Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Mùa xuân dường như là điều mà rất nhiều người luôn mong đợi, ở lứa tuổi nào dù đã yêu hay chưa, ai cũng có một lý do để háo hức chờ đón xuân về, trong tim không ngủ yên vì niềm vui thao thức. Mùa xuân, trong mắt các nhà soạn nhạc cổ điển, từ Vivaldi đến Johann Strauss II cũng là một chủ đề đáng để ngợi ca.

xuan1

Hoa đào và một chút hương vị xuân ngày Tết. Tuấn Thảo / RFI

Đây cũng là dịp để cho Góc vườn Âm nhạc tìm hiểu thêm về những giai điệu nhạc nước ngoài từng được đặt thêm lời Việt với chủ đề mùa xuân. Trên lãnh vực nhạc cổ điển, tác giả Beethoven mà trong năm 2020, toàn thế giới kỷ niệm 250 năm ngày sinh, từng viết bản sonate số 5, opus 24 dành cho vĩ cầm. Khúc nhạc này còn thường được gọi là "Spring Sonata" (Bản Tình ca Mùa xuân) sau ngày nhà soạn nhạc qua đời vào năm 1827.

"Spring Sonata" (Bản Tình ca Mùa xuân)

Tình ca Mùa xuân nhân 250 năm Beethoven

Cho dù lúc sinh tiền, nhà soạn nhạc Beethoven đã không chính thức đặt tên cho khúc nhạc, nhưng giai điệu sống động vui tươi làm cho người nghe liên tưởng đến mùa xuân. Ở một thời điểm khác, tác giả người Đức Robert Schumann đã chấp bút viết khúc "Giao hưởng số 1" (cung si giáng trưởng, opus 38) hay còn có tên gọi quen thuộc là "Giao hưởng mùa Xuân".

Đây là bản giao hưởng đầu tiên của nhà soạn nhạc Robert Schumann. Ông mất gần một tháng trời (trong mùa đông năm 1841) để hoàn thành tác phẩm này. Clara Schumann, vợ của tác giả nổi tiếng, cho biết trong quyển nhật ký của mình là chồng bà đã gợi hứng từ một bài thơ mang tựa đề "Mùa Xuân của Tình yêu" của Adolph Boettger để sáng tác bản giao hưởng này, giai điệu giàu nét trữ tình, theo xu hướng soạn nhạc lãng mạn thịnh hành tại các nước Tây Âu vào giữa thế kỷ 19.

Một tổ khúc khác "Kinderszenen" được tác giả Schumann viết tặng cho vợ sau khi bà Clara nói đùa rằng có nhiều lúc tánh tình ông lại giống như trẻ con. Khúc nhạc số 7 trong tổ khúc này mang tựa đề "Träumerei" (Mộng mơ) từng được tác giả Dương Thụ phóng tác sang tiếng Việt thành nhạc phẩm "Những ngày mộng mơ" được ca sĩ Mỹ Linh ghi âm trên album mang tựa đề "Chat với Mozart" phát hành vào mùa thu năm 2005. Giọng ca của Mỹ Linh cũng từng gắn liền với nhiều ca khúc xuân, tiêu biểu nhất là Thì thầm mùa xuân (tác giả Ngọc Châu) hay Hoa cỏ mùa xuân (tác giả Bảo Chấn).

"Träumerei" (Mộng mơ)

Hai khúc xuân tiếng Việt theo nhạc Schumann

Giai điệu "Những ngày mộng mơ" có những câu mở đầu như sau : "Mộng mơ... Một ngày xuân sang nắng ấm. Những con đường lá xòe xanh non. Góc đường nơi anh vẫn hẹn". Phiên bản của tác giả Dương Thụ khác với phiên bản phóng tác tiếng Việt đầu tiên của tác giả Phạm Duy, từng nổi tiếng qua tiếng hát của danh ca Lệ Thu với những câu thơ chọn mùa sầu lá rụng chứ không phải là mùa xuân tươi rói làm bối cảnh : "Chiều rơi từ nơi nào xa vắng cũ... Ðột nhiên hạt sao rụng như cánh lá. Tình ta hòa theo vết sao bỡ ngỡ. Tới nơi mơ hồ có một trời hoa. Suốt một đời mơ ước thành tình ta".

Tác giả Phạm Duy cũng từng sáng tác lời Việt cho một khúc nhạc ngoại thành bài "Khúc hát thanh xuân" dựa theo điệu song ca "Wer Uns Getraut" trích từ vở nhạc kịch nổi tiếng nhất của tác giả Johann Strauss II (con). Mang tựa đề "Der Zigeunerbaron" (Le Baron Tzigane), vở kịch này được dựng tại thủ đô Vienna vào năm 1885 và trong tiếng Việt bài từng nổi tiếng qua các tiếng hát của Thái Thanh, Thanh Lan, Ngọc Hạ, Trần Thu Hà. Về sau này, tác giả Tô Hải cũng đạt lời Việt cho một giai điệu cổ điển của Mozart.

"Der Zigeunerbaron" (Le Baron Tzigane)

Khúc hát thanh xuân trên điệu valse của Strauss

Trên album "Chat với Mozart", ngoài nhạc phẩm "Những ngày mộng mơ", Mỹ Linh còn ghi âm nhạc phẩm "Sớm Nay Mùa Xuân", dựa theo giai điệu của tác giả nhạc cổ điển người Nga Aleksandr Borodine (lời Việt Dương Thụ). Hơn một thập niên năm sau đó, cô tự viết lời Việt cho nhạc phẩm "Đợi Những Ngày Xuân", dựa theo nền nhạc của Franz Liszt cho album "Chat với Mozart" tập nhì.

Dòng sông xanh (Johann Strauss II, lời Việt Dương Thiệu Tước | Phạm Duy) - Lê Dung | Thái Thanh

Ca sĩ Mỹ Linh từng cho biết khi tìm lời bài hát, những hình ảnh gắn liền với miền đồng quê Bắc Bộ cứ hiện lên trong đầu, những hình ảnh Tết truyền thống cứ nhắc nhớ cô về một thời thơ ấu tươi đẹp... Trong thành công của các giai điệu phóng tác, ngoài tác giả (Dương Thụ) và người diễn đạt (Mỹ Linh), còn phải kể đến nỗ lực của nhóm chuyển soạn (Thanh Bình, Anh Quân, Huy Tuấn) làm thế nào để đem những giai điệu trong kho tàng âm nhạc cổ điển đến gần hơn với thính giả người Việt.

Trong nguyên tác, rất có thể các nhà soạn nhạc cổ điển Tây Âu không hẳn nghĩ tới mùa xuân, tuy nhiên niềm lạc quan hay những năm tháng hạnh phúc trong cuộc sống vẫn là động lực thúc đẩy các nhạc sĩ này viết lên những giai điệu thiết tha yêu đời. Điều đó tạo cơ hội cho các tác giả người Việt trong nước hay ở hải ngoại phóng tác thành những khúc hát tươi mát, làm giàu bộ vựng tập về chủ đề mừng xuân.

Chuyện phóng tác lời Xuân theo nhạc ngoại

Trong chuyện đặt thêm lời Việt cho nhạc ngoại, để biến thành những ca khúc với chủ đề xuân, không phải bài nào cũng hợp. Nhạc phẩm "Xuân Yêu thương" trở thành một bản nhạc trẻ trung kích động, quen thuộc với thính giả Việt, nhưng bài hát tiếng Pháp lại ít nổi tiếng khi ta so với các khúc nhạc Pháp từng lập kỷ lục số bán trong những năm 1980. Ca khúc ăn khách duy nhất (one huit wonder) của ca sĩ Laroche Valmont từng được xem là một cú tiếp thị tài tình của một người ban đầu làm việc trong ngành xuất bản báo chí.

Nắng Xuân của tác giả Phạm Duy dựa vào giai điệu tiếng Pháp trữ tình của bài Solenzara, cho dù nội dung bản gốc và phiên bản phóng tác không liên hệ gì với nhau. Trong trường hợp của các ca khúc phóng tác như "Bài Ngợi ca mùa xuân" (tác giả Đức Nam), "Nhạc Khúc Tình Xuân" (tác giả Nhật Ngân) hay là "Nhớ về một mùa Xuân" (tác giả Yên Tử) những lời lẽ về mùa xuân khá thích hợp nhờ vào những nhịp điệu trẻ trung, tiết tấu vui nhộn.

Bán cổ điển hay nhạc pop, nhạc nguyên tác tiếng Việt hay chuyển thể từ nhạc ngoại, mỗi người có một cảm giác riêng biệt, nhưng nhạc xuân thường nổi bật hơn khi được sáng tác ở điệu trưởng, nhịp phách nhẹ nhàng đơn giản nhưng vẫn chuyển tải được niềm hân hoan khi thì tiềm tàng lúc thì rộn rã, phản ánh niềm tin và hy vọng ở một cuộc sống an lành tươi đẹp hơn qua câu chúc đầu năm.

Hơn ai hết tác giả Phạm Đình Chương đã thấu hiểu điều này, các điệu valse giợi hứng từ âm nhạc Tây phương nhưng vẫn đậm đà hồn Việt. Dưới ngòi bút của ông, lời nhạc lung linh muôn màu, mềm mại tiếng xuân, khúc giao thoa gieo rắc ngàn hồn hoa, cho hương non thêm nồng, cho mạch xuân thêm ấm.

Tuấn Thảo

Nguồn : RFI, 25/01/2020

Additional Info

  • Author Tuấn Thảo
Published in Văn hóa

Chỉ trong 24 tiếng đồng hồ, nước Pháp đánh mất cùng lúc hai gương mặt yêu quý : thần tượng nhạc rock Johnny Hallyday và nhà văn Jean d’Ormesson, một trong những thành viên trứ danh của Hàn Lâm Viện Pháp. Trường hợp này cũng đã từng xẩy ra vào tháng 10/1963 : văn hào Jean Cocteau từ giã cõi đời chưa đầy một ngày sau huyền thoại Édith Piaf.

legende1

Johnny Hallyday nhân đợt biểu diễn tại Stade de France năm 2009. Reuters /Philippe Wojazer

Một bên là nhà văn, một bên là ca sĩ. Mỗi người tỏa sáng trong một lãnh vực, thế nhưng cái chết của họ hầu như vào cùng một thời điểm khiến cho giới hâm mộ càng thêm bàng hoàng ngẩn ngơ thương tiếc.

Trong trường hợp của Johnny, ông qua đời ở tuổi 74, sau hơn một năm chống chọi với căn bệnh ung thư phổi. Trong suốt thời gian trị bệnh, Johnny vẫn không hủy bỏ các buổi biểu diễn (cùng với Jacques Dutronc và Eddy Mitchell trong nhóm Les Vieilles Canailles). Ông cũng giữ liên lạc với các fan thông qua các mạng xã hội, thường xuyên nói về các dự án ghi âm trong tương lai thay vì than vãn về bệnh tình.

Mọi người đều biết ông đang lâm bệnh nhưng ít ai lại nghĩ rằng Johnny sẽ ra đi nhanh và sớm đến như vậy. Tuy không hẹn, nhưng các fan cùng rủ nhau tập hợp, đốt nến tưởng niệm trước nhà của nam ca sĩ ở vùng ngoại ô Marne La Coquette. Giới hâm mộ hát hò những bản nhạc quen thuộc trong đó có các bài như Que Je T’aime, L’envie, Le Pénitencier, Noir C’est Noir, Vivre Pour le Meilleur hay là Retiens la Nuit như thể họ muốn giữ lại cho nhau nguyên một đêm thâu.

Kể từ đêm hôm 05/12 rạng sáng hôm 06/12/2017, niềm cảm xúc hầu như vô bờ của giới hâm mộ tràn ngập các kênh thông tin cũng như các mạng xã hội qua hình ảnh, tin nhắn, clip video. Hầu hết các đài truyền hình cũng như phát thanh đều đã đảo lộn chương trình để tưởng niệm Johnny và chính vào những giây phút ấy, ta mới chợt hiểu cái tình thương mà đại đa số người Pháp dành cho Johnny.

Dù thích hay không, những bài hát của Johnny đã trở nên hết sức gần gũi với công chúng, những bài hát gắn liền với những khoảnh khắc trong cuộc sống của họ, xuyên qua nhiều thế hệ để rồi sống mãi trong lòng khán thính giả. Khi được hỏi, khá nhiều người hâm mộ cho biết họ đã lớn lên với các bài hát của Johnny, vì thế họ xem ông như là người trong gia đình.

Sự nghiệp của Johnny Hallyday trải dài trong gần 6 thập kỷ, tính từ những đĩa hát đầu tay ghi âm vào năm 1960, với phong cách vay mượn từ Elvis Presley. Lúc sinh tiền, Johnny đã ghi âm hơn 1.000 ca khúc, bán hơn 100 triệu đĩa hát, đoạt 10 giải thưởng âm nhạc Pháp Victoires de la Musique (chỉ thua có Alain Bashung với 12 giải Victoires). Nhưng về số lượng khán giả thì không có nghệ sĩ Pháp nào có thể sánh bằng Johnny, trong đời ông đã thực hiện 183 vòng lưu diễn, thu hút tới 28 triệu lượt khán giả.

Nổi danh ban đầu với phong trào nhạc trẻ tại Pháp những năm 1960, Johnny Hallyday sau đó đã hát rất nhiều thể loại : rhythm and blues, rock, soul, pop, folk, country, reggae và kể cả nhạc nhẹ qua các chương trình truyền hình Maritie và Gilbert Carpentier cũng như qua các bản song ca với thần tượng tóc vàng Sylvie Vartan (một thời là vợ của ông 1965-1980). Trong suốt sự nghiệp của mình, Johnny Hallyday liên tục đổi mới hình ảnh qua việc hợp tác trong nhiều năm với nhiều tác giả khác nhau : mỗi tác giả ghi dấu một giai đoạn quan trọng trong sự nghiệp của Johnny.

Đầu những năm 1970, nhà văn kiêm phóng viên Philippe Labro qua việc chuyển ngữ các bản nhạc blues rock Anh Mỹ giúp Johnny xây dựng hình ảnh của một nghệ sĩ phản kháng, thoát khỏi cái hình ảnh hơi ngây ngô ban đầu của thần tượng nhạc trẻ (l’Idole des Jeunes). Hai tác giả Jean Renard & Gilles Thibault chuyên sáng tác cho Jonny những bản slow rock cực kỳ ấn tượng. Cuối những năm 1970, tác giả Michel Mallory cũng như nhà sản xuất Eddie Vartan (anh ruột của Sylvie Vartan) tạo hình ảnh của một Johnny dũng mãnh cứng rắn qua trang phục và phong cách biểu diễn gần giống với các nhóm nhạc metal hay hard rock, trên các sân vận động khổng lồ, hay trên những sân khấu cực kỳ hoành tráng.

Kể từ giữa những năm 1980 trở đi, hai tác giả Michel Berger và Jean-Jacques Goldman mỗi người đã sáng tác nguyên một album cho Johnny. Nhờ tìm ra được những giai điệu và ca từ thích hợp, họ đã nâng tài năng diễn xuất cũng như uy tín của Johnny lên một tầm cao mới. Tuy mỗi tác giả có một phong cách riêng, nhưng Berger và Goldman đã thành công trong việc giới thiệu Johnny dưới một góc nhìn mới : đằng sau vầng hào quang sáng chói của một ngôi sao hàng đầu, thấp thoáng những mảnh vỡ nội tâm của một người đàn ông, tình thương của công chúng bù đắp cho bao thiếu vắng có từ thời thơ ấu của Johnny.

Dù có hát nhạc gì chăng nữa, Johnny vẫn giữ nguyên cung cách của một nghệ sĩ nhạc rock, bởi vì ông không chỉ biểu diễn trên sân khấu mà còn hành xử ở ngoài đời như một rocker, đâu đó rock không chỉ đơn thuần là một thể loại âm nhạc mà còn là một phong cách sống. Về tài năng, Johnny trụ vững được lâu nhờ lối trình bày dũng mãnh và sinh động. Tác giả Aznavour (từng viết bài Retiens la Nuit cho Johnny và bản La Plus Belle pour Aller Danser cho Sylvie) nói rằng Johhny không chỉ hát bằng chất giọng mà lại dùng toàn thân để diễn đạt.

Về kỹ thuật luyện thanh, Johnny có âm vực của một tenor nhưng khi hát những nốt cao nhất ông lại không bao giờ dùng cách hát chẻ giọng óc mà luôn dùng toàn bộ giọng ngực. Nhờ chất giọng thiên phú này, mà Johnny có thể tập trung toàn bộ nội lực vào cột hơi rắn chắc đầy đặn để rồi phóng toàn bộ sức mạnh ấy về phía trước. Điều đó giải thích vì sao khán giả thường có cảm tưởng Johnny hát gằn giọng (và thậm chí cường điệu) trong khi đó lại là cách hát tự nhiên của ông. Chất giọng trời ban ấy giúp cho Johnny trở thành rocker số một của Pháp và hầu như không có đối thủ trong suốt nửa thế kỷ.

Về điểm này, ca sĩ Line Renaud ‘‘mẹ đỡ đầu’’ của Johnny trên sân khấu nói rằng : bà đã có gần 90 năm tuổi đời và 70 năm tay nghề nhưng trong suốt sự nghiệp, bà chưa thấy nghệ sĩ nào được người Pháp yêu quý bằng Johnny. Một mối quan hệ mà theo bà được xây dựng trên sự chân tình : Johnny sống hết mình cho công chúng và nghiệp diễn. Chính cũng vì thế mà với thời gian, Johnny trở thành một trong những gương mặt thân quen nhất, một phần trong đời sống của họ.

Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, nước Pháp lại đánh mất cùng lúc hai gương mặt tiêu biểu : nhà văn Jean d’Ormesson đồng thời là một trong những thành viên nổi tiếng của Hàn Lâm Viện. Người Pháp thường gọi họ là ‘‘Immortels’’ Những vị bất tử. Còn trong trường hợp của Johnny, lúc sinh tiền ông đã là một huyền thoại trong lòng người mến mộ. Ngày Johnny nói lời vĩnh biệt, cũng là ngày mà tượng đài Hallyday trở nên bất diệt.

Tuấn Thảo

Nguồn : RFI, 09/12/2017

Published in Văn hóa