Nguyễn Tất Nhiên và vấn đề tự tử
Hoàng Dung, hocxa.com,
Tôi không được quen Nguyễn Tất Nhiên, chỉ gặp anh có một lần vào năm 1972, khi tôi rời Pleiku về tu nghiệp tại Tổng Y Viện Cộng Hòa và anh vào đó khám bệnh, nhưng rồi ngay sau đó tôi phải lên Biên Hòa công tác.
Thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên (1952 - 1992)
Tuy nhiên, trước khi đi, tôi cũng kịp chộp cuốn thơ Thiên Tai mà anh tặng chung cho các bác sĩ trong trại bệnh. Đối với một độc giả chỉ biết anh qua thơ như tôi, cuốn Thiên Tai đã thể hiện phần nào cuộc đời Nguyễn Tất Nhiên, một cuộc đời lao đao vì tình và bị ám ảnh bởi cái chết. Bởi thiên tai của anh chẳng phải động đất, hỏa hoạn hay bão lụt mà chỉ là những cô gái anh quen và được anh gọi là những thiên tai lớn êm đềm.
Ngay ở bìa sau cuốn thơ, Nguyễn Tất Nhiên cũng công nhận là có ý tưởng tự sát từ năm mười tám tuổi.
Tôi không được đọc hai cuốn thơ đầu của anh, Nàng thơ trong mắt và Dấu mưa qua đất, nhưng tôi nghĩ cuốn thơ nào của anh chắc cũng đầy mơ mộng, đầy tình yêu, nhưng cũng đầy cay đắng, hận thù và chết chóc.
Chết là một vấn đề quan trọng của con người và tùy theo mỗi người quan niệm, chết có thể là khởi đầu hay chấm dứt. Hầu như nhà văn hay thi sĩ nào cũng có lúc viết về cái chết, trong đó có một số viết về tự tử hay có người đã tự tử thực sự.
Trong những tác giả viết về tự tử, có nhân vật Kiều của Nguyễn Du, Werther của Goethe, Kirilov của Dostoievski… một số tác giả như Chateaubriand có ý định tự tử, Guy de Maupassant tự tử nhưng không chết. Một số đã tự tử thực sự, như Nhất Linh, Tam Ích, Van Gogh và nhất là người thi sĩ yêu thích của Bùi Giáng, Gérard de Nerval. Vấn đề tự tử tùy thuộc nhiều vào mỗi cá nhân nhưng cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi yếu tố văn hoá, xã hội…
Cộng sản bài bác tự tử vì vô lý mà trong thiên đường của họ có người chán sống.
Thiên Chúa Giáo phản đối tự tử vì cho rằng Thượng Đế đã ban cho con người sự sống nên chỉ có Thượng Đế mới quyết định được sự chết.
Điều này trái với quan niệm của Albert Camus. Trong cuốn Huyền thoại Sisyphe, ông cho rằng tự tử là một vấn đề hoàn toàn có tính cách cá nhân để cho mỗi con người hoàn toàn quyết định.
Cách nay hơn một trăm năm, nhà xã hội học Durkheim đã nghiên cứu vấn đề tự tử. Trong cuốn Le Suicide, ông phân biệt ba loại tự tử căn cứ trên mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Loại tự tử đầu tiên của Durkheim là tự tử vị tha, altruistic, xảy ra với những người mà mối quan hệ của họ với xã hội, với cộng đồng quá bền chặt. Những cái chết của Đặng Dung, Hoàng Diệu, Nhất Linh, Nguyễn Khoa Nam… là những cái chết vị tha. Cuộc đời của họ đã như gắn liền với quốc gia, dân tộc và đồng đội. Họ tìm cái chết để giữ gìn khí tiết không những cho bản thân mình mà còn cho tập thể.
Loại tự tử thứ hai, anomic, xảy ra khi con người phải đối phó với những thay đổi bất ngờ của xã hội và tương quan giữa con người với ngoại giới bị mất thăng bằng. Trong văn học thế giới, Maiakovski tự tử vì thất vọng với chủ nghĩa cộng sản, Stephen Zweig tự tử vì sự sụp đổ của nền văn minh Âu châu. Mishima, tác giả Kim Các Tự tự tử vì sự suy sụp của tinh thần võ sĩ đạo của Nhật.
Loại tự tử thứ ba, vị kỷ hay egoistic, xảy ra đối với những người gặp khó khăn trong mối giao tiếp với xã hội xung quanh.
Nếu căn cứ trên thi văn, thì cái chết của Nguyễn Tất Nhiên, theo Durkheim, là một cái chết vị kỷ. Cũng như Khuất Nguyên, tác giả tập thơ Ly Tao đời xưa đã gieo mình xuống sông Mịch La vì thấy "Đời đục cả một mình ta trong. Đời say cả một mình ta tỉnh", Nguyễn Tất Nhiên có lẽ không bao giờ thích ứng được với xã hội xung quanh. Anh đã luôn sống cô đơn như một linh mục "không mặc áo nhà dòng – nên suốt đời hiu quạnh – nên suốt đời lang thang". Anh không chỉ gặp khó khăn với những người tình mà còn đối với cuộc đời :
mỗi cuộc sống phải mua bằng nhục nhã
mỗi mặt trời, phải trả giá một hoàng hôn.
Từ đó anh đã phải thu mình vào chính bản thân :
khi mòn mỏi, nghe đời mình trắc trở
hơn lúc nào tôi quá đỗi thương tôi.
Khuynh hướng thu những cảm xúc cay đắng vào chính bản thân này có lẽ là một yếu tố khiến Nguyễn Tất Nhiên lúc nào cũng nghĩ đến thế nào rồi tôi cũng giết tôi, vì theo phân tâm học, tự tử là hướng cái bản năng hủy phá vào chính bản thân mình.
Bìa trước và sau tập thơ Thiên tai của Nguyễn Tất Nhiên
Nhắc đến Nguyễn Tất Nhiên, tôi liên tưởng đến Hemingway. Tuy Hemingway không gặp khó khăn nhiều với cuộc sống như Nguyễn Tất Nhiên nhưng ông cũng tự tử vì bất mãn với chính bản thân. Hai con người là hai cuộc sống, hai cách sáng tác khác biệt. Nhưng cả hai đều phải trải những giai đoạn trầm cảm (depression) và cả hai đều đã viết nhiều về cái chết.
Trong những tác phẩm của Hemingway, gần như luôn có các nhân vật nằm chờ chết. Catherine Barkley trong A farewell to Arms chờ chết trong một bệnh viện ở Lausanne, còn Harry nằm hấp hối dưới chân núi Kilimanjaro và Robert Jordan của For Whom The Bell Tolls chờ chết tại một vùng rừng núi hiểm trở Tây Ban Nha. Trong khi đó, ở trong thơ Nguyễn Tất Nhiên, cái chết cũng thường xuyên là một dự tính :
Tôi còn đứng bên bờ sông giá lạnh.
Cho một mưu toan tự tử âm thầm
hoặc :
Thế nào rồi tôi cũng giết tôi
Xin hận thù em suốt cuộc đời.
Một điều nữa là cả Hemingway lẫn Nguyễn Tất Nhiên đều coi mưa như một biểu tượng. Những cơn mưa tầm tã ngày đêm ướt đẫm cái không khí buồn thảm của A Farewell To Arms. Nhân vật Catherine trong truyện đã nói "Tôi sợ trời mưa, vì thỉnh thoảng tôi thấy mình chết trong mưa". Nhưng rồi cuối cùng cô cũng chết và đoạn kết của cuốn truyện là Henry lủi thủi bước về một mình trong mưa. Mưa cũng đã ướt đẫm những cuộc tình của Nguyễn Tất Nhiên, kể từ buổi hẹn hò :
người tóc xõa ngang vai
bước qua chiều mưa nhỏ.
rồi cuộc tình trở thành trắc trở
đưa em về dưới mưa
xe lăn đều trên dốc
chở tình nhau mệt nhọc.
và sau đó chỉ là tiếc nhớ :
giọt mưa xanh mấy tuổi nàng
tôi nghe lá rụng như vàng áo xưa.
Có lẽ hơn nửa những bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên đã viết về mưa. Mưa trên ngọn trúc đào, mưa vỡ trên tượng Chúa, mưa ướt ngọn lông măng, mưa về phai tóc nhuộm…
Nếu mưa là một trong những hình tượng thể hiện cho những mối tình buồn của Nguyễn Tất Nhiên, một đặc tính khác của trạng thái trầm cảm trong tâm hồn Nguyễn Tất Nhiên là hướng về dĩ vãng. Đọc hết cuốn thơ của Nguyễn Tất Nhiên, tất cả đều là hoài cảm :
tôi có cánh buồm tấp về ký ức
em có chỗ ngồi quên lãng như mây
hoặc :
tro tàn hơi ấm lần đưa
ba năm nhớ lại cũng vừa đủ đau.
Hoài cảm lúc nào cũng tạo cho con người một cảm giác bình yên, có lẽ một phần vì niềm đau không còn tác dụng nữa. Phần khác, theo nguyên lý Niết bàn của Freud, đó là khuynh hướng của con người mỗi khi gặp khó khăn, lại tìm về tuổi thơ vô tư của mình, mà tuyệt đối của trạng thái vô ưu là giai đoạn còn nằm trong bụng mẹ. Cái ám ảnh Nada (hư không) của Hemingway có lẽ cũng là tiếng mời gọi của trạng thái vô ưu đó.
Là thi sĩ, Nguyễn Tất Nhiên chắc không cần biết đến Freud và cũng không thể nào chấp nhận được cách phân loại máy móc và tổng quát của Durkheim. Đối với anh, mỗi con người là một chủ thể tự do, riêng biệt, cho nên anh đã thách đố Thượng Đế, tự giành lấy quyền quyết định về sự kết thúc của chính bản thân anh :
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định
Vì Thượng Đế từ lâu kiêu hãnh
Nắm trong tay sinh tử của muôn người.
Anh cũng đưa ra nhận định về sự sống và sự chết :
mỗi cuộc đời, một lý lẽ, bất an
mỗi cuộc chết, có một hình thức, khác.
Bất an là một đặc tính căn bản của đời sống tình cảm mỗi con người, khi phải sinh ra và phải đối diện với cái bao la của vũ trụ, với cái bí ẩn mịt mùng của sự sống và cái chết. Con người trốn chạy nỗi cô đơn, đi tìm sự bình an bằng cách gửi gấm, chia xẻ và hòa đồng tình cảm của mình vào một người, một gia đình, một đoàn thể, một niềm tin hay một lý tưởng.
Với Nguyễn Tất Nhiên, anh đã dồn hết cảm xúc vào trong thơ và vào những cuộc tình. Nhưng tâm tư anh đã cảm thấy bất an ngay cả khi anh được yêu :
Hôn nát mặt sao vẫn còn nghi ngại.
Nhớ điên đầu sao cứ sợ chia tan.
Nhưng rồi mối tình nào của anh cũng đổ vỡ :
Thế nào rồi em cũng bỏ tôi
Như những hoàng hôn bỏ mặt trời
và anh đã trở nên cay đắng với tình yêu :
mỗi đắm đuối có một mầm, gian ác
mỗi đời tình, có một thú, chia ly.
Tuy nhiên, không thể nói Nguyễn Tất Nhiên hoàn toàn ở trong tháp ngà. Trước 1975, xã hội miền Nam tuy loạn lạc nhưng cũng đủ tự do và tình người để anh sáng tác và mơ mộng, làm con chim tuyệt vọng bỏ quên trời. Nhưng anh không thờ ơ với thảm họa của đất nước, anh vẫn xúc động trước những đau thương tang tóc :
Chiều Quân Đội Nghĩa Trang
Chiều mệnh danh Tổ Quốc
Có muôn ngàn câu kinh
Có muôn ngàn tiếng khóc.
Tới 1975, trước thảm trạng di tản, anh cảm thương những thương binh Cộng hòa :
Về trên nạng gỗ mà trông
Lô nhô lãnh đạo cong lưng bôn đào.
Sau đó, sau 1975, bản tâm nhân hậu của Nguyễn Tất Nhiên dĩ nhiên phải gặp khó khăn với chế độ mới. Anh đã viết những bài thơ hiện thực :
Những đôi mắt ngó lườm lườm.
Những nanh vuốt thú ẩn trong dáng người
Anh đã phải cố gắng :
Ta gượng sống giữa bao trùm nỗi chết
Ta khăng khăng cầm giữ nụ hoa hồng.
Mấy năm sau anh ly hương sang Paris, nhưng tâm hồn vốn nhạy cảm của Nguyễn Tất Nhiên trước những đau thương của đất nước đã bị chấn động mạnh hơn :
Có lẽ em không hay
Đôi cánh chàng đã gãy
và rồi thêm một lần lưu vong sang Mỹ :
Quê hương đã lià
Người tình đã xa
Bạn bè đã tản..
Mọi thứ đã rã tan cùng đại dương xanh.
Nguyễn Tất Nhiên lại đi tìm cái chết và lần này anh đã thành công.
Mộ nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên tại nghĩa trang Peek Family, thành phố Westminter, California (Hình : Ngọc Lan/Người Việt)
Là một độc giả yêu thơ Nguyễn Tất Nhiên, tôi đã viết về cái chết của anh. Suốt đời tôi kính phục Đặng Dung, tác giả bài thơ Thuật Hoài đã nhảy xuống biển tự tận khi bị giặc bắt trên năm trăm năm trước. Đời sống và cái chết của Đặng Dung đẹp như bài thơ của ông.
Nhưng sự nghiệp của Đặng Dung đã đặt ông lên ngôi cao của những anh hùng. Con người ông vượt xa mọi nhỏ nhen hèn mọn của cuộc sống "Vô cùng thiên địa nhập hàm ca – trời đất vô cùng một cuộc say".
Vì thế tôi cảm thấy gần gũi hơn với Nguyễn Tất Nhiên. Không phải vì anh cùng lứa tuổi hoặc vì tôi đã có may mắn một lần thấy mặt, mà vì thơ anh, con người anh, đã thể hiện những khía cạnh đam mê, hờn giận, ganh ghét, ân hận của đời sống một cách rất dễ thương. Tuy anh chỉ làm thơ cho chính anh, anh tự nhận là một linh mục bị thiêu hủy lầu chuông, không có tín đồ, nhưng khi đi "phổ lời tình nhân gian – thành câu thơ buồn bã", anh đã viết ra tâm trạng mỗi con người bình thường ít ra là trong một giai đoạn nào đó.
Thi sĩ là người nào nếu không phải là những người đi rao giảng lời tình nhân gian nên nếu Nguyễn Tất Nhiên có viết về những mối tình buồn bã, điều đó chỉ giúp anh có một chỗ đứng biệt lập trong văn chương mà thôi.
Hoàng Dung
Nguồn : hocxa.com, 28/07/2023
********************************
Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên
Mặc Lâm, RFA, 08/11/2009
Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải sinh năm 1952 tại Biên Hòa, sau tháng 5/1975 sống tại Hoa Kỳ. Ông mất ngày 3/8/1992 tại California.
Cố thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên. Ảnh minh họa
Làm thơ năm 14 tuổi
Theo lời những người bạn cùng trường thì Nguyễn Tất Nhiên làm thơ rất sớm khi mới 14 tuổi. Năm 1966, cùng với Đinh Thiên Phương, Nguyễn Tất Nhiên dùng bút hiệu Hoài Thi Yên Thi cho ra đời thi phẩm Nàng thơ trong mắt. Nhà thơ Du Tử Lê nhớ lại kỷ niệm mà ông có với Nguyễn Tất Nhiên trong giai đoạn này như sau :
"Giữa năm 1970, khi tôi đang ngồi ở cà phê La Pagode ở Sài Gòn cùng với mấy người bạn của tôi là các anh Nguyễn Đình Toàn, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ thì có một cậu học trò đẩy cửa đi vào hỏi tôi có phải là Du Tử Lê không, thì tôi nói là: "phải". Sau đó cậu ấy tặng cho tôi một tập thơ nhan đề là Thiên Tai, và tác giả tập thơ đó tên là Hoài Thi Yên Thi. Cậu ấy cho biết là cậu đang học ở trường Ngô Quyền, Biên Hòa. Sau đó chúng tôi trở thành tình anh em rất là thân thiết. Đến lần gặp thứ hai thì cậu nói với tôi là cậu muốn có một tên hiệu khác, tức là một bút hiệu khác, vì bút hiệu Hoài Thi Yên Thi có vẻ thi văn đoàn quá. Tôi có chọn cho cậu ấy cái tên "Nguyễn Tất Nhiên". Đó là kỷ niệm mà tôi rất nhớ".
Khúc tình buồn
Trong những năm đó sinh viên học sinh miền Nam có phong trào thành lập Thi văn đoàn và những người có năng khiếu văn chương cùng tụ tập nhau lại để in những bài thơ, hay văn xuôi chung với nhau. Kỹ thuật quay ronéo để xuất bản tác phẩm của những người trẻ trong giai đoạn này rất phổ biến.
Thà như giọt mưa - nhạc : Phạm Duy, thơ : Nguyễn Tất Nhiên), tiếng hát Lê Uyên / ASIA 28
Nguyễn Tất Nhiên nổi lên như một ngôi sao khi bài thơ Khúc tình buồn của ông được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Khúc tình buồn được đặt lại tên "Thà như giọt mưa" và trong nhiều tuần lễ sau đó, nhạc phẩm này hầu như ngày nào cũng phát trên đài phát thanh Sài Gòn được giới sinh viên học sinh chuyền tay nhau tập thơ của ông với tất cả sự thích thú vốn có của tuổi trẻ :
Người từ trăm năm
về qua sông rộng
ta ngoắc mòn tay
trùng trùng gió lộng
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)
Người từ trăm năm
về khơi tình động
ta chạy vòng vòng
ta chạy mòn chân
nào hay đời cạn
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)
Người từ trăm năm
về như dao nhọn
ngọt ngào vết đâm
ta chết âm thầm
máu chưa kịp đổ
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)
Thà như giọt mưa
gieo xuống mặt người
vỡ tan vỡ tan
nào ta ân hận
bởi còn kịp nghe
nhịp run vồi vội
trên ngọn lông măng
(người từ trăm năm
vì ta phải khổ)
Khúc tình buồn
Người con gái tên Duyên
Bài thơ "Khúc tình buồn" không nhắc tới tên Duyên như trong nhạc phẩm "Thà như giọt mưa" của Phạm Duy. Cô gái tên Duyên này là một nhân vật có thật và học chung lớp với nhà thơ tại trường trung học Ngô Quyền thành phố Biên Hòa, và tình cảm của ông đối với cô chính là nguồn cảm hứng khiến ông liên tục sáng tác những bài thơ nổi tiếng một thời chỉ để riêng tặng cho cô. Tuổi trẻ thời ấy thích thú với những dỗi hờn rất con nít của tác giả bài thơ khi mong cho người con gái tên Duyên sẽ đau khổ muôn niên, sẽ đau khổ trăm năm… lời lẽ như là chính cô gái đã phụ tình tác giả.
Cô gái xứ Bắc mang tên Bùi Thị Duyên ngày nào nay sống tại Michigan, Hoa Kỳ. Cô nhớ lại những kỷ niệm thật đẹp của tuổi học trò áo trắng :
"Tụi này học chung với nhau từ năm đệ tứ. Trường đó là trường nam-nữ học chung. Đến khi học sinh đông quá thì họ phân lớp ra, trong đó có một lớp đệ tứ "mix" giữa con trai với con gái. Sau đó tôi lên học ban B thì tôi học luôn đến lớp đệ nhất, học chung với tụi con trai, trong lớp chỉ có vài cô con gái thôi. Tụi này biết nhau từ hồi nhỏ, lúc đó cũng ngây thơ, tôi chưa nghĩ gì hết, còn Nguyễn Tất Nhiên nghĩ gì hay không thì tôi không biết. Gặp nhau, biết nhau từ lúc 14, 15 tuổi. Tôi được tặng một quyển thơ mà Nguyễn Tất Nhiên nói là có ba bản chính. Một bản của Nhiên, một bản cho tôi và một bản cho ai tôi quên mất rồi. In ra khoảng chừng 100 quyển thôi. Tôi biết sự hình thành quyển thơ của Nguyễn Tất Nhiên chứ không phải không, nhưng thật ra là chẳng có gì hết, tất cả bạn bè trong lớp ai cũng biết, nhưng đó là chuyện hồi nhỏ".
Thật ra chính cái tên Duyên mới làm bài thơ nổi tiếng. Trong tập thơ Thiên tai, Nguyễn Tất Nhiên có rất nhiều bài nói về người thiếu nữ tên Duyên và tập thơ này viết bởi nguồn cảm hứng duy nhất đó.
"Dĩ nhiên là phải xúc động bởi nguyên một quyển thơ viết cho tôi. Nhưng tôi đã nói với Nguyễn Tất Nhiên ngay từ đầu là mình làm bạn thôi, nếu có ý gì đó thì tôi không gặp nữa. Về sau anh ấy phải công nhận là muốn làm bạn, để còn được tiếp tục gặp một người bạn như tôi. Chắc anh ấy cũng quý tôi lắm".
Nguồn cảm hứng tôn giáo
Thời gian trôi qua, những vần thơ nói về Duyên hay ám ảnh bởi Duyên không còn là nguồn cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Tất Nhiên nữa.
Hai năm tình lận đận - thơ Nguyễn tất Nhiên, nhạc Phạm Duy, tiếng hát Duy Quang
Thay vào đó nguồn hứng khởi tôn giáo bắt đầu đi vào thơ ông một cách tình cờ, bắt đầu từ bài "Hai năm tình lận đận" :
Chuông nhà thờ đổ mệt
Tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ có lẽ
Rơi xuống trần gian mưa
Anh bây giờ có lẽ
Thiết tha hơn tín đồ
Nguyện làm cây thánh giá
Trên chót đỉnh nhà thờ
Cô đơn nhìn bụi bậm
Làm phân bón rêu xanh
Dù sao cây thánh giá
Cũng được người nhân danh
Càng về sau Nguyễn càng thấy hình tượng của Chúa, của Linh mục, Ma Soeur gần gũi với ông hơn mặc dù nhà thơ là người ngoại đạo. Vì ngoại đạo nên thơ ông không chịu sự ràng buộc của tín lý, của đức vâng lời, tôn kính. Nguyễn Tất Nhiên tung tăng trong ngôn ngữ đức tin và bởi vô úy nên những lời thơ truyền thẳng vào tâm tình người đọc, bùng lên thứ cảm nhận vừa xuýt xoa ngạc nhiên vừa lâng lâng niềm khoái cảm của người ăn trái cấm :
vì tôi là linh mục
không mặc chiếc áo giòng
nên suốt đời hiu quạnh
nên suốt đời lang thang !
vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian
nên không có thánh kinh
nên không có bổn đạo
nên không có giáo đường
(một tín đồ duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông !)
vì tôi là linh mục
phổ lời tình nhân gian
thành câu thơ buồn bã
nên hạnh phúc đâu còn
nên người tình duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông
Nguyễn Tất Nhiên chậm rãi dìu người tình của mình nay hóa thân thành một Ma Soeur đằm thắm. Ma-Soeur-Người-yêu này nhẹ nhàng xưng tụng niềm thống hối như tín đồ xưng tội. Kẻ ngoại đạo cảm thấy Thượng đế mỉm cưởi với mình qua ẩn dụ tràn ngập chân phước.
Em hiền như Ma Soeur – thơ Nguyễn Tất Nhiên, nhạc Phạm Duy, tiếng hát Nguyên Nhung
Tình yêu trở thành bất tử, và thánh hóa dưới ánh mắt hiền hòa của Chúa qua những vần thơ xưng tụng.
Ðưa em về dưới mưa
Nói năng chi cũng thừa
Phất phơ đời sương gió
Hồn mình gần nhau chưa ?
Tay ta từng ngón tay
Vuốt lưng em tóc dài
Những trưa ngồi quán vắng
Chia nhau tình phôi thai
Xa nhau mà không hay
Hỡi em cười vô tội
Ðeo thánh giá huy hoàng
Hỡi ta nhiều sám hối
Tính nết vẫn hoang đàng !
Em hiền như ma soeur
Vết thương ta bốn mùa
Trái tim ta làm mủ
Ma soeur này ma soeur
Có dịu dàng ánh mắt
Có êm đềm cánh môi
Ru ta người bệnh hoạn
Ru ta suốt cuộc đời
Những năm cuối đời
Nguyễn Tất Nhiên ở những năm cuối đời đã có những biểu hiện của chứng trầm cảm. Người thơ thường đặt những câu hỏi gần gụi với cái vĩnh hằng, là sự chết. Chết trở thành một câu hỏi lớn theo đuổi nhà thơ, như bóng ma thời gian ám ảnh sự sống không ngừng. Trong bài Thiên Thu, nhà thơ thở dài buồn bã nhận ra bóng mình in trên bức tường vôi luống tuổi mang tên "Con người" :
sao thiên thu không là chôn sâu ?
nên nắng xưa còn hanh mái tóc nhầu
tôi đứng như xe tang ngừng ngập
và một họ hàng khăn trắng buồn đau !
sao thiên thu không là đường chim ?
nên mây năm xưa còn trên tay phiền
tôi đứng như tường vôi luống tuổi
và những tàng xanh chùm gởi quê hèn !
sao thiên thu không là lãng quên ?
nên tình xưa còn cháy âm thầm
tôi đứng như căn nhà nám lửa
và những người thân trốn chạy vội vàng !
sao thiên thu không là sương tan ?
nên mặt trời xưa còn gượng huy hoàng
tôi đứng như dòng sông yên lặng
và những cánh buồm kiệt sức lang thang !
Thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên (thứ hai từ trái qua) và các bằng hữu tại tư gia ở Westminster, Hoa Kỳ.
"Cánh buồm kiệt sức" ấy không còn lang thang nữa, theo như lời kể của nhà báo Đinh Quang Anh Thái, người quen thân với nhà thơ từ thuở thiếu thời :
"Một tuần lễ trước ngày Nguyễn Tất Nhiên quyết định con đường ra đi, tôi và Nhiên ngồi với nhau ở ngoài lề đường. Tôi nói Nguyễn Tất Nhiên đi vào ăn cơm thì Nhiên nói rằng : "Cái thằng sắp chết không ăn". Biết tính Nhiên từ lúc còn bé chơi với nhau, nên tôi cũng không để ý câu nói đó, tôi hỏi : "Vậy thì hút thuốc không ?", Nhiên cũng nói rằng : "Cái thằng sắp chết không hút thuốc lá". Và đó là lần chót mà hai đứa có trao đổi với nhau. Và tuần lễ sau thì Nhiên mất. Thực sự ra thì từ lúc chơi với nhau ở Sài Gòn trước 75, và sau 75 thân thiết hơn, thì lúc nào Nhiên cũng mang một ý định muốn tự quyết định cuộc đời mình. Mãi sau, những người bạn thân với Nguyễn Tất Nhiên đều hiểu rằng có thể đó là một lúc mà tinh thần không được ổn định thì Nhiên nói thế thôi. Anh em không còn để ý và xem đó như là một lời nói có tính cách nghiêm trọng nữa. Không ngờ một tuần lễ trước khi Nhiên quyết định tự tử, Nhiên lại nói với bản thân tôi hai lần câu : "Người sắp chết không ăn cơm và người sắp chết không hút thuốc lá".
Nguyễn Tất Nhiên ra đi ở tuổi 40 khi còn rất trẻ, khi mầm sống thi ca đến độ chín muồi nhất. Thế nhưng đối với trường hợp riêng ông thì quyết định chọn được nằm im để hòa mình vào nguồn minh triết của suy tưởng bất diệt có lẽ là một quyết định đúng với nhà thơ khi ông chợt nhận ra cõi đời đã trở nên vô nghĩa …
Mạc Lâm
Nguồn : RFA, 08/11/2009