Bí mật về sự trỗi dậy huy hoàng rồi suy tàn đổ nát của đế chế Angkor
Marissa Carruthers, BBC, 26/12/2021
Hàng năm, vào tháng Tư nhân dịp mừng Năm Mới của dân tộc Khmer, Sophy Peng cùng bố mẹ và bốn anh chị em hành hương lên ngọn núi thiêng bậc nhất Campuchia, núi Phnom Kulen.
Là nơi khởi nguồn hình thành nên đế chế Angkor hùng mạnh, những sườn dốc thoai thoải của ngọn Kulen truyền thuyết chiếm vị trí đặc biệt trong trái tim của người dân địa phương.
Trong những dịp lễ hội tôn giáo, người dân Campuchia lũ lượt lên đỉnh núi để cầu phúc ở chính nguồn nước vốn được dùng trong lễ đăng quang của các vị vua kể từ năm 802 sau Công Nguyên.
Tập tục này có từ khi vua Jayavarman II tắm gội sạch sẽ bằng nước thiêng rồi xưng là "devaraja", tức là Thánh Vương, trở thành vị vua thành lập nên Đế chế Angkor.
Lãnh thổ của đế chế từng bao gồm phần lớn Campuchia, Lào, Thái Lan và một phần Việt Nam ngày nay, và có đô thị lớn nhất thế giới thời tiền công nghiệp - thành phố Angkor.
Để thần thánh hóa địa điểm linh thiêng nằm cách thành phố Siem Reap 50 cây số về phía bắc này, 1.000 linga - biểu tượng phồn thực của thần Shiva trong Ấn giáo - được chạm khắc vào đáy sông tại Kbal Spean nơi dòng nước chảy vào đồng bằng Angkor và Biển Hồ Tonle Sap.
Cho đến nay, nguồn nước này được xem là thiêng liêng, chữa lành được bệnh tật, đồng thời đem lại may mắn cho dân chúng.
"Đây là nơi rất đặc biệt trong lòng người dân Campuchia ; nó là một phần quan trọng trong lịch sử của chúng tôi," Peng nói. "Năm nào gia đình tôi cũng lên núi Kulen theo phong tục đón Năm Mới của người Khmer. Chúng tôi mang theo thức ăn làm đồ tế lễ đặt tại đền thờ, và lấy nước sông từ nguồn Kbal Spean rưới lên người để xin phước lành".
Đáy sông tại Kbal Soean nằm sâu trong rừng rậm phía đông bắc đền Angkor được chạm khắc linga
Lễ ban phước cho vua Jayavarman II đánh dấu sự khởi đầu mối quan hệ khăng khít giữa Đế chế Angkor và nước.
Tuy nhiên, mãi đến khi kinh đô được chuyển về Rolous ở phía nam và cuối cùng dời đến Angkor - địa điểm sẽ trở thành kinh đô trong suốt hơn 5 thế kỷ - thì những nghệ nhân bậc thầy mới có thể sử dụng kỹ năng để thiết kế ra hệ thống thủy lợi đẳng cấp, thúc đẩy sự phát triển hùng mạnh rồi suy tàn của đế chế.
"Vùng đồng bằng Angkor là nơi lý tưởng để một đế chế phát triển thịnh vượng," Dan Penny, nhà nghiên cứu khoa học địa chất tại Đại học Sydney, người chuyên sâu nghiên cứu về Angkor, nói.
"Vùng đất này có khá nhiều tài nguyên thiên nhiên, như đất đai phì nhiêu để trồng lúa gần Tonle Sap. Tonle Sap cũng là một trong những hồ nước ngọt có lượng thủy sản nhiều nhất thế giới và Angkor nằm ngay bờ bắc của vựa cá khổng lồ này. Nhờ vào những tài nguyên đó mà Angkor đã phát triển rực rỡ".
Vào thập niên 1950-1960, nhà khảo cổ học người Pháp Bernard Philippe Groslier đã dùng phương pháp khảo sát từ trên không để tái hiện lại cấu trúc của những thành phố cổ thuộc Angkor. Phương pháp này cho thấy Angkor có một mạng lưới thủy lợi rộng khắp, phức tạp, khiến Groslier đặt tên cho nơi này là "Thành phố Thủy lợi".
Kể từ đó, các nhà khảo cổ học đã thực hiện nhiều nghiên cứu mở rộng trên mạng lưới thủy lợi và vai trò sống còn của nó đối với Angkor. Vào năm 2012, quy mô vô cùng đồ sộ của hệ thống thủy lợi phủ khắp 1.000 cây số vuông đã được phát hiện thông qua công nghệ quét laser LiDAR do nhà khảo cổ học Damian Evans, tiến sĩ nghiên cứu tại Viện Viễn Đông Bác Cổ của Pháp, dẫn đầu.
"Mảnh ghép còn thiếu của bức tranh đã hiện ra rõ nét," tiến sĩ Evans nói. "Chúng tôi đang thực hiện một nghiên cứu nhằm xây dựng bản đồ chi tiết chính thức của Angkor, bao gồm cả hệ thống thủy lợi. Nước chính là một trong những bí mật đằng sau sự trỗi dậy hùng cường của đế chế Angkor".
Đế chế Angkor trải dài khắp phần lớn Campuchia, Lào, Thái Lan và một phần Việt Nam ngày nay
Để tạo ra được một thành phố có quy mô như vậy, việc đào những con kênh dẫn nước từ Phnom Kulen đến vùng đồng bằng Angkor đóng vai trò then chốt. Chúng được sử dụng để vận chuyển khoảng 10 triệu viên gạch sa thạch có cân nặng lên tới 1.500kg mỗi viên để xây dựng nên Angkor.
Ngoài việc đảm bảo cung cấp nước quanh năm trong điều kiện khí hậu gió mùa cho người dân, cho hoạt động nông nghiệp và chăn nuôi, hệ thống thủy lợi cấp nước cho phần nền móng để giữ cho các ngôi đền đứng vững trong nhiều thế kỷ.
Chỉ riêng đất cát thì không đủ sức chịu đựng sức nặng của những viên đá. Các nghệ nhân xây dựng phát hiện ra rằng cát trộn với nước tạo ra nền móng vững chắc, vì vậy các hào nước bao quanh mỗi ngôi đền được thiết kế để cung cấp nguồn nước ngầm liên tục. Điều này đã tạo ra nền móng đủ vững chắc để giữ cho các ngôi đền đứng vững và ngăn chúng sụp đổ trong suốt nhiều thế kỷ sau đó.
Trong suốt lịch sử tồn tại của đế chế, các đời vua kế tiếp đã mở rộng, khôi phục và cải thiện mạng lưới thủy lợi phức tạp của Angkor.
Công trình này bao gồm một mạng lưới đấy ấn tượng gồm các kênh rạch, đê, hào, baray (hồ chứa) - Hồ chứa West Baray là cấu trúc nhân tạo có từ sớm nhất và lớn nhất có thể nhìn thấy từ vũ trụ, dài 7,8 km, rộng 2,1 km - và các kỹ sư bậc thầy rất biết cách kiểm soát dòng chảy của nước.
"Hệ thống thủy lợi của Angkor rất độc đáo vì quy mô vĩ đại của nó," Penny nói. "Có rất nhiều ví dụ về các thành phố lịch sử với hệ thống quản lý thủy lợi phức tạp, song chưa tìm được nơi đâu có kỹ thuật giống như nơi này. Ví dụ như quy mô của các hồ chứa. Lượng nước mà West Baray chứa đựng là đáng kinh ngạc. Nhiều thành phố ở Châu Âu có thể thoải mái nằm lọt thỏm trong lòng hồ. Hồ chứa rộng lớn một cách đáng khâm phục ; phải gọi đó là một vùng biển mới đúng !"
Tuy nhiên, điều đáng buồn là nước góp phần vào sự hùng mạnh của Đế chế Angkor, nhưng nước cũng lại là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nó.
"Rõ ràng là mạng lưới quản lý nước thực sự quan trọng trong sự phát triển của thành phố và dẫn đến sự giàu có, quyền lực," Penny nói. "Nhưng khi hệ thống thủy lợi này ngày càng phức tạp và rộng lớn hơn, nó đã trở thành gót chân Achilles của thành phố".
Hệ thống thủy lợi phức tạp mà các kỹ sư bậc thầy làm ra đã tạo nên sự lớn mạnh và rồi lại gây ra sự sụp đổ của Đế chế Angkor
Nghiên cứu cho thấy vào cuối thế kỷ 14 và đầu thế kỷ 15, tình trạng biến đổi khí hậu đã diễn ra mạnh mẽ. Những trận mưa kéo dài ập xuống, rồi tiếp theo sau là những đợt hạn hán dữ dội. Liên tiếp như vậy, tình trạng này đã gây thiệt hại cho mạng lưới quản lý thủy lợi, góp phần vào sự sụp đổ của đế chế hùng cường.
"Cả thành phố bị ảnh hưởng bởi những biến đổi thời tiết khắc nghiệt," Penny cho biết. "Quy mô của mạng lưới thủy lợi và sự phụ thuộc lẫn nhau của các vùng nước đồng nghĩa với việc hạn hán sẽ gây ra những xáo trộn to lớn, và con người phải thay đổi hệ thống để đối phó với hạn hán, rồi những năm sau đó lại mưa nhiều, khiến cho hệ thống bị hủy hoại từng phần. Toàn bộ mạng lưới bị đứt đoạn và trở nên vô dụng".
Nghiên cứu sâu hơn cho thấy những thay đổi thời tiết này, kết hợp với sự cố hệ thống thủy lợi và các cuộc tấn công ngày càng nhiều từ nước Xiêm La láng giềng đã khiến kinh thành phải dịch chuyển về phía nam, đến Oudong.
"Sử sách nói rằng sự kết thúc của Angkor là do người Xiêm đã tràn vào vào năm 1431," Tiến sĩ Damian nói. "Tôi không nghĩ vậy. Bằng chứng mà chúng tôi có được cho thấy sự suy tàn xảy ra từ trước đó rất lâu. Những trận hạn hán nghiêm trọng khiến cho hệ thống quản lý nước bị hủy hoại, các cuộc tấn công liên tục từ người Xiêm và việc mở rộng các tuyến hàng hải đều góp phần dẫn đến sự sụp đổ của đế chế".
Bất kể lý do là gì thì Angkor một thời cũng đã bị bỏ hoang rồi bị thiên nhiên lấn chiếm. Các di tích cổ tuy được người dân địa phương biết đến nhưng đã bị rừng rậm phủ lấp hoàn toàn cho đến năm 1860, khi nhà thám hiểm người Pháp Henri Mouhot "tái phát hiện" ra nơi này. Điều này đã mở đường cho một loạt các dự án trùng tu khổng lồ vẫn đang tiếp tục được thực hiện cho đến ngày nay.
Trong hai thập kỷ qua, rất đông khách du lịch đổ về Công viên Khảo cổ Angkor Wat để đứng dưới bóng của các ngôi đền Angkor Wat, Ta Prohm và Bayon.
Vào năm 2019, khoảng 2,2 triệu người đã tới thăm nơi này. Lượng khách sạn, quán ăn và dòng khách tham quan tăng đột biến gây áp lực lớn lên nhu cầu nước, gây ra tình trạng thiếu nước trầm trọng.
Vì các ngôi đền dựa vào nguồn cung cấp nước ngầm liên tục để duy trì trạng thái đứng vững, điều này làm dấy lên lo ngại về việc bảo tồn khu di tích thuộc danh sách bảo tồn của Unesco.
Bị bỏ hoang từ thế kỷ 15, Angkor được "tái phát hiện" vào thập niên 1860
Sự gia tăng nhu cầu nước cùng với lũ lụt nghiêm trọng từ năm 2009 đến năm 2011 đã châm ngòi cho việc phục chế diện rộng hệ thống thủy lợi cổ xưa.
Socheata Heng, chủ một nhà trọ ở ngoại ô Siem Reap, nhớ lại trận lũ lụt năm 2011 - trận lũ tồi tệ nhất trong 50 năm. "Nó đã gây ra rất nhiều thiệt hại," bà nói. "Cây trồng hỏng hết, dân cư phải sơ tán và nước tràn cả vào nhà trọ của tôi. Lũ lụt tàn phá nặng nề".
Chủ trì bởi Cơ quan Quốc gia APSARA, cơ quan được giao nhiệm vụ bảo vệ Công viên Khảo cổ học Angkor, dự án trùng tu đã cải tạo được nhiều công trình thủy lợi và hệ thống kênh kết nối, bao gồm đường hào dài 12 km của Angkor Thom, West Baray và Srah Srang - hồ chứa hoàng gia có từ thế kỷ 10.
Những nỗ lực này đã giúp chống lại tình trạng thiếu nước gây ra bởi sự gia tăng mạnh mẽ của dòng khách du lịch, và cũng ngăn chặn được những trận lũ lụt nghiêm trọng như những đợt đã xảy ra trên toàn tỉnh trong thời gian từ 2009 đến 2011.
Điều này có nghĩa là ngày nay, hệ thống rộng lớn có từ nhiều thế kỷ trước vẫn tiếp tục thỏa mãn cơn khát của Siem Reap bằng cách cung cấp nguồn nước liên tục, ngăn chặn lũ lụt tàn phá và cung cấp nền móng giúp các ngôi đền thiêng của Angkor luôn ổn định trong tương lai.
"Việc cải tạo các hồ chứa và hệ thống nước để phục vụ công tác tưới tiêu, vì vậy chúng đã trở thành một phần của cảnh quan nông nghiệp ngày nay, đồng thời giúp giữ vững móng cho các ngôi đền," Tiến sĩ Evans cho biết. "Thật không thể tin được hệ thống quản lý nước cổ xưa này vẫn tiếp tục phục vụ Siem Reap".
Marissa Carruthers
Nguồn : BBC Travel, 26/12/2021
************************
Sức quyến rũ kỳ lạ của những thành phố đã mất trong huyền thoại Angkor
Jen Rose Smith, BBC, 04/05/2021
Mặt trời chiều muộn phủ bóng dài trên hàng trăm mặt đá được khắc vào Đền Bayon khi tôi cố gắng đi sâu hơn vào thánh tích thế kỷ 12 ở ngay giữa khu đền Angkor trải rộng của Campuchia.
'Nụ cười Bayon', có từ thế ký 12, vẫn tỏa sáng từ ngay giữa khu đền Angkor của Campuchia
Những hình ảnh đê mê nổi lên từ những chiếc tháp và các bức tường, mỗi hình tượng có đôi môi đầy đặn uốn cong thành nụ cười nhức nhối.
'Thành phố trong mơ'
Đó là ngày đầu tiên của tôi ở Angkor, và lúc đó tôi hầu như không biết gì về lịch sử của thành phố.
Nhưng bước lang thang từ đền này sau đền khác, tôi dễ dàng rơi vào cơn mơ màng giàu tưởng tượng.
Trong đầu tôi hình dung ra đông đảo tín đồ mang theo những lễ vật tươi sáng. Tiếng đục vang lên khi các nghệ nhân sáng tạo những kiệt tác tuyệt mỹ xung quanh tôi, trong khi các vị vua oai phong diễu hành qua những con đường rộng lớn trải dài với những bức tượng.
"Vì lý do tại sao một nơi nào đó không còn tồn tại, nó có thể được biến thành thành phố lý tưởng, thành phố trong mơ," Aude de Tocqueville viết trong cuốn sách của bà hồi năm 2014 'Atlas các thành phố đã mất : Hướng dẫn du lịch đến các địa điểm bị bỏ hoang'. "Do đó, thành phố đã mất là thơ ca, thế giới mơ ước và là bối cảnh cho đam mê và bước đi lang thang của chúng tôi".
Thật vậy, những nơi mất tích và bị bỏ hoang có sức hút mạnh mẽ đối với trí tưởng tượng. Chúng là chất gây nghiện cho những người đam mê xê dịch, khơi gợi một cảm giác phiêu lưu vốn nuôi dưỡng các cuộc thám hiểm vĩ đại và những câu chuyện to lớn.
Chúng ta thấy cuộc sống của mình phản ánh trên đá, hãy tưởng tượng những bộ phim ngôn tình mà chúng ta đã xem trong bối cảnh lãng mạn, đổ nát. Và nếu thảm họa treo lơ lửng trên nhiều thành phố mất tích, thậm chí thời gian trôi qua làm nó dịu đi.
"Trong có lẽ hàng ngàn năm, mọi người đã kể những câu chuyện phiêu lưu về những miền đất kịch tính ngoài biên giới chúng ta - những câu chuyện về nền văn minh cổ đại," Annalee Newitz, tác giả của 'Bốn thành phố đã mất : Lịch sử bí mật của Kỷ nguyên Đô thị', nói.
Cuốn sách nhảy qua các lục địa và các thiên niên kỷ, trình bày về bốn địa điểm cổ xưa như những bài học đối tượng trong cuộc sống đô thị : Angkor của Campuchia ; thành phố Cahokia người Mỹ bản địa ; thành phố Pompei của La Mã ; và Çatalhöyük thời Đồ Đá Mới ở Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.
Biện minh cho chủ nghĩa thực dân
Trong khi các mạch truyện về thành phố đã mất làm nên những câu chuyện du lịch cuốn hút, Newitz lập luận rằng chúng thường che khuất những câu chuyện thật sự đằng sau những nơi tráng lệ nhất của nhân loại.
Những cách diễn giải thời hiện đại thường che khuất đi những câu chuyện thực sự đằng sau các địa điểm huy hoàng nhất mà con người từng xây dựng được từ thời xa xưa
Điều đó đã xảy ra ở Angkor, nơi tôi dành những buổi chiều đầy nắng ở giữa đống đổ nát.
Newitz giải thích rằng thành phố này thực sự có người sinh sống khi nhà thám hiểm người Pháp Henri Mouhot đặt chân đến vào năm 1860 - thực sự nó chưa bao giờ bị bỏ hoang phế hoàn toàn - nhưng du khách không thể tưởng tượng được tổ tiên của người Campuchia có khả năng tạo dựng công trình hùng vĩ như vậy.
"Ngay từ cái nhìn đầu tiên, người ta tràn đầy sự ngưỡng mộ sâu sắc, và không thể không hỏi điều gì đã tạo nên dân tộc hùng mạnh này, rất văn minh, rất khai sáng, tác giả của những công trình vĩ đại này ?" Mouhot viết về khu thành quách trải rộng trong rừng này.
Ông suy đoán Angkor được người Hy Lạp hoặc Ai Cập cổ đại xây dựng. Tại Pháp, Newitz giải thích, chuyến thăm của ông được ca ngợi là 'khám phá'.
"Những câu chuyện thành phố mất tích đã trở nên hết sức phổ biến trong thời hiện đại - bắt đầu từ thế kỷ 19 hoặc thế kỷ 18 - bởi vì chúng thật sự là cách tốt để che giấu chủ nghĩa thực dân". Newitz nói. "Nó cho phép biện minh cho tất cả các cuộc xâm nhập thuộc địa. Họ sẽ nói rằng 'đây không phải là nền văn minh tự thân nó phát huy được. Và bằng chứng chúng ta thấy từ đây là dân tộc này đã xa lìa một quá khứ vĩ đại, bí ẩn nào đó mà nay đã biến mất".
Sau khi núi lửa Mount Vesuvius phun trào, người dân Pompei đã tái thiết nơi ở mới tại địa điểm gần thành phố đã bị thiêu hủy
Tìm kiếm các thành phố và nền văn minh mất tích là nỗi ám ảnh đối với một số nhà thám hiểm và thực dân Châu Âu.
Sự mê đắm của họ được thúc đẩy một phần bởi cuộc tìm kiếm thành phố đã mất nổi tiếng nhất trong lịch sử : quốc đảo Atlantis, lần đầu tiên xuất hiện trong ghi chép của Plato.
Atlantis hư cấu của ông đã có thời thịnh vượng trước khi sự suy đồi đạo đức khiến nó bị Thượng Đế trừng phạt.
Những người cùng thời của ông sẽ công nhận câu chuyện là một câu chuyện ngụ ngôn, nhà sử học cổ đại Greg Woolf, tác giả cuốn 'Cuộc sống và Cái chết của Các thành phố Cổ xưa : Lịch sử Tự nhiên', nói.
"Kề về một huyền thoại để minh họa sự thật to tát hơn là điều đã được hiểu rộng rãi," Woolf nói. "Tôi không nghĩ có ai đó nghiêm túc tin rằng Atlantis có thật, nhưng đó là một huyền thoại tiện nghi". Tuy nhiên, khi những trang viết của Plato về Atlantis được phát hành trong các bản dịch hiện đại, nó đã đến được với những độc giả cả tin hơn.
Phủ nhận sự thật
"Mọi người đã đọc điều này cùng lúc với việc thành lập các thuộc địa ở Tân Thế giới," nhà cổ điển học Edith Hall giải thích trong một cuộc phỏng vấn gần đây với chương trình History Extra Podcast của BBC.
Hiểu lầm tác phẩm của Plato, nhiều người đọc câu chuyện ngụ ngôn này theo nghĩa đen, Hall nói. "Nó đánh động tâm trí của họ. Mọi người đều nói Atlantis phải là ở Mỹ".
Khi những người định cư Châu u đó gặp các nền văn minh bản địa, Newitz viết, họ cố gắng để kết nối nó với một quá khứ bí ẩn, và thường bỏ qua những người dân rất thật vào thời đó.
Vào năm 1050 sau Công nguyên, người Mỹ bản địa đã xây dựng đô thị Cahokia, có diện tích lớn hơn Paris
Đó là những gì đã xảy ra ở Cahokia, một đô thị cổ nằm gần thành phố St Louis ngày nay của Mỹ.
Những gò đất cao ngất ở đó có thể sánh ngang với các kim tự tháp Ai Cập về chiều cao, và vào thời kỳ đỉnh cao của nó vào năm 1050 sau Công nguyên, thành phố Cahokia còn lớn hơn Paris. Những người mới đến từ Châu u sẽ cảm thấy khó chấp nhận điều này.
"Du khách và nhà thám hiểm sẽ tự kể cho mình tất cả những câu chuyện điên rồ, giống như phải là những người Ai Cập cổ đại đã đến đây để xây dựng những thứ này," Newitz cho biết.
Đó là huyền thoại để biện minh cho việc đánh cắp các vùng đất bản địa vốn được mô tả rộng rãi là 'không có một bóng người', họ giải thích.
Trong khi đó, cũng giống như ở Angkor, hậu duệ của những người đã xây nên Cahokia đã bị phủ nhận rằng họ không có khả năng xây những công trình như vậy.
Khởi đầu mới
Những câu chuyện về các thành phố đã mất cũng có thể che đậy những sự thật khác, Newitz viết, chẳng hạn như cách người cổ đại hồi sinh trở lại khi họ bỏ lại một nơi ở phía sau.
Thảm họa và sự sụp đổ thường được cho là sự chấm hết, nhưng ở Pompeii và Çatalhöyük, Newitz tìm thấy tia sáng của khởi đầu mới giữa những biến động xã hội.
Hơi nóng khủng khiếp từ núi lửa phụt ra đã biến Pompeii thành một khu nghĩa địa hồi năm 79 sau Công nguyên
Sau khi khí núi lửa quá nóng biến Pompeii thành nghĩa địa vào năm 79 sau Công nguyên, người Pompei đau thương ngay lập tức bắt đầu xây dựng lại cuộc sống mới ở Naples và Cumae gần đó.
Dẫn lại tác phẩm của nhà cổ điển học Steven Tuck, Newitz kể rằng nhiều người tị nạn mà các nhà sử học biết đến có tên gọi vốn đánh dấu họ là liberti, tức nô lệ được giải phóng.
Mặc các quy ước đặt tên La Mã thường bảo thủ, giữ một tên từ thế hệ này qua thế hệ khác, Tuck đã quan sát thấy một xu hướng thú vị trong các gia đình tị nạn Pompei. Bỏ đi tên cũ của họ, một số người đã chọn gọi tên con cái của họ theo những địa điểm mới mà họ đã đến, chẳng hạn như thị trấn cảng tấp nập Puteoli. Ở đó, một số gia đình mới đến đặt tên cho con trai của họ là Puteolanus.
Nó giống như chuyển đến London từ một trại tị nạn và gọi con bạn là 'Londoner' vậy, Tuck giải thích với tôi qua email. "Việc chuyển đi đã cho họ cơ hội này và họ đã nắm bắt".
Và trong chính các thành phố đang suy tàn này, Newitz cho thấy những con người có quyền tự chủ sống động, không phải là người xưa bị trói buộc vào sự tùy tiện của lịch sử.
Đó là điều họ nhìn thấy trong tàn tích của Çatalhöyük, khu định cư thời đồ đá mới vốn cực thịnh vào 9.000 năm trước trên đồng bằng Konya ở miền trung Thổ Nhĩ Kỳ.
Çatalhöyük là khu định cư Thời Đồ Đá Mới, rất thịnh vượng hồi 9.000 năm trước
Những ngôi nhà ở đó nằm sát rạt với nhau như các ô trong tổ ong, họ viết trong sách, với những lối đi hướng lên mái nhà và lối vào qua trần nhà.
Vào những buổi tối ấm áp, cư dân tụ tập trên mái nhà, cùng nhau nấu nướng và làm đồ thủ công. Nhưng bất chấp mọi chất men sáng tạo của cuộc sống thành phố, đó là sự đánh đổi. Theo thời gian, ở lại Çatalhöyük trở nên khó khăn hơn : khí hậu trở nên bất lợi hơn và căng thẳng xã hội tăng lên.
Ký ức vẫn còn
Trong khi nhiều câu chuyện về thành phố mất tích nghe mơ hồ và huyền ảo, Newitz khắc họa việc từ bỏ những nơi như Çatalhöyük là kết quả của một quá trình có lý do chính đáng.
Theo thời gian, dân Çatalhöyük chỉ đơn giản là chọn quay trở lại những nơi thôn dã hơn, một quá trình quen thuộc với bất kỳ cư dân thành thị nào ngày nay, vốn kéo xuống một cách thèm thuồng danh sách rao bán nhà cửa gợi lên cuộc sống thôn dã.
"Chúng tôi sẽ đi tìm một nơi tốt hơn và thử lại, thử thí nghiệm mới, thử xây dựng khác đi, thử sống khác đi," Newitz nói, gợi lại những cuộc nói chuyện có thể đã diễn ra xung quanh lò sưởi thời đồ đá mới. Các nhà rời đi từng nhà một, đến khi cuối cùng Çatalhöyük không còn ai.
Nhưng khi cư dân rời đi, mỗi người lấy đi những gì quan trọng nhất đối với họ. Nghệ thuật, ý tưởng và văn hóa vật chất tỏa ra khắp vùng đồng bằng Konya khi các gia đình xây dựng cuộc sống mới cách xa những khu dân cư đông đúc.
Mặc dù Cahokia và nhiều thành phố khác có thể bị bỏ hoang, nhưng theo nghĩa quan trọng, đối với chúng ta, chúng hoàn toàn không bị mất đi.
"Chúng ta vẫn còn tất cả những ký ức văn hóa về nhưng nơi chúng ta đã sống," Newitz nói. "Đó là sự tiếp nối liên tục, xuyên suốt".
Jen Rose Smith
Nguồn : BBC Travel, 04/05/2021