Phần 1
Chính luận đưa chính trị vào lý của luận để luận giúp lý cho lãnh đạo chính trị !
Nhân của chính luận
Thấy nước mắt nhân tình để tiếp nhân tâm.
Thấu xương máu nhân thế để nhận nhân nghĩa.
Thấm sinh linh nhân loại để đón nhân tính.
Muốn nhận chức năng, chức vụ, chức danh
lãnh đạo chính trị hiện nay trước Việt tộc :
Thì nên đứng ngay về phía dân đen, trắng tay vì nghèo khổ.
Thì nên đứng cùng phía với dân oan, mất trắng đất, lẫn nhà.
Thì nên đứng chung với công bằng, để có công tâm, để chống bất công.
Thì nên đứng sát phía dân chủ, để sống chết với nhân quyền !
Các vị đang lãnh đạo, đang thất bại trong việc thăng hoa Việt tộc,
xin quý vị xem lại, truy lại, soát lại, suy lại
quá trình đào tạo lãnh đạo tại các quốc gia tiên tiến,
xem lại giáo dục, truy lại giáo khoa, soát lại giáo trình, suy lại giáo án
về lãnh đạo, quản lý và tổ chức, nhất là đào tạo nhân sự trong lãnh đạo.
Chỉ vì nội dung trầm trọng của thất bại trong lãnh đạo chính trị là :
Việt tộc của quý vị phải bị rơi xuống vực !
Chính luận, trong tiểu luận này không phải là thể loại văn được gọi tên là chính luận, mà chính luận ở đây là lý luận chính trị, tạo cơ sở tư duy cho những ai có nguyện vọng hay có tham vọng làm chính trị, muốn lãnh đạo trong một đất nước như Việt Nam, chưa đón được dân chủ, nên chưa nhận được nhân quyền. Lý luận chính trị vừa qua lịch sử, vừa qua thực tế ; không quên kiến thức chính trị là nền chính kiến, nhất là không quên tri thức lãnh đạo làm gốc cho ý thức lãnh đạo.
Chính luận trong tiểu luận này đi tìm cội là chính lý, dựa trên nhân lý, khi quá trình tri thức lãnh đạo chính trị là quá trình lý luận trên thực tế của nhân sinh, là lập luận trên chính sách để phục vụ nhân dân, với năng lực diễn luận các quyết định chính trị trước nhân tri, với hiệu quả giãi luận các hành động lãnh đạo trước nhân trí. Nếu muốn làm chính trị mà không có gốc, rễ, cội, nguồn từ nhân ; lại vắng luôn năng lực và hiệu lực của luận, thì đừng làm chính trị, đừng làm lãnh đạo, vì sẽ làm trong vô tri, sẽ lãnh đạo trong vô minh, sẽ chỉ hại dân, diệt nước.
Chính luận trong tiểu luận này đi tìm gốc là chính tri, nơi mà kiến thức vừa là năng lượng chính trị, vừa là xương cốt của lãnh đạo, vì kiến thức là chất sống nuôi tri thức, tạo tầm vóc cho hiểu biết chính trị, dựng nên bản lĩnh của lãnh đạo từ rường cột là ý thức chính trị, là nhận thức lãnh đạo. Không quản lý nổi phương trình thức (kiến thức-tri thức-ý thức-nhận thức) này thì chỉ đưa dân tộc tới ngu dân, đưa giống nòi tới chướng nghiệp. Và thức luôn được đưa đường, dẫn lối bởi chính, ngược lại với tà, trái lại với ma, chống lại với gian. Chính tri làm thăng hoa chính nghĩa !
Chính luận trong tiểu luận này đi tìm rễ là chính tâm, tạo ra thành tâm để có thành ý, nơi mà sự thành thật làm vững, làm chắc sức hoàn chỉnh của ý thức. Chính ý thức ngay thật tạo nên tâm thức ngay thẳng với mọi người để có chỗ đứng chính thống trong lãnh đạo : nói thì giữ lấy lời, hứa thì phải làm, nơi mà chính tâm làm ra chính quả, vì lừa dân, dối nước thì sẽ không sao có hậu trong chính giới.
Chính luận trong tiểu luận này mang chính khí ; tới tự chính ngôn, nơi mà ý thức chính trị làm cột xuong sống cho luân lý lãnh đạo, có trách nhiệm với chính ngữ vì có bổn phận với chính nghĩa. Qua đó, chính nghĩa tạo hùng lực cho chính khí trong lãnh đạo chính trị, như vậy phải lấy phương trình chính (chính lý, chính tri, chính tâm) để quản lý xã hội, để quản trị cơ chế, để được đi trên chính đạo với chính trị đúng, song hành cùng lãnh đạo đúng.
Chính luận đưa chính trị vào lý của luận để luận giúp lý cho lãnh đạo chính trị !
Phương pháp luận so sánh & chính trị học phân tích
Tiểu luận này dựa vào cách quá trình phân tích dữ kiện chính trị và giải thích các sự kiện chính trị không những qua chính sách, mà còn qua hành động cụ thể, phối hợp với phân tích nội dung văn bản của chính sách cùng diễn văn của lãnh đạo, qua ngôn ngữ chính trị để giải luận tư duy lãnh đạo, từ đó tìm hiểu các diễn biến có trong ý định-ý muốn-ý đồ của lãnh đạo.
- Phân tích chính sách : mức độ của một chính sách là trình độ của lãnh đạo trách nhiệm chính sách đó.
- Phân tích hành động lãnh đạo : mức độ của hành động lãnh đạo là trình độ tư duy của lãnh đạo đó.
- Phân tích tư duy của lãnh đạo : mức độ tư duy của lãnh đạo là trình độ lý luận để giải quyết các chủ trương của lãnh đạo đó.
- Phân tích lý luận các chủ trương : mức độ lý luận để giải quyết các chủ trương của lãnh đạo là trình độ trí tuệ của các lãnh đạo đó.
- Phân tích trí tuệ của lãnh đạo : mức độ trí tuệ của các lãnh đạo là trình độ các công trình ưu tiên của các lãnh đạo đó.
- Phân tích các công trình ưu tiên : mức độ công trình ưu tiên của các lãnh đạo là trình độ sáng tạo các chính sách phát triển chiến lược.
- Phân tích các chính sách phát triển chiến lược : mức độ sáng tạo các chính sách phát triển chiến lược là trình độ sáng tạo về phát triển bền vững.
- Phân tích các chính sách phát triển bền vững : mức độ chính sách phát triển bền vững là trình độ về hiệu quả của các chính sách đó.
Nhân và loại
Có nhiều nhân loại sống cùng chung một nhân loại rộng lớn, mà nhiều nhân loại vì nhiều nhân tính khác nhau, có ít nhất là có hai nhân tính rất đậm nét trong nhân loại chung này :
- Nhân tính thứ nhất có ý thức luân lý, như có kim chỉ nam trong nhân tình, thấy tốt thì làm, thấy xấu lánh xa, thấy gian thì loại, thấy tà thì xua, thấy ác thì khử. Ý thức luân lý có chỗ dựa là đạo lý (hay, đẹp, tốt, lành) để chế tác ra luân lý (nhận trách nhiệm để đảm bổn phận). Nếu muốn làm lãnh đạo chính trị thì ý thức luân lý phải sắc, kim chỉ nam này phải nhọn.
- Nhân tính thứ nhì có ý thức duy lý, như có Bắc đẩu đưa đường, dẫn lối giữa đêm, lấy kiến thức của kinh nghiệm (từ lịch sử qua cuộc sống) thấy hợp lý trong thuận cảnh, lấy cụ thể làm thực tế, biến thực tế thành thực dụng. Nếu muốn làm lãnh đạo chính trị thì ý thức duy lý phải rõ, thấy thật rành Bắc đẩu trước mắt.
Nhận ra hai nhân tính ý thức luân lý và ý thức duy lý còn phải đi tìm thêm các nhân tính khác, còn nếu không hiểu gì về hai nhân tính tối thiểu này thì tốt nhất đừng làm chính trị, đừng nhận trách nhiệm lãnh đạo.
Nhân và tính
Chữ nhân không phải là đơn thuần là một thuật ngữ, mà là một hệ thống tư tưởng có lý luận, mà kẻ lãnh đạo không biết hoặc không thấy thì sẽ lầm đường lạc lối trong quyết đoán làm gốc cho mọi quyết định, trong quyết sách làm nền cho mọi tổ chức và mọi quản lý. Không biết, không thấy, không nghe, tức là không có nhận thức về chữ nhân thì chỉ mang họa tới cho dân tộc, gây nạn cho giống nòi.
Nhân loại sống trong một bối cảnh lịch sử nhất định : nhân thế, trong những hoàn cảnh xã hội được quyết định từ kinh tế tới giáo dục, từ vật chất tới y tế… từ quan hệ xã hội tới đời sống xã hội : nhân sinh. Chính bối cảnh và hoàn cảnh tạo ra tâm cảnh trong quần chúng đó là : nhân tình.
Nhân tính chỉ có khi một dân tộc xác định được các định hướng cộng đồng về đạo lý một nhân sinh quan hay, đẹp, tốt, lành : nhân đạo, từ đó nhận thức ra các bổn phận, các trách nhiệm để xây dựng một giống nòi ăn ở với nhau để sống có hậu : nhân nghĩa.
Nhân tính có hải đăng là nhân đạo, có dự phóng cho mai sau là nhân nghĩa, cả ba tạo ra thế chân kiềng bền vững cho nhân lý của một dân tộc, làm chủ đất nước của mình bằng nhân văn được thể hiện qua bốn hệ nhân trên.
Cả năm hệ nhân : nhân tính, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân lý, nhân văn được trao truyền và lưu truyền qua nhân giáo, trong đó một nền giáo dục đúng đắn tùy thuộc vào môt chính quyền liêm chính, một chính phủ liêm sỉ để bảo đảm nhân trí cùng nhân trí qua giáo khoa, giáo trình, giáo án.
Chính nhân trí cùng nhân trí quyết định trình độ thăng tiến của một đất nước, thăng hoa của một dân tộc, mà ta thấy láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên như Việt Nam đã làm được : Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Chính ta không làm được lại tha hóa vào con đường phản nhân trí cùng nhân trí, tạo ra thảm họa học giả-thi giả-bằng giả, tới từ tham nhũng-tham ô-tham quan, tức là lãnh đạo chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam đang lầm đường lạc lối, đang hoàn toàn sai !
Nhân và văn
Đừng hiểu tùy tiện thuật ngữ văn trong cách làm từ hiện nay trong các miệng lưỡi của vài lãnh đạo : hàm nghĩa của văn mang ít nhất là ba biến số : văn hóa, văn minh, văn hiến.
Văn hóa, như sức sống vững bền qua nội lực một dân tộc biết biến nội công của tổ tiên mình trong quá khứ thành nội chất cho các sinh hoạt tập thể, cho đời sống cộng đồng trong hiện tại, lại có luôn nội tâm của một giống nòi biết giáo dưỡng con cháu, các thế hệ đời sau biết yêu, quý, thương văn hóa đó.
Văn minh, đòi hỏi nhân tri, luôn mở cửa mời nhân trí, học kiến thức để tự hữu hóa kiến thức, biến kiến thức thành tri thức được bảo vệ có hệ thống, có lý luận, có lập luận, có giãi luận, có diễn luận của trí thức. Vì có văn hóa chưa chắc có văn minh, vì văn minh tạo chỗ đứng nhân quyền và dân chủ, từ đó văn minh làm thăng hoa : công bằng qua tự do, để cùng nhau xây bác ái
Văn minh thấy rất rõ trong một xã hội biết tôn trọng người lớn tuổi, biết bảo trọng phụ nữ, biết bảo vệ thiếu nhi, biết bảo quản thanh thiếu niên trong một hệ thống giáo dục lấy đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, làm nhân văn.
Văn hóa luân chuyển để thích ứng với đời sống hiện đại, văn minh mang sung lực hiện đại hóa văn hóa qua cải cách, qua canh tân, được hỗ trợ bởi khoa học hay, bởi kỹ thuật lành, bởi công nghiệp sạch. Như vây, có văn hóa, chưa chắc có văn minh, làm lãnh đạo chính trị phải đưa văn hóa về hướng văn minh để thăng hoa văn hóa, làm cho văn hóa hay, đẹp, tốt, lành hơn
Văn minh là chiều cao của văn hóa, đẩy văn hóa đi lên, thì văn hiến là bề dầy, là chiều sâu, là chính sử của văn hóa. Chính văn hiến tạo rễ sâu, gốc chắc cho văn minh nâng, đưa, đẩy văn hóa hướng tiến hóa.
Chuyện đáng buồn và đáng lo là các lãnh đạo tối cao của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay không xem, không hiểu, không thấu vì không đủ tầm, không đủ vóc để biến ba biến số : văn hóa, văn minh, văn hiến thành ba hằng số trong các chính sách của họ.
Nhân rộng... lý mở
Làm chính trị với chữ nhân rộng qua cái lý mở là một "nghề" rất khó, làm lãnh đạo chính trị với chữ nhân rộng nhất qua cái lý mở nhất, chắc chắn là một "nghề" khó nhất trên đời ! Vì phải nhận những trách nhiệm nặng, đón những bổn phận rộng, nâng cao đạo đức dân tộc, hiểu xa đạo lý nhân loại. Vậy, nên suy nghĩ kỹ, thật kỹ trước khi chọn "nghề" khó nhất này. Nhân rộng-lý mở vừa là luận thuyết sinh động của chính trị, vừa là thực hành thông minh của lãnh đạo.
Nhân rộng vì nhân vừa gần-vừa xa, nó gần có ngay trước mặt lãnh đạo chính trị. Đó là nhân dân, dân chúng, quần chúng : nghèo hay giầu, vui hay buồn, đau khổ hay hạnh phúc, nếu không trực diện để thấy, để hiểu, để thấu thì đừng đòi làm lãnh đạo chính trị. Còn dành làm để tham ô, trục lợi thì không phải làm chính trị mà là trộm, cắp, cướp, giựt bằng chính trị. Nhân xa vì nó bắt kẻ lãnh đạo phải "nhìn xa, trông rộng", đưa nhân tính vào nhân tình, đưa nhân thế vào nhân tâm, đưa nhân nghĩa vào nhân loại, qua con đường của nhân tri, bằng phương tiện của nhân trí. Nhân là phạm trù của tri thức, bó buộc kẻ lãnh đạo muốn trị (trị dân-trị nước) phải có tri, lấy tri để lập trí.
Lý mở vì mở ra bên ngoài mới tồn tại, mới sống còn, mới có khí trời để thở, mới có thực phẩm để ăn, nhất là có nhân tri của nhân loại bên ngoài để học, có nhân lý của nhân thế bên ngoài để khôn lên, có nhân trí bên ngoài để thông minh lên. Lý mở là lý biết đón, biết tiếp, biết nhận, biết mời : các kinh nghiệm hay, các kiến thức tốt, các bài học đẹp, các nhân thế lành để tạo ra tiềm năng, tiềm lực cho chính ta. Tất cả những lý đóng (đóng cửa, đóng biên giới, đóng lãnh thổ...) vì độc (độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị, độc đảng) đều đáng nghi ngờ, và nhân dân có quyền ngờ vực mọi lãnh đạo chính trị có ý đồ đóng vì độc.
Nhân rộng-lý mở là nơi hội tụ thông minh chính trị và minh triết lãnh đạo, vì nó được kết tinh bởi hai hùng lực chính trị mà kẻ làm lãnh đạo phải thông hiểu :
- Lý tưởng chính trị càng rộng thì nhân dân càng khôn (từ khôn có sở hữu là nhân trí, tức là khôn ngoan chớ không phải khôn lanh), ở đây sau khi thành công về chuyện "cơm no, áo ấm" cho dân, thì phải đi tới hướng "dân giàu nước mạnh", lại còn phải đi thêm bước nữa "nhân loại thái hòa".
- Vô hạn chính trị không bị khung trong một quốc gia, mà ngược lại muốn cho quốc gia đó tồn tại, có chỗ đứng xứng đáng trong quan hệ quốc tế, thì phải tìm liên minh, tìm đồng minh, tất cả trong quy luật vô hạn chính trị luôn "thêm bạn, bớt thù", luôn vô hạn học trong vô biên hiểu để luôn"học người để khôn ta".
Phương trình Nhân rộng-lý mở chính là thông minh chính trị-minh triết lãnh đạo.
Nhân nhập nhân
Nhân nhập nhân vừa là lương tri của chính trị, vừa là lương tâm của lãnh đạo, đây là quá trình nhập nội vào thực tế của nhân dân, thực cảnh của dân chúng, thực tại của quần chúng để thấy, để hiểu, để thấu các vấn đề, các khó khăn, các lầm than của dân tộc, và nếu chỉ ngồi trong bàn giấy, chỉ đóng cửa phòng để họp hành, thì "có mắt cũng như mù" trước hiện thực (bây giờ và ở đây) của xã hội.
Nhân nhập nhân trước hết là lấy nhân tính để nhập nội vào nhân tình ngay trong xã hội mà nhân dân đang sống, đang làm, đang ăn, đang ở, để thấy các trầm luân hằng ngày của nhân sinh, thấy dân đen nhọc nhằn như thế nào, hiểu dân oan tủi nhục ra sao, từ đó mới có ý thức chính trị để có nhận thức lãnh đạo qua chính sách. Chuyện giả vờ dựng kịch đầu năm : từ nguyên chủ tịch Trương Tấn Sang thủa nào tới đương kim chủ tịch Trần Đại Quang, giả bộ cầm cày lang thang cạnh các bờ ruộng với nông dân, mà thực sự thì không hề biết cày là gì ! Đây chuyện chính trị giả, lãnh đạo xạo !
Nhân nhập nhân sau đó là lấy nhân nghĩa để nhập sâu vào nhân thế ngay trong đau đáu "chén cơm manh áo" của nhân dân, ngay trong trằn trọc "cơm áo gạo tiền" của dân chúng, để thấy thật rõ các thiếu thốn hằng ngày trước các lo toan "ăn bữa sáng lo bữa tối", rồi từ đó mài dũa ý thức chính trị cho thật bén, thật sắc để phục vụ cho nhận thức lãnh đạo thật sâu, thật rộng. Chuyện giả vờ dựng kịch đi "ăn phở" với dân thường của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Hội An, vậy mà trước đó lại kéo hàng chục xe hộ tống qua phố cổ, nơi mà mọi người phải đi bộ, nơi mà Liên Hiệp Quốc qua Unesco muốn bảo tồn. Đây chỉ là trò chính trị thấp, của lãnh đạo tục !
Nhân nhập nhân tiếp theo là lấy nhân tâm để nhập cho thấm nhân sinh, qua thành tâm của lãnh đạo phải sống với dân để hiểu dân. Đây là chuyện không khó làm, ta đã thấy nhiều lần trong Việt sử, và có không biết bao nhiêu chuyện trong sử của thế giới là vua, quan, tướng "giả dân" để "đi vào dân", để "chia sẻ cùng dân". Từ đó, đặt ý thức chính trị vào chỗ trung tâm của não bộ lãnh đạo, để có chánh ngữ khi tuyên bố : "lấy dân làm gốc" ! Còn chuyện dành đứng hàng đầu trong các lễ hội, chọn ghế ngồi hàng trên trong các hội thảo, bám chỗ ưu tiên để vái lạy trong các chùa chiền chỉ là trò bịp trong chính trị, cho kịch rởm của lãnh đạo !
Nhân nhập nhân để nắm vững phương trình ý thức chính trị-nhận thức lãnh đạo, để hiểu chính nhân dân đưa đường dẫn lối cho chính sách, chính dân chúng soi sáng chính nghĩa của lãnh đạo.
*****************
Phần 2
Nhân… sinh… quan ?
"Con quan thì được làm quan", chỉ nói lên được một loại nhân sinh quan thô tục trong quá trình tái sản suất các bất công trong xã hội, không đủ liêm sỉ lẫn thông minh để tôn trọng hiền tài. Từ đó, đưa xã hội vào quỹ đạo thô bỉ của quy trình : "con vua thì được làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa", một xã hội không có một chân trời của công bằng, không có tương lai của công lý, mà thảm họa hiện nay Việt tộc đang lãnh chịu thực tế "thái tử đảng", trực tiếp hay gián tiếp vùi dập bao nguyên khí quốc gia, tới từ bao thế hệ thanh niên.
Làm sao thanh thiếu niên chúng tôi có thể sống đúng, sống tốt trong một xã hội mọi chuyện đều xấu, giáo dục xấu, kinh tế xấu, với các lãnh đạo từ trên xuống dưới đều xấu...".
Đại nạn "thái tử đảng", được dọn đường bởi chuyên quyền và tham quyền ngay từ thượng nguồn qua thanh lọc lý lịch gia đình, con cháu của những gia đình bị xem là địch, là ngụy, thì bị diệt lối thăng hoa ngay trong trứng nước. Chuyện "thái tử đảng", trong hệ quả "con quan thì được làm quan", con của bọn lãnh đạo vơ thì con cháu chúng tiếp tục được vét. Đây là hằng số bi đát của chế độ mà thế giới các nước dân chủ, có nhân quyền, lấy bình đẳng làm công lý đang vô cùng khinh miệt.
Muốn dẹp chuyện "thái tử đảng", muốn xóa chuyện "con quan thì được làm quan", muốn khử cho bằng được chuyện "con vua thì được làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa", thì rất dễ và đây là chuyện của lãnh đạo chính trị, có thể làm nhanh, làm gọn, làm triệt để bằng cách tổ chức lại :
- Sân chơi là giáo (giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án).
- Trò chơi là học (học lực quyết học vị, học hàm).
- Luật chơi là chuyên (chuyên ngành, chuyên môn, chuyên nghiệp, chuyên gia).
Nhân không còn sinh "con quan thì được làm quan", qua chuyên quyền và tham quyền mà được chính thực hóa bằng phương trình giáo-học-chuyên mới thật sự là nhân sinh quan thông minh và văn minh, vì nó biết dựa trên hệ mở của đa (đa năng, đa hiệu, đa tài, đa dạng) nhờ đa nguyên !
Nhân trong sống đủ
Sống đủ-đủ sống trong nhận định "cơm no, áo ấm" đã là chuyện rất rõ trong lãnh đạo chính trị, vì nó được định lượng và định chất bằng các chỉ báo khách quan, các tính toán khoa học, các phân tích thống kê : một người, một gia đình, một quốc gia với bao nhiêu dân, thì cần bao nhiêu thực phẩm, bao nhiêu năng lượng để lao động, để sống bình thường... Chỉ số thu nhập, trung bình sản suất, sức mua trong tiêu thụ cũng được định toán hóa, mô hình hóa, để phân loại một quốc gia là giàu và một số nước là nghèo, và ở giữa là các dân tộc được xem là đủ sống đủ-đủ sống.
Sống đủ-đủ sống phải được phân tích đầy đủ qua khác biệt vùng miền, nơi mà mọi người biết là trên đất Việt, nếu ở vùng sâu-vùng xa thì sống khó-khó sống, chính lãnh đạo phải hằng ngày đau đáu về chuyện sống khó-khó sống này, vì chóng chầy nó sinh ra một bi kịch khác : sống còn-còn sống, đây là nghịch cảnh vì nó nghịch chiều với sống đủ-đủ sống. Vì, sống còn là phải tranh sống hằng ngày để được sống, và còn sống nhưng biết phải đau đớn chấp nhận một quy luật vô cùng bất công là "sống nay, chết mai".
Nên, sống còn-còn sống hiện là thảm kịch của các bé vùng sâu-vùng xa phải ăn lá để sống còn ; và cha mẹ của các bé còn sống nhưng cuộc sống không có lối ra, cuộc đời trước mắt là ngõ cụt ! Sống còn-còn sống là sống thiếu, sống lây lất, sống vật vờ, đó là sống đói, sống khổ. Kể cả sống trong căm phẫn khi thấy các lãnh đạo từ trung ương tới địa phương dựng chuyện xây đài tưởng niệm hàng ngàn tỷ để chia chát, để vơ vét, để biển lận trong cảnh cùng quẩn của dân chúng vùng sâu-vùng xa, đó không những là trường hợp của Sơn La, mà cả của Cao Bằng, Yên Bái... Bọn này không phải lãnh đạo chính trị, chúng chính là bọn "hút máu, nạo tủy" của dân, lấy tiền thuế của dân để làm giàu qua đục khoét ngân sách nhà nước.
Làm lãnh đạo mà không thấy ba chuyện sống đủ-đủ sống khác nhau với sống khó-khó sống, càng khác hơn nữa sống còn-còn sống, vì ba hệ vấn đề khác nhau "một trời một vực", thì các lãnh đạo nầy đừng lãnh đạo nữa.
Sống đủ-đủ sống mà rơi vào sống khó-khó sống để nay mai sa vào sống còn-còn sống hiện đang là số phận ngặt nghèo của rất nhiều đồng bào ta, nhưng họ vẫn sáng suốt để nhận ra là các thiên tai (bão, lũ, lụt...) đi kèm với nhân tai (phá rừng, xã lũ, diệt môi trường...), khi người dân gọi đó là nhân tai thì các lãnh đạo chính trị phải hiểu là họ đang buộc tội lãnh đạo : "trời đánh dân" qua thiên tai thiên tai (bão, lũ, lụt...) trước hết là lỗi, là tội của lãnh đạo, trước đó đã để xẩy ra nhân tai vì lãnh đạo vô trách nhiệm !
Nhân trong sống đúng
Sống đúng là sống trong nhân phẩm, tạo ra nhân cách, dựng được phong cách của cá nhân trong xã hội, bảo vệ được tư cách biết dụng đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, để đối nhân xử thế, qua luân lý của tổ tiên có trách nhiệm với giống nòi, có bổn phận với tổ quốc. Nhận chức trong lãnh đạo chính trị phải dựa trên đức của sống đúng trong nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tâm để dụng trong nhân lý, nhân tri, nhân trí, để trị (quản lý, tổ chức) nhân thế, nhân tình, nhân loại. Làm lãnh đạo chính trị là hằng ngày học hệ nhân này, nói cho sâu là tu với nó, tu theo nghĩa tự rèn luyện-tự huấn luyện mình. Trong tôn giáo, ta thấy có kẻ tu được, có kẻ không tu được ; và kẻ tu trọn tức là kẻ tu đúng, thì ta xem như hộ có : chân tu ; trong chính trị ta thấy rất rõ chuyện này có kẻ làm chính trị được, làm trọn đời, làm cả kiếp, và khi rời khỏi cõi đời này, thì dân mang ra để thờ, đó là các lãnh đạo đắc đạo nhờ đã lãnh đạo với chữ : nhân !
Sống đúng còn là sống trong nhân văn, được hiểu theo nghĩa rộng là sống với văn hóa cao, xử thế với văn minh rộng, đối nhân trong văn hiến cao, trong đó lãnh đạo có trách nhiệm làm sáng văn hóa, có bổn phận dụng văn hiến 4000 năm của Việt tộc để đưa văn minh vào đời sống hằng ngày của nhân dân, để người dân sống văn minh trong mọi sinh hoạt xã hội.
Sống đúng cần có cơ sở của một xã hội tốt, qua các định chế tốt tổ chức được các cơ chế tốt, bảo đảm một đời sống thường ngày tốt. Các lãnh đạo phải lắng nghe các câu hỏi của thanh thiếu niên, hằng ngày trên truyền thông mạng xã hội, và phải trả lời các câu đó với hệ nhân một cách chính đáng nhất. Đó là trường hợp của Cát Linh, cô bé miền Trung của xứ Nghệ với câu hỏi : "Làm sao thanh thiếu niên chúng tôi có thể sống đúng, sống tốt trong một xã hội mọi chuyện đều xấu, giáo dục xấu, kinh tế xấu, với các lãnh đạo từ trên xuống dưới đều xấu...". Đó cũng là trường hợp của Lynn Nguyễn, du học sinh Việt tại Anh quốc : "Làm sao thanh thiếu niên chúng tôi có thể học đúng, hiểu đúng, khi lãnh đạo chính trị bưng bít từ tin tức tới đánh tráo lịch sử, mang phản xạ ăn gian nói dối để tuyên truyền, để lừa đảo dân !".
Sống đúng trước hết đối với lãnh đạo chính trị trước hết phải là sống thực, với sự thật làm nên chân lý, chế tác ra lẽ phải để trị (quản lý, tổ chức). Kế tiếp sống đúng đối với lãnh đạo chính là sống sạch, không tham quyền cố vị để trục lợi, nhận thanh bạch, không sợ thanh đạm, bất chấp thanh bần, như vậy mới gánh vác được đại sự !
Nhân trong sống vui
Sống vui hàng ngày để vui sống cả đời, là sự hiển hiện của hạnh phúc, khi sống đủ đã có và sống đúng đã thành, thì thực tế cả một dân tộc sống vui-vui sống chính là niềm vui cao đẹp nhất của lãnh đạo chính trị. Đây không phải là chuyện mơ mòng, mà là chuyện có thật, có thật và kéo dài hàng trăm năm qua hai đời Lý-Trần, mà Việt sử kể lại với thái hòa là thực cảnh nơi mà nhà cửa cứ để mở mà không lo sợ trộm cắp, với thái bình là bối cảnh mà cả nước chuộng thiền, yêu thiền, sống thiền. Có nhiều vua, lắm tướng đánh giặc giỏi, lãnh đạo tài, quản lý đúng, lại còn biết đi tu, trong hiện cảnh của một quốc gia biết "an nhiên, tự tại, với minh vương Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, với minh quân Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo.
Quy trình sống đủ-sống đúng-sống vui phải có trong giáo trình đào tạo lãnh đạo của đất nước, "cầm cương nẩy mực" vì đồng bào, nhận đối thoại thường xuyên với nhân dân, không chỉ vì mục đích kính tế, vật chất mà còn có giáo dục song hành cùng văn hiến, của một dân tộc tìm sự sung túc cùng lúc với các giá trị tâm linh. Không cần phải là nước giầu nhất, mạnh nhất để đạt được chuyện này. Đây chính là chuyện cứu cánh của lãnh đạo chính trị, đó là thực tế của ba quốc gia Bắc Âu nhỏ nhưng không nghèo, ít dân và rất quý dân : Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy. Họ làm đúng trong giáo dục mà không cần đầu tư nhiều tiền như Việt Nam hiện vào tượng đài liệt sĩ, vào nghĩa trang ưu tiên cho cán bộ cao cấp. Họ làm đúng trong kinh tế mà không bán đứng tài nguyên, thiêu hủy môi trường, vì họ biết sống đủ-sống đúng-sống vui và tin vào các giá trị của nhân phẩm. Nhân lý của họ là nhân trí, và nhân đạo của họ là nhân bản. Họ không phải là một trường hợp đơn lẻ, bây giờ lại có Cost Rica, rất nhỏ giữa các quốc gia rất lớn trong Châu Mỹ La tinh nhưng biết trọng môi trường như trọng nhân tính ; lại thêm Népal của Châu Á, biết lấy hạnh phúc của vui sống để làm kim chỉ nam cho mọi chính sách. Tất cả các quốc gia nhỏ này đều biết bảo vệ quê hương họ, bảo trị an ninh trật tự cho dân chúng họ, nhưng họ thật thông minh –nhờ lãnh đạo của họ rất thông minh- biết chọn sống đủ-sống đúng để sống vui, còn hơn là giầu mà ngu ! Lắm tiền nhưng thiếu lạc.
Nhân và quả
Nhân vừa là nguyên nhân, vừa là nhân loại, trong đó nguyên của hạt, của giống, khi gieo vào đất sống, cấy vào nhân sinh luôn theo quy luật "nhân nào quả nấy". Vì, quả là kết quả, nếu hay, đẹp, tốt, lành thì là hiệu quả ; còn nếu xấu, tồi, tục, dở thì là hậu quả.
Quy luật "nhân nào quả nấy", được Phật giáo phân giải tận tường, Khổng giáo và Lão giáo không phân tích ngược lại hoặc khác đi ; trong khoa học xã hội và nhân văn đã dụng nó không những như lý thuyết luận mà còn như phương pháp luận để phân tích chính xác hơn quan hệ xã hội qua chính trị, giữa kẻ thống trị và người bị trị. Nhất là trong chính trị học, luôn lấy quy luật nhân quả làm cốt lõi để giải thích các phản xạ của quần chúng, các phản ứng của nhân chúng trong ngắn hại, trung hạn và dài hạn.
Quy luật "ác quả ác báo" tới để củng cố quy luật "nhân nào quả nấy", cùng lúc mài sắc nhọn hơn diễn luận của quy trình nhân quả, để báo động cho nhân sinh biết cái hậu quả của xấu, tồi, tục, dở đang biến thái qua hậu nạn tới từ thâm, độc, ác, hiểm. Nơi đây, hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo hành, bạo động, bạo chúa…) bó buộc các lãnh đạo phải nghiệm thêm cho thật tỉnh táo và sáng suốt thêm một vấn nạn khác, có nhân lý vì có nhân tri : "hại nhân, nhân hại", không biết các lãnh đạo hiện nay có đủ tuệ giác hay không để cụ thể hóa nó hơn nữa : "hại dân, dân hại"
*****************
Phần 3
"Quyền lực không những ở trên cao,
mà lan tỏa để ẩn náu trong mọi quan hệ xã hội"
M.Foucault
Lý tưởng chính trị vừa chính sách hóa được các phương án phục vụ nhân dân và đất nước, vừa mô hình hóa được các tổ chức cụ thể trong đầu tư và kiểm tra, vừa cụ thể hóa mọi sinh hoạt chính trị,
Luân và lý
Luân là khung, là khuôn để định vị và định chất về trách nhiệm và bổn phận giữa cá nhân và tập thể, giữa cộng đồng và dân tộc, giữa công lý hành động ; thì luân cùng lúc là con đường và định hướng cho nhân tính, sống theo hướng nhân đạo. Như vậy, khi vào khung, vào khuôn là đã tìm ra được nhân tính, dựa vào nhân đạo, nên luân là đi vào nhân loại bằng con đường nhân nghĩa !
Lý tới từ kinh nghiệm được chế tác thành kiến thức, tạo ra ý thức qua lý luận đi tìm sự thật, qua lập luận đi tìm chân lý, qua giải luận để có lẽ phải, thì lý không là khung, chẳng phải là khuôn, là một quy trình khám phá, vừa đòi hỏi thông minh, vừa đòi hỏi sáng tạo, vì khung chưa có và khuôn thì biệt dạng, nên lý là đi tìm nhân loại qua con đường của nhân trí !
Luân lý chính trị vừa là đi vào nhân loại vừa là đi tìm nhân loại để hiểu rõ hơn nhân tính, để thấu sâu hơn sự đa dạng của nhân sinh. Nếu không có nội lực đi vào nhân lý, thì không có luôn sung lực đi tìm nhân tri.
Không có đa nhân : nhân lý, nhân tri, nhân trí để phục vụ cho nhân tình, nhân thế, nhân loại đi vào quỹ đạo của nhân nghĩa, nhân văn, nhân bản, thì đừng lãnh đạo chính trị !
Lý tưởng chính trị
Lý tưởng chính trị vừa chính sách hóa được các phương án phục vụ nhân dân và đất nước, vừa mô hình hóa được các tổ chức cụ thể trong đầu tư và kiểm tra, vừa cụ thể hóa mọi sinh hoạt chính trị, nơi mà lãnh đạo chính trị dẫn dắt từ thượng nguồn tới hạ nguồn các quyết tâm thực hiện các chỉ tiêu trong thực tế. Tại đây, sinh hoạt lãnh đạo chính trị là tổng kết tất cả các sinh hoạt của xã hội, từ nông nghiệp đến công nghiệp, từ kinh tế đến thương mại, từ giáo dục tới văn hóa… để tìm ra tổng lực làm cho được chuyện dân giầu nước mạnh.
Lý tưởng chính trị làm nên niềm tin chính trị, nếu quốc thái dân an theo hướng đi lên của dân tộc, giới hạn mọi hậu nạn, tăng trưởng mọi sản suất, làm giầu thực sự cho mọi tầng lớp có mặt trong xã hội, thì lý tưởng chính trị đã làm nên sức mạnh chính trị. Quá trình lý tưởng-niềm tin-sức mạnh, không chỉ quyết tâm chính trị, mà nó chính là thông minh chính trị, quá trình này chính là sung lực xuyên qua để nâng lên trình độ chính trị của dân chúng, cường độ nhận thức chính trị của nhân dân.
Lý tưởng chính trị trong năng lực của lãnh đạo chính trị mang luôn tiềm lực thay đổi nhân sinh quan của một dân tộc, lấy nhân tính để giáo dục nhân tình ; làm biến đổi thế giới quan của một giống nòi, lấy nhân tri để hiểu nhân loại ; làm chuyển đổi vũ trụ quan của quần chúng, hiểu môi trường chính là môi sinh cho nhân thế. Nếu phương trình nhân sinh quan-thế giới quan-vũ trụ quan được thăng hoa, thì đây chính là kết quả của tiến bộ, của văn minh, cũng là sự thành công cụ thể của lãnh đạo chính trị.
Lý tưởng chính trị biến cái tầm thường lập đi lập lại không có tiến bộ, đổi cái bình thường vô thưởng, vô phạt, thay cái tầm phào của sống lây lất, đưa tất cả vào quy trình hiện đại hóa có văn minh, cùng lúc giữ được các tuyền thống tốt lành, các di sản hay đẹp, đây chính là quá trình khai thị-khai minh-khai trí có trong bổn phận và trách nhiệm của lãnh đạo chính trị, nếu lãnh đạo liêm chính-liêm minh-liêm khiết.
Lý tưởng chính trị bắt đầu bằng liêm chính-liêm minh-liêm khiết để làm cho bằng được chuyện khai thi-khai minh-khai trí thì đây đúng là lãnh đạo lấy chân thật- chân tình-chân chính để chứng minh được là trong chính trị có chân tu : lấy chức để tạo đức, lấy đức để tạo phúc cho dân, lấy phúc tạo lợi cho nước.
Lý của (lãnh) đạo
Lý của lãnh đạo, hoàn toàn ngược lại với hiện thực của Việt Nam hiện nay, là một Đảng cộng sản Việt Nam lấy ghế để ngồi trên lợi ích của dân tộc, thấy mệnh nước lờ mờ, nhìn nhân dân mông lung, lại có những liên minh chằng chéo với ngoại bang xâm lược là Tầu tặc, các lãnh đạo chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam đang mất đi cái lý của lãnh đạo.
Lý của (lãnh) đạo bắt đầu bằng hành động luân lý, hành vi đạo lý nhận trách nhiệm bảo vệ đất nước, bảo bọc nhân dân, bài học nhập môn này trong lãnh đạo chính trị bắt đầu bằng ý lực như mãnh lực trở lại thượng nguồn của dân tộc, ngay trong lịch sử để thấy-và-lấy được những kinh nghiệm của tổ tiên, tài năng của cha ông trong việc dựng nước và giữ nước, chính trị không bao giờ rời lịch sử.
Lý của (lãnh) đạo trong bài học thứ hai nằm ngay trong thực tế, được xây dựng lên bởi nhiều thực tại, trong đó lãnh đạo chính trị phải làm được hai chuyện cùng một lúc, hai chuyện này gần như trái ngược nhau trong thực cảnh, để nắm rõ thực trạng của dân tộc. Một là giải quyết các bất công gây nên căng thẳng, hiềm khích, xung đột trong xã hội ; hai là lập ra chính sách cho tương lai có mục đích chính là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, phát triển đất nước, với mục tiêu cao thượng là đưa xã hội về phía văn minh để thăng hoa dân tộc trên, chính trị không bao giờ rời xã hội.
Lý của (lãnh) đạo trong bài học thứ ba là tập hợp được tất cả tiềm năng của dân tộc, tài nguyên của đất nước trong một sung lực tổng thể để tạo được một ý lực trong chính sách bảo vệ và phát huy đất nước, nơi đây lý tưởng chính trị đi đôi với hành động lãnh đạo. Chính lãnh đạo sẽ biến sung lực thành hùng lực trong phát triển kinh tế và mãnh lực trong quyết tâm bảo vệ bờ cõi quê hương, chính trị không bao giờ rời nhân dân. Lý của (lãnh) đạo trong bài học thứ tư chọn phương hướng để làm định hướng, biết định hướng để thấu các ưu tiên ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, rồi xếp loại và xếp thứ tự các ưu tiên này qua các chính sách để quyết đoán đâu là ưu sách phải thực hiện cho bằng được để dân tộc được thay đời đổi kiếp theo chiều hướng hay, đẹp, tốt, lành, đưa nhân tính vào nhân tình, đưa nhân tri vào nhân loại, đưa nhân thế vào nhân nghĩa, đưa nhân phẩm vào nhân bản, chính trị không bao giờ rời nhân đạo
Lý của (lãnh) đạo trong bài học thứ năm là nắm thời giữ thế -tùy thời lập kế, tùy thế lập mưu- để chọn ra các chính sách nhiều hiệu quả, ít hậu quả, vắng bóng khổ đau, ngày càng đầy phúc lợi cho dân tộc, không bị xơ cứng trong ý thức hệ, không bị nhốt tù bởi các khẩu lịnh tuyền truyền xa thực tế, xa thời thế, chính trị không bao giờ rời thời cuộc. Lý của (lãnh) đạo trong bài học thứ sáu là biến tâm niệm quốc thái dân an thành tâm lực dân giầu nước mạnh, trong đó kẻ lãnh đạo giỏi là kẻ của bây giờ và tại đây, kẻ lãnh đạo tài là kẻ của hiện thực của thế giới hiện nay, kẻ lãnh đạo lớn là kẻ thấu nội cảnh và hiểu ngoại cảnh của đất nước mình, để dùng ngoại cảnh mà nâng nội cảnh.
Lý của ý
Nếu ý tưởng chính trị sinh ra từ lý tưởng lãnh đạo (quốc thái dân an để tiến tới dân giàu nước mạnh) thì ý tưởng chính trị sẽ làm nền cho sáng kiến trong quyết định, cho sáng tạo trong chính sách, từ đó thực tế hóa lý tưởng lãnh đạo. Từ đây nhân dân có thể đặt ra hai yêu cầu cho chính giới lãnh đạo, thứ nhất nếu không có ý tưởng chính trị để phục vụ cho lý tưởng lãnh đạo thì đừng lãnh đạo ! Thứ hai lý tưởng lãnh đạo luôn là ý lực lãnh đạo vượt kinh nghiệm của quá khứ, không lập đi lập lại cái cũ nếu cái cũ không làm dân tộc thăng hoa, đất nước giầu đẹp. Tới đây ta thấy hệ vấn đề lý tưởng lãnh đạo sẽ làm đầu tầu cho mọi sinh hoạt lãnh đạo chính trị, trong đó bọn tham quyền không có ghế ngồi, bọn tham ô không có chỗ đứng, bọn tham nhũng không có chỗ dựa.
Ý tưởng chính trị thể hiện lý tưởng lãnh đạo trong việc đi tìm quốc thái dân an rồi tiến tới dân giàu nước mạnh, thì đây là chuyện thực tiễn chớ không phải chuyện lý thuyết, chuyện thực tế chớ không phải chuyện trừu tượng, và bản lĩnh của lãnh đạo chính trị là đưa ý tưởng chính trị vào nhân sinh, đưa lý tưởng lãnh đạo vào nhân tình, để ý lực lãnh đạo biến thành thực lực chính trị, làm nên thực tế xã hội. Nếu không có lý tưởng lãnh đạo, thì sẽ không thấy, không hiểu, không thấu phương trình biến hóa của ý lực lãnh đạo-thực lực chính trị-thực tế xã hội, theo dân tộc theo hướng thăng hoa. Nếu không nhận ra phương trình này thì đừng lãnh đạo, hay để những kẻ có lý tưởng hơn mình thực hiện phương trình này, biến nó thành chương trình cụ thể trong lãnh đạo chính trị thay mình.Chính lý tưởng lãnh đạo dẫn dắt ý tưởng chính trị tạo ra đường lối chính thống cho mọi sinh hoạt chính trị, chế tác ra các quá trình tuyển chọn chương trình chính trị. Và, nếu lãnh đạo liêm chính với chính sách liêm minh thì lý tưởng lãnh đạo có mặt ngay trong hiến pháp, để điều hành tư pháp, điều chế hành pháp, điều động lập pháp.
Tại đây sân chơi-trò chơi-luật chơi chính trị được cổ vũ bởi lý tưởng dìu dắt ý tưởng, mà ta thấy rất rõ trong các nước dân chủ vì tiên tiến, văn minh vì tôn trọng nhân quyền. Hiện diện của lý tưởng lãnh đạo đưa đường dẫn lối ý tưởng chính trị không hề là chuyện mơ hồ, huyền hoặc trong chính giới, vì nó vừa là mục đích, vừa là động cơ để cải tổ chức các định chế dựa trên phương án lý tưởng lãnh đạo-ý tưởng chính trị. Trong đó ý tưởng chính trị làm gốc cho tư tưởng chính trị, dựa trên lý tưởng lãnh đạo vừa là bàn đạp, vừa là dàn phóng cho mọi chính sách. Trong đó có sự chấp nhận cạnh tranh giữa các ý tưởng chính trị, có sự chấp thuận đấu tranh giữa các lý tưởng lãnh đạo. Đây chính là nội công của sinh hoạt chính trị, nội lực của bản lĩnh lãnh đạo ; nhận cạnh tranh, nhận đấu tranh tới từ đối phương, đối thủ như nhận sự "bồi dưỡng chính trị" tới từ ngoại giới để thêm sức, thêm tài cho sung lực chính trị của mình.
Lý… chỉnh
Chỉnh chu trong hành động chính trị phải dựa vào sự chu đáo của lãnh đạo, trong đó liên tục chỉnh đốn hàng ngũ lãnh đạo, để có hiệu quả trong sinh hoạt chính trị, không ngừng cải tổ theo hướng tốt mà không cần phải dùng xương máu để làm cách mạng. Biết có công bằng qua công lý, để pháp lý có chỗ dựa là pháp luật, vừa nghiêm minh để chống tội ác, vừa biết khoan hồng để giáo dục dân chúng theo hướng tự giác, từ ý thức tới nhận thức.
Lý chỉnh chu nhờ luôn được chỉnh đốn bởi đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, bởi luân lý vững chắc của tổ tiên biết nhận bổn phận và trách nhiệm với non sông, với giống nòi, đây là chuyện có thật và có độ dày (rất dày) trong Việt sử qua quyết tâm của Ngô Quyền, qua quyết đoán của Lý Thường Kiệt, qua hai đời thịnh trị Lý-Trần, qua đạo đức của Nguyễn Trãi, qua mãnh lực của Quang Trung.
Lý chính trị chỉnh chu (quốc thái dân an) luôn được bồi dưỡng bởi lý tưởng chính trị (dân giầu-nước mạnh) không hề là chuyện mơ tưởng chính trị, mơ hồ lãnh đạo, đó là những mô hình sáng, luôn được lau chùi để ngày càng sáng hơn, qua hành động chính trị cụ thể của lãnh đạo : làm chính trị thì đừng chọn cách đi đường mòn trên cái xấu, cái dở, để lập lại cái tồi, cái hèn, mà chọn cái sáng suốt khác để đi lên, trong cái tỉnh táo của lãnh đạo có lý tưởng đi xa vì có quyết tâm đi lên.
Lý chính trị chỉnh chu (quốc thái dân an) qua lý tưởng chính trị (dân giầu-nước mạnh) mang cách xử lý phương trình gần dân-xa thói, tức là luôn gần dân để hiểu mong cầu và đòi hỏi của dân, nhưng xa thói xấu, như xa các lệ tầm phào vì tầm thường trong nhân cách. Cụ thể là dân tình quý trọng các lãnh đạo liêm minh-liêm chính-liêm sỉ, chấp nhận thanh bạch-thanh đạm-thanh bần, và dân tình rất khinh thói khoe của hiện nay của các lãnh đạo xây biệt phủ, biệt dinh, biệt thự của các lãnh đạo thối nát. Cụ thể có ông lãnh đạo tối cao thủa nọ : cựu tổng bí thư Nông Đức Mạnh xây dựng nội thất mạ vàng, người ta khinh vì nó chỉ nói lên cái vô lý của vô minh, vô tri, vô giác của một lãnh đạo. Ta khinh bọn lãnh đạo sống để mạ vàng trong khi dân đen, dân oan ngày càng nhiều, chỉ vì ta thấy chúng ngày càng gần hệ bán nước-ngày càng xa hệ cứu nước !
Lý... trọn
Không trọn lý thì đừng mong trọn tình trong lãnh đạo chính trị trước nhân dân, vì đất nước, vì tiền đồ của tổ tiên ; những mơ hồ trong thuật ngữ : lãnh đạo vừa là kỹ thuật, vừa là nghệ thuật, đã biến thành sáo ngữ, vô thưởng vô phạt, nếu kẻ lãnh đạo không nhận ra nội chất của chính trị chính là nội lực của lãnh đạo, trong đó kết quả của chính sách được đo lường qua hiệu quả của kẻ lãnh đạo. Tại đây học cho kỹ để hành cho đúng là sinh hoạt thường nhất của lực lượng lãnh đạo, trong đó quá trình hành động chính trị được xếp đặt có thứ tự trong quá tình xây dựng chính sách :
Trọn cứu cánh trong lý giải các chính sách, ở đây mục đích chính sẽ lý giải mọi mục tiêu trong thực tế, ở đó chuyện ích nước-lợi dân, là chính, lấy công ích dẫn dắt tư lợi.
Trọn phương tiện, trong giải thích về các giai đoạn đầu tư, từ đây có tự lực để có tự cường, lấy tự chủ để vận động liên minh, kể cả viện trợ quốc tế.
Trọn lợi ích, trong lý giải các thành quả, bằng kết quả hay cho giống nòi, tốt cho dân tộc, đẹp cho văn hóa, lành cho xã hội. Các lợi ích luôn có tính hữu hiệu đẩy lùi được các chuyện xấu, tồi, tục, dở trong xã hội, trong dân chúng.
Trọn đầu tư, biết thuyết phục các chi phí của cả công trình, chống tham nhũng để chống đầu cơ, chống tham ô để chống trục lợi ; cô lập bọn "sâu dân mọt nước", vô hiệu hóa bọn "thừa nước đục thả câu", phong tỏa hóa bọn "mượn đầu heo nấu cháo", chúng sẽ không có chỗ ngồi trong đầu tư, vì chúng không có chỗ đứng trong chính sách.
Trọn thấu hậu quả với những phân tích về các hậu nạn có thể xẩy ra, hậu nạn luôn ở số nhiều về nhân lực cũng như về nhân phẩm, về tài nguyên cũng như về môi trường, về xã hội cũng như về văn hóa, về giáo dục cũng như về luân lý… nếu hậu quả lường được, mà lại nhiều hơn hiệu quả thì đừng ra chính sách, đừng bỏ sức để đầu tư.
Trọn tăng trưởng với các tính toán sinh lời trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, trong con tính : có rồi thì được quyền có thêm, có ít thì được quyền có nhiều hơn để nâng cao cuộc sống hằng ngày cho nhân dân, trong đó luân lý, đạo lý giáo dưỡng hệ thống giáo dục, lấy kinh tế phục vụ xã hội, lấy lợi nhuận phục vụ lao động, lấy sáng suốt để bảo vệ tài nguyên, lấy tỉnh táo để bảo tồn môi trường, lấy nhân trí để tăng trưởng nhân lý.
Lý gần, lý xa
Lý gần là lý gần với thực tế của nhân dân, trong đó chuyện chén cơm manh áo của dân chúng lãnh đạo phải hiểu, tại đây chuyện cơm áo gạo tiền của quần chúng lãnh đạo phải thấu, ở đây chuyện giá áo túi cơm của nhân dân lãnh đạo phải có sự đồng cảm, không xem thường chuyện thiếu thốn của dân tộc. Ý nguyện thành ý lực đủ ăn, đủ mặc chính là thao thức đau đáu hằng ngày của lãnh đạo chính trị.
Lý xa là chuyện xa nhưng làm được vì nó không xa vời, vì muốn làm lãnh đạo là muốn đưa dân tộc với tới được chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng đi lên, bền và vững của dân giầu nước mạnh. Lý xa nhưng thực hiện được vì đã có trong vốn liếng văn hóa và giáo dục của tổ tiên : con hơn cha là nhà có phúc, không trên mức độ của vài cá nhân, của vài từng lớp lãnh đạo, mà trên cường độ của cả nước, của toàn dân, trong đó đại đa số được hưởng sống vui để vui sống, không sưu cao thuế nặng, không cường hào ác bá, cụ thể là không có dân đen, không còn dân oan.
Lý gần là lý gần kề với thực trạng của dân tộc, có đủ cơm ăn áo mặc, không phải đi làm lao nô ngay trên đất nước mình cho các doanh nghiệp ngoại quốc, không chịu cảnh nô tỳ cho các nước láng giềng, tuyệt đối không rơi vào cảnh nô lệ của họa tầu tặc. Lý gần vì lãnh đạo có thể làm được tức khắc qua quyết tâm chính trị biết dựa vào lý tưởng chính trị, mà không cần gọi tên qua xảo ngữ để lừa dân là lý tưởng cách mạng !
Lý xa là đưa nhân tri sáng, nhân trí cao vào nhân tình nghèo, vào nhân thế thấp, làm cho bằng được cuộc cách mạng nhân phẩm : quyết chí làm chủ và từ chối làm tớ, để thành công như các nước láng giềng cùng nôi văn minh trong tam giáo đồng nguyên như ta : Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Lấy sáng kiến trong giáo dục làm ra sáng tạo trong khoa học kỹ thuật ; chọn kiếp cao, bỏ kiếp thấp, cụ thể lấy tự chủ để có tự lập lập ra tự cường, tức là chọn tự trọng trước tổ tiên và con cháu, quyết không chọn điếm nhục với láng giềng, với thế giới !
Lý… không chấp nhận thực
Lý không chấp nhận thực (thực tế, thực cảnh, thực trạng) là lý đặc thù của sinh hoạt chính trị không chấp nhận nghèo đói, là lý đặc trưng của chính giới không chấp nhận lạc hậu, làm nên lý đặc điểm của lãnh đạo chính trị, nơi mà lãnh đạo là để xóa nghèo nàn lạc hậu. Còn bọn lãnh đạo nào mà vỗ ngực là lãnh đạo chính trị mà nhắm mắt trước nghèo đói, khoanh tay trước lạc hậu, quỳ gối trước ngoại xâm, lại còn lẳng lặng vơ vét qua chuyên quyền-tham quyền-lạm quyền, gây ra tham nhũng-tham ô. Bọn này không phải làm chính trị, mà chúng chỉ mượn việc lãnh đạo tham quan vì tham bòn rút, tham ăn vì "quen thói bốc trời", mà thi hào Nguyễn Du đã mô hình hóa được bọn tội phạm này.
Lý không chấp nhận thực tế tới từ bất bình đẳng tạo ra bất công, bất công tạo ra bất chấp luân lý, bất tuân đạo lý. Không chấp nhận bất bình đẳng tới từ "con sải nhà chùa thì quét lá đa", vì không chấp nhận bất công tới tự "con vua thì được làm vua", không nhượng bộ chuyện "con quan thì được làm quan", không công nhận hiện trạng thái tử đảng, mà nhân dân không thấy tài năng, cũng không thấy đạo đức của chúng.
Lý không chấp nhận thực cảnh tới từ bọn "cướp ngày là quan", chúng biến đồng bào mình một sớm một chiều thành dân đen, dân oan. Không chấp nhận bọn "đục nước béo cò", không tha thứ bọn "sâu dân, mọc nước", không lùi bước trước bọn "thừa gió bẻ măng", không khoan nhượng bọn "mượn đầu heo nấu cháo", từ "mua quyền bán chức" qua "buôn thần, bán thánh".
Lý không chấp nhận thực trạng tới từ bọn "đem voi dày mồ tổ", không nhắm mắt trước bọn con "cõng rắn cắn gà nhà", không quay lưng đối với bọn "buôn nước bán dân", không chấp nhận chúng vì chúng chỉ thấy chúng ! Cái ích kỷ của chúng sẽ đưa tới chuyện "ai chết mặc ai", nếu chúng nắm các chức lãnh đạo thì chúng sẽ làm chuyện bỏ đồng bào chúng "bây chết mặc bây" !
Nếu muốn làm lãnh đạo mà không tự rèn luyện hằng ngày các lý không chấp nhận thực (thực tế, thực cảnh, thực trạng) này, thì đừng lãnh đạo, vì lãnh đạo thì chỉ "khổ dân, nhục nước".
Lý chống hệ độc
Lý chống hệ độc là chống cặp bày trùng : hệ tư tưởng độc tôn và ý thức hệ độc tài, trong đó hệ thống hóa tư tưởng tập thể sinh ra mô hình hóa tư duy cá nhân, công thức hóa sự đa dạng trong cuộc sống, biến cuộc đời thành độc điệu, rồi trơ trẽn trong đơn điệu. Tức là nhốt đa hiệu trong nhà tù độc trị, vò nát đa năng thành bột trong khuôn bánh cứng nhắc của mô hình độc tôn, nghèo nàn vì vắng đa phương, rỗng đa hướng.
Lý chống hệ tư tưởng độc tôn và ý thức hệ độc tài là loại ra sự độc hại của cái độc quyền, vì khi nó độc tài thì nó sẽ diệt cái đa hiệu của đa tài, biến đa diện thành độc diện. Hệ độc chọn đóng cửa, ngăn biên giới, chặn tự do lưu thông, cấm tự ý truyền thông. Hệ độc chọn "ngăn sông cấm chợ", chọn "bế môn tỏa cảng", chọn "kín cổng, cao tường" để kiểm soát, kiểm tra, kiểm duyệt. Hệ độc cấm chuyện mở cửa, để nhân dân được nhân tri và nhân trí để chọn nhiều chân trời cao, sâu, xa, rộng cho các dự phóng hay, đẹp, tốt, lành. Hệ độc "không thích" nhân dân thoải mái chọn lựa.
Lý chống hệ tư tưởng độc tôn và ý thức hệ độc tài để trực diện chống lại chế độ công an trị thường dùng bạo quyền để đàn áp dân, chống lại chế độ quân sự hóa xã hội, biến dân lành thành kẻ hung hăng gây chiến tranh, đi giết người cho mục đích độc ác của nó, mà không hề vì chuyện "ích nước,lợi dân".
Lý chống hệ tư tưởng độc tôn và ý thức hệ độc tài, để trực tiếp chống bạo quyền, cội nguồn của bạo lực nơi mà kẻ thống trị có quyền sinh sát trên số phận kẻ bị trị, cho phép công an giết dân trong các đồn công an mà pháp luật hoàn toàn vắng mặt. Bạo quyền sinh ra bạo hành hằng ngày, xem chuyện "cá lớn nuốt cá bé" là bình thường, xem chuyện "trộm, cắp, cướp, giựt" nhà, đất, chùa, nhà thờ, của cải… của dân là chuyện "cơm bữa" của bọn cầm quyền để chà đạp nhân quyền.
Muốn làm lãnh đạo mà không tự trang bị cho mình hành trang chính trị của các cái lý chống hệ tư tưởng độc tôn và ý thức hệ độc tài thì đừng lãnh đạo ! Nếu muốn làm lãnh đạo mà hùa với bạo quyền-bạo lực-bạo hành thì có ngày tay sẽ dính máu dân ! (rửa suốt kiếp cũng không sạch).
Lý chống mộng
Nếu lý của lãnh đạo dựa trên đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, có nền móng từ luân lý của trách nhiệm bảo vệ nhân dân, của bổn phận bảo toàn tổ quốc, thì cũng chưa đủ để thắng địch. Để lật ngược đối phương nhất là đối phương đó lớn và đông cả nước lẫn dân, như Tàu tặc hiện nay, chúng thật sự là tặc vì chúng đã cướp nước và áp đặt nền thống trị để đô hộ ta qua nhiều lần trong lịch sử, hiện nay chúng cũng đang cướp biển, cướp đảo của ta. Kẻ lãnh đạo giỏi là kẻ chuẩn đoán chính xác ý định của giặc (đi guốc trong bụng giặc), kẻ lãnh đạo tài là kẻ dự đoán đúng ý muốn của giặc (đi bộ trong não giặc), kẻ lãnh đạo lớn là kẻ nhập nội được vào ý đồ của giặc (đi dạo trong mơ của giặc). Trong đó kẻ lãnh đạo phải hiểu : ý định tới từ ảo tưởng của giặc, ý muốn tới từ mong muốn của giặc, ý đồ tới từ mưu đồ của giặc.
Phương trình ý định-ý muốn-ý đồ luôn mang theo các hằng số tâm lý của đối phương trong đó có ảo tưởng đưa tới mơ tưởng, dẫn tới mộng tưởng, chính vì là tưởng nên không thực (cho dù giặc muốn biến thành thật), cho nên suy bụng ta ra bụng người thì chưa đủ, phải biết : suy cho ra, cho đúng, cho trúng bụng dạ của giặc !
Tổ tiên ta đã làm được chuyện này ! Tàu tặc áp đặt hơn 1000 năm đô hộ và chắc mẩm đất nước Việt là của chúng, đang ngủ yên trên đất Việt, vậy mà Ngô Quyền một sớm, một chiều đã quật ngược chúng, bắt chúng phải cuốn chiếu quay về nước của chúng trong hoang mang. Chính Lý Thường Kiệt cũng làm chúng tan hoang trong ảo tưởng là dễ chiếm nước Việt, dễ nuốt Việt tộc, để khi xem lại manh giáp của chúng, để phải tỉnh khi biết là chúng còn toàn thây là may. Cũng chính ảo tưởng chủ quan về binh hùng tướng mạnh mà quân Nguyên Mông đã gặp ác mộng với ba lần quỵ gục trên đất nước Việt. Mơ tưởng chủ quan đến ngủ mê trong mộng tưởng của kẻ đi xâm chiếm như Tôn Sĩ Nghị khi thấy vào nước Việt dễ, vào Thăng Long như đi dạo, để đến lúc Quang Trung đánh thức chúng trong chiến thắng chớp nhoáng, tỉnh giấc trong kinh hoàng, vừa chạy, vừa hoảng mới biết tưởng không phải là thực !
Tình hình hiện nay là luân lý hóa quan hệ quốc tế, với công pháp quốc tế được bảo vệ bởi các nước văn minh vì có nhân quyền, các quốc gia tiến bộ vì có dân chủ, nên chuyện "Châu chấu đá xe" không còn là chuyện "đánh tay đôi" nữa ; mà nó đã trở thành chuyện liên minh quốc tế của liêm chính bảo đảm cho các lãnh đạo các nước nhỏ, nếu lãnh đạo các nước đó có liêm sỉ cứu nước-cứu dân.
Lê Hữu Khóa
(25/01/2020)
-------------
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie,Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á, Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc,Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.
Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sưLê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.