Phần 7
Quyền
"Một quyền lực này thì không bao giờ yêu thích một quyền lực khác".
G. Flaubert
Thực quyền theo các tiêu chí trên làm nên được chính trị tỉnh-lãnh đạo thức, nếu các lãnh đạo hiện nay không hiểu các tiêu chí này thì nên : buông quyền ! rời quyền ! bỏ quyền !
Thực quyền
Thực quyền, không có công thức cũng không có mô hình, nên không có định nghĩa để áp dụng vào thực tế, nếu áp dụng quyền lực một cách máy móc thô bạo vào thực trạng của xã hội thì nó sẽ tạo ra phản quyền, như phản lực để chống lại áp chế, khống chế, để chống lại áp đặt dưới nhiều mức độ, dưới nhiều trình độ, qua trực diện hay phản diện với quyền lực.
Thực quyền luôn được quyết định qua 3T (trí năng-tài năng-khả năng) của lãnh đạo, trong đó trí năng mang thực lực của 3L (lý luận-lập luận-giãi luận) được vận dụng trong thực tế qua các chính sách. Tại đây, tài năng của lãnh đạo làm rõ một 3T trọng tâm khác (tri thức-ý thức-nhận thực) của quần chúng, tạo ra khả năng của lãnh đạo trong 3K (khai trí-khai lý-khai minh) cho nhân dân, để nhân dân ủng hộ cụ thể các chính sách của lãnh đạo.
Thực quyền luôn được hỗ trợ bởi 3N gốc rễ (nhân bản-nhân văn-nhân tính) trong giá trị 3V (văn hóa-văn minh-văn hiến) của một dân tộc, trong đó lãnh đạo phải biết vận dụng lý trí của một 3N của lý trí (nhân lý-nhân tri-nhân trí) luôn có mặt chỗ trung tâm trong các chính sách của lãnh đạo. Từ đó nhân dân sẽ thấy rõ 3N cốt lõi (nhân nghĩa-nhân đạo-nhân phẩm) có mặt từ lý thuyết luận tới phương pháp luận của lãnh đạo, mà nhân dân có quyền kiểm định qua kết quả và hậu quả của các chính sách này.
Thực quyền luôn nằm trong khung của 3C (bối cảnh-hoàn cảnh-thực cảnh) của một đất nước, của một dân tộc, có nền là 3T (tình hình-tình trạng-tình huống) của thời đại và thời cuộc. Trong đó, tình hình toàn cầu hóa hiện nay đang tạo các quyền lực mới tới từ khoa học kỹ thuật sinh ra một 3T mới (tin tức-thông tin-truyền thông) qua internet, qua mạng xã hội, đây vừa là thực quyền và vừa là thực chủ để khai mào dân chủ. Từ đây, tạo được tình trạng đa thông tin trong đa quyền lực, sinh ra những tình huống sinh động cho đa nguyên, linh động cho nhân quyền. Chính ba hùng lực của dân chủ-nhân quyền-đa nguyên tạo ra 3L (sung lực-nội lực-trí lực) cho nhân dân qua mạng xã hội.
Thực quyền sẽ biến độc quyền của 3Đ (độc tài-độc đoán-độc đảng) thành lỗi thời vì nó chỉ là "ma bùn" trong tà quyền, chỉ là "ma xó" trong bạo quyền, chỉ vì độc tôn đã vào "ma đạo" của độc hại, ngược lại nhân loại đang theo đa, để có đa (thực) quyền, để tạo ra đa lý, đa trí, đa tri, đa tài, đa năng, đa hiệu...
Thực quyền theo các tiêu chí trên làm nên được chính trị tỉnh-lãnh đạo thức, nếu các lãnh đạo hiện nay không hiểu các tiêu chí này thì nên : buông quyền ! rời quyền ! bỏ quyền !
Quyền để quyết
Có quyền để quyết : quyết đoán để quyết định. Quyết đoán bằng năng lực biết chủ động để khách quan hóa các kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức trong tỉnh táo để sáng suốt khi xây dựng quyết tâm, hoàn toàn ngược lại với độc đoán không nhận kiến thức để loại bỏ tư vấn, không nhận tri thức để trừ khử đối thoại.
Quyết đoán mở mọi cửa trước khi quyết, ngược lại với độc đoán đóng mọi cửa trước và sau khi quyết. Quyết đoán để đi về phía chân trời có mặt trời, trái hẳn với độc đoán, đã quyết trong cực đoan, với hành vi quá khích, nên "cắm đầu, cắm cổ" đi mà không tỉnh táo tìm phương hướng, đi mà không sáng suốt cùng với các kẻ đồng hành khác.
Quyết đoán trong quyết định là kết quả tích cực của hạ nguồn sau khi điều tra cơ bản đã kết luận tính khả thi của chính sách dựa trên tính thực thi của chương trình. Quá trình này trái ngược hẳn với phản xa tùy tiện và dễ dãi của "đồng tâm nhất trí", với "toàn thể giơ tay biểu hiện sự đồng tình", trong sự vô tri của lệ thuộc, tới từ vô minh vắng kiến thức sinh ra vô thức, luôn tìm cách khử ý thức.
Quyết đoán bằng quyết định để làm chính trị là nhận vai trò chủ thể 100%, làm lãnh đạo là nhận vai trò chủ thể hơn100%, vì định nghĩa của chủ thể là : tác nhân nhận trách nhiệm trước cộng đồng, nhận bổn phận trước tập thể qua tự do để xây dựng tự chủ cho chính mình, từ đó lấy sáng kiến để sáng tạo, dùng kết quả tích cực của sáng tạo của cá nhân mình để phục vụ cộng đồng, để thăng hoa tập thể.
Quyết đoán để quyết định tôn trọng quy trình thông minh của dân chủ : đề nghị-đối thoại-quyết định-hành động trong đó lý luận qua dữ kiện thắng các hành vi cực đoan, lập luận bằng chứng từ vượt các thái độ quá khích, giãi luận với minh chứng lấp các phản xạ bảo thụ, diễn luận dựa tri thức xóa các thói quen thủ cựu.
Những kẻ lãnh đạo "sống lâu lên lão làng" nhờ "cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối" thì nên xem lại và nên rút lui sớm. Những kẻ "ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau" dùng manh xảo "gà què ăn tựa cối xay" lại càng nên rời các ghế lãnh đạo càng sớm càng đỡ khổ dân. Nhất là bọn "cố đấm ăn xôi" trong manh trá "thượng đội hạ đạp", thì đừng cho chúng một chỗ đứng, chỗ ngồi nào cả trong lãnh đạo.
Quyền để hành
Quyền để hành để hành động qua chính sách, để hành xử theo đạo lý thương nước- yêu dân, theo luân lý vì dân-vì nước, trong đạo đức giữ nước-dựng nước, chớ không phải để lập ra độc đảng để độc tôn, độc tài, độc quyền, để sinh ra chuyên quyền để bám quyền, tham quyền, lạm quyền.
Quyền để hành có lý trí của biết thời để giữ thế, đưa quyền lực vào thực tiễn, chống lại tính sơ cứng của mọi ý thức hệ, với mục tiêu là làm thay đổi các quy luật cứng, các tiêu chí cằn, các chỉ tiêu bất di bất dịch không tạo được phát triển, không giải quyết được chuyện "cơm no, áo ấm", trong hoài bão "trong ấm, ngoài êm", với ý nguyện "dân giàu nước mạnh".
Quyền để hành để thay đổi nhân sinh quan hạn hẹp của nhân tình mù quáng theo nhân thế, để thế vào đó là nhân tình phải có nhân tính, dựa vào nhân tri để nâng nhân trí, từ đó có nhân văn, nhân bản qua nhân đạo và nhân nghĩa. Nhân vừa là thượng nguồn của quyền, vừa là hạ nguồn của hành, cũng vừa là cầu nối để liên kết giữa quyền và hành. Hệ nhân phải có mặt trong mọi tư duy, sinh hoạt, đời sống chính trị của lãnh đạo Quyền để hành để chuyển đổi thế giới quan của nhân dân, giúp dân chúng thấy được nhân dân trong nhân loại, trong tương quan sống còn giữa dân tộc và thế giới, trong đó chính trị tỉnh-lãnh đạo thức làm được chuyện giãi luận thương đồng bào thì phải thương đồng loại cùng trong hệ nhân với mình, biết đồng hội-đồng thuyền trong nhân chủng, thấu đồng cam-đồng khổ để bảo vệ nhân loài.
Quyền để hành để chuyển hóa vũ trụ quan của xa hội, trong đó môi trường là môi sinh, làm được chuyện môi giới để nhân dân dụng nhân lý-nhân tri-nhân trí bảo vệ 3S (chất sống-sự sống-quyền sống) của mọi sinh vật, trong đó con người biết chăm sóc, cứu vớt động vật, thực vật như chăm lo, cứu rỗi chính nhân loại trong vũ trụ quan nhân bản mà nhân dân nhận diện được trong mọi chính sách của chính quyền.
Quyền nâng dân
Quyền nâng dân là một thực tế trong các nước văn minh tức là các quốc gia hiện nay có nhân quyền nhờ dân chủ, thực tế này có được là nhờ chính thể của họ có chính quyền dùng quyền lực để nâng nhân dân của họ lên về mọi mặt, nhất là về nhân tri và nhân trí. Đây là mối lo, "mất ăn mất ngủ", của các chế độ độc tài hay độc đảng đang chứng kiến rất rõ mối quan hệ gắn bó giữa nhân quyền qua dân chủ và nhân tri qua nhân trí.
Quyền nâng dân không những nâng mực sống của nhân dân, mà hùng lực của nó tại quốc gia hiện nay có nhân quyền, dân chủ tức là có văn minh là chuyển hóa các cá nhân, trước hết thành các cá thể phải được chính quyền tôn trọng, để thực sự có vị, có thế, có lực của chủ thể. Định nghĩa của chủ thể là quyền giành tự do cho mình để lấy sáng kiến trong sinh hoạt xã hội. Trong đó sinh hoạt chính trị qua tuyển cử, đầu phiếu luôn làm tăng sức sáng tạo của chủ thể để càng ngày càng có nhiều tự do hơn, chính đây là sự khác biệt sâu xa giữa hai hệ : hệ độc (độc tài, độc đảng, độc quyền, độc tôn) và hệ đa (đa nguyên, đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu). Chính sự khác biệt sâu xa giữa hai hệ này đã biến thành sự mâu thuẫn, rồi trở thành xung đột, để xung kích lẫn nhau trong quan niệm cũng như trong chuyện thực thi quyền lực. Hệ độc thì tìm cách loại, tiêu, hủy, diệt sáng kiến và sáng tạo ; còn hệ đa nâng, cõng, đở, đấy sáng kiến và sáng tạo của cá nhân, không còn là những cá thể lẻ loi, mà thực sự là chủ thể có vị, có thế, có lực trong sinh hoạt xã hội cũng như trong sinh hoạt chính trị.
Quyền nâng dân là quyền nâng sáng kiến của cá nhân để cá nhân có cơ hội mà nâng tập thể, cộng đồng, dân tộc, là quyền nâng sáng tạo của chủ thể qua phát minh dùng thông minh của mình để đóng góp trực tiếp vào nguyện vọng "cơm no, áo ấm" cho dân tộc. Sức mạnh của chủ thể hiện diện luôn trong ý nguyện "nước giàu, dân mạnh", vì chính các chủ thể được chính quyền tạo điều kiện thuận lợi từ giáo dục tới xã hội để dễ dàng vào quy trình của khám phá, tạo ra các phát minh để đẩy mạnh phát triển, thực sự đóng góp vào chuyện "thay đời, đổi kiếp" của dân tộc theo hướng thăng hoa.
Quyền nâng dân cụ thể là để đảm bảo sáng kiến của chủ thể biết dụng tự do của mình để sáng tạo, từ đó nhận trách nhiệm trực tiếp với đất nước, từ đó nhận bổn phận tức khắc với dân tộc. Đây là nhiệm vụ của chính quyền, là "thiên vụ" của kẻ lãnh đạo, và nếu muốn lãnh đạo mà không có một ý niệm gì về chuyện dùng quyền lực của mình để nâng dân tộc mình lên thì đừng lãnh đạo ! Thì đừng chiếm chổ của người khác, nhất là khi họ là những chủ thể chính thống !
Quyền đẩy lòng tin dân chủ
Quyền đẩy lòng tin dân chủ khi mà lãnh đạo chính trị có quyền lực trong tay, chính là lòng tin vào nhân phẩm, nhân đạo, nhân nghĩa, làm nên nhân bản, nhân văn để bảo vệ nhân tình, nhân sinh bằng nhân tri và nhân trí. Chính lòng tin này bảo đảm tuổi thọ cho một chính quyền, tuổi trọng cho một chế độ, tuổi dầy cho chính trị tỉnh-lãnh đạo thức. Thức vì thông minh để hiểu thấu được cái cao, sâu, xa, rộng của lòng tin, cái hay, đẹp, tốt, lành, của dân chủ.
Quyền đẩy lòng tin dân chủ là một chỉ báo để nhận định chế độ độc (độc đảng, độc quyền, độc trị, độc tài, độc trị) hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam đang áp đặt lên số phận của Việt tộc là quái thai đối với hệ luận chính trị tỉnh-lãnh đạo thức. Cụ thể là hành vi "đảng cử, dân bầu", để dân chỉ có thể bầu cho đảng viên, với đại đa số dân biểu quốc hội đều là đảng viên, cùng lúc tổ chức mọi định chế và cơ chế từ hàng dọc tới hàng ngang đều là đảng viên, chia quyền lẫn nhau để chia chác với nhau qua độc quyền-lạm quyền-tham quyền, rồi đi thi thẳng vào hệ ma đạo tham quyền-tham nhũng-tham ô. Nội chất quái thai sinh ra các ung thư liên đới, trước nhất là ung thư này ăn mòn chất xám trong hệ của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức,nhận thức), sau đó là ăn nạo hệ sáng (sáng kiến, sáng tạo), để cuối cùng là nạo rổng hệ phát (phát minh, phát tiển). Quái thai loạn trí song hành cùng nhiều ung thư loạn tuệ : số phận của Việt tộc thật bi đát ! Nhưng số kiếp Việt tộc có thật đáng bi quan hay không ?
Quyền đẩy lòng tin dân chủ để lập lại lòng tin dân tộc với chính trị, chính giới, qua chính tri, chính lý mà phải bắt đầu bằng sự xuất hiện của một người, một nhóm ngay trong nội bộ của Đảng cộng sản Việt Nam đại diện cho luân lý chính trị của tổ tiên, mà Việt tộc xếp vào hệ minh (minh đạo, minh vương, minh quân, minh chúa, minh chủ, minh sư...) để sáng tạo ra hoặc sáng tạo lại hệ đa (đa tri, đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu...) qua đa nguyên. Và, nhờ nó rút ra các nọc độc quá độc hại của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn). Không có dân chủ nếu không có đa nguyên, trước hết là để bảo vệ nhân quyền qua hệ nhân (nhân phẩm, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn, nhân tri, nhân trí). Không có dân chủ thi cũng đừng mong có công bằng để chống bất công, lại cũng đừng chờ có công pháp để bảo đảm tự do và bác ái !
Quyền đẩy lòng tin dân chủ được thể hiện qua thành tâm của chính trị tỉnh-lãnh đạo thức, xem mỗi cá nhân Việt là một chủ thể Việt được tham gia trực tiếp vào vấn đề Việt, trước mắt là chủ quyền Việt trong đó có toàn vẹn lãnh thổ Việt với ít nhất ba đòi hỏi Việt : "cơm no, áo ấm", "trong ấm ngoài yên", dân giầu nước mạnh", ba đòi hỏi rất tối thiểu trong thông minh Việt, vì Việt tộc không vô minh !
Quyền tạo chủ thể
Quyền tạo chủ thể, là thử thách mà cũng là quyết tâm của các lãnh đạo các quốc gia văn minh hiện nay nhờ có dân chủ để bảo vệ nhân quyền, đây chính là liêm sỉ của kẻ lãnh đạo có lương tâm trong chính trị, thấy rõ qua lương tri các chính sách liêm chính, trong đó cá nhân, không những là cá thể phải được tôn trọng, mà chịnh trị tỉnh-lãnh đạo thức phải giúp họ chuyển hóa thành chủ thể. Và, cá tính của chủ thể là yêu dân chủ vì quý nhân quyền, trọng công bằng vì yêu bác ái, nâng niu tự do để sáng tạo trong tất cả sinh hoạt của xã hội, lấy phương hướng "nước giầu, dân mạnh" của dân tộc để định hướng "nhân loại thái hòa" cho thế giới. Chính quyền do Đảng cộng sản Việt Nam dẫn dắt chưa hề có hành động chính trị này, vì ngày ngày họ luôn tìm cách tiêu diệt tất cả các sáng kiến về phương trình chuyển tiếp cá nhân-cá thể-chủ thể. Chính quyền của Đảng cộng sản Việt Nam là chính quyền bị xếp vào "hạng tồi" trong bảng xếp hạng các chính quyền bảo vệ các chủ thể dân chủ.
Quyền tạo chủ thể là thông minh lãnh đạo chính trị, nếu muốn có tuổi thọ cao trong chính trường, có tuổi trọng trong chính giới, có tuổi dày trong chính kiến, chính thông minh lãnh đạo chính trị này là năng lực chuyển một xã hội quần chúng bị tuyên truyền "đưa đường dẫn lối" trở thành xã hội chủ thể với các cá nhân có cá tính tham gia vào việc "ích nước, lợi dân". Quyết tâm chuyển hóa một xã hội quần chúng qua một xã hội chủ thể mà mọi người dân đều có bổn phận và quyền lợi trực tiếp, có trách nhiệm và tư quyền tức khắc, dựa vào hiến pháp, phát luật, định chế, cơ chế... để chủ thể hóa cá nhân. Chính quyền do Đảng cộng sản Việt Nam dắt díu chưa hề có lập luận chính trị này, vì giờ họ luôn tìm mọi cách truy diệt tất cả các sáng tạo về quy trình chuyển tiếp chủ thể hóa cá nhân, với thực tâm cá nhân hóa các hành động dân chủ. Chính quyền của Đảng cộng sản Việt Nam là chính quyền bị xếp vào "hạng bét" trong bảng xếp hạng các chính quyền bảo vệ các hành động dân chủ.
Quyền yêu luật
Quyền yêu luật là nền của nhân quyền, gốc của dân chủ, rễ của công bằng, cội của công lý, và các chính quyền liêm khiết phải dùng quyền lực của mình để thực hiện được lòng tin vào luật của nhân dân, từ đó tạo ra hiến pháp, công pháp, có liêm chính trong sinh hoạt xã hội, có liêm minh trong hành động chính trị, để có liêm sỉ trong mọi chính sách của lãnh đạo. Hãy bắt đầu bằng cách tôn trọng luật từ chính các lãnh đạo để có giáo lý trong mọi hành tác lãnh đạo, vì mỗi sinh hoạt xã hội đều có nguồn máy tổ chức đặc trưng, có quy luật vận động và vận hành đặc thù. Tại đây, tất cả mọi sinh hoạt xã hội đều phải được pháp luật định vị qua "sân chơi, trò chơi, luật chơi" mà mọi thành viên của cộng đồng sinh hoạt đó công nhận và thừa nhận. Không có chuyện độc đảng để độc quyền, độc quyền để chuyên quyền, chuyên quyền để bám quyền, bám quyền để lạm quyền, từ đó lách luật, không lách luật được thì tráo luật, không tráo luật được thì xé luật. Đó là quá trình phạm luật, thường xuyên và thường trực của Đảng cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đảng này, ngày càng khinh luật từ các năm qua, trắng trợn nhập nội vào tham nhũng, tham ô để vơ vét trong không gian bất chấp luật !
Quyền yêu luật trong phương trình nhân quyền-dân chủ-công bằng-công pháp, từ lãnh đạo chính trị cầm đầu chính quyền cho tới thường dân chính là cột xương sống của đạo lý dân tộc, luân lý xã hội, đạo đức chính trị, vì sao ? Vì tất cả các khúc mắc, các khó khăn, các ngõ cụt của một đất nước, nếu không giải quyết thỏa đáng bằng đạo lý dân tộc, luân lý xã hội, đạo đức chính trị, thì sẽ được xử lý qua pháp luật. Chính pháp luật là tác nhân chính để minh bạch hóa, liêm khiết hóa, trong sạch hóa mọi chính sách, chính thể trong sinh hoạt và hành động chính trị. Đó là cách lý giải trực luận để giải quyết dứt khoát nhiều khổ nạn của Việt tộc hiện nay, nơi mà bất công ngày ngày đào sâu, đạo rộng các hệ lụy bất bình đẳng trong xã hội Việt bây giờ.
Quyền yêu luật là quyền chủ thể hóa cá nhân song hành cùng tự do hóa chủ thể trong khung chung của luật pháp hóa xã hội, từ chính quyền tới dân chúng, từ lãnh đạo tới mọi cá nhân trong xã hội ; trong đó luật pháp hóa xã hội phải song đôi với luật pháp hóa chính quyền, nơi đây mọi lãnh đạo phải nhận, phải chịu, phải tuân luật pháp trong quy luật công bằng được bảo trì bởi công pháp là được bảo vệ mà cũng được xét xử qua luật pháp.
Quyền nhận thức sử tính
Quyền nhận thức sử tính của chính trị tỉnh-lãnh đạo thức là nhận thức lịch sử qua sử học, có nghiên cứu, có điều tra, có kiểm định, có sát quyết để sử liệu phải có đủ dữ kiện kiểm chứng thực được, để được thừa nhận là chứng từ để thành sử kiện, trong đó lãnh đạo sáng suốt nhờ tỉnh táo tìm ra được sử luận để hiểu được sử Việt, nhờ nắm được sử tính một cách khách quan. Trong sử này, có công trạng của các vì khai quốc công thần, nhưng cũng có bọn "sâu dân, mọc nước", chúng bán nước vì tư lợi, Việt tộc đã xếp chúng vào loại : "cõng rắn cắn gà nhà", "mang voi dầy mồ tổ", cha ông ta có công "dựng nước, giữ nước", riêng bọn nảy "bán nước như chơi", để dân tộc bị lâm vào nạn vong quốc "một sớm một chiều" cũng "như chơi" !
Quyền nhận thức sử tính là minh quyền của lãnh đạo, vì biết số kẻ "bán nước, buôn dân" không phải là hằng số mà là biến số tùy thuộc không những vào lòng yêu nước của mỗi con dân, nhất là của mỗi lãnh đạo, mà còn tùy thuộc vào 3C (bối cảnh-hoàn cảnh-thực cảnh) tạo ra tâm cảnh giữa tư quyền và tư lợi trong đó hệ lý của đạo đức (luân lý, đạo lý) trong giáo dục, hệ này phải được giáo dưỡng qua một hệ lý khác của lý trí (lý luận, lập luận, diển luận, giãi luận) để làm tròn bổn phận của kẻ lãnh đạo, vì "quốc thái, dân an" trong việc giữ toàn vẹn lãnh thổ, giữ trọn vẹn cơ đồ của tổ tiên. Nếu chúng ta yêu quý, tôn vinh Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung... đã xử lý trọn vẹn hai hệ lý trên ; lý của đạo đức và lý của lý trí, thì chúng ta cũng phải hiểu thật rõ, thật đúng, thật sâu về "bọn bán nước" qua 3T (tâm địa-tâm tà-tâm lý) của chúng, như Kiều Công Tiễn, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, mà không quên Hoàng Văn Hoan, ủy viên Bộ Chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam... nơi mà tướng Hoàng Trương Long thố lộ là "bọn bán nước" hiện nay trong bộ máy lãnh đạo là "từ trăm này sinh ra trăm kia !", chúng ngày càng nhiều hay ngày càng ít thì là hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng của lãnh đạo hiện nay.
Quyền nhận thức sử tính là trí quyền của lãnh đạo, luôn dựa trên kinh nghiệm của cha ông để"lột mặt nạ bọn bán nước buôn dân", dụng sử tính để hiểu sử xưa trong thông minh lãnh đạo để nắm sử nay, biết chuyển hóa thành chính quyền hiện đại để sử nay phải hay, đẹp, tốt, lành hơn sử xưa. Đó chính là sử luận để thấu hiểu sâu, xa, cao, rộng được sử Việt. Chính quyền hiện đại có kiến thức sử tính, có ý thức sử nay, có tri thức sử luận là chính quyền biết phối hợp tất cả ngành khoa học, từ khoa học kỹ thuật, thông tin, truyền thông cho tới khoa học xã hội và nhân văn, không những để hình sự hóa bọn bán nước mà còn tỉnh táo và sáng suốt để giúp các con dân không rơi vào vực thẳm bán nước, làm bụi đời rổng nhân phẩm, làm oan hồn trống nhân nghĩa !
Quyền chủ hóa nhân quyền
Quyền chủ hóa nhân quyền là lằn ranh phân chia làm ra mức phân định giữa một chính quyền vì văn minh của xã hội, vì phát triển của đất nước, vì đạo lý của dân tộc, luôn ngược lại với loại chính quyền lấy độc quyền để lạm quyền, lấy độc tài để diệt đa tài của nhân dân. Chính nhân quyền khi được tôn trọng sẽ có các cá nhân trở thành chủ thể lấy tự do của mình để sáng tạo ra các phát minh "ích nước, lợi dân", sẽ có các tập thể lấy tự chủ của mình để chế tác ra các sáng kiến mới vì "dân giàu, nước mạnh", sẽ có các cộng đồng lấy tự giác của mình để bảo trì các giá trị, các di sản, các đạo lý của tổ tiên qua "cha truyền, con nối" theo nghĩa đẹp.
Quyền chủ hóa nhân quyền, khi nhân tình được nhân tính nâng lên, khi nhân thế được nhân tri đẩy lên, khi nhân loại được nhân lý đề cao, thì chính nhân quyền này sẽ có nhân bản, nhân văn, tạo ra ý thức tập thể, sinh ra nhận thức cộng đồng, giúp chế tác ra tâm thức cá nhân, biết tôn trọng công lợi để bảo vệ tư lợi. Từ đây, lãnh đạo chính trị sẽ làm cầu nối để nhân quyền gặp được chủ quyền (cho dân, vì dân), trong đó nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát, phê chuẩn các kết quả qua hiệu quả và hậu quả của các chính sách, trực tiếp sử dụng chủ quyền của mình trong pháp luật để đầu phiếu, để tuyển cử, tạo ra tranh cử, để có được lãnh đạo thực tài và liêm chính trong sạch.
Quyền chủ hóa nhân quyền để văn minh hóa xã hội, văn hiến hóa dân tộc, mà cụ thể là có chính sách minh bạch để kẻ xấu không lấy được danh nghĩa của tôn giáo để "buôn thần, bán thánh", biến chuyện "xây chùa, lập miếu" thành chuyện làm thương mại, trong đó bọn "buôn chùa, bán Phật", được thu tiền trắng trợn qua xảo thuật : mua lộc, mua sớ... Chúng lại còn tổ chức với bọn tham những trong chính quyền địa phương để lập các trạm thu phí gần chùa ngay trên núi, trên đồi, đối với các con tin mê tín, dị đoan của chúng, thí thân đến các nơi này để thiêu tiền sẵn sàng thiêu thân để thiêu đạo, trực tiếp cho bọn ma giáo nhưng lại mặc áo cà sa bỏ túi bạc tỷ hàng tuần, hàng tháng.
Quyền chủ hóa nhân quyền có lý trí, biết tách nếp sống văn minh ra khỏi thói quen mê tín, tách lý tính ra khỏi cuồng tín, chuyện tách ra để trực diện đấu tranh với cái xấu, tồi, tục, dở của ngu dân, lý trí này bắt buộc phải có trong tư duy của người lãnh đạo. Họ phải biết bảo vệ vốn liếng của tổ tiên mình, qua sự thật của lịch sử, qua chân lý của niềm tin, qua các giá trị đạo lý làm nên lẽ phải, để dân tộc được khai sáng và thực sự làm chủ lòng tin của mình, như làm chủ số phận của họ. Từ đó, biết khai thác sức mạnh của mình không để cái ma đạo của mê tín, dị đoan quyết định số kiếp họ. Quyền chủ hóa nhân quyền là vinh dự của các kẻ lãnh đạo biết trao, biết tặng, biết dâng lên cho tổ quốc mình, cho dân tộc mình quyền làm chủ chữ nhân qua chữ lý !
Quyền dân chủ hóa nhân tính
Quyền dân chủ hóa nhân tính trong nhân tình để nhân thế sống có nhân bản, đối xử với nhau có nhân văn, xử thế với nhau có nhân nghĩa, khi đó nhân tính này chắc chắn sẽ được bảo đảm không những bởi nhân đạo và nhân từ, mà còn được bảo hành bởi nhân lý, nhân tri, nhân trí. Cả hệ nhân này nằm gọn trong luật nhân quả chính trị, khi nhân của lãnh đạo sẽ sinh ra quả của chính sách, tạo ra hệ quả để nhân dân thấu rõ được các lãnh đạo có biết "ăn ở có hậu" hay không, vì "ăn ở không có hậu" sẽ bị "triệt hậu", sẽ thành "vô hậu", sẽ bị "người đời rủa trong truyền kiếp" !
Quyền dân chủ hóa nhân tính không phải chỉ là một tên gọi, một quyết tâm, một chính sách nhất thời, nó chính là nhân học nằm giữa trung tâm của chính trị học ; nơi mà lý thuyết luận nhân tâm của nó chính là phương pháp luận nhân trí của nó ; nơi mà khoa học luận nhân lý của nó chính là tri thức luận nhân nghĩa của nó. Nó không lý thuyết, nó chẳng mơ hồ, nó thoát mông lung, nó thắng xảo thuật trong hành động chính trị : vì nó là nó ! Vì nhân tính biết mình là ai ? Vì nhân tính là nhân tính. Nên nó không bao giờ sợ nhân thế, nó còn có sung lực làm nên nhân bản, có tiềm lực làm ra nhân văn, có mãnh lực tạo ra nhân từ. Vì nhân tính hiển hiện khuyên, dìu, dẫn, dắt, để nhân tình biết sống chung trong nhân loại.
Quyền dân chủ hóa nhân tính chống nghèo đói vì hạnh phúc "đủ ăn, đủ mặc" ; chống chiến tranh vì "quốc thái, dân an" ; chống thế chiến vì "nhân loại thái hòa" có trong lý, trong ngôn, trong từ của lãnh đạo các quốc gia văn minh vì dân chủ, khôn ngoan vì nhân quyền, thông minh nhờ nhân lý của nhân tính, mà chúng ta được nghe hàng ngày, hàng tháng, hàng năm trên diễn đàn của Liên Hiệp Quốc. Trong những lúc đó các lãnh đạo của các chế độ độc tài, độc đảng, độc quyền, độc tôn lấy tham quyền để đẻ ra quái thai tham quan, sinh ra bao ung thư tham nhũng, bao hoạn bịnh tham ô, thì chúng ta thấy chúng cúi đầu, lặng thinh... để nghe và... để nhục ! Các loại lãnh đạo này đừng tiếp tục "nhục nước, nhục dân" của họ trên chính trường quốc tế nữa !
*****************
Phần 8
Trị
"Tất cả các chế độ công sản hay cộng sản
đều thất bại trong lịch sử loài người
cũng chỉ vì chúng không tôn trọng tự do sáng tạo của cá nhân".
M.Gauchet
Các lãnh đạo chính trị từ trước đến nay của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang dựng lên qua tuyên truyền loại tự hào ảo này : xin ngừng lại ngay !
Tự... tại
(tự lập-tự chủ-tự cường)
Tự chủ nâng tự lập, tự lập tăng tự chủ, cả hai tương tác lẫn nhau, với thời gian, với thành công sẽ tạo ra tự cường, trong đó quyết tâm dứt khoát, thật mới và thật mạnh là : bỏ thói quen xin viện trợ, gạt thói xấu đi ăn xin quốc ngoại, giữ tự trọng để khi vào các đàm phán quốc tế không cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối, mà ngược lại phải thẳng lưng-ngẩng đầu-mạnh bước. Đừng tự hào mình cần cù, thông minh, cùng lúc cứ ngửa tay đi xin của người, các đàn anh lãnh đạo hãy làm gương cho đàn con, đàn cháu, đàn em sẽ lãnh đạo đất nước này : bỏ xin để làm, làm để tự lực, tự lực để nắm tự chủ, để giữ tự lập, nhất là tự lực vì tự trọng ! Hãy học người, chứ đừng xin người, học để bằng người, xin người chỉ để người khinh ! Tự chủ mang theo ít nhất là sáu ý lực khi tạo dựng ra chính sách : tự chủ về sáng kiến, tự chủ về quyết định, tự chủ về phương tiện, tự chủ về mục đích, tự chủ về hành động, tự chủ về cách ứng dụng vào thực tế. Tại đây, viện trợ quốc tế về khoa học kỹ thuật để tăng sức tự chủ, viện trợ quốc ngoại về chất xám, về tư vấn để nâng lực tự lập, ta không tự chối, vì một chính sách chính trị đứng đắn luôn tạo ra tự cường, không lạc lối vào lệ thuộc, vì lệ thuộc bắt kẻ ăn xin phải đi ăn xin suốt kiếp !
Tự lập mang theo ít nhất là hai nội lực khi chế tác ra chính sách : sáng kiến và sáng tạo, đây là chuyện rất cụ thể sáng kiến trong đề nghị và sáng tạo ra sản phẩm, làm nên năng suất, hiệu suất để tăng sản xuất. Tại đây, kinh nghiệm quốc tế, tài năng của các nước văn minh, tiên tiến được vận dụng tích cực một cách có ý thức vào thực tế của xã hội nước nhà, vào thực tại của dân tộc, không viển vông để bị lạc lối, cũng không bừa bãi để bị "rút ruột" đầu tư lẫn nguyên liệu bởi bọn tham ô.
Tự cường khai thác tính chủ động tương tác của tự chủ nâng tự lập, tự lập tăng tự chủ, được phân tích qua một chuyên ngành mới là kinh tế tri thức dạy ta là sẽ có một phương trình mới sinh ra trong quá trình lãnh đạo : tự chủ về phương tiện phải đi đôi với tự chủ với thích ứng, cùng lúc tự lập về công cụ phải song hành với tự lập về sáng kiến, tất cả luôn bị thu gọn vào một hệ số mà kẻ lãnh đạo phải làm "đầu tầu" để nhân dân và quần chúng luôn đóng vai tích cực trong "hệ sáng tạo thường xuyên", để vượt qua khó khăn !
Nếu muốn làm lãnh đạo mà không ở thế, ở vị, ở vai, ở lực của "hệ sáng tạo thường xuyên" thì đừng nên lãnh đạo ! vì sẽ không có tự chủ và tự lập để tự cường, và sẽ đánh mất tự tin, từ đấy sẽ không còn là lãnh đạo chính trị mà chỉ là ăn xin, ăn mày, ăn bám, ăn mòn chính trị.
Tự... lên
(tự tin-tự tạo-tự trọng-tự hào)
Tự tin luôn là động cơ mà cũng là hằng số trong lãnh đạo, chính lãnh đạo tự tin trên đường lối của mình qua xây dựng qua chính sách, từ lý luận đến phương án, từ lập luận đến công trình, dựa trên giãi luận của tiềm lực của dân tộc, các tiềm năng của đất nước. Nhân dân tự tin vì lãnh đạo tự tin ! Và chính trị thức-lãnh đạo tỉnh là nội lực lãnh đạo luôn có một giáo khoa chính trị từ đề nghị đến đám phán, tự quyết định đến hành động, một giáo khoa chính trị tạo được niềm tin rộng rãi trong xã hội ; Nhật Bản đã làm được điều này ngay trong thảm bại của họ sau đệ nghị thế chiến.
Tự tạo, lấy tự tin làm nền, nhưng cũng lấy đạo lý lao động (thức khuya dậy sớm) làm gốc, lấy tự tin để tra sáng kiến tìm sáng tạo, nhưng cũng lấy đạo đức lao công (một nắng hai sương) làm cội. Có nền, có gốc, có cội vững và bền vì có rễ sâu, và mạnh của cần lao dựa trên cần kiệm (ăn bữa sáng lo bữa tối), biết chắt chiu để làm đại sự, cùng lúc biết học các kinh nghiệm hay, các gương sáng tài, các tri thức cao để : góp gió thành bão, Hàn Quốc đã làm được chuyện này, chỉ non nửa thế kỷ, khi biết học không những phương Tây, mà cận kề là Nhật Bản.
Tự trọng, là gốc, rễ, cội, nguồn cho mọi ý chí đi lên của một dân tộc, mọi ý nguyện thăng hoa của một giống nòi, mà lãnh đạo chính trị biến thành ý lực trong chính sách của mình, rồi chế tác ra thành thực lực trong hành động lãnh đạo. Hãy gạt ra chiến thuật ngu dân biển người trong chiến tranh kiểu Trung Quốc, xua ra luôn kiểu giải thích thành công của Trung Quốc qua lao động với lương bổng rẻ... để thấy cái cao cũng là cái sâu của dân tộc này là họ có lòng tự trọng, quyết tâm thực hiện được những thành tựu, thành quả, thành đạt, thành công của hai quốc gia láng giềng là Nhật Bản và Hàn Quốc. Mà không quên vai trò lãnh đạo của Đặng Tử Bình vừa có sáng suốt để đưa Hán tộc thăng hoa qua bốn hiện đại, vừa tỉnh táo thay đổi triệt để chính trị quan khi tới thăm Hoa Kỳ lần đầu, trực diện để trực quan, từ đó có đủ sáng suốt và tỉnh táo để thay đời, đổi kiếp cho bằng được số phận của Trung Quốc.
Tự hào chỉ có khi có cơ sở của tự tin-tự tạo-tự trọng, cụ thể hóa qua cơ ngơi của thành tựu, thành quả, thành đạt, thành công qua nhiều sinh hoạt của xã hội, nếu không có hai cơ sở-cơ ngơi này thì tự hào cái gì ? Đó chỉ là tự hào liều-tự hào hảo-tự hào xuẩn vì nó bị dựng lên bởi tự hào rổng-tự hào trống-tự hào điêu !
Các lãnh đạo chính trị từ trước đến nay của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang dựng lên qua tuyên truyền loại tự hào ảo này : xin ngừng lại ngay ! Mà phải bắt đầu xem lại phương trình tự tin-tự tạo-tự trọng-tự hào ; tiếp theo là học gương sáng của : Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, và không quên đường đi nước bước của Đài Loan, Singapour trong thế kỷ qua, vì đây mới chính là chính trị quan tỉnh thức từ hệ tự.
Tạo
(sáng kiến-sáng tạo-sáng lập)
Tạo, qua các quá trình : chế tạo, sáng tạo trong tự tạo, được hiểu như khám phá, như phát minh, như sáng chế, và trong đó vai trò lãnh đạo có rất nhiều cửa ngỏ để vào nhiều hành động lãnh đạo, tạo ra sức bật cho xã hội, sức tăng trưởng cho kinh tế. Có sáng kiến trong đề nghị, trong đối thoại... để sáng tạo ra sản phẩm, công trình, từ đó sáng lập từ hạ tầng tới thượng tầng các quy trình, quy mô mới làm thay đổi bộ mặt xã hội, cùng lúc nâng mức sống của nhân dân.
Sáng tạo trong lãnh đạo chính trị khởi nguồn qua sáng kiến dưới dạng đề nghị các chính sách, và trong mọi chính sách có ít nhất là hai mức độ khác nhau dựa trên ba chỉ báo : sân chơi, trò chơi, luật chơi để quyết định hành động lãnh đạo. Thứ nhất là cải cách, trong đó lãnh đạo giữ sân chơi, trò chơi, mà chỉ đổi luật chơi cho hợp hơn, hay hơn, hiệu quả hơn. Thứ nhì là cách mạng, tại đây lãnh đạo xóa sân chơi, dẹp trò chơi, thay luật chơi, làm lại hết, có khi phải làm lại từ đầu, với tốn kém, với hao tổn, với hy sinh. Nếu không phân biệt được cải cách và cách mạng qua mức độ đầu tư sức người, vốn liếng để phân định được biên giới giữa cải cách chỉ là thay đổi tường và vách mà vẫn giữ nền và móng. Ngược lại, cách mạng là đổi đời (tuyệt đối trong biến đổi) theo nghĩa tích cực cho thành phần này và tiêu cực cho thành phần kia ; không biết phân biệt để hiểu phân định giữa cải cách và cách mạng thì đừng nên lãnh đạo ! Nếu lãnh đạo trong vô tri thì chỉ gây ra đổ vỡ, chết chóc, suy vong đất nước, suy kiệt giống nòi.
Sáng tạo trong lãnh đạo chính trị có thể huy động qua công trình, tại đây điều tra cơ bản song hành cùng kiểm tra thống kê, để khi chính sách đi vào quy trình thì trên thượng nguồn vốn người sẽ đi cùng với vốn của, chất xám hài hòa cùng vật liệu, hậu cần trợ lực cho tiền phương, đây không những đúng chỉ trên mặt trận quân sự, ngoại giao mà đúng cả trên lĩnh vực kinh tế và sản xuất. Mỗi sáng tạo luôn có cái giá phải trả, mỗi giá đòi hỏi lãnh đạo phải sáng suốt trong đầu tư, phải tỉnh táo trong quyết định.
Sáng tạo trong lãnh đạo chính trị có thể thể hiện qua cải tổ, qua cải tiến, qua trùng tu, nơi đây thông minh của lãnh đạo chính trị là không "tham đó, bỏ đây", mù quáng vì tiên tiến mà quên cội nguồn, ngược lại biết đều chế để đều hòa giữa hiện đại và truyền thống. Đưa cái mới hay để hòa với cái cũ tốt, đưa cái đẹp mới khám phá để song hành cùng cái lành xưa đã có sẵn. Mọi chính sách đều bắt lãnh đạo trả một cái giá nào đó, trong đó thành công sẽ tạo uy tín cho lãnh đạo, thất bại sẽ hủy diệt niềm tin của nhân dân đối với lãnh đạo, vì chữ tin làm nên chữ tín.
Đồng
(Đồng cảm-đồng giao-đồng lòng = đồng hội, đồng thuyền)
Đồng bào, tiếng gọi thiêng liêng giữa người Việt với nhau, luôn mang theo ý thức của một dân tộc sinh ra trong cùng một bào thai, đây cũng là hằng số cơ may của các lãnh đạo chính trị trong lịch sử Việt, chỉ vì nó có hùng lực tập hợp tức khắc khối đại đoàn kết dân tộc mỗi khi đất nước bị ngoại xâm đe dọa, mỗi khi tiền đồ tổ tiên bị xâm phạm từ lãnh thổ tới văn hóa. Trong khi đó, các lãnh đạo Tầu thì gọi nhân dân họ là : thiên hạ, bá tánh... vừa xa lạ, vừa thờ ơ, so với từ đồng bào.
Đồng cảm, chính là thử thách thường xuyên của lãnh đạo chính trị, trước các thử thách của thời cuộc, trước các thăng trầm trong thời thế, nơi mà đồng bào nếu có lòng tin với chính giới, sẽ có sự đồng cảm với lãnh đạo, nếu những kẻ nầy có công tâm để bảo vệ sự liêm chính của họ, có công lý để bảo trì sự liêm sỉ của họ trong chính sách cũng như trong hành động chính trị hằng ngày của họ.
Đồng giao, biến niềm tin của nhân dân thành tâm giao với lãnh đạo chính trị, nếu họ biết yêu nước-thương dân, làm việc và hy sinh vì nước-vì dân. Đây là thất bại xem như lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam trong gần một thế kỷ qua với hành vi độc đoán vì độc tài, độc tôn vì độc đảng, dùng chuyên chính để chuyên quyền, từ đó bạo lực đi đôi với tham ô, bạo quyền song hành cùng tham nhũng.
Đồng lòng, khi vận nước lâm nguy, lấy đồng tâm giữa nhân dân và lãnh đạo để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đây là tinh thể của chính trị, vì nó bất chấp mọi kẻ thù, dù lớn, mạnh cỡ nào. Nơi đây, Việt tộc đã có châm ngôn luân lý, ngạn ngữ đạo lý để sẵn sàng hành động : "cả nước một lòng", ngữ pháp của sung lực-nội công-bản lĩnh Việt tộc có thể đẩy lùi, đánh văng mọi ngoại xâm.
Đồng hội, đồng thuyền, chính là phương châm của lãnh đạo chính trị, nơi mà chính thể chính là chính nghĩa của chính sách cứu nước, giữ nước, làm thăng hoa dân tộc. Tình hình hiện nay của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, qua hối lộ đã vơ vét bao tiền của của nhân dân, một số đã có thẻ xanh, quốc tịch ngoại, sẵn sàng "cao chạy, xa bay" thì chắc chắn sẽ không có chuyện đồng hội, đồng thuyền, mà chỉ có chuyện mà Nguyễn Du đã có lần dặn con cháu nên cẩn trọng : "Trong khi chắp cánh liền cành, mà lòng rẻ rúng đã dành một bên".
Bọn lãnh đạo nào đã giựt của-vét tiền của dân, lén lút để có thẻ xanh, quốc tịch ngoại trong túi, nếu muốn hiểu chữ đồng, thì cũng chưa muộn, hãy ngồi thật yên để ngẫm giáo lý Việt dầy nhân tính, không oán thù, qua ái ngữ : "Nắng ba năm ta không bỏ bạn, mưa một ngày bạn đã bỏ ta".
Chí
(ý chí-quyết chí-bền chí)
"Có chí", là câu trả lời của Dala Lama, lãnh tụ tinh thần kháng chiến Tây Tạng, trả lời với các người Việt đã gặp được ngài và hỏi ý kiến ngài về tương lai đen tối đang bị Tầu tặc đe dọa, có thể sẽ chịu số phận mất nước như nhân dân của ông. Ngài trả lời là tin người Việt "có chí", đó chính là hằng số của Việt tộc, giữ cho bằng được độc lập tổ quốc Việt, ngài trả lời như vậy với tất cả sự sáng suốt của ngài. Ý chí, là gốc của chuyện "có chí", ngay trên thượng nguồn ý chí của một dân tộc được thấy qua chuyện quyết tâm của một giống nòi giữ cho bằng được đất nước của tổ tiên, như giữ bản sắc, văn hóa, văn minh, văn hiến của dân tộc như tin vào bản lĩnh của độc lập, nội công của chủ quyền, như giữ chính nhân phẩm của mình.
Quyết chí, là mài thật sắc, dũa thật nhọn ý chí để nó vừa bén, vừa bền với thời gian, trong đó quyết tâm song hành cùng ý chí sẽ tạo ra bền lòng trước thử thách, chuyện này lại thấy rất rõ trong lịch sử của Việt tộc, sau một ngàn năm nô lệ, nhưng Ngô Quyền đã cởi trói, chặt xiềng nô lệ bằng một chiến thắng thật vẻ vang. Thấy rất rõ trong đời Trần, ba lần đánh quỵ sụp bọn hung hăng nhất là Nguyên Mông, thầy càng rõ hơn trong chuyện bền gan của Lê Lợi, Nguyễn Trãi trong trường kỳ kháng chiến tại Chí Linh.
Bền chí, nuôi quyết chí qua thời gian, làm nó vững bền trong không gian kháng chiến cũng như xây dựng, nơi mà lãnh đạo luôn có niềm tin vào Việt tộc luôn bền chí vì bền lòng trong khó khăn, bền tâm trước các thăng trầm, nếu không hiểu chữ chí trong hằng số Việt : thì đừng lãnh đạo ! Chính bọn "mang voi dày mồ tổ", chính kẻ "cõng rắn cắn gà nhà" đã không hiểu nên chúng chóng chầy cũng mang số phận ma bùn, ma xó, trước khi thành oan hồn trong cảnh "chết bờ, chết bụi", trong khi Việt tộc luôn tồn tại để giữ chủ quyền và độc lập của mình. Chí nguyện, là một ẩn số của thử thách hiện nay đối với các lãnh đạo trong thời gian tới, vì chính ý chí làm nên ý lực chế tác ra ý nguyện của nhân dân, nơi ý nguyền của Việt tộc chính là nhân phẩm Việt trong độc lập dân tộc với toàn vẹn lãnh thổ Việt. Nếu không hiểu phương trình ý chí-ý lực-ý nguyện-ý nguyền làm lên khối đại đoàn kết dân tộc, qua hội nghị Diên Hồng, qua bao lần quyết chí để quyết chiến và quyết thắng thì đừng lãnh đạo, lãnh đạo mà không có tư duy quyết chí-quyết chiến-quyết thắng thì chỉ làm nhục nước-hèn dân thôi !
Thành
(thành tựu-thành quả-thành đạt-thành công)
Thành tựu, trong cần mẫn trong lao động dẫn tới tích của-tụ vốn để nới ngõ-mở cửa cho xuất khẩu, để tìm thêm các thành tựu khác trong thương mại, mà luôn không quên là chúng ta có những hàng xóm đi buôn rất giỏi, quản lý xuất nhập khẩu rất tài, có tầm cỡ lớn không những trong Châu Á mà trên cả thế giới hiện nay : Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour, mà không quên Thái Lan, Mã Lai, lại càng phải chú ý các bước tiến gần đây của Campuchia, Lào.
Khi nghiên cứu đặc biệt về thành tựu, các chuyên gia tìm ra được ít nhất là ba nguyên nhân : thành tựu trên vốn liếng sẵn có từ lâu (như nông nghiệp của Việt Nam), thành tựu trên sở trường vừa tới từ địa dư-đại lý-địa phận của một đất nước (như thuận lợi trong chuyên môn hóa trồng trọt và xuất khẩu cà phê của Việt Nam), nhưng yếu tố quan trọng hằng đầu vẫn là chính trị sáng-lãnh đạo thức để có được một chính trị quan thích ứng-thích nghi-thích hợp với tình hình hình của thế giới hiện nay.
Thành quả, là kết quả đạt được trong từng khu vực, vừa được so sánh từng ngành nghề, vừa được tổng kết của tất cả các sinh hoạt từ sản suất tới tiêu thụ, từ xuất khẩu qua nhập khẩu, từ kinh tế qua thương mại, tạo nên sức bật làm thăng hoa giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, trong đó thành tựu của sáng tạo trong khoa học kỹ thuật luôn được mở cửa bởi quyết tâm của các chính sách, được thăng tiến rồi thăng hoa nhờ quyết tâm của lãnh đạo chính trị. Nơi mà lãnh đạo chính trị giỏi biết khai thác thời thế mà không chịu đựng thời thế ; nơi mà lãnh đạo chính trị tài biết tạo ra thuận thời-mẩn thế ; nơi mà lãnh đạo chính trị lớn biết biến thất thế thành thuận kế, biết chuyển thất thời thành thuận mưu ; các minh vương, minh quân, minh sư của các đời Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê... đã có chiến tích, chiến công trước các tình huống rất xấu, rất nguy.
Thành đạt, dùng thành tựu cũ làm ra thành tựu mới, dùng thành quả xưa làm ra thành quả mới, hiệu quả năm nay hơn hiệu quả năm qua, tăng trưởng liên tục để không ngừng thăng tiến, những gì đã đạt được sẽ làm dàn phóng cho các thành đạt sắp tới. Đầu tư thì không "vung tay quá trán", sản xuất thì "leo thang-nâng cấp", trong xã hội có "trong ấm, ngoài êm".
Thành công chính là kết quả thật sự của phương trình tổng thể thành tựu-thành quả-thành đạt, không những làm gốc, rễ, cội, nguồn cho chuyện "ăn no-mặc ấm", có cùng lúc với "ăn chắc, mặc bền", mà lãnh đạo chính trị giỏi-tài-lớn không ngần ngại biến hoài bão "ăn ngon, mặc đẹp" thành hiện thực ! Đây chính là danh dự thành nhân của lãnh đạo chính trị !
Tranh
(tranh tài-tranh đua-tranh đấu)
Tranh tài luôn có trong quan hệ quốc tế, từ kinh tế, thương mại, xuất khẩu qua giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, nó trở thành nỗi bất hạnh của nhân loại trong tranh tài để chạy đua vũ trang, nhưng nó là cơ may cho các khám phá kỹ thuật, y học vừa bảo đảm tiện nghi, sức khỏe, vừa nâng tuổi thọ, vì trực tiếp phục vụ con người và đời sống. Các quốc gia có lãnh đạo chính trị cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối trước hiện thực tranh tài quốc tế đều -trực tiếp hoặc gián tiếp- đưa dân tộc của mình vào hố sâu !
Tranh đua, theo nghĩa tranh tài thường xuyên vừa là động cơ chính, vừa là sự vận hành thường trực của toàn cầu hóa hiện nay, nơi đời sống xã hội thay đổi hằng ngày với mạng truyền thông toàn cầu, trực tiếp, tức khắc, tạo ra không khí, bối cảnh tranh đua từng ngày trong kinh tế, thương mại, xuất khẩu, khoa học, kỹ thuật, y tế, giáo dục, nghệ thuật… Tại đây, chính trị tỉnh-lãnh đạo thức phải có chính trị quan mở để học các phát minh hay, các nghệ thuật đẹp, các kinh tế tốt, các kỹ thuật lành. Nhưng không mở vô điều kiện, vô tội vạ, mở để chấp nhận tranh đua, để biết người, biết ta, không bị lỗi thời trong kiến thức, lạc đường trong tri thức, lầm hướng trong nhận thức.
Tranh đấu, không hề vắng mặt trong lãnh đạo chính trị, đấu tranh chống bất bình đẳng để chống bất công, để tìm tới công bằng. Tranh đấu vì "cơm no, áo ấm" để có "trong ấm, ngoài êm" là đấu tranh trực tiếp hay gián tiếp cho nhân quyền. Tranh đấu vì tự do để có dân chủ là đấu tranh mà không quên lấy đoàn kết và tương trợ để phục vụ cho bác ái, có đạo lý "một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ", vì có đạo đức "bầu ơi thương lấy bí cùng". Tranh đấu chống vô cảm, vô giác để chống luôn vô tri, vô minh. Tranh đấu để giữ lương tâm, để vững lương tri, để làm người lương thiện !
Tranh tài-tranh đua-tranh đấu, hoàn toàn ngược lại với "tranh của" tới tự các động cơ xấu, tồi, tục, dở của lòng tham lam muốn lấy của người thân, người nhà, người dân ; lại khác hẳn với "tranh quyền" thường mang theo các ý đồ thâm, độc, ác, hiểm để truy diệt động chí, đồng đội, đồng đảng. Vì tranh tài-tranh đua-tranh đấu thăng hoa nhân trí, thăng tiến nhân tri, để phục vụ trực tiếp cho nhân bản và nhân văn ; trái ngược với "tranh của" làm thấp nhân nghĩa, với "tranh quyền" hạ thấp nhân đạo. Bi kịch của Việt tộc hiện nay mà nguyên nhân là sự độc đảng trong tranh quyền-tranh của, đã hủy diệt bao cơ hội tranh tài-tranh đua-tranh đấu của bao thế hệ không có cơ hội vận dụng tài năng, năng khiếu để so tài cùng láng giềng và thế giới !
Hiệu
(hiệu quả-hiệu năng-hiệu suất)
Hiệu quả tạo ra kết quả tích cực theo hướng đi lên trong chức năng, vài trò của lãnh đạo, đo lường được qua định chất và định lượng trong công việc hằng ngày dựa trên các chỉ tiêu của chính sách được chính lãnh đạo đặt ra. Đo lường được qua quy trình làm ra các sản phẩm mới, đo lường được qua khả năng xử lý các công việc đã và đang bị tồn đọng từ bao lâu nay ; nhưng đo lường thông minh nhất về hiệu quả lãnh đạo là : nhờ sự sáng suốt của lãnh đạo mà tập thể tăng năng xuất, nhờ sự thông thái của lãnh đạo mà cộng đồng tăng sản xuất. Chính nhờ lãnh đạo giỏi mà dân tộc biết "thức khuya dậy sớm", nhận chuyện "một nắng, hai sương" với tất cả ý thức muốn đi lên, có lúc chấp nhận luôn chuyện "thắt lưng, buột bụng", để cùng với lãnh đạo làm được chuyện"ăn bữa sáng, lo bữa tối", với tất cả ý thức của "đồng hội, đồng thuyền" cùng lãnh đạo. Các láng giềng của Việt Nam : Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapour đã làm được các việc này với lòng quả cảm, với nhận thức của tự trọng của dân tộc họ.
Hiệu năng, mang mức độ đi lên, mang cường độ đi xa trong hiệu quả, tăng hiệu suất trong lao động, nâng sản suất đi lên, tại đây kẻ lãnh đạo và người dân không lãnh đạo khác nhau ở chỗ là làm lãnh đạo thì phải hiểu thời-biết thế, muốn thấu cả thời lẫn thế thì phải biết khai thác phương trình 3C (bối cảnh-hoàn cảnh-thực cảnh). Trong đó bối cảnh, bó buộc kẻ lãnh đạo phải nhận định sắc bén các dữ kiện của bây giờ và ở đây để "cái khó (không) bó cái khôn", nếu lãnh đạo chính trị mà cứ ra rả nhắc đi nhắc lại như phản xạ"cái khó bó cái khôn" thì đừng lãnh đạo, để vai trò đó cho người khác làm ! Tiếp theo là hoàn cảnh, mang những biến số thời cuộc nơi mà chính trị, kinh tế, thương mại, giáo dục, văn hóa... mang những ẩn số riêng của mỗi khu vực, có cơ cấu riêng, có sự vận hành riêng, thậm chí có những tiến độ, khủng hoảng và suy thoái riêng của nó. Trên đây, định lượng trong kinh tế và thương mại được hiệu suất hóa dễ hơn trong giáo dục và văn hóa.
Từ đó lãnh đạo phải rành mạch là : đầu tư vào con người luôn là chiến lược dài hạn và hữu hiệu hơn là đầu tư vào máy móc, vào công cụ, vì chính con người sẽ đủ tâm, đủ lực để hiện đại hóa, để hiệu năng hóa máy móc và công cụ. Cuối cùng là thực cảnh, thực tế của xã hội, thực tại của dân tộc chính là hằng số cụ thể để lãnh đạo làm ra chính sách, tại đây "có thực (tế) với vực được đạo", chính phương trình thực cảnh (thực tế-thực tại) bó kẻ lãnh đạo phải tìm ra quỷ đạo thực dụng tích cực (ít tốn kếm nhất, ít chi tiêu nhất, ít hao tổn nhất, ít đau khổ nhất...).
Hiệu quả của thực dụng tích cực sẽ kết hợp với hiệu năng lãnh đạo một cách hữu hiệu nhất để tạo ra thành công cho lãnh đạo.
Chống... đứt ruột
Chống... đứt ruột là từ ngữ được sử dụng như châm ngôn của chính giới các nước văn minh, giữ được dân chủ vì nắm được nhân quyền, luôn dặn dò nhau khi làm lãnh đạo ; một ngữ pháp chính trị được dụng như phương châm lãnh đạo hàng ngày : quyết tâm không để mất tiền đồ mà tổ tiên, cụ thể là không để mất di sản lẫn văn hóa, không để mất chất xám trí thức lẫn hệ thống huấn luyện và đào tạo các thế hệ tương lai, với các hằng số chống đứt ruột như chống các ý đồ bành trướng xăm lăng muốn bứng gốc-nạo rễ vốn liếng của dân tộc mình, xin kể vài lãnh vực then chốt phải bảo vệ cho bằng được sau đây :
1. Không để đối phương mua bán hoặc thao túng hệ đào tạo chuyên môn, trong đó phải bảo vệ cho bằng được hệ thống đại học của nước nhà. Bi kịch hiện nay của trí thức và sinh viên Việt là chính quyền đang nhắm mắt để Trung Quốc mua các đại học dân lập của Việt Nam, hậu quả sẽ không lường hết được.
2. Không chấp nhận đối phương quậy nát rồi ô nhiễm môi trường của đất nước, vì môi trường của đất nước là môi sinh của dân tộc, chuyện sống còn của bao thế hệ là đây. Thảm kịch đã diễn ra với ô nhiễm môi trường trầm trọng gây ra bởi Formosa, ô nhiễm môi trường trầm trọng sẽ là ô nhiễm môi sinh trầm kha ; hậu nạn không ai thẩm định được, chưa kể oan nạn sẽ tiếp tục xẩy ra với cách khai thác bô-xít, cây rừng của Tầu trên Tây nguyên, cùng với bao nhà máy dầy độc chất rải đầy trên các vùng miền của đất nước.
3. Không cho ngoại xâm quyết định cơ sở hạ tầng của mình, từ quốc lộ tới đường cao tốc, từ nhà ga tới sân bay, từ đô thị hóa tới tổ chức giao thông không, thủy, bộ. Thảm kịch đang xảy ra trước mắt Việt tộc với bao doanh nghiệp và doanh nhân Trung Quốc đã thành đa số trong tất cả các đầu tư quốc tế tại Việt Nam, họ đang quyết định cơ sở hạ tầng của đất nước mà ý đồ xâm lược vừa lén lút, vừa quy mô, sẽ gây ra một loại ung thư địa dư kinh tế và quân sự, mà ta không sao trở tay đúng lúc khi âm mưu xâm lược thành hiện thực ngay trên cơ ngơi của ta.
Gây đứt ruột trong tâm địa của đối phương là làm hai chuyện cùng lúc : cắt ruột và nạo ruột ; trước hết là cắt ruột để cắt toàn vẹn lãnh thổ của một dân tộc ; nạo ruột là đào cho rổng mọi tài nguyên, mọi tiềm năng của một đất nước.
Đảng cộng sản Việt Nam với các lãnh đạo hiện nay đã nghiên cứu đầy đủ về bài toán thâm, độc, ác, hiểm gây đứt ruột-cắt đứt ruột-nạo rổng ruột của Tầu tặc chưa ? Không tỉnh táo và không sáng suốt với 3 ẩn số ruột này thì đừng lãnh đạo !
Tam thuật lãnh đạo :
3Đ = đề nghị+đối thoại+đàm phán
3C = bối cảnh+hoàn cảnh+tâm cảnh
3Ư = thích ứng+linh ứng+diệu ứng.
Kỹ thuật lãnh đạo luôn được thao tác như nghệ thuật lãnh đạo trong chính trị cũng như trong quản lý, qua một quá trình hành xử với thái độ có văn minh, cùng các hành vi có văn hóa, thể hiện bằng hành động mang sự thông minh sắc sảo : sự thông minh biết tôn trọng lẫn nhau. Đây là một quá trình giáo dục mà các lãnh đạo độc (độc tài, độc quyền, độc tôn, độc đảng) phải học nhiều của các nước có nhân quyền, biết dân chủ, tổ chức theo đa (đa nguyên, đa tài, đa năng, đa hiệu).
3Đ = đề nghị+đối thoại+đàm phán, quá trình này đưa mọi sáng kiến, mọi sáng tạo vào khung các phướng án hướng về tập thể, trong đó đề nghị là khả năng làm sáng ý muốn, làm rõ ý định để khi vào đối thoại thì dữ kiện song hành cùng chứng từ, để lý luận trong đối thoại thành lập luận phục vụ tập thể. Và, khúc quanh là đàm phán -để đấu giá và trả giá- nơi làm rõ quyền lợi và quyền lực của mỗi bên, tạo tiền để cho giai đoạn tiên quyết là : quyết định tập thể, sẽ là gốc, cội, nền cho chung kết tức là hành động cụ thể của tập thể đó.
3C = bối cảnh+hoàn cảnh+tâm cảnh, là thượng nguồn của quá trình tạo ra 3Đ = đề nghị+đối thoại+đàm phán. Chính bối cảnh của môi trường thực tế điều kiện hóa mọi hoàn cảnh cụ thể của cả tập thể, bó kẻ lãnh đạo phải nắm tình hình thực tiễn để xây chính sách, tạo đề án, lập chương trình. Từ bối cảnh được nhận định tổng quan dựa trên hoàn cảnh được nhận thức bởi lãnh đạo, thì chiến lược để thực hiện các phương án đã mang tính thực tiễn (bám thực tế, hiểu thực dụng để sáng tạo qua thực thi), trong đó sự sáng suốt của kẻ lãnh đạo là thấu suốt tâm cảnh của quần chúng, thấu đáo các diển biến tâm cảnh đó qua quá trình thực thi các chính sách.
3Ư = thích ứng+linh ứng+diệu ứng, là quá trình dùng tri thức lãnh đạo để vào thực hành lãnh đạo, khi biết thích ứng là "cái khó bó cái khôn", thì không bó tay, vì làm lãnh đạo là để giúp tập thể vượt qua cái khó, nếu bó tay thì đừng lãnh đạo. Linh ứng, được cụ thể hóa bắng các hành động : linh động thích ứng, linh động xử lý, linh động giải quyết. Khi đó kẻ lãnh đạo đã biết "cởi trói, thoát rào" để tìm diệu ứng từ tất cả các đồng minh gần xa giúp cho đường lối lãnh đạo thăng hoa, hòa giải các khó khăn trong đó vai trò của tri thức luận (tìm tri thức mới để củng cố tri thức đã có) nơi mà khoa học, kỹ thuật, truyền thông… giúp kẻ lãnh đạo tiếp nhận linh diệu các tiềm năng mới vừa được tri thức mới khai thác để đưa vào thực tiễn của cuộc sống.
Hãy lãnh đạo với phản xạ tri thức đi tìm tri thức, để kiến thức vững đã có tạo nên kiến thức mới làm khôn lãnh đạo : khôn ra để khôn lên… Mỗi ngày lãnh đạo quần chúng mà không khôn ra để khôn lên thì nên từ chức, càng sớm càng đỡ làm khổ dân !
******************
Phần 9
Hành
Khác biệt sinh ra khoảng cách,
đừng sợ khoảng cách : chính khác biệt làm giầu kiến thức
và khoảng cách làm giầu cho đối thoại".
F. Jullien
Khi hành xử được dựa vào hành trang, thì hành trình của kẻ lãnh đạo chính là thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức), chính trị thức với lãnh đạo tỉnh !
Thức tỉnh ngược lại với ngu si, ngu muội, ngu mê, trong bi kịch vô tri, vô minh, vô giác, cội nguồn của bao bi nạn cho Việt tộc.
Hành
Hành vi của kẻ lãnh đạo phản ảnh ít nhất hai cốt lõi trong thực chất của con người lãnh đạo : khả năng lãnh đạo và đạo đức lãnh đạo, hai cốt lõi vượt xa và vượt ngoài các khẩu lệnh tuyên truyền : hồng và chuyên, rổng về diễn luận và trống về giải luận. Khả năng lãnh đạo có nền là giáo (giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án), quyết định khả năng của học, nơi mà học vị và học hàm luôn được căn cứ vào học lực, cấm tuyệt đối chuyện học giả, thi giả, bằng giả. Chính học lực, tức là học thật, thi thật, bằng thật, kết tinh ra phương trình học lực-học thật để bảo trì cho thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức).
Ở đây, tất cả đều thật về tiềm năng, đều thực về khả năng lãnh đạo, phương trình giáo-học-thức không có chỗ cho chuyện "đánh lận con đen". Chính liêm chính trong giáo-học-thức nên có liêm sỉ trong đạo đức lãnh đạo, nếu được làm việc trong các cơ chế công minh, trong một chế độ liêm minh, dụng công bằng qua công lý để thực hiện được chuyện so ra mới biết ngắn dài trong vai trò, chức năng lãnh đạo. Tại đây, phương trình gian lận quan hệ-tiền tệ-hậu duệ không hủy diệt được trí tuệ lãnh đạo. Nhân dân luôn có thẩm quyền để so sánh các khả năng giữa các lãnh đạo, và sau này lịch sử sẽ làm tiếp chuyện cân, đo, đong, đếm này khi các lãnh đạo rời cõi đời này.
Hành động của kẻ lãnh đạo nói lên cũng ít nhất ba chuyện : "biết người, biết ta", vì không hồ đồ trong phản xạ "suy bụng ta ra bụng người", lại càng cẩn trọng trong chuyện "được mắt ta ra mắt người", tựu trung là lãnh đạo sống với người (nhân tình, nhân thế, nhân loại), lãnh đạo vì người (nhân tính, nhân nghĩa, nhân đạo), bằng mong muốn phục vụ người (nhân tri, nhân trí, nhân văn), chớ không phải lãnh đạo vì mình, phục vụ lợi ít riêng tư của mình. Đây là thất bại lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam (từ sau 1975 khi hòa bình được lập lại) đã tư hữu hóa quyền lực và quyền lợi công sức lao động của đồng bào và tài nguyên của đất nước để làm chuyện "đi buôn riêng", và khi đã biến công lợi thành tư lợi thì bị mù quáng hóa ngay trong việc tranh giành giữa các phe nhóm lãnh đạo, như các mafia đang trừ khử nhau, mà quên nhiệm vụ phải thăng hoa Việt tộc như bổn phận chính của mọi lãnh đạo.
Hành xử của lãnh đạo trong chuyện "đối nhân xử thế" qua việc "yêu nước thương dân", đòi hỏi phải tổ chức lại hành trang của lãnh đạo trong đó quy trình giáo (giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án), chế tác ra học, nơi mà học lực quyết định học vị và kiểm nhận học hàm, trong quá trình học thật. Khi hành xử được dựa vào hành trang, thì hành trình của kẻ lãnh đạo chính là thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức), chính trị thức với lãnh đạo tỉnh ! Thức tỉnh ngược lại với ngu si, ngu muội, ngu mê, trong bi kịch vô tri, vô minh, vô giác, cội nguồn của bao bi nạn cho Việt tộc.
Tốt
Tốt, là kết quả cụ thể của mọi hành động, tốt thiết thực là : khá hơn, tốt đi theo hướng tích cực : giỏi hơn. Tốt, luôn có bối cảnh của một thượng nguồn : một xã hội tốt là một xã hội có một định chế tốt, một định chế tốt là kết quả của một chính sách tốt, một chính sách tốt là hiệu quả của một chính trị tốt, một chính trị tốt tới từ lãnh đạo tốt và giỏi. Tốt, luôn có thực cảnh của một hạ nguồn : một xã hội tốt làm ra một đời sống tốt, với những cá nhân tốt, tập thể tốt, cộng đồng tốt. Thực trạng của xã hội của Việt Nam hiện nay là đời sống không tốt, xã hội không tốt, vì định chế không tốt, chính sách không tốt, chính trị không tốt, chắc chắn là lãnh đạo không tốt và không giỏi !
Lao
Lao trong ngữ pháp luôn mang theo hai nội nghĩa, tích cực và tiêu cực, cả hai đều phải được các kẻ muốn lãnh đạo phải suy ngẫm, suy càng sâu thì nghĩ càng cao, vì nếu tích cực sẽ có hiệu quả tốt, nếu tiêu cực sẽ tạo hậu quả xấu.
Lao chỉ đạo lao động biết "thức khuya, dậy sớm", biến hiệu năng thành hiệu quả ; biết "một nắng hai sương", lấy hiệu quả làm hiệu lực ; biết "lấy công làm lời" lấy hiệu lực làm thực lực, thì liêm sỉ nghề nghiệp sẽ tới, lương tri công việc sẽ rõ, vì lương tâm lao động đã có. Câu chuyện này càng đúng hơn và rất dễ thấy trong giới lãnh đạo của các nước tiên tiến, văn minh, nơi mà dân chủ và nhân quyền hiển hiện trong : người thật, việc thật và lao động thật.
Tất cả hệ lao đều có thể so sánh được, và trong bối cảnh của chính trị nội đảng để nội quyền, nơi mà tiền tệ và hậu duệ tạo ra quen biết, quen biết tạo ra quái thai của nó là : quên việc ! Với người giả, việc giả, lao động giả, dẫn tới dối trá trong thống kê, dối gian trong tổng kết. Hiệu năng, hiệu quả, hiệu lực chế tác ra thực lực đã được khách quan hóa, với các chỉ báo chính xác về định chất và định lượng trong lao động hằng ngày của mỗi dân tộc.
Nếu lãnh đạo đã biết là Việt tộc cùng một nôi văn hóa, văn minh trong tam giáo đồng nguyên với Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, và họ đã đóng vai trò làm chủ từ lao động qua sáng tạo khoa học kỹ thuật, trong khi đó dân ta vẫn phải đi làm công, với quy chế lao động tồi, với điều kiện chuyên môn thấp, để nay trong nước và ngoài nước rơi vào cảnh lao nô.
Nếu lãnh đạo đã biết mà để dân mình tiếp tục sống trong sự khinh miệt này thì đừng lãnh đạo nữa ! Liêm sỉ lãnh đạo có trong sự tự trọng khi lãnh đạo, phải biết rút lui để nhường chỗ cho hiệu năng mới, hiệu quả mới, hiệu lực mới chế tác ra thực lực mới.
Lao trong lãnh đạo chính trị có đặc tính riêng là lao tâm vì dân tộc, vì đất nước, có luôn đặc thù riêng là lao trí vì tương lai của bao thế hệ trẻ, vì nhân trí, nhân tri phục vụ cho nhân lý, nhân sinh. Nó khác hẳn và không dính dáng gì tới lao nô là nhục hình, chướng kiếp của một số đồng bào mình không có lối ra trong một xã hội quá bất công hiện nay, với bọn tham quan "cướp ngày là quan", tham ô "ăn cổ đi trước, lội nước đi sau", tham nhũng "ngồi mát, ăn bát vàng". Chúng không hề biết mực thước của lao động, không hề có chuẩn mực của lao tâm, lao trí, chúng chỉ biết vơ vét rồi tẩu tán tiền của dân tộc, để khi luật pháp và công pháp vạch mặt chỉ tên chúng, thì chữ lao lúc đó đã trở thành lao lý !
Chủ
Chủ là nhiệm vụ thiêng liêng của mọi lãnh đạo chính trị, dù kẻ lãnh đạo mang bất cứ hình thức bề ngoài bằng một chế độ, bằng một ý thức hệ, bằng một tuyên truyền, bằng một khẩu lệnh.
Chủ qua tự chủ trước hết trên số phận dân tộc mình, bằng cách làm chủ vận mệnh đất nước mình, làm chủ trong lao động, làm chủ luôn trong sáng kiến lao động để biến sáng kiến thành sáng tạo, dụng sáng tạo để thay đời đổi kiếp mình, trước làm công sau làm chủ. Các láng giềng gần xa, cùng một nôi văn hóa, văn minh trong tam giáo đồng nguyên với Việt tộc, như Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản đã thành công. Chúng ta tại sao không thành công ? Tại sao ta không làm được ? Trong đó câu trả lời có trong vị thế của lãnh đạo chính trị, với vai trò lãnh đạo chính trị phải được xem là tất yếu ! Chức năng lãnh đạo chính trị phải được xem là thiết yếu ! Trên đó tài năng lãnh đạo chính trị chính là giãi luận cho nhiều ẩn số. Ẩn số thứ nhất có trong định nghĩa về chủ thể cho mọi công dân, trong đó chủ thể có hoàn toàn tự chủ để thăng hoa tự do của mình, dùng tự do của mình để sinh hoạt trong xã hội.
Tự chủ ngay trong sáng kiến trước thể chế chính trị, có đầu phiếu thật, với ứng cử viên giỏi, từ đó làm cho cơ chế xã hội đi lên theo hướng bình đẳng và công bằng, không những qua các hội đoàn mà còn qua đa nguyên, trong đó đa tài, đa trí, đa hiệu được mọi định chế công nhận. Không có chủ thể thì chính lãnh đạo chính trị sẽ chột, què, ngọng, lãng. Ẩn số thứ nhì là nhận định về chủ quyền của dân tộc, của đất nước, trong quan hệ quốc tế, trước các cường quốc, trong đó đối xử tử tế với láng giềng, đối đáp chỉnh lý trước các ý đồ xấu của ngoại xâm.
Trong chủ quyền có chủ tri về chính lịch sử của mình nơi mà tổ tiên kiên cường không sợ và không chấp nhận bất cứ một cuộc ngoại xâm nào. Trong chủ quyền có chủ trí về chính dân tộc nơi mà bản sắc Việt tộc chính là nhân phẩm Việt tộc, không chấp nhận bị khống chế vì không muốn bị khuất phục, bị thuần hóa. Ẩn số thứ ba là tổng kết qua tổng lực của phương trình chủ thể-chủ quyền-chủ tri- chủ trí làm nên chủ lực trong lao động, trong đấu tranh, trong ngoại giao, trong quân sự, trong các đối nhân xử thế trong nhân sinh, trước nhân loại. Không có ý thức chủ thể để tự chủ, để làm chủ thì đừng lãnh đạo !
Giáo... thoại
Giáo thoại là giáo dục bằng đối thoại trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, trên đạo lý của công bằng giữa quyền lực của kẻ lãnh đạo và quyền lợi của người chấp nhận người khác lãnh đạo mình. Đối thoại này dựa trên giáo khoa của kẻ lãnh đạo : "nói có sách, mách có chứng", từ dữ kiện qua chứng từ, từ lý luận qua lập luận, làm ra giáo khoa của kẻ lãnh đạo chính trị có giáo án vì "ích nước, lợi dân", của kẻ lãnh đạo chính trị có giáo trình hoàn chỉnh trong chính lý "đầu xuôi, đuôi lọt", tất cả dựa trên giáo dục của kẻ lãnh đạo chính trị là "người khôn chưa đắn đã đo, chưa ra tới biển đã dò nông sâu".
Giáo thoại là lộ trình thông minh của mọi chính sách, trong đó mọi công đoạn quản lý được tổ chức theo phương trình giáo khoa-giáo án-giáo trình, nơi mà mọi giai đoạn giáo thoại, quần chúng thấy rõ mức độ của chính sách qua trình độ của kẻ lãnh đạo. Chính phương trình mức độ-trình độ xác nhận khả năng lãnh đạo của kẻ đang lãnh đạo, không có chuyện "lấy vải thưa che mắt thánh", mắt thánh đây là mắt của tổ tiên, mắt của dân tộc. Hành vi độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn) với phản xạ "cả vú lập miệng em", chỉ là chuyện trống mức độ-thiếu trình độ ; ngược lại với giáo thoại tôn trọng phương trình tiềm năng-khả năng-kỹ năng lãnh đạo, mà quần chúng rất rõ khi phán đoán kẻ lãnh đạo : "so ra mới biết ngắn dài".
Ba phương trình song hành : phương trình giáo khoa-giáo án-giáo trình, phương trình mức độ-trình độ, phương trình tiềm năng-khả năng-kỹ năng lãnh đạo, đúc kết : nội công, bản lĩnh, tầm vóc của kẻ lãnh đạo ; làm gốc, làm nền cho giáo thoại, bảo đảm kết quả tích cực cho phương trình thứ tư đồng giao-đồng cảm-đồng tâm-đồng hành giữa lãnh đạo và quần chúng. Thật tiếc và thật lạ là bốn phương trình trên chưa bao giờ là phản xạ của các lãnh đạo (độc đảng) hiện nay khi ban hành các chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam ; cả bốn phương trình này cũng chẳng bao giờ vào giáo dục, giáo khoa, giáo án, giáo trình trong quy trình đào tạo lãnh đạo trong tổ chức và quản lý ; cả bốn phương trình này rốt cuộc sẽ không bao giờ trở thành : sự thông minh tôn trọng lẫn nhau giữa lãnh đạo và dân tộc !
Đối... nghịch
Đối đầu với thử thách, với thăng trầm trong lãnh đạo là chuyện "cơm bữa" trong chính trị, kể cả với những lực lượng có chính kiến khác ngược, chống, phản lại lãnh đạo cũng là chuyện "đi chợ" để nuôi thân, nuôi trí, nuôi tâm, nếu không chấp nhận chuyện đối đầu để hiểu thêm tình hình, để có nhận định tổng quan, để hiểu tâm lý và tính toán của các kẻ khác ta thì đừng nên lãnh đạo.
Đối đầu chính là trực diện với khó khăn để tìm đáp số, cũng là để "thử lửa" các lý lẽ của chính mình trước thực tế của vấn đề, thực chất của hoàn cảnh.
Đối phương, luôn có mặt trong đời sống chính trị, luôn hiện diện mỗi lần ban hành một chính sách, thường trực xuất hiện trong cuộc sống xã hội vì khác biệt, vì đối nghịch về quyền lợi và quyền lực với lãnh đạo chính trị đương nhiệm. Nhưng lãnh đạo chính trị mà khôn ngoan thì không bao giờ biến đối phương thành kẻ thù, tránh tối đa biến đối phương thành tử thù. Chỉ vì diệt, trừ, khử, giết đối phương chính là đang diệt, trừ, khử, giết thông minh của chính mình, vì đối phương thấy, hiểu, thấu, sống những dữ kiện, những kinh nghiệm, những vốn liếng mà lãnh đạo chính trị không có, không biết, không hiểu ; nếu không thấu chuyện phải học đối phương thì đừng lãnh đạo chính trị !
Đối lập, triệu tập đối kháng, mời gọi đối trọng để tạo ra cán cân lực lượng thuận lợi để đề kháng, để chống đối lãnh đạo chính trị, đây cũng là chuyện "cơm bữa", "đi chợ", "thử lửa", mà lãnh đạo chính trị phải công nhận để cẩn trọng hơn, để nhìn rộng hơn, để thấu suốt sau hơn. Tại đây, tuyên truyền một chiều, áp đặt ý thức hệ, thần thánh hóa cá nhân lãnh đạo chỉ là chuyện dìm dân trong ngu dân, xuẩn động trong bị động, lãnh đạo chính trị là phải nhận đa luận (lý luận, lập luận, giãi luận, diễn luận), cội nguồn của đa nguyên, cũng là gốc rễ của thông minh chính trị !
Đối... thoại
Đối kháng, sẽ có mặt trước, cùng lúc và sau khi ban hành một chính sách, rồi kéo dài theo năm tháng, nơi đây chữ nhẫn (nhẫn nại, nhẫn nhục, nhẫn nhịn) sẽ dạy cho lãnh đạo chính trị bài học "đá mòn nhưng dạ chẳng mòn" để cùng đối kháng hiểu ra chân lý : "có (sự) thực mới vực được đạo". Có chân lý, có sự thật mới có lẽ phải.
Đối trọng, qua lý luận về thực tế, qua lập luận bằng chứng từ, qua giãi luận bằng phương pháp, qua diễn luận bằng chính sách, có chiến thuật và chiến lược, cùng lúc lãnh đạo khôn là lãnh đạo luôn nghe, luôn nhận, luôn tiếp, luôn đón đối trọng như chào, nhận, đón, tiếp các phản biện khách quan, các phản đề có trách nhiệm vì có cùng một công lợi.
Đối tác, khác hẳn với đối phương, vì đối tác khai minh, ít nhất là hai cái minh mà lãnh đạo chính trị phải biết để nắm, phải nắm để hành động : liên minh tức khắc bây giờ và ở đây và nếu lãnh đạo chính trị mà khôn ngoan thì biến thành đồng minh rộng trong không gian, dài theo thời gian, để phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp các chính sách của lãnh đạo chính trị. Phương trình liên minh-đồng minh chính là phương pháp luận của "thêm bạn-bớt thù".
Đối thoại, chính là thực hành thông minh chính trị, nó tổng kết thông minh của đối phương, đối kháng, đối lập để mở cửa cho các phương trình chính trị mới, cởi mở hơn vì cao, sâu, xa, rộng hơn ý định-ý muốn-ý đồ ban đầu của lãnh đạo chính trị. Đối thoại chấp nhận đối đầu để nhận diện đối trọng, để hiểu thêm về đối kháng, để liên kết chặt chẽ hơn với đối tác. Đối thoại để xem lại bản lĩnh, tầm vóc chính trị của lãnh đạo có đủ lực hóa giải đối phương, đối kháng, đối lập hay không ? Đối thoại để xem lại tiềm năng, tiềm lực của lãnh đạo chính trị có đủ sức khai thác tối đa đối trọng, đối tác hay không ?
Phản... (không) động
Phản động, là loại ngữ vựng độc tài, ngữ văn độc đoán, ngữ pháp độc quyền, càng được lãnh đạo chính trị độc đảng lạm dụng như phản xạ để buộc tội cùng lúc lách tránh đối thoại để tìm ra đáp số ; như phản ứng để thóa mạ cùng lúc tránh né đàm phán để tìm ra cách giải quyết, đó là phản ngữ của kẻ lãnh đạo đuối lý, cạn luận. Nó là loại phản cảm trong bạo hành chính trị, nó được dùng rộng rãi qua tuyên truyền để gieo sợ hãi trong xã hội, cùng lúc để đe dọa quần chúng đang trên hai quỹ đạo thông minh : đa luận (lý luận, lập luận, giãi luận, diễn luận) và đa nguyên (đa tài, đa năng, đa sắc, đa hiệu, đa trí). Lạm ngữ phản động chỉ nói lên chuyện chột, què, ngọng, điếc trong tư duy chính trị, chỉ khơi lên chuyện xấu, tồi, tục, dở trong hành động chính trị "cả vú lấp miệng em" của các kẻ lãnh đạo bất tài, vô trí.
Phản kháng là chuyện "thường tình" trong lãnh đạo chính trị, là chuyện "thường nhật" trong sinh hoạt chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, kinh tế... không hiểu chuyện "thường tình"-"thường nhật" trong lãnh đạo chính trị thì đừng lãnh đạo ! Một chính sách khi ra đời, nếu nó có lợi cho đa số, thì chắc chắn nó có hại cho một thiểu số, và chính sự liêm minh của chính quyền, sự liêm chính của lãnh đạo là nguồn gốc làm nên giáo khoa chính trị để giải thích, để thuyết phục quần chúng. Bản lĩnh chính trị là phải liêm khiết hóa đối kháng, nội công chính khách là phải trong sạch hóa (mà không thanh lọc hóa) các lực lượng đối kháng qua 3Đ (đề nghị-đối thoại-đàm phán).
Phản bác, có thể là thượng nguồn, có thể là hạ nguồn của phản kháng, xuất hiện trước hoặc sau, có khi cùng lúc khi lãnh đạo chính trị ban hành một chính sách. Phản bác trong thông minh lãnh đạo chính trị, ngược lại với phỉ báng, trái chiều với thóa mạ, lại càng không "cùng mâm, cùng chiếu" với chụp mũ, vu khống, nếu phản bác công nhận hai quy trình tích cực của thông minh chính trị : đa luận (lý luận, lập luận, giãi luận, diễn luận) và đa nguyên (đa tài, đa năng, đa sắc, đa hiệu, đa trí, được thực hiện và kiểm soát bằng 3Đ (đề nghị-đối thoại-đàm phán).
Phản (để)... tỉnh
Phản hồi, không những là khả năng trực diện với quần chúng đang bức xúc về chính sách hoặc đường lối của lãnh đạo chính trị, mà còn là năng lực của lãnh đạo chính trị biết phản hồi ngay, như một phản ứng nhanh nhẹn, bén nhạy trên chính đường lối lãnh đạo do mình đề ra.
Nếu phản hồi tổng kết được tất cả các phản kháng, thống hợp được tất cả các phản bác một cách tích cực qua 3Đ (đề nghị-đối thoại-đàm phán), sẽ tạo ra bản lĩnh thuyết minh, sẽ nâng lên tầm vóc thuyết phục của lãnh đạo chính trị. Muốn lãnh đạo chính trị mà không biết, không tạo ra được phản hồi, cứ để mặc các hồ sơ chất đống, cứ bỏ qua các vụ oan án, cứ nhắm mắt trước các đề nghị hoàn thiện của các chuyên gia, của quần chúng thì đừng lãnh đạo nữa ! Vì tránh né phản hồi thì chỉ "hao cơm, tốn của" của dân, chóng chầy trở thành "sâu dân, mọt nước", một loại ký sinh trùng chính trị "ăn đậu, ở nhờ" trong sinh hoạt chính trị. Nếu nhận ra mình là như loại "ăn trên, ngồi trốc" để "ăn bám, ăn hại" thì nên rút lui càng sớm càng hay, để chỗ cho người khác có lý lịch thông minh chính trị : đa luận (lý luận, lập luận, giãi luận, diễn luận) và đa nguyên (đa tài, đa năng, đa sắc, đa hiệu, đa trí) thể hiện qua 3Đ (đề nghị-đối thoại-đàm phán) thay thế mình !
Phản biện, luôn tích cực nếu nó khách quan, khoa học, hợp lý, trọn tình, nó lại càng tích cực khi nó nêu được khuyết điểm, nhược điểm, nhất là khuyết tật của lãnh đạo chính trị, nó lại càng có ích khi chính kiến của nó thực sự hiệu quả chống lại tà kiến, được che phủ bởi tà ngữ của ma đạo lẫn xen vào sinh hoạt lãnh đạo để tha hóa, để biến chất, để lũng đoạn chính sách của lãnh đạo. Biết nhận, đón, tiếp, nghe tất cả các phản biện luôn là đức của chức, chính là đạo của trị, vì biết nghe nên biết trị !
Phản tỉnh, luôn là nhu cầu tư duy của lãnh đạo chính trị biết sửa sai, biết chỉnh cái xấu, tồi, tục, dở, để đưa cái hay, đẹp, tốt, lành vào chính sách (vì dân-vì nước), cùng lúc loại, khử, trừ, bỏ mọi cái thâm, độc, ác, hiểm của địch luôn tạo chiến trường đôi để làm ta suy kiệt sớm : "thù trong, giặc ngoài". Không giành thời gian đầy đủ cho phản tỉnh để tỉnh thức, lấy thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức) để biết thao thức, thì đừng lãnh đạo ! Thao thức là đau đáu qua việc nước-việc dân. Nếu không biết phản tỉnh-tỉnh thức-thao thức thì nên chọn nghề khác mà làm, vì lãnh đạo chính trị vượt lên chuyện nghề, nó là nghề của thương dân-yêu nước, nó là nghiệp của vì dân-vì nước !
Kết
Kết quả, bằng hiệu quả, cùng lúc giới hạn tối đa các hậu quả, trong đó hiệu năng lãnh đạo chính là khả năng lãnh đạo, đây chính là mục đích của mọi hành động chính trị, nơi mà lãnh đạo chính trị phải cân, đo, đong, đếm tận tường khi thực hiện các chính sách, tại đây lãnh đạo chính trị luôn đóng vai trò trung tâm để đảm nhận các trách nhiệm chính thức. Làm sai thì phải xin lỗi và từ chức, hãy bỏ ngay loại văn hóa chính trị độc tài, vô trách nhiệm vì vô minh, vô tri vì không biết bổn phận với nước-với dân, chỉ xin lỗi mà không chịu từ chức, xin lỗi rồi làm tiếp mà không bị công lý qua công pháp, không bị tra, hỏi, vấn, xét bởi luật pháp, bởi tư pháp độc lập với hành pháp.
Kết nối ngược hẳn với kết nạp để tạo bè, lập đảng ; kết nối là khả năng của lãnh đạo chính trị biết tập hợp các sức mạnh đã có sẵn từ mọi nơi, biết tập trung các tiềm năng đã có rồi từ mọi phía, biết kết hợp để đưa tiềm năng, tiềm lực vào thực tế tổ chức và quản lý, để biến nó thành nội công, nội lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Tại đây phải hiểu cho tường tận công lực của đa (đa tài, đa năng, đa sắc, đa hiệu, đa trí, đa nguyên). Nếu chưa tìm được đa thì phải tìm cho ra minh, với minh vương (Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tôn...), minh quân (Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo...), để tạo được một mặt trận rộng rãi như Việt tộc đã từng thấy qua Hội nghị Diên Hồng.
Kết đoàn, biến các sức mạnh rời rạc thành một sức mạnh đại thể, làm nên hiệu quả của kết tụ trong đó sức mạnh của một dân tộc là một khối hoàn chỉnh, vững chắc với thời gian, chính sức mạnh đoàn kết keo sơn tạo ra : kết chặt nhận thử thách để bảo vệ đất nước, nhận bổn phận và trách nhiệm đầy đủ, kể cả hy sinh để dân tộc được thăng hoa.
Kết lũy mang phẩm của chất, lực của lượng để kết tinh ra khối đại đoàn kết, nơi mà tất cả tinh hoa của dân tộc, tinh nhuệ của giống nòi làm nên thành quả lớn nhất trong lãnh đạo chính trị ! Đây là sức mạnh khai thị và khai minh trong lời trăn trối của Trần Hưng Đạo đã dặn dò Trần Anh Tông : "không sợ Nguyên Mông, vì nhân dân sẽ là "rễ sâu, gốc chắc" cho lãnh đạo !".
********************
Phần 10
Việt
"Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn,
Lấy trí nhân thay cường bạo".
Nguyễn Trãi
Muốn biết mình có phải là lãnh đạo chính trị Việt gốc hay không ? mình sẽ lãnh đạo một dân tộc nào ? Một dân tộc kiên cường, chớ không phải một dân tộc cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối.
Việt gốc
(Ta là ai ?)
Muốn biết mình có phải là lãnh đạo chính trị Việt gốc hay không ? (theo nội dung yêu nước thương nòi, với ý nghĩa thiêng liêng nhất của định nghĩa "đồng bào", chớ không phải chỉ cần có quốc tịch Việt hay tổ tiên Việt là đủ), thì phải tự khẳng định rằng ít nhất ba việc mình chính là con dân của một dân tộc :
- Không bao giờ khuất phục bất cứ ngoại xâm nào, tới từ bất cứ phương trời nào, dù chúng có to nhất, có giầu nhất.
- Không bao giờ chịu phận mất nước, làm thân nô lệ, dù phải trả những giá rất đắt để giữ độc lập.
- Nhận quyết tâm độc lập dân tộc như tiếp cùng lúc hai hệ vấn đề : một là bản sắc Việt tính bất di bất dịch, hai là về nhân phẩm Việt lực của mình.
Ba khẳng định chính kiến chính là ba xác nhận chính trị để kẻ lãnh đạo trước hết biết mình là ai ? Sau đó để biết mình sẽ lãnh đạo một dân tộc nào ? Một dân tộc kiên cường, chớ không phải một dân tộc cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối. Như vậy, những kẻ không có, hoặc không muốn có ba chính kiến này thì đừng lãnh đạo chính trị, vì họ sẽ nhận thất bại và chóng chầy sẽ bị kết án là phản dân, hại nước !
Việt chính
(5C = chính đạo-chính nghĩa-chính lý-chính khí-chính ngôn)
Việt chính, ngược hẳn với Việt gian, có chính đạo nhờ có chính nghĩa, có chính tâm song hành cùng chính lý, có chính khí nên có chính ngôn, trước sau như một, tuyệt đối trung thành với tổ quốc, muốn làm lãnh đạo thì sẵn sàng hy sinh vì dân tộc, chết vì nước. Chắc chắn không phải là loại lãnh đạo, vừa vơ vét, vừa có thẻ xanh, có quốc tịch ngoại quốc, để khi Tàu tặc tới, vật đổi sao dời trong thời cuộc lại bỏ chạy qua phương Tây, rồi lẩn lút như đám ma bùn, ma xó.
Vật đổi sao dời trong đời người là có thật, vật đổi sao dời lại càng đúng trong chính giới với "nắng sớm, mưa chiều", "sớm nở, tối tàn" ; trong đó nếu có bọn xấu thì chuyện "lừa thày, phản bạn" đối với chúng là chuyện "cơm bữa" ! Chúng đang là đám tham quan hiện nay đang làm giầu nhờ tham nhũng. Chúng sẵn sàng lúc chúng mượn giọng lưỡi cách mạng, để mạt sát các người yêu nước, các kẻ thương dân, không là bè đảng với chúng, chúng thóa mạ họ là : Việt gian.
Hãy dùng định nghĩa Việt chính để lật trần ngược ngữ Việt gian, cùng lúc lột mặt nạ bọn Việt gian hiện đại đang nghênh ngang trong vai trò lãnh đạo chính trị, đó là bọn luồn từ phương trình xoay quyền lực qua quyền lợi qua phương trình chuyển công lợi qua tư lợi, bằng cách khai thác tận tủy phương trình tham quan-tham quyền-tham ô-tham nhũng, biến không ít một bộ phận dân tộc thành dân đen, dân oan !
Việt rễ
("rễ sâu, gốc chắc" của niềm tin)
Rễ làm cội chắc, gốc vững, khi Trần Hưng Đạo bên giường bịnh vào giờ trăn trối mà Trần Anh Tông vẫn luôn lo lắng bọn quân Nguyên dù thua thảm bại ba lần trên đất nước Việt dưới triều Trần, nhưng vẫn không bỏ mộng xâm lược của chúng ; Hưng Đạo vương chỉ khuyên : nếu có dân là có "rễ sâu, gốc chắc" thì không có gì phải lo ! Bài học "rễ sâu, gốc chắc" này, Trần tướng quân dặn dò cho nhiều đời sau phải hiểu là dân tộc và lãnh đạo : một lòng trong quyết tâm, quyết chí, để quyết đoán và quyết định trước mọi thử thách, mọi thăng trầm đang đe dọa Việt tộc. Dân chúng và chính trị một lòng thì làm được chuyện "dời non, lấp bễ", cụ thể là "châu chấu đá xe" được lập đi lập lại nhiều lần trong Việt sử : nhỏ nhưng thắng được lớn, không sợ cường quốc và không sợ cường bạo, chỉ sợ là không có chính nghĩa. Sử liệu giờ đã thành sử luận, không hiểu được sử luận này thì đừng lãnh đạo chính trị !
"Rễ sâu, gốc chắc" từ chuyện cả nước một lòng có thượng nguồn là niềm tin, như đất nuôi rễ, như nền giữ gốc, tin vào chính, có chính nghĩa sẽ có chính tâm, có chính tâm sẽ có chính lý, có chính lý sẽ có chính ngôn, có chính ngôn sẽ có chính khí, tạo nên sung lực để vận động khí thế của dân tộc, trong chiến tranh cũng như trong phát triển.
Niềm tin hiện nay rõ ràng là không có, bề trên lãnh đạo độc quyền nên độc đoán, độc đảng nên độc tài, từ lộng quyền tới tham quyền, thì làm gì có chuyện một lòng, trong thực cảnh dân chúng một bộ phận lớn đang thành dân đen. Lãnh đạo biến quyền lực thành quyền lợi, cướp đất, đoạt nhà, biến một bộ phận không nhỏ dân tộc thành dân oan. Chuyện một lòng hiện nay là chuyện hão, chuyện mất lòng mới là chuyện thật. Mất lòng tin vì mất niềm tin, và mất luôn cả thông tin chân thật bởi một chế độ chỉ biết tuyên truyền một chiều, sợ đa tin như sợ đa luận ! Sợ chính luận như sợ chính nghĩa ! Không tạo được "rễ sâu, gốc chắc", vì không có ý thức chính trị về chuyện một lòng, vì không có tri thức lãnh đạo về chuyện niềm tin, thì đừng lãnh đạo chính trị, lãnh đạo thì chỉ làm khổ dân, chỉ làm tăng lượng dân đen và dân oan trong dân tộc như hiện nay.
Việt hiền minh
(3Thực = thực tại-thực cảnh-thực tế + 3Thức = tri thức-ý thức-nhận thức)
Hiền minh, chọn hiền triết để lãnh đạo, chọn minh triết để quản lý, tạo ra chính sách không qua định kiến và chỉ đạo không bằng tà kiến. Có chính kiến (chính thống trong liêm chính), nhưng cũng có luôn trung dung để tránh cực đoan, có trung đạo để không sa vào quá khích.
Hiền minh có chính lý trong trung dung, có chính tâm trong trung đạo, loại được cực đoan, xóa được quá khích, nên tiếp nhận thực tế trong tỉnh táo, chọn ra đường lối đúng trong sáng suốt, luôn linh hoạt trong các biến đổi của tình hình. Biết chọn trung dung đa của đa chiều (ngã tư, ngã sáu, ngã bẩy...) chứ không ngu dại mà chọn độc của độc đạo, vì quá khích của độc đảng sinh ra cực đoan của độc quyền, dẫn tới thui chột của độc tài, và chóng chầy sẽ rơi vào : ngõ cụt !
Hiền minh, có hiền ngoan nhưng luôn có thông minh, luôn hiểu sự thật qua nhiều nguồn, thấu chân lý qua nhiều gốc, nhận lẽ phải qua nhiều rễ, tiếp đón cuộc sống qua đa tri của đa trí, nên không tự sát trên độc lộ của độc đảng vì độc thân. Hiểu thực tại sâu xa của cuộc đời nhờ nắm được thực cảnh tức khắc bây giờ và ở đây, không bị ý thức hệ viển vông làm lầm đường lạc lối, luôn lấy thực tại-thực cảnh để hiểu thực tế, không bị ý thức hệ tung hỏa mù, không bị độc thị đầu độc độc não.
Hiền minh trong chính trị không phải là thái độ sinh hoạt hiền lành, phong cách làm việc ngoan ngoãn, mà cụ thể là sự tinh khôi trong khi dụng phương trình 3T (thực tại-thực cảnh-thực tế) để chống lại vô tri, vô minh, vô tri của 3Đ (độc tài vì độc thị đầu độc độc não). Lãnh đạo hiền minh thì nắm chắc 3 thực (thực tại-thực cảnh-thực tế) nhờ có 3 thức (tri thức-ý thức-nhận thức).
Hiền minh, không giả vờ thong dong, không đóng kịch ung dung, mà sáng suốt trong thư thái, tỉnh táo trong thư thả, nên khoan thai trong lãnh đạo vì nắm mỗi tay một phương trình : 3 thực (thực tại-thực cảnh-thực tế) song đôi cùng 3 thức (tri thức-ý thức-nhận thức).
Việt tri
(4T = tổng quát-tổng quan-tổng thể-tổng cộng)
Tri, nơi mà tri thức làm ra chính tri, nơi mà hiểu thấu có được nhờ hiểu đúng dữ kiện và hiểu trúng kiến thức, không có thái độ "ba phải", không có hành vi "chung chung", chắc chắn sẽ không có chuyện hiểu giả-giảng giả-dạy giả trong giáo dục chính trị cũng như trong truyền đạt khi lãnh đạo. Cái giả giết cái thực, truy diệt cả lẽ phải, thủ tiêu luôn niềm tin ; câu chuyện một bộ trưởng Bộ Giáo dục Phùng Xuân Nhạ, đạo văn là chuyện giết chết kiến thức, truy diệt cả giáo lý, thủ tiêu luôn đạo đức ; một chuyện chỉ có thể xẩy ra trong một đất nước bị áp chế và bưng bít bởi độc đảng sinh ra quái thai độc quyền-chuyên quyền-tham quyền, đẻ ra loại ung thư thâm tối mua quyền bán chức, giữa các lực lượng tham quyền để tham nhũng.
Tri, có vai vóc của phân tích tổng quát, có tầm vóc của giải thích toàn bộ, chống cục bộ, nó chống lại chuyện lấy cây che rừng, lấy tay che mặt trời, lấy vải thưa che mắt thánh, trong lãnh đạo chính trị phải hiểu thánh đây chính là dân ! Phân tích tổng quát để có nhận định tổng quan, nơi mà quyết định chính trị để làm ra chính sách luôn là một lý luận tổng thể, nơi mà tổng cộng tri thức tới từ tổng công (tổng cộng của công mọi vốn liếng, tiềm lực, tài nguyên...) của dân tộc. Hiểu và thực phương trình 4T (tổng quát-tổng quan-tổng thể-tổng cộng) chính là tài trí của kẻ lãnh đạo.
Tri, có phân chia để phân tích, có phân tách ra để phân loại, nhưng không rơi vào cục bộ để bị rơi vào chia rẽ, chia năm sẻ bẩy sẽ diệt đoàn kết, chia bè sẻ phái thì sẽ giết tương trợ. Minh tri để minh trí, lấy cái công để điều chế cái riêng, luôn chống lại cái phiến diện, nhất là chống lại chuyện lấy riêng rẻ của tư lợi để điều hành cái tổng thể của đất nước, đây chính là lỗi lầm lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam. Khi họ đã chọn tư quyền chỉ cứu đảng mà không cứu nước, họ đã rơi vào cái bẫy của Hội nghị Thành Đô, 1991, nơi mà Đảng cộng sản Trung Quốc-Đảng cộng sản Trung Quốc chính là : kẻ cầm cần câu, kẻ móc lưỡi câu, kẻ đưa mồi câu, để Đảng cộng sản Việt Nam là cá đã cắn câu, để rồi một ngày nào đó Việt tộc sẽ như : cá nằm trên thớt !
Việt đẹp
(đẹp chống tục, chống ngu, chống nhảm)
Việt đẹp là một đất nước đẹp từ địa lý tới cảnh quan, là một dân tộc đẹp từ tâm hồn đau khổ vì chiến tranh tới đạo lý yêu hòa bình, nhưng không chấp nhận xâm lăng, không cúi đầu trước ngoại bang dù là cường quốc. Cái đẹp này người ta thấy trong lịch sử rồi nhận ra được trong văn hóa, để nhận rõ hơn văn minh Việt chính là nhân phẩm Việt, tạo nên bản sắc Việt : luôn bất khuất để giữ độc lập, không khuất phục trước mọi bạo quyền. Đây là chuyện phải rõ trong mọi tư duy bình thường cho mọi lãnh đạo chính trị.
Vậy mà, đầu năm nay 2018, nhân dân Việt "rùng mình" khi nghe thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ví đất nước Việt như một cô gái đẹp, với các từ ngữ của hình thể, không có lý luận nên chẳng có lập luận, tới từ một thủ tướng vô tri trong lập ngữ và vô minh lập ngôn. Chưa xong, dân Việt lại "rởn óc" khi nghe có một phó chủ tịch quốc hội, tiếp tục ví đất nước Việt như một cô gái đẹp, với các động từ (rờ, sờ, mó...) loại thô ngữ tục ngôn, tà lý với lời tồi, vô giác với hồn thiêng sông núi vì vô tri với tiền đồ tổ tiên của Việt tộc : thật là từ sỉ nhục qua điếm nhục ! Những kẻ lãnh đạo này, vô luận nên vô tri đã lăng nhục đất nước Việt !
Những loại lãnh đạo này vô minh, vô tri, vô giác, họ đã quên là tổ tiên dạy con cháu mỗi lần miệng ra lời, trước đó phải uốn lưỡi nhiều lần ; chúng không hề biết uốn lưỡi với mỹ ngữ, mà chỉ biết cong lưỡi để thô ngữ, tục ngôn. Nếu không được giáo dục về đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, vì không được giáo dưỡng đàng hoàng từ gia đình tới học đường, vì không được giáo huấn tử tế từ học đường tới xã hội ; thì phải biết tự giáo dục, không khó, rất dễ, họ chỉ cần nghe thật kỹ ca từ các ca khúc tự tình dân tộc của Phạm Duy (tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời). Nghe thật rõ các ca từ về của đất nước Việt của Trịnh Công Sơn :
Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Tay đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...
Bàn tay ta nắm nối trọn một vòng Việt Nam...
Biển xanh sống gấm nối liền một vòng tử sinh...
(Nối vòng tay lớn)
Nếu không hiểu hồn thiêng sông núi do tổ tiên để lại thì đừng lãnh đạo !
Việt hóa
(3H = hóa-hòa-hợp)
Hóa giải để hòa giải đã có nhiều lần trong Việt sử, từ minh quân tới minh chúa, từ Trần Nhân Tông qua nhiều nguồn xung đột nội chính, trước đại họa xâm lăng của Nguyên Mông, cho tới Quang Trung khi đã tống quân Thanh ra khỏi bờ cõi, lấy lại Thăng Long với những năm tháng dài chia rẽ thâm sâu của nội chiến Trịnh-Nguyễn. Đây là sự thông minh của kẻ lãnh đạo luôn lấy khối đại đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh cho chính lãnh đạo.
Hóa giải để hòa giải có bài học đầu tiên trong lãnh đạo qua đúc kết của thi hào Nguyễn Du : "phải dung kẻ dưới mới là lượng trên", mà trong tình hình của hơn 40 năm qua, từ khi hòa bình được lập lại, có thống nhất đất nước, 1975, vậy mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không biết chuyển câu trên thành phương châm mới : phải hòa giải với kẻ bại để hóa giải mọi hậu quả của chiến tranh, để tạo được hòa hợp dân tộc.
Hóa giải để hòa giải luôn là cử chỉ đầu tiên đưa tay-dang tay-nối tay của kẻ thắng trước kẻ bại, không cần bắt đầu bằng xin lỗi, tha tội, mà qua thực tế của đất nước, bằng những hành động cụ thể của mọi người, mọi phía, cùng nhau xây dựng lại quê hương, cùng nhau đưa dân tộc đi lên, đẩy giống nòi thăng hoa với thế giới văn minh.
Hóa giải để hòa giải trong phương châm đa chiều để có đa trí, cùng lúc đa tri để tạo ra đa hiệu, dựa trên đa tài để có đa năng, lấy cái đa để xa cái độc hại của độc quyền qua độc đảng, đây chính là hành động thông minh của lãnh đạo chính trị, biết biến tiềm lực của mọi nơi thành hiệu lực tổng hợp từ mọi phía, tạo ra hiệu quả thống hợp từ mọi tiềm năng của mọi người, mọi tập thể, mọi cộng đồng.
Hóa giải để hòa giải có rễ trong hóa, trong hòa, trong hợp, trong đó hóa giải không những mọi hiềm khích mà luôn cả mọi oan khiên, hòa lấy hòa bình trước mắt chế tác ra thái bình bền vững ; hợp biến tổng hợp mọi tiềm năng để tạo ra thống hợp mọi hiệu năng, làm nên thành công của phương trình mà tất cả lãnh đạo đều phải biết : phương trình 3H (hóa-hòa-hợp).
Việt chung
(chung chống riêng, chống độc, chống đặc)
Ngày ngày sống cạnh nhau thì chưa chắc là sống chung, vì đã chung thì không có riêng, vì chung là chia sẻ, chính ngữ pháp cộng sản, cũng từ đó mà ra, nhưng trong thực tế nó chỉ là một khẩu lịnh để tuyên truyền, để đưa đẩy quần chúng, dùng loại ý thức hệ để vận động cộng đồng, rồi dìu dắt quần chúng vào độc đạo của độc đảng, trong đó chuyện lãnh đạo "đánh lận con đen" sẽ bộc lộ rất rõ dưới ánh sáng của sự thật-chân lý-lẽ phải.
Thất bại luân lý, thảm bại đạo lý của người cộng sản là trong thực chất, khi cướp được chính quyền thì chính các đảng cộng sản luôn tạo ra sinh hoạt riêng, đời sống riêng, tổ chức riêng, cơ cấu riêng... chính những cái riêng này mới là thực chất để hiểu rõ bản chất : đứng riêng để đứng trên cái chung của dân tộc, đây là chuyện lừa đảo, dùng chuyên quyền để tham quyền, dụng tham quyền để tham nhũng. Vì cái riêng của họ, dẫn họ vào cái độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị) tạo ra cái đặc (đặc quyền, đặc lợi), dành chỗ đặc biệt để "ăn trên ngồi trốc", để ăn riêng (ngon), ở riêng (rộng), đây là khởi điểm báo hiệu ngày tàn của một tập đoàn lãnh đạo (nếu không biết tự thay đổi).
Thất bại luân lý vì rỗng luân lý, là thảm bại đạo lý vì trống đạo lý, vì giọng lưỡi "là đày tớ cho nhân dân" chỉ là xảo ngữ, đã làm họ phải "tự lột mặt nạ" họ, khi họ tạo ra cái riêng thật ưu đãi cho chính họ. Khi họ lấy hằng trăm mẫu đất cạnh thủ đô Hà Nội, với kinh phí hàng ngàn tỷ đồng để xây nghĩa trang cho cán bộ cao cấp ! Một hành động bất chính trắng trợn : lấy tiền người sống để phục vụ cho họ, kể cả khi họ đã rời cõi đời này ! Nếu đúng "là đày tớ cho nhân dân" thì tại sao không lấy tiền này để lo cho dân đen, dân oan ?
Từ thất bại luân lý này qua thảm bại đạo lý kia, họ còn tự tạo ra đặc lợi riêng là buôn bán cả trên danh nghĩa của các liệt sĩ, bằng cách xây các tượng đài liệt sĩ, cũng hàng ngàn tỷ. Họ có thấy là người sống không có nhà phải vào ở trong nghĩa trang để sống, họ có thấy là các người dân nghèo đang ăn xin chung quanh các tượng đài liệt sĩ.
Thất bại luân lý trước mắt dẫn tới thảm bại đạo lý mai sau, chính cái riêng, cái độc, cái đặc đang nạo diệt cái chung ngay trong tư duy của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, ngày ngày đưa họ xa cái đồng cam-cộng khổ, cái thương nước-trọng dân, cái vì dân-vì nước, họ làm lãnh đạo mà quên các phương châm này thì khoa học lãnh đạo có thể nhắc họ là : họ đang tự đào mồ mà chôn chính họ !
Việt tri
(cộng đồng tương trợ hữu cơ)
Cộng đồng tương trợ hữu cơ, nơi mà dân tộc là một cộng đồng khắng khít qua đoàn kết chặt chẽ để chế tác ra tương trợ sống trong một xã hội hữu cơ, không máy móc một cách thẳng thừng, trắng trợn kiểu "tiền trao cháo múc", lại còn được thô lỗ hóa qua đám từ của một xã hội loạn lạc luân lý như hiện nay : "ăn bánh trả tiền". Ngược lại hoàn toàn, cộng đồng tương trợ hữu cơ mang nội lực "một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ", có nội công "máu chảy, ruột mềm", có nội hành liên đới "bầu ơi thương lấy bí cùng". Đây là một đạo lý hữu cơ, không coi nhân dân là công cụ, không xem quần chúng là dụng cụ, mà là các chủ thể sống vì nhau, vì biết liên đới nhau, biết bảo vệ nhau, nơi mà trái tim đau, thì não cũng đau theo, nơi mà phổi khó thở thì tim cũng không dễ sống.
Cộng đồng tương trợ hữu cơ luôn là bài học đôi cho tất cả các lãnh đạo của các nước văn minh, tiên tiến, nơi mà luân lý cộng đồng, đạo lý tương trợ, đạo đức hữu cơ luôn mang theo hiệu quả sản xuất, hiệu năng quản lý, hiệu suất cho chính sách. Tương trợ để tăng hiệu quả chính là thông minh của chính giới.
Cộng đồng tương trợ hữu cơ đưa nhân thế vào nhân tính, đưa nhân tình vào nhân tính, nơi đây các phản xạ ích kỷ, tư lợi, cá nhân chủ nghĩa không bao giờ có được tầm vóc quốc gia, có vai vóc cộng đồng, có gân cốt của lãnh đạo cao minh vì biết lấy nhân nghĩa làm nhân tri. Cộng đồng tương trợ hữu cơ đang "dở sống, dở chết" trong xã hội Việt tộc do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đang bị trật hướng, ngược chiều, với các nội tạng không có thực chất tương trợ hữu cơ, nơi đây mà não bộ lãnh đạo đang bị ung thư óc vì chuyên quyền-bạo quyền-tham quyền, sinh ra cùng với ung thư máu lây lan toàn cơ thể tham quyền-tham ô-tham nhũng, ngày ngày hủy diệt các kháng tố "thương người như thể thương thân" đưa tính mạng của Việt tộc tới nan bịnh, trọng bịnh, bạo bịnh...
Cộng đồng tương trợ hữu cơ sẽ có, nếu các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam biết chế tác, biết gầy dựng (như mọi lãnh đạo chính trị thông minh của các quốc gia văn minh đã thực hiện được) được ba định đề biến nó thành một chính sách hoàn chỉnh với ý chí chính trị kiên cường : dụng tự do để chế tác công bằng, dùng công bằng để gầy dựng bác ái. Nếu bác ái là tình thương đồng loại, nhất là tình thương dành cho đồng bào, thì chắc chắc bác ái là tiềm năng, động cơ, sung lực cho tương trợ.
Việt tâm
(hiện hữu tâm linh-tri thức)
Hiện hữu tâm linh-tri thức, là sự có mặt qua các giá trị tâm linh dựa trên một hệ thống tri thức vừa hợp lý vừa trọn vẹn, nơi mà nhân đạo và nhân tri là một tổng thể để đưa nhân tình vào quỹ đạo nhân nghĩa, đây là thử thách tinh thần lớn nhất của sinh hoạt chính trị, và nếu làm được thì sẽ là thành công đạo lý lớn nhất của kẻ lãnh đạo. Hiện nay, các diễn biến trong quyền lực chính trị thì ai cũng thấy là đang diễn biến hoàn toàn ngược lại, với các lãnh đạo đang thanh toán nhau qua ân oán giang hồ, đang thanh trừng nhau bằng luật rừng, theo phản xạ vô tri thắng làm vua, thua làm giặc, không có đạo đức sẽ không có hậu đây là chân lý khách quan và lịch sử của đạo đức học làm nền cho mọi hành động chính trị.
Chính cái bề trên không những bất tín-bội thề với dân tộc trong phương trình tự do-ấm no-hạnh phúc, mà lại lấy bạo quyền để chuyên quyền đã làm cho các giá trị tinh thần của dân tộc đã bị sa vào bùn bẩn, từ đó các thước đo luân lý cộng đồng, các khuôn mẫu đạo lý tập thể bị suy kiệt tới cùng tận, để trong xã hội hiện nay cái bạo động của cường quyền công an đánh giết quần chúng, làm chất xúc tác xấu cho chuyện phát triển bạo hành trong học đường, trong gia đình, bạo giới của nam đối với nữ. Cái độc (độc đảng, độc quyền, đôc tài, độc tôn, độc trị) luôn là ổ rắn cho chuyện phát triển cho cái bạo (bạo quyền, bạo động, bạo hành, bạo giới), liên minh giữa độc và bạo sinh ra lầm than trong nhân dân, làm đảo lộn mọi bậc thang tâm linh và tri thức có thể truy diệt được nếu lãnh đạo có bản lĩnh của minh quân, có tầm vóc của minh chúa, có nội công của minh chủ (trong lúc chờ đợi dân chủ rồi nhân quyền thực sự tới với Việt tộc). Chuyện này đã có trong Việt sử qua Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tôn... biết lấy tâm linh để chỉ đạo, biết dụng tri thức để lãnh đạo. Các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam đừng ngụy biện là không có gương sáng, không có mô hình hay, không có khuôn mẫu đẹp để lãnh đạo, hãy học kỹ ba điều có thực trước mắt : học tổ tiên, học láng giềng đã thành công, học thế giới văn minh đang đặt tiền đề cho hiện hữu tâm linh-tri thức cho một nhân loại tốt lành giữa toàn cầu hóa hiện nay.
Lê Hữu Khóa
(25/01/2020)
-------------
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie,Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á, Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc,Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.
Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sưLê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.