, 1966, tác gi cho biết "nếu qu rng các bài nôm ny có t đi Lê Li, và không b sao li tht-chân, thì đây là hin vt đc nht ca Vit-ng trước nay già 550 năm" (19). Đây là một bài nghiên cu có giá tr vi s phân tích cẩn trng ca mt hc gi uyên bác, và cũng là mt cng hiến rt quý báu cho gii nghiên cu văn s hc Vit Nam v ch Nôm và văn Nôm.

2. Chữ Nôm vi đo Công giáo trong giai đon thế k XVII-XX

Theo dõi quá trình xuất hin ca ch Nôm trong lch s văn học nước ta như trên, chúng ta cũng không l gì khi thy các giáo sĩ người nước ngoài ln đu tiên khi đến nước ta truyn đo đã nhìn thy ch Nôm như là mt li khí có sn cho các d tính truyn giáo ca mình.

Có một cun giáo lý tiên khi viết bng chữ Nôm mà nay đã mất, được đ cp ti trong bc thư đ ngày 17/12/1621 ca Tha sai Gaspar Luis ghi li như sau :

"Cuốn giáo lý mà người ta đã biên son bng tiếng Đàng Trong đã giúp ích nhiu lm bi vì không nhng tr em hc thuc lòng cun giáo lý đó, mà người ln cũng hc. Cho ti đây các giáo hu ch dùng tràng ht đ đeo vào c cho người ta thy mình là người có đo. Nay h dùng tràng ht đ đc kinh…" (20).

Nhận thc s quan trng trong vic dy cho các bn đo tân tòng hc giáo lý cho nên "các thừa sai Dòng Tên, vì thế, ch my năm sau khi ti Đàng Trong, đã cho son tho ngay mt cuốn giáo lý bng tiếng Vit ‘không nhng cho tr em hc thuc lòng mà còn cho người ln hc na. Trong cun giáo lý này không nhng ch có nhng điu cn biết v đo, mà còn có nhng kinh đ đc. Khi nói v li ích ca Cun giáo lý bng tiếng Đàng Trong này, trong báo cáo ngày 17/12/1621, Linh mục Gaspar Luis viết : "Cho ti nay các giáo hu trong khu vc này ch dùng tràng ht đeo c đ chng t mình là người Công giáo ; nay người ta dùng đ đc (nh các kinh trong cun sách nói trên".

Nói thêm về cun giáo lý này, tác giả Trương Bá Cn viết : "Cuốn giáo lý nói trên đây chc chn được viết bng ch Nôm là ch ph biến lúc by gi. Vào thi đim (trước 1621) này, không biết là ch Quc ng đã hình thành đ đ viết mt cun giáo lý hay chưa ; nếu có thì cũng ch chép mt ít bn cho các tha sai nước ngoài s dng mà thôi. Cho ti nay, chưa ai tìm thy du vết ca nhng cun giáo lý đó. Mt cun giáo lý mà tr em có th hc thuc lòng được chc chn không phi là đ s và đy đ như cun giáo lý ca Linh mc Rhodes xuất bn Roma năm 1651" (21).

Như vy cun sách giáo lý bng ch Nôm này xut hin năm 1621 do công sc ca Linh mc Buzomi và Francisco de Pina đã ti Hi An năm 1616, góp công son tho cùng vi các v khác cho đến năm 1621, đặc bit là công ca mt vài người trong gii thượng lưu đã gia nhp đo và nhng v này là nhng ht nhân sơ khi cho tiến trình hình thành chế đ "thy ging" trong giai đon v sau.

Nhắc đến cun giáo lý ch Nôm này, Linh mc Đ Quang Chính trong bài viế"Lòng nhiệt thành ca bn đo Vit Nam" cho biết tháng 4/1627, cha Đc L ging đo vùng An Vc và Vân Nô, t và hu ngn sông Mã, Thanh Hóa, ra ti cho 200 người tân tòng trong s có mt v sãi 85 tui thông tho ch Hán, gii Nôm, rt đo đc và rng rãi. Ngài thường xuyên nh C chép kinh sách và Cha Đ Quang Chính cho biết có l đây là sách kinh bng ch Nôm do cha F. de Pina son Hi An khong 1620-1625 ? (22).

Nói chung, đối vi nhng người thuc tng lp quý tc Vit Nam như thuc gia đình vua chúa, quan chc đu là nhng người có trình đ hc thc cao nên vic s dng ch Nôm đ trình bày tư tưởng, din đt tâm tình không phi là điu khó khăn hay tr ngi gì c. Linh mc Nguyn Khc Xuyên cũng k li mt câu chuyện liên quan đến Cha Đc L như sau : "Vào năm 1627, khi ngài vào đất Bc được bn tháng, có một bà thuc hoàng tc, "ch chúa Trnh Tráng" gia nhp Ki-tô-giáo, giáo sĩ Đc L đt tên là Catarina. Bà này thông tho văn chương thi phú. Bi đó bà đã viết một tp thơ, k li lch s cu ri, t to thiên lp đa cho ti Chúa thăng-thiên (23) và còn thêm mt đon vnh cuc truyn giáo ti Vit Nam…" (24). Đây có l là tp thơ Nôm đu tiên mang tính tôn giáo do mt n sĩ viết. Tiếc thay tên tui người n sĩ này không được đ li trong kho tàng văn hc công giáo Vit Nam.

Trong cuốn sách Người chng thứ nhtnhà văn Phạm Đình Khiêm đã có viết "bà Công chúa Ca-ta-ri-na, em chúa Trịnh Tráng, là mt n thi sĩ, son quyn tiu s Chúa Giê-su bng thơ nôm" (25).

Giáo sư Trn Văn Toàn đã viết v các linh mc tha sai như sau : "Các giáo sĩ Tây phương thì ngay thế k XVI đã hc tiếng Vit đ nói vi người dân. Girolamo Maiorica đã cng tác vi người Vit mi theo đo đ son sách v bng ch Nôm cho người mình đc" (26).

Nói đến Girolamo Maiorica, Linh mc Thanh Lãng cho biết tuy không viết sách bng ch quc ng nhưng ông đã đng ra biên tp mt t sách tôn giáo gm hơn bn chc cun viết bng ch Nôm thời gian t 1631-1645. Girolamo Maiorica là người Ý sinh ti Napoli, gia nhp Dòng Tên năm 1605, đến năm 1619 được sai sang Goa đ truyn đo và đó cho đến cui năm 1623, ông ri Goa qua Macao, ri đến Vit Nam, có l ti hi cng Hi an và đó 5 năm. Năm 1629 ông bị trc xut nhưng đã rt thông tho tiếng Vit Nam. Năm 1631, ông li theo mt tàu B đào nha mà vào Bc Kỳ và sng Bc Kỳ khá lâu. G. Schurhammer cho biết Maiorica chết ngày 27/1/1656. Trong thi gian theo hc nước ngoài, Linh mục Thanh Lãng đã chụp nh được 12 tác phm do ông Maiorica biên tp ti Thư vin Quc gia Pháp (27).

Các sách của Majorica thì mt s còn được lưu gi Thư vin Quc gia Paris với 14 nhan đ. Theo tài liu ca Dòng Tên thì Majorica đã biên son 48 cun sách đ loi. Nhưng nhng cun sách này là do Majorica biên son và viết thng ch Nôm hay ông đã đc cho các giáo hu thông Nho và gii Nôm chép li ? (28). Tác gi Trương Bá Cn cho biết các sách ch Nôm ca nhóm Majorica, ti Thư vin quc gia Pháp, đã được Linh mc Nguyn Hưng ln lượt cho nhân bn kèm theo bn đc ch quc ng trong t sách "lưu hành ni b" (29).

Trong tiểu mc "Ch Nôm là gì", tác gi Thái Gia Kỳ, trong cun sách Chữ Hán, Tiếng Hán Vit và sự vận dng tiếng Hán Vit trong tiếng Vit(Philadelphia, 2018) của ông, có đ cp đến mt dòng v ch Nôm s dng trong Công giáo Vit Nam : "Ngay cả đo Công giáo, cũng đã có tác phm Sm truyn ca ca Ly Y Đoan viết năm 1670, dùng trong vic truyn giáo" (30). Đoạn văn này cho mt ý nim rt khái quát thiết tưởng cn phi trin khai thêm.

Nội dung ca câu văn trên đây mang li cho chúng tôi mt s ý nim đó là ba ch "sm truyn ca" và tên Ly Y Đoan. Người công giáo Vit Nam cách nay c trăm năm thường hay dùng cm t "Sm truyn mi" và "Sm truyn cũ" đ ch hai cun sách Cu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament) cũng gi là sách Phúc Âm (hay bây giTin Mng) (31). Còn tên Ly Y Đoan vốn là tên L-Y Đoan mà ông Thái Gia Kỳ viết sai, là Louis Đoán, mt thy ging cao tui đã được Giám mc Lambert Đàng Trong phong chc linh mc năm 1676 (32). Gii nghiên cu văn hc Công giáo trong nước đã nói rõ v L Y Đoan trong mt cun sách có tên Về sách báo ca tác gi Công giáo (33).

Trong bài "Đôi lời giới thiệu" V mt s sách cũ do người Công giáo viết ra t thế k XVII đến cui thế k XIX, Giáo Sư Nguyn Văn Trung viết : "Sấm truyn ca" ca Thy c L Y Đoan (1670) nguyên tác là bn nôm hin nay tht lc, ch còn bn quc ng. Theo chúng tôi đây là mt tác phẩm có ý nghĩa ln vì tác phm phn ánh mt n lc Vit Nam hóa (Tam giáo, võ thut Vit Nam, văn hóa dân gian, v.v…) đ din t Kinh Thánh. Có th bn văn đã được sa đi qua các thi đi nên bn hin có làm người đc nghĩ đến nhng truyn nôm ni tiếng thế k XVIII, XIX" (34).

Giám mc Lambert đã ln lượt phong chc :

- năm 1668 cho hai linh mc Giuse Trang và Luca Bn ;

- năm 1672 cho linh mc Manuel Bn ;

- năm 1676 cho Linh mc Louis Đoán hay L Y Đoan.

Bn linh mc người Vit này nguyên là thầy ging ca các tha sai Dòng Tên.

Trong lãnh vực tôn giáo, ch Nôm được các giáo sĩ ngoi quc khi đến nước ta truyn đo, n lc hc và s dng đ biên tp các sách giáo lý, các kinh bn đc trong thánh đường và trong gia đình, h đo hng ngày. Chm của đo Công giáo có mt lch s dài lâu t thế k XVII đến gia thế k XX, vi rt nhiu công trình nghiên cu, biên tp kinh sách, tư liu còn đ li hàng trăm cun trong thư vin ca Hi Tha Sai Paris Pháp (Mission Étrangère de Paris), trong s đó có khoảng 20 cun sách viết bng ch Nôm do Giáo sĩ Girolamo Maiorica, người Ý, ch trương biên tp t đu thế k XVII (35). Có tư liu nói s sách này nhiều hơn (khong 48 cun) mà mt s còn lưu gi ti Thư vin Quc gia Paris (36).

Ngày nay người ta cũng biết đến tên tui rt nhiu các v giám mc, linh mc ngoi quc hay bn x, các thy ging, các v túc nho công giáo đã đ li rt nhiu tác phm viết bng ch Nôm, ví d Giám Mc Bá Đa Lc (Pigneau de Béhaine) viếThánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngbản ch Nôm được in ti Qung Đông năm 1774, Giám mc Taberd biên son cuTự v Hán-Vit-Latinh hơn 900 trang (tàng tr ti văn kh Hi Tha Sai Nước Ngoài ti Paris) có s cng tác ca Thánh Linh mc Phan Văn Minh. Trong cun t v này, theo Giáo sư Trn Văn Toàn, nếu b phn tiếng Latinh ra, thì cũng còn quan trng vì va dùng ch quc ng va dùng ch Nôm. Ch quc ng thì ghi được mt cách khá chính xác cách phát âm, còn ch Nôm thì tuy không ghi được cách phát âm, nhưng cũng là kết tinh ca my thế k ông cha chúng ta c gng đ t lp v văn hóa đi vi người Hán tc (37).

Trong quyểHoa trái ở Phương Đông, Alexandre de Rhodes (1593-1660) và công cuc truyn giáo thi kỳ đu ca Dòng Tên ti Vit Nam bằng tiếng Đc, linh mc Dòng Tên Klaus Schatz viết rng : "Chữ Nôm phát trin k t thế k XV, sau khi Vit Nam hoàn toàn thoát khi s thuc Trung Hoa. Khi đu các nhà truyn giáo cũng dùng ch Nôm c th vào năm 1620 Hi An, đ son sách giáo lý, nhưng sách này đã không được in và đã b tht lc" (38). Cun sách giáo lý này có l là công trình ca cha Francisco de Pina, người B Đào Nha, khi làm vic giáo đim Dinh Chiêm (Qung Nam).

Theo Linh mục Nguyn Hng trong quyLịch s truyn giáo Vit Nam, "Chúng ta còn phải k nht là nhng cun sách bng tiếng Vit mà các cha viết cho giáo dân và cho các thày ging. Đó là nhng cun sách đu tiên trong t sách văn chương công giáo Vit Nam. Ngoài cusách bổn của cha Đc L viết bng ch quc ng, in Roma, còn các cuốn khác bng ch nôm, th ch thnh hành ca thi đó. Hoc các tha sai tho bng ch quc ng đu tiên đ các thày ging viết ra ch nôm, hoc đc cho các thày viết, mà ta có th đoán đó là trường hp cha Buzomi và De Pina cho ra đi cun sách về đạo lý công giáo đu tiên bng tiếng Vit Nước Mn, Qui Nhơn, hay trường hp cha Đc L viết cun Ngm 15 s thương khó Đc Chúa Giêsu… Hoc do chính tha sai viết bng ch nôm, như nhng cun ca cha Majorica, nhưng chc chn cha cũng được s cng tác của các thày ging" (39).

Theo giáo sư Trn Văn Toàn "chữ Nôm khó hc thì h (các giáo sĩ Châu Âu) chu khó hc, ch không dám coi thường, càng không dám cho là mách qué, như các nho sĩ ch biết chu phc có người Hoa. Họ thc biết tôn trng vn liếng ch Nôm ca ta, cũng như h đ cao kho tàng Hòa văn (ch viết ca người Nht). Khi viết sách v cho người Vit v nhng điu rt tôn nghiêm như tôn giáo, h đã dùng ngay ch Nôm (như trong các tác phm ca Girolama Maiorica, và người công giáo tiếp tc viết, in và dùng sách ch Nôm cho đến gia thế k XX" (40).

Trong quá trình sử dng ch Nôm, mt s danh t trong công giáo được chuyn âm t tiếng La tinh hay B đào nha, thí d câu-rút t chcruxnay được chuyn thành thánh giáchữ evangelium thành ch phúc-âm, chữ spiritus sanctus đi ra thánh thầndo sự đóng góp ca c linh mc Nguyn Văn Thích Huế (41), hoặc các ch bispo (tiếng B) ra ch vít-v (ri giám mc) ch Nôm thì dùng hai ch Hán viết vô 曰無 nhưng phi đc "vít v", hoc "pha-pha" (v giáo tông Rôma, cũng gi là Giáo hoàng, La-tinh và B gi là "papa".

Trong những năm 40, 50 của thế k trước, giáo x Tam Tòa ca tôi Đng Hi, Qung Bình, các kinh sách đc trong các dp l ln như Kinh L Đèn trong Tun Thánh, Kinh Đàng Thánh Giá v.v… đu viết bng ch Nôm do các c chc vic ln tui trong làng ph trách phn "than, gẫm". Dĩ nhiên các cụ cũng biết đc ch quc ng, nhưng quen vi kinh sách viết bng ch Nôm nhiu hơn.

Cụ Trn Văn Giáp trong phn kết lun ca cuLược kho vn đ ch Nômcó đề ngh làm mt cun t đin ch Nôm nhưng theo c thì phi loi tr nhng phn chữ Nôm chua sn trong các t đin Quc ng La-tinh như ca Génibrel, ca Tabert hay ca Paulus Huỳnh Tnh Ca vì chính đy là ch Nôm ca các giáo sĩ Tây phương ; đy không phi là "những ch Nôm ca nhân dân đã dùng"… còn "những ch Nôm ca nhân dân ta la lc mà viết ra thì thc đúng quá" (42).

Để tr li quan đim đy tính cht kỳ th tôn giáo dù rng trong lãnh vc văn chương ca c Trn Văn Giáp, Giáo sư Trn Văn Toàn viết rng : "Lại có hc giả cho rằng ch Nôm do người công giáo viết không phi là ch Nôm đích thc. Xin thưa hai điu : mt là phi có cơ quan nào, như Hàn lâm vin hay là do nhà cm quyn chính thc n đnh trước đã thì mi nói được cái gì là đích thc ; hai là : tr mt s ch mi ra thì người công giáo dùng chữ Nôm như người đương thi, cho nên nếu phi loi tr tt c nhng ch do h dùng, thì cũng phi loi hu hết thi văn ch Nôm trong văn chương Vit Nam" (43).

Chữ Nôm trong các kinh sách ca người Công giáo đu là do các vị tha sai có căn bn v các kiến thc ngôn ng hc, cùng s cng tác ca các v thy ging người Vit cũng vn là nhng bc túc nho gii ch Hán, thông tho ch Nôm (h cũng là thuc hàng ngũ "nhân dân" mt trăm phn trăm đy ch có thuc dòng máu lai nào đâu), thì sao gọi "ch nôm do người Công giáo viết không phi là ch nôm đích thc" ? Chính các ông nhà nho trong phong trào Văn Thân, khi viết bài hch "bình Tây sát T", chính các tác gi bài hch đó là tú tài Trn Tn, Đng Như Mai Ngh Tĩnh vốn là những người khinh ch nôm, coi ch nôm là "nôm na mách qué" ngay c đến vic nghiên cu, tìm hiu v mt tôn giáo h cũng chưa tng nghĩ ti, không h đ tâm, cho nên trong bài hch Văn Thân ca h mi có nhng câu như : "Cầu nguyn thì xưng Tri, xưng Thánh, thật là đui điếc ngu si ; Ging rao thì vô ph vô quân, đúng là loài dê loài chó". "Vô phụ", "vô quân" theo Trn Tn, Đng Như Mai đó là người Công giáo không h biết đến vua, đến cha, nhưng đó tht là sai lm vì người Công giáo cách đây bn thế k cho đến bây gi vn luôn tôn trng nhà cm quyn ngoài xã hi và th kính cha m trong vòng đo hiếu gia đình (44).

Quá trình hình thành của ch Nôm được thúc đy bi nhiu yếu t mt là được viết theo thói quen, hoc là trong khung cnh ca đa phương và dĩ nhiên trong lãnh vc tôn giáo ch Nôm cũng được hình thành hay kin toàn do ý thc tâm linh và giáo lý na.

Giáo sư Trn Văn Toàn, trong cuĐạo trung tùy bútđã được dn chng nói trên đã đưa ra mt thí d tht hay. Ông viết : "Trong sách Thánh giáo yếu lý quc ng, do Đức Cha Bá Đa Lc (Pierre Pigneau de Béhaine) son, thì bn Nôm viết chrỗibằng cách chp ni chlỗi  (ba ch thch) vi b khu bên t. Nhưng điu làm cho tôi rt ly làm thán phục là trong cun sách nôm Phép Dòng chị em mến câu rút Đc Chúa Giêsu, do Đức Cha Phước (Paul Puginier) cho khc in năm 1869, thì chrỗi được viết bng cách ghép chlỗi bên hu đ ch cách đc, và ch sinh  bên t đ ch nghĩa là sng. Nếu cách viết dùng b khu không có gì là thn tình, thì cách viết dùng chsinh bên tả mi tht là đúng tinh thn đo Chúa Cu Thế. Không biết v cao minh nào đã có sáng kiến dùng chsinhthay chữkhẩu như thế, va hp vi giáo lý, va đúng vi thn hc : được ri cũng có nghĩa là được sng ! Cùng mt chrỗi mà vừa nói lên được cái ước vng thanh nhàn, li va nói lên cái ước vng được sng mãi mãi ! Cách viết ch Nôm biết s dng li hi ý như thế tht là thâm thúy, ch quc ng viết theo mu t La-tinh không sao sánh được" (45).

Trong tự đin Giúp đọc Nôm và Hán Vit của Linh mc Trn Văn Kin hay sách Đại T Đin ch Nôm của Vũ Văn Kính cũng có trưng mt s cách viết chrỗilà dùng chữ li làm yếu t hài thanh chính, và có khi dùng bộ , khi dùng b tâm hay b thyhoc b khu là tùy theo tng trường hp. Nhưng qua s phân tích chrỗikể như mt thí d dưới con mt ca mt nhà nghiên cu tôn giáo như Giáo sư Trn Văn Toàn, chúng ta có dp đánh giá li giá tr ca ch Nôm, thấm thía được ý nghĩa ca mt loi văn t trong kho tàng văn hóa dân tc và cũng nh đó nhn ra được tinh thn c thu đt ti chân lý trong lãnh vc tôn giáo ca tin nhân trước đây.

Nguyễn Đc Cung

Philadelphia, Mùa Lễ Đc Lp Hoa Kỳ, July 4-5/2020

Nguồn : VOA, 06/07/2020

(1) Nguyn Th Chân Quỳnh, Khoa Cử Vit Nam, Thi Hươngtập thượng, An Tiêm xut bn, Paris, 2002, tr. 126

(2) Vũ Văn Kính, Đại T Đin Ch Nôm, Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cu Quc hc, 1998, trang 6

(3) Đoàn Khoách, "Vài nét đại cương v ch Nôm", Đc san Đi Hc Huế, K nim 60 năm Đi Hc Huế (1957-2017)2017, tr. 174

(4) ibid., tr. 174-175

(5) Trần Văn Giáp, Lược kho vn đ ch Nôm, Nhà xuất bản Ngày Nay Publishing 2002, tr. 34

(6) Đoàn Khoách, op.cit., tr. 177

(7) ibid., tr.178

(8) ibid.

(9) Nguyễn Th Chân Quỳnh, op.cit., tr. 128

(10) Đào Duy Anh, Chữ Nôm, ngun gốc - cu to - din biến,Nhà xuất bản Khoa học Xã hi, 1975, trang 42

(11) Đoàn Khoách, op.cit., tr. 179

(12) Chingho A. Chen, "Hình thái và niên đại sáng chế ch Nôm", Đoàn Khoách dịch, Tp chí Đại hc, số 35-36, Vin Đi Hc Huế, tháng 10-12 năm 1963

(13) Văn Hựu (học giả Trung Hoa), "Luận v t chc ca ch Nôm", Yên kinh Học báo, kỳ 14, bài này đã được Sơn-bng Đi-lang (hc gi Nht Bn) gii thiu trong Đông-dương Hc báo, quyển 22, số 2, năm 1935 - Chú thêm ca Nguyễn Đình Cung

(14) Đoàn Khoách, op.cit., tr. 181

(15) Trần Văn Giáp, op.cit., tr. 88

(16) Đoàn Khoách, op.cit., tr. 184

(17) ibid., tr. 183

(18) Quốc s quán Triu Nguyn, Đại Nam Thc Lc Chính biên Đ lc k Ph biên, Cao Tự Thanh dch và gii thiu, Nhà xuất bản Văn hóa – Văn ngh, 2012, tr. 779

(19) Hoàng Xuân Hãn, "Những li th ca Lê-Li" (văn Nôm đu thế k 15), Tp chí S Đa, s 1 ca Nhóm Giáo sư, Sinh viên Đi Hc Sư Phm (Nguyễn Nhã) Sài Gòn, 1966, tr. 4

(20) Trương Bá Cn, Lịch s phát trin Công giáo Vit NamTập I Thời kỳ khai phá và hình thành [T khi thủy cho ti cui thế k XVIII], Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 2008, tr. 42

(21) Trương Bá Cn, ibid., tr. 185

(22) Dũng Lc.net, 12/31/2006

(23) Trương Bá Cn, op.cit., Lch s min Bc, tr. 164

(24) Nguyễn Khc Xuyên, "Quan điểm thn hc trong "Phép ging tám ngày" ca Giáo sĩ Đc-lộ"Tạp chí Đi Hc, S 1, Năm th tư, tháng 2/1961, tr. 55

(25) Phạm Đình Khiêm, Tinh Vit Văn Đoàn, 1959, trang 76, trích dẫn Alexandre de Rhodes, Histoire du royaume de Tonkin, Nhà xuất bản Kimé, tr. 26

(26) Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2008, tr. 28

(27) Thanh Lãng, "Những chng đường ca ch viết quc ngữ", Tạp chí Đại Hc, số 1, Tháng 2, 1961, tr. 10

(28) Trương Bá Cn, op.cit., tr. 186

(29) ibid., tr. 185

(30) ibid., tr. 122

(31) Trn Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2008, tr. 147

(32) Trương Bá Cn, op.cit., tr. 233

(33) Nguyn Văn Trung, "Đôi lời giới thiệu : V mt s sách cũ do người Công giáo viết ra t thế k XVII đến cui thế k XIX", Trường Đi Hc Tng Hp Thành phố H Chí Minh, Khoa Ng Văn, 1993

(34) ibid. tr. 3

(35) Thanh Lãng, op.cit., tr. 5 ; Trn Văn Toàn, op.cit., tr. 188

(36) Trương Bá Cn, op.cit., tr. 185

(37) Trn Văn Toàn, op.cit., tr. 190

(38) Klaus Schatz, Hoa trái ở Phương Đông, Alexandre de Rhodes (1593-1660) và công cuc truyn giáo thi kỳ đu ca Dòng Tên ti Vit Nam (tiếng Đc), Phạm Hng Lam dịch, Nhà xuất bản Đông Phương, 2015, tr. 210

(39) Nguyn Hng, Lịch s truyn giáo Vit Nam, Quyển I, Nhà xuất bản Hin Ti, 1959, tr. 294

(40) Trần Văn Toàn, op.cit., tr. 204

(41) J.M. Thích, Sảng Đình Thi TpĐoàn Khoách biên tp, Thanh Tịnh xut bn, California, 2001, trang 335

(42) Trần Văn Giáp, op.cit., tr. 89

(43) Trần Văn Toàn, op.cit., tr. 207

(44) Trn Văn Toàn, Một vài nhn xét v thuyết 'tam ph', op.cit., tr. 102

(45) ibid., tr. 122

Published in Tư liệu

Ngày xưa các nước Đng Văn (cùng văn hóa, ch viết), tc là các nước Trung Hoa, Nht, Hàn và Vit ; dùng Hán t làm ch viết. Sau đó người Vit da theo chất liu ch Hán mà to ra ch viết riêng ca mình gi là ch Nôm đ ghi chép tiếng Vit. Có nhiu minh chng cho thy ch Nôm đã xut hin nước ta t thi Lý Trn. Các bn văn quan trng, như các văn bn ca triu đình hay sách hc và thơ phú c ca Vit Nam, t thi lp quc cho đến nhng năm đu thế k 20, đu viết bng Hán t. Cũng cùng thi gian y nhiu bài thơ, văn và sách truyn đi chúng được viết bng ch Nôm. Ch Nôm trông ging ch Hán nhưng người Trung Quc không th đc được.

chunom1

Chữ Nôm viết theo th Hành thư. Các ch này đc theo chiu dc t phi sang là ‘Lơ thơ dăm chi qut, lt pht my đim đào, lao xao vài git bi, lúi húi ci hu bao’.

Cả ch Hán c (tc là ch Nho) và ch Nôm ca nn văn hóa hơn ngàn năm ca người Vit đu b xóa mt bi ch Quc ng hin nay, do các v Giáo sĩ Công giáo người Ý, Pháp và B Đào Nha ly mu t La tinh, B Đào Nha và ch s La Mã và rp mà to ra, bt đu t hi thế k 16-17. Và sau đó người Pháp ép buc triu đình và dân chúng Vit Nam phi chp nhn li ch viết này. Thâm ý ca h là khiến dân Vit ri s không còn đc được văn, sách cũ trong nước đ biết nn văn hóa ca mình na. Mt dân tc đã mt văn hóa sẽ chp nhn nn văn hóa mi, trong trường hp này là ca mu quc, d hơn. Và như thế h s bt chng đi nn đô h ca ngoi bang hơn. Xem cách chính ph Pháp và nhà cm quyn Pháp Đông Dương hi đó ráo riết thúc đy vic này thì thy rõ ý đ ca họ.

Triều đình Vit Nam, ngay t lúc người Pháp áp đt ch Quc ng thi vua Khi Đnh, cũng như nhiu hc gi Vit Nam sau này, vn c gng dch tài liu, văn sách cũ ca nước ta bng ch Hán và ch Nôm ra ch Quc Ng. Đ người dân Vit có th đc và biết rõ hơn được nn văn hóa ca nước mình. Nhưng làm sao có th phiên dch được c hơn ngàn năm ch nghĩa đó…

Trước năm 1954 min Bc và 1975 min Nam, các trường trung hc vn dy ch Hán cho hc sinh các năm đu. Và các nhà trí thc Vit Nam c hai miền trong các giai đon đó dù theo Tây hc nhưng vn coi trng và có căn bn Hán hc. Cho nên nn tng văn hóa dân tc ca h rt vng.

chunom2

Người Nht hin cũng vn dùng ch Hán c (gi là Kanji tc Hán t)

Người Nht hin cũng vn dùng ch Hán c (gi là Kanji tc Hán t) cho các văn bn quan trng. Trong khi t thế k th 5 họ cũng bt đu t to ra các h thng ch viết cho ngôn ng riêng ca mình mà ngày nay tng hp li gi là Kana, ging như trường hp ch Nôm ca Vit Nam. May mn cho người Nht là h không b đô h bi ngoi bang cho nên h hin vn dùng song song hai hệ thng Hán t và quc ng Kana. Trong tt c nhng trường hp quan trng, h vn dùng Hán t. Thí d như bng đ tên ca Th tướng Nht vn được viết bng ch Hán là ‘Th Tướng Các h Đi thn’. Các b trưởng Nht vn dùng chc danh bng Hán t là ‘Đi thần’, v.v.

chunom3

Thi xưa ch viết chính ca Hàn Quốc cũng là Hán t (Hanja).

Hàn Quốc cũng tương t. Thi xưa ch viết chính ca h cũng là Hán t (Hanja). Đến năm 1440 vua Sejong lp xong h thng mu t ký âm đ đc tiếng Hàn quc gi là Hangul, tc Hàn ngôn (Bc Triu Tiên sau này đt ra h thng mu t riêng gi là Chosolgul, tức Triu Tiên ngôn, hay Uri Kulja, tc Quc ng). Và t đy Hangul được sử dụng song song vi Hán t, dù Hangul b chng đi bi gii Nho sĩ đến ni đã có nhng lúc b triu đình cm sử dụng. Đến khong cui thế k 19, đu thế k 20 thì Hangul chiếm thế thượng phong. Nhưng gii hc gi trí thc Hàn Quc cho đến gi vn phi rành Hán văn đ đc văn sách, thơ phú và các tài liu c ca nước h, vì trong c ngàn năm cho đến lúc y đu viết bng Hán t.

Năm 1971 Hàn Quốc bãi b vic dy Hán t cp Tiểu hc. Hán t ch còn được dy trung hc, vi 900 mt ch Hán được dy bc Cơ s, và 900 ch na bc Ph thông. Tng cng sinh viên Hàn Quc có vn liếng 1800 ch Nho. T năm 2013 có phong trào đòi hi phc s ging dy ch Hán cho bc Tiu hc để giới tr Hàn Quc biết và hiu được văn hóa ca h sm hơn.

Bắc Triu Tiên ngay khi đc lp tuyên b bãi b vic dy Hán t. Nhưng t năm 1966 đã khôi phc li vì thy cn thiết. Và hin nay hc sinh t lp 5 đến lp 9 được dy c thy 1500 mt ch Hán. Bc ph thông thêm 500 ch và bc Đi hc thêm 1000 ch. Như vy tng cng sinh viên Bc Triu Tiên hc được 3000 ch Nho.

chunom4

Chữ Hán hin đi khác vi chữ Hán c

Trung Quc thì Hán ng hin đi khác vi Hán ng c. Ch viết gin th sau này li càng khiến cho ch Trung Quc hin đi ri xa chữ Hán thời Đường, Tng. Ch Hán c, tc là th ch Hán được người Vit chính thc sử dụng trong các lãnh vc hành chính, giáo dc, văn chương thi phú… sut hơn ngàn năm, có tính bao hàm. Nghĩa là mt ch có th đc được bng nhiu âm và bao hàm nhiu nghĩa khác nhau. Hán ngữ c này không biến đi theo thi gian và hin nay tn ti như mt t ng. Trong khi đó ngôn ng Hán biến đi theo thi gian v c cách phát âm ln ý nghĩa, nht là qua các thi Nguyên, Thanh. Người Hoa bây gi mun hiu Hán t, Hán ng cổ và đọc được văn sách c ca h thì cũng phi đi hc. Mt giáo sư tiến sĩ khoa Nhân chng hc người Hoa ca Đi hc Hong Kong khi đc các câu đi ch Hán trong các đn, chùa Vit Nam đã gãi đu gãi tai than ch hiu lõm bõm. Đi khái Hoa ng hin nay bên Trung Quốc so vi Hán ng c thì cũng tương t như tiếng Ý ngày nay so vi tiếng Latin xưa, hay tiếng n so vi tiếng Phn c.

Nên nhớ rng vùng lãnh th cho đến Quế Lâm ca Trung Quc hin nay ngày xưa thuc v người Bách Vit. Qung Đông và Qung Tây xưa thuộc Vit cho nên vua Quang Trung mi có ý đnh đòi li. Như vy nn văn minh Đin c xưa vùng tây nam Trung Quc, mà nhiu người Vit vn cho là ca Trung Hoa, tht ra cũng phi là mt nn văn minh Vit. Vì cư dân Vân Nam, Qung Tây thi c là người Bách Việt. Và trong tam Hoàng thy t ca Trung Hoa, thì Thn Nông được cho là thy t ca ging Vit. Cho nên nn văn minh Hán chưa chc đã ca riêng nước phương Bc.

Ngay bên Trung Quốc danh xưng ‘Hán’ không hn có nghĩa là người Hoa. Người Hoa t xưng là Đường nhân ch không gi mình là Hán nhân. ‘Trang Hán t’ có nghĩa là người đàn ông văn minh ch không phi là người đàn ông Trung Quc. Danh xưng Hán này có nghĩa là như vy ch không phi vì triu đi nhà Hán. Cho đến các thi Đường, Tng thì ch viết các nước Đng Văn vn ch gi chung chung là Văn t, nghĩa là ch viết. Đến đi Nguyên mi có danh xưng chính thc ‘Hán t’ đ ch ch viết ca người Trung Châu, đ phân bit vi ‘Mông t’ là ch viết ca người Mông C. Ngay Vit Nam hi xưa ch ‘Hán phủ’ có nghĩa là ‘chn văn minh’, thí d như kinh đô Huế hay các đô th ln, đ phân bit vi nhng nơi quê mùa man mi không biết ch nghĩa, l giáo…

Quả tht, các t ng trong tiếng Vit, Hàn hay Nht cũng có đi đa s là t ch Hán. Dù được viết bng Quốc ngữ B-La Tinh ca Vit Nam, Kana Nht, hay Hangul, đa s t ng ca các nước Đng Văn này đu có gc t Hán ng. Thí d đơn c là gn hết các tên hay h ca c nam ln n Vit Nam đu là ch Hán phát âm theo li Hán Vit. Nhng tên h ph thông nht n Hùng, Dũng, Cường, Văn, Dung, Hoa, Nguyt, Lan ; hay Nguyn, Trn, Lê, Phan, v.v, đu là ch Hán. Ri t tế, công ty, du lch, thành công, phúc đc, v.v, trong ngôn ng Vit Nam cũng là ch Hán. Và nhà nghiên cu Trn Quang Đc khng đnh rng âm đc tiếng Hán thời Đường gn vi âm đc tiếng Hán Vit ca người Vit hơn là âm đc tiếng Trung Quc hin đi.

Một điu rt kh thi nhưng có th tr thành không tưởng, vì tính cách và phong cách sng ca người Vit mình hin nay. Đó là nếu nhng ai tht s đã có lòng tự hào dân tc hết sc, thì nên quay v hc ch Nôm ca t tiên. Đ được t hào như người Nht t hào vi Kana và người Hàn vi Hangul ca h, do chính h to ra. Và đ đc được truyn Kiu đúng như cách Thi hào Nguyn Du đã viết nó. Viết thư pháp hay đại t, câu đi bng ch Nôm cũng rt đp. Trong khi đó câu đi viết dc mà viết bng ch Quc ng B-Latin có khi b vướng mc, vì li ch này viết ngang ch không viết dc. Và nếu có nhiu nhng t có nhiu ch cái như nguyt, trường, thường, chuyn,v.v, thì có khi vướng.

Bữa trước trên đài truyn hình công cng PBS ca M có chiếu chuyn mt thanh niên Nht sau 10 năm c gng hc ngh làm răng gi bng tay theo li c truyn không thành công nhưng vn quyết chí hc tiếp. Mt chuyn nho nh còn cn công sức và lòng kiên nhn như thế, hung chi vic khôi phc mt nét văn hóa ca c mt dân tc như ch Nôm. Không th là chuyn mì ăn lin được. Nhưng mun hc ch Nôm thì trước tiên phi hc ch Hán.

Phải cm ơn các giáo sĩ Tây phương đã to ra cho chúng ta chữ Quc ng rt d hc (ch d vi người Vit biết nói tiếng Vit thôi, còn đi vi người ngoi quc thì ch Quc ng Vit Nam được cho là rt rc ri). Nhưng nếu chúng ta không b người phương Tây đô h hơn mt trăm năm thì người Vit vn còn có được 2 dòng chữ viết tương hình rt đp là Hán và Nôm đó. Không thy người Nht nào than vic hc song song 2 b ch Hán và Kana ca h là khó hay lc hu c.

Trịnh Bách

Nguồn : VOA, 08/02/2017

Published in Văn hóa