Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Văn hóa

22/08/2022

Thiền định chánh niệm giúp ích gì cho con người ?

David Robson

Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi ?

David Robson, BBC, 25/06/2022

Cho dù bạn là giáo viên, nhân viên bệnh viện, lập trình viên Google, sĩ quan thủy quân lục chiến Mỹ hay thậm chí là chính trị gia Anh, bạn sẽ đều được các đồng nghiệp và cấp trên khuyến khích thực hành chánh niệm.

thiendinh1

Ngay cả đồng hồ thông minh của tôi cũng thường xuyên nhắc nhở tôi dành "một phút chánh niệm".

Kết quả tức thì của hình thức thiền phổ biến này là giảm căng thẳng và nguy cơ kiệt sức.

Nhưng bên cạnh những lợi ích này, bạn sẽ thường thấy những ý kiến cho rằng thiền chánh niệm có thể cải thiện tính cách.

Khi bạn học cách an trú trong hiện tại, theo những người chủ xướng, bạn sẽ tìm thấy trong mình vẫn còn sự thấu cảm và lòng trắc ẩn giấu kín cho những người xung quanh. Điều đó chắc chắn là phần thưởng hấp dẫn cho công ty nào hy vọng tăng cường hợp tác trong các phòng ban của mình.

Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học vẽ ra bức tranh phức tạp hơn về tác động của chánh niệm đối với hành vi của chúng ta, với thêm bằng chứng mới cho thấy đôi khi nó có thể tăng thêm xu hướng ích kỷ của con người.

Theo một nghiên cứu mới, chánh niệm có thể đặc biệt có hại khi chúng ta đối xử không tốt với người khác. Bằng cách chế ngự cảm giác tội lỗi của chúng ta, dường như kỹ thuật thiền định phổ biến khiến chúng ta không còn muốn sửa chữa những lỗi lầm của mình.

"Trau dồi chánh niệm khiến mọi người xao nhãng những vi phạm của bản thân và nghĩa vụ trong đối nhân xử thế của họ, thi thoảng nới lỏng phạm trù đạo đức của chính mình", ông Andrew Hafenbrack, phó giáo sư quản lý và tổ chức tại Đại học Washington, Hoa Kỳ, người đứng đầu nghiên cứu mới này, cho biết.

Những tác động như vậy không nên khiến chúng ta chùn bước trước thiền định, Hafenbrack nhấn mạnh, nhưng ta có thể thay đổi thời gian, cách thức ta thiền định.

"Trong khi một số người xem nó như thuốc tiên, thì thiền chánh niệm là một cách thực hành cụ thể, đem đến các hiệu ứng tâm lý cụ thể", ông nói. Và chúng ta cần phải... quan tâm hơn chút nữa đến những tác động này.

Bình tĩnh và nhẫn tâm ?

Có nhiều hình thức chánh niệm, nhưng các kỹ thuật phổ biến là tập trung vào hơi thở hay chú ý mãnh liệt đến những cảm giác trong cơ thể.

Có một số bằng chứng lạc quan cho thấy những cách làm này có thể giúp mọi người đối phó tốt hơn với căng thẳng, nhưng một số nghiên cứu trong vài năm qua đã chỉ ra rằng chúng cũng có thể có những tác động ngoài ý muốn và không mong muốn.

Chẳng hạn hồi năm ngoái, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Bang New York đã chỉ ra rằng chánh niệm có thể làm tăng mạnh xu hướng ích kỷ ở con người. Nếu một người đã mang tính chủ nghĩa cá nhân, thì họ thậm chí còn trở nên ít có khả năng giúp đỡ người khác hơn nữa sau khi thiền định.

Nghiên cứu mới của Hafenbrack đã tìm hiểu xem liệu trạng thái tâm trí của chúng ta khi thiền định và bối cảnh xã hội của chúng ta có thể ảnh hưởng, tác động tới hành vi của chúng ta hay không.

Nói chung, chánh niệm dường như làm dịu cảm giác bức bối, ông nói, điều này cực kỳ hữu ích nếu bạn cảm thấy bị ngộp trước áp lực công việc.

Tuy nhiên thì nhiều cảm xúc tiêu cực có thể có tác dụng hữu ích, nhất là xét đến các quyết định mang tính đạo đức.

Ví dụ như cảm giác tội lỗi có thể thúc đẩy chúng ta xin lỗi khi chúng ta làm tổn thương người khác, hoặc có hành động sửa chữa có thể vô hiệu hóa một số thiệt hại mà chúng ta đã gây ra. Hafenbrack nghi rằng nếu thiền chánh niệm khiến chúng ta bỏ qua cảm xúc đó, thì nó có thể khiến cho chúng ta không sửa chữa sai lầm.

Để tìm hiểu, ông đề ra một loạt tám thí nghiệm với tổng số mẫu 1.400 người, sử dụng nhiều phương pháp khác nhau.

Một cách trong số đó là người tham gia được yêu cầu nhớ rồi viết về một tình huống mà họ cảm thấy có lỗi. Một nửa sau đó được yêu cầu thực hành một bài tập chánh niệm để hướng sự tập trung vào hơi thở của họ, trong khi những người khác được yêu cầu để tâm trí họ nghĩ vẩn vơ.

Sau đó, những người tham gia được yêu cầu trả lời bảng câu hỏi đo lường cảm giác tội lỗi của họ. Họ cũng phải tưởng tượng họ đã được cho 100 đô la. Nhiệm vụ của họ là ước lượng xem họ sẽ sẵn lòng quyên góp bao nhiêu cho người mà họ đã đối xử tệ để làm một món quà sinh nhật bất ngờ.

Đúng như Hafenbrack nghi vấn, những ai thực hành thiền chánh niệm cho biết họ ít hối hận hơn - và họ ít rộng lượng hơn nhiều đối với người mà họ đã xử tệ. Trung bình, họ chỉ sẵn lòng chi ra 33,39 đô la, trong khi những ai để tâm trí đi lan man lại sẵn lòng chi 40,70 đô la - chênh lệch gần 20%.

Trong một thí nghiệm khác, Hafenbrack chia người tham gia thành ba nhóm. Nhóm một thực hành thở chánh niệm, còn nhóm thứ hai được yêu cầu để tâm trí đi lan man và nhóm thứ ba lướt web.

Những người tham gia sau đó được yêu cầu viết thư xin lỗi một người mà họ đã xử tệ, rồi hai trọng tài độc lập sau đó đánh giá thư theo tiêu chí cá nhân đó có chịu trách nhiệm về hành động hay không, và liệu họ có đề nghị bù đắp cho lỗi lầm hay không. (Lá thư xin lỗi chân thành đạt chất lượng cao cần phải đạt cả hai yếu tố)

Phù hợp với giả thuyết của Hafenbrack, những ai thực hành chánh niệm đưa ra lời xin lỗi ít chân thành hơn so với những người thuộc một trong hai nhóm kia. Điều này một lần nữa cho thấy chánh niệm đã bóp nghẹt cảm giác tội lỗi, và kéo theo đó là sự sẵn lòng sửa đổi của người có lỗi.

Các thí nghiệm còn lại cho thấy điều này đúng trong nhiều tình huống khác nhau, bao gồm việc ra quyết định kinh doanh có thể ảnh hưởng đến công bằng xã hội.

Chẳng hạn, những người tham gia vào thí nghiệm tưởng tượng rằng họ là giám đốc điều hành một công ty hóa chất xử lý các vật liệu nguy hiểm. Sau đó, họ được yêu cầu cho biết về sự ủng hộ của họ đối với một chính sách môi trường mới vốn giúp giảm ô nhiễm không khí. Những ai vừa thực hành chánh niệm ít có khả năng ủng hộ các biện pháp sửa chữa.

Thuốc Phật

Điều quan trọng là cần nhận thức rõ rằng những nghiên cứu này tìm hiểu tác động của thực hành chánh niệm trong các bối cảnh rất cụ thể, khi cảm giác tội lỗi hiện rõ trong tâm trí người tham gia. "Chúng ta không nên quá khái quát hóa và kết luận chánh niệm khiến bạn trở nên tệ hơn", Hafenbrack nói.

Tuy nhiên, kết quả của ông có thể khuyến khích chúng ta nghĩ nhiều hơn một chút về chuyện khi nào chúng ta nên áp dụng thực hành chánh niệm.

Ví dụ, chúng ta nên nghĩ kỹ về việc áp dụng nó sau khi có khúc mắc với bạn bè hay đồng nghiệp, nhất là nếu bạn biết rằng mình đã sai. "Nếu chúng ta giảm cảm giác tội lỗi của mình 'một cách nhân tạo' bằng cách thiền định để quên nó đi, chúng ta có thể có kết cục là quan hệ tệ hơn, hay thậm chí là ít quan hệ hơn", ông nói.

Miguel Farias, phó giáo sư tâm lý học thực nghiệm tại Đại học Coventry, Anh, nói rằng ông hoan nghênh bất kỳ nghiên cứu nào phân tích chi tiết tác động của chánh niệm một cách cẩn thận và chính xác. "Tôi nhất định nghĩ rằng chúng ta cần bắt đầu nhìn vào các sắc thái".

Trong cuốn sách 'Thuốc Phật' mà ông là đồng tác giả với Catherine Wikholm, Farias mô tả vì sao can thiệp chánh niệm ở phương Tây thường được thể hiện như là 'cách khắc phục nhanh chóng', trong khi bỏ qua hầu hết chỉ dẫn đạo đức vốn nằm trong truyền thống tôn giáo ban đầu - vốn có thể quan trọng để đảm bảo rằng thực hành chánh niệm đem lại những thay đổi mong muốn cho hành vi con người.

Làm việc với Ute Kreplin tại Đại học Massey ở New Zealand, Farias gần đây đã tìm hiểu các nghiên cứu có sẵn về hậu quả của thiền định đối với sự quên mình và lòng trắc ẩn, nhưng thấy ít có bằng chứng cho thấy có những thay đổi tích cực có ý nghĩa ở các cá nhân.

"Hiệu ứng yếu hơn nhiều so với những gì mọi người nói". Giống như Hafenbrack, ông ngờ rằng thiền định chánh niệm vẫn có thể hữu ích - nhưng việc bạn thấy được những lợi ích mong muốn hay không có thể tùy thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm tính cách, động lực và niềm tin của thiền giả, ông nói. "Bối cảnh thực sự quan trọng".

Ít nhất, nghiên cứu của Hafenbrack cho thấy những người thực hành thiền định có lẽ nên chuyển sang áp dụng các kỹ thuật thiền khác bên cạnh việc thở chánh niệm và chú ý mãnh liệt đến những cảm giác trong cơ thể trong những lúc họ đang có bất đồng với người khác.

Ví dụ, ông đã kiểm tra một kỹ thuật được gọi là 'thiền lòng tốt', vốn lấy cảm hứng từ cách thực hành Phật giáo gọi là 'thiền từ bi' (Metta Bhavana). Cách làm này là suy gẫm về mọi người trong cuộc sống của bạn - từ bạn bè, gia đình cho đến người quen và người lạ - và vun xới những ước muốn và cảm giác ấm áp dành cho họ.

Trong nghiên cứu về cảm giác tội lỗi, Hafenbrack phát hiện rằng - không như thở chánh niệm - thiền từ bi làm tăng ý định khắc phục sai lầm. "Nó có thể giúp mọi người cảm thấy bớt tội lỗi hơn và tập trung vào khoảnh khắc hiện tại, mà không có nguy cơ làm giảm mong muốn mối sửa chữa quan hệ", ông nói.

Con người là sinh vật phức tạp với nhiều nhu cầu khác nhau ; Sử dụng nhiều kỹ thuật để định hình cảm xúc và hành vi của mình là đúng.

Đôi khi điều đó cần phải nhìn vào bên trong, để kéo suy nghĩ về lại cơ thể chúng ta, và những lần khác lại cần nhìn ra bên ngoài, và nhắc nhở bản thân về chúng ta có những kết nối thiết yếu của với người xung quanh.

Thực sự là không có cách nào khác để chịu trách nhiệm về hành vi của mình và đảm bảo các mối quan hệ của chúng ta tiếp tục thăng hoa.

David Robson

Nguồn : BBC Worklife, 25/06/2022

*****************************

Thiền định chánh niệm khiến con người trở nên vị kỷ ?

David Robson, BBC, 11/09/2021

Chánh niệm được cho là làm nhiều việc cho tâm lý của chúng ta : nó có thể làm tăng sự tự chủ, tăng cường sự tập trung, mở rộng khả năng hoạt động của trí nhớ và giúp đầu óc thêm linh hoạt.

thiendinh2

Nhờ thực hành chánh niệm, chúng ta ít phản ứng cảm xúc hơn - giúp chúng ta giải quyết các vấn đề của mình một cách bình tĩnh hơn.

Tuy nhiên, có một 'lợi ích' mà bạn có thể không mong đợi, đó là bản ngã được đẩy cao.

Ấy vậy mà một nghiên cứu gần đây cho thấy trong một số bối cảnh, thực hành chánh niệm thực sự có thể thổi bùng xu hướng ích kỷ ở một số người. Với sự tập trung hướng nội càng nhiều, họ dường như quên đi những người khác và ít sẵn lòng giúp đỡ những người khốn khó.

Tuy nhiên, không nên chỉ dựa vào mỗi kết luận này để lấy đó làm nguyên nhân khiến bạn ngừng thiền định, nếu bạn thấy thiền có ích ở những điểm khác.

Nhưng nó thêm vào khối lượng những nghiên cứu ngày càng tăng cho thấy tập chánh niệm có thể có tác dụng phụ không mong muốn cũng như những lợi ích tiềm tàng - và nhiều nhà tâm lý giờ đây tin rằng hậu quả tiêu cực có thể có của một số cách thiền định nên được nêu ra bên cạnh những lời ca ngợi.

Cái 'tôi' trong thiền định

Nghiên cứu của Michael Poulin, phó giáo sư tâm lý học tại Đại học Bang New York ở Buffalo, muốn tìm hiểu xem liệu tác động của chánh niệm có phụ thuộc vào bối cảnh văn hóa và các giá trị hiện hành của người thực hành chánh niệm hay không.

Ông đặc biệt quan tâm đến cách mọi người nghĩ về bản thân - sự 'tự chiêm nghiệm'.

Một số người có quan điểm độc lập hơn, tập trung vào các đặc điểm cá nhân. Nếu họ được yêu cầu mô tả bản thân, có thể họ sẽ nhấn mạnh đến trí thông minh hoặc khiếu hài hước của mình.

Nhưng những người có quan điểm phụ thuộc lẫn nhau có xu hướng nghĩ về bản thân trong mối quan hệ với người khác. Nếu họ được yêu cầu mô tả bản thân, họ có thể nói họ là 'người con gái' hoặc 'người cha' hoặc 'sinh viên năm nhất' - những điều nhấn mạnh vai trò xã hội hoặc vị trí là thành viên của họ trong một xã hội nào đó.

Trong nhóm dân số của bất kỳ nước nào cũng có sự pha trộn hai quan điểm trên, nhưng nhìn chung sự phụ thuộc lẫn nhau ở các nước châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ - nơi Phật giáo bắt nguồn - sẽ cao hơn, trong khi người dân Mỹ, Anh và châu Âu có xu hướng tư duy độc lập hơn.

Để xem liệu điều này có ảnh hưởng đến tác động của chánh niệm ở phương Tây hay không, Poulin đã mời 366 sinh viên đến phòng thí nghiệm và trước tiên ông đưa ra bảng câu hỏi đo lường sự độc lập hoặc phụ thuộc lẫn nhau của họ.

Một nửa trong số này sau đó được yêu cầu thực hành thiền định tập trung vào cảm giác thở. Nhóm đối chứng được cho thiền định 'giả tạo' bao gồm ngồi và để tâm trí miên man trong 15 phút. Bài tập này có thể mang tính thư giãn, nhưng nó không nhằm để giúp họ tăng chánh niệm.

Tiếp đó là kiểm tra về hành vi ủng hộ xã hội: các sinh viên được cho biết về một dự án mới để tài trợ một tổ chức từ thiện giúp đỡ người vô gia cư. Sau đó, họ có cơ hội bỏ tài liệu tiếp thị chương trình vào phong bì gửi đến các cựu sinh viên của trường - nhưng họ được nói rằng họ không phải làm như vậy nếu họ muốn về sớm.

Quả nhiên, Poulin thấy tác động của thiền định tùy thuộc vào thái độ lúc đó của mọi người.

Với những người theo hướng suy nghĩ lệ thuộc vào nhau, những ai thực hiện bài tập chánh niệm sẵn sàng dành nhiều thời gian hơn để làm công việc từ thiện. Nhìn chung, họ bỏ nhiều phong bì hơn khoảng 17% so với nhóm đối chứng.

Tuy nhiên, nếu họ có đầu óc độc lập thì ngược lại - chánh niệm khiến họ cho mình là trung tâm nhiều hơn, vì vậy họ không sẵn lòng giúp đỡ người vô gia cư bằng nhóm kia. Nhìn chung, họ bỏ tài liệu vào phong bì ít hơn khoảng 15% so với nhóm đối chứng.

Lòng vị tha

Để đảm bảo rằng phát hiện này thuyết phục, nhóm của Poulin đã tiến hành thí nghiệm thứ hai, trong đó những người tham gia trước hết được đưa cho một câu văn ngắn được viết bằng ngôi thứ nhất số ít (tôi), hoặc ngôi thứ nhất số nhiều (chúng tôi).

Khi đọc câu văn, họ phải nhấp vào tất cả các đại từ - nhiệm vụ đơn giản được biết là dẫn dụ tư duy độc lập hay lệ thuộc. Sau đó, họ hoàn thành bài tập ngồi thiền và để kiểm tra tính ủng hộ xã hội, họ được hỏi liệu có muốn dành thời gian để trò chuyện trực tuyến với các nhà tài trợ tiềm năng cho tổ chức giúp đỡ người vô gia cư hay không.

Một lần nữa, bài tập chánh niệm đẩy mạnh tác động của tự nhận thức, làm gia tăng lòng vị tha ở những người suy nghĩ lệ thuộc và giảm lòng vị tha ở những người có tư tưởng độc lập.

Do nhiều người Mỹ có kết quả tốt về tự chiêm nghiệm độc lập, có rất nhiều người thực hành chánh niệm có thể bị ảnh hưởng.

Phát hiện này đem đến chất liệu mới cho những ai chỉ trích phong trào chánh niệm.

Ronald Purser, giáo sư về quản lý tại Đại học Bang San Francisco, là người đi đầu trong số đó. Trong cuốn 'McMindfulness : How Mindfulness Became the New Capitalist Spirituality', xuất bản năm 2019, ông mô tả làm sao mà các cách thực hành cổ xưa tách rời với giáo lý nhà Phật nguyên thủy.

"Thực hành chánh niệm là nhằm để mang đến sự thấu hiểu rõ ràng rằng mặc dù tách bạch với nhau, tất cả các hiện tượng - bao gồm cả ý thức về bản ngã - theo đúng bản chất là tương đối và phụ thuộc lẫn nhau," ông nói với tôi.

Tuy nhiên, trong nhiều dạng thức mới của nó ở phương Tây, chánh niệm được quảng bá như công cụ giúp tăng năng suất và kết quả làm việc. "Chánh niệm đã trở thành một phương tự lực, tự thân," Purser nói - một công cụ nữa để vượt lên trên người khác. Ông không ngạc nhiên trước những phát hiện của Poulin - ông đã nghe về những hiệu ứng tương tự.

Thomas Joiner, giáo sư tâm lý học tại Đại học bang Florida và là tác giả cuốn 'Mindlessness: The Corruption of Mindfulness in a Culture of Narcissism', cũng nhấn mạnh như vậy.

Ông nói thực hành Phật giáo đã bị 'bóp méo' thành một 'cơ chế tập trung vào bản thân và tôn vinh bản thân'.

Giống như Purser, ông tin rằng nghiên cứu của Poulin giúp chỉ ra hậu quả của việc này. "Tôi nghĩ nó chứng minh cho quan điểm của tôi rằng khi đưa chánh niệm thực sự vào bối cảnh nhất định, kết quả là sai lầm lớn."

Con đường trung đạo

Công bằng khi nói rằng quan điểm của Purser và Joiner về chánh niệm rơi vào điểm cực đoan; nhìn chung, các nhà tâm lý học nghiên cứu chánh niệm vẫn lạc quan về tiềm năng của nó để cải thiện sự an lạc trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống.

Tuy nhiên, dường như ngày càng có nhiều lo ngại rằng một số lợi ích đã bị thổi phồng quá mức và những nhược điểm tiềm tàng chưa được tìm hiểu đúng mức. Một số nghiên cứu cho thấy chánh niệm có thể làm tăng lo âu và gây ra sự hoảng loạn ở một số người chẳng hạn - nguy cơ không thường được đề cập trong nhiều cuốn sách, ứng dụng và khóa học về chánh niệm.

Chúng ta cần minh bạch hơn nhiều về những tác dụng phụ không mong muốn này - bao gồm cả khả năng làm tăng hành vi ích kỷ. "Tôi hoàn toàn nghĩ rằng những người thúc đẩy hay thực hành chánh niệm nên nhận thức được vấn đề tiềm tàng này," Poulin nói.

Chúng ta cũng cần nghiên cứu nhiều hơn về phương pháp chánh niệm. Hơi thở chánh niệm, mà Poulin sử dụng trong thí nghiệm của ông, là bài tập chánh niệm phổ biến nhất, và nếu bạn chỉ quan tâm qua loa, đó có thể là phương pháp duy nhất bạn biết.

Nhưng có nhiều phương pháp khác mà mỗi cách có thể giúp phát triển một kỹ năng cụ thể.

Tania Singer, giám đốc Viện Khoa học Nhận thức và Não Bộ Max Planck ở Leipzig, Đức, đã đưa ra những bằng chứng mạnh mẽ nhất về tác động đa dạng của các phương pháp khác nhau với thử nghiệm chi tiết kéo dài 9 tháng.

Qua nhiều buổi, người tham gia hoàn thành các bài tập nhằm cải thiện 'sự hiện diện', chẳng hạn như hơi thở chánh niệm, cũng như các kỹ thuật như 'thiền định lòng thương', tức là cố ý suy nghĩ về cảm giác kết nối với người khác - bao gồm bạn thân thiết và người xa lạ.

Họ cũng làm bài tập theo cặp nhằm 'lắng nghe chánh niệm', theo đó mỗi cặp phải đặc biệt chú ý đến mô tả của cặp kia về các tình huống cảm xúc.

Trong lúc đó, Singer theo dõi các hiệu ứng với bảng câu hỏi chi tiết, bao gồm chỉ số về tình thương - vốn tăng đáng kể sau thiền định lòng thương và làm việc theo cặp.

Thú vị là những bài tập này dường như làm giảm nhiều nhất phản ứng căng thẳng. "Bạn học cách không chỉ lắng nghe một cách thấu cảm. Bạn học cách mở ra chỗ tổn thương của chính mình". Điều này cho phép người tham gia nhận ra 'nhân tính chung' của những cảm xúc tích cực và tiêu cực, bà nói - cách nghĩ giúp họ đối phó tốt hơn với các tình huống căng thẳng trong phần còn lại của cuộc đời.

Poulin đồng ý những phương pháp chánh niệm khác này có thể đi ngược lại những tác động mà ông thấy đối với những người theo chương trình toàn diện.

Ông quan ngại nhiều hơn đến các khóa thiền quá đơn giản vốn quảng bá chánh niệm như cách đơn giản để tăng cường trí não. "Với sự gia tăng của các ứng dụng và áp dụng chánh niệm trong các tập đoàn để tăng năng suất, đôi khi khía cạnh đạo đức của chánh niệm bị thiếu khuyết," ông nói.

Bất cứ khi nào chúng ta cố thay đổi chức năng tâm hồn mình, nó có khả năng tạo ra hậu quả sâu rộng cho hành vi chúng ta - và chúng ta nên thận trọng với bất kỳ sản phẩm hoặc dịch vụ nào cho là giúp 'khắc phục nhanh chóng'.

Nói cách khác, đã đến lúc phải chú ý hơn một chút về cách chúng ta áp dụng chánh niệm.

David Robson

Nguồn : BBC Worklife, 11/09/2021

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: David Robson
Read 474 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)