Không có suy thoái kinh tế và lạm phát tiếp tục giảm.
Tổng thống Joe Biden vừa kết thúc hai năm đầu của nhiệm kỳ bốn năm. Đây là thời điểm thích hợp để thẩm định nền kinh tế Hoa Kỳ. Kinh tế gia thường dựa vào sáu chỉ số sau đây để thẩm định một nền kinh tế : 1) Tổng sản phẩm nội địa, 2) Tỉ lệ thất nghiệp, 3) Lạm phát, 4) Lãi suất, 5) Thị trường trứng khoán và 6) Ngân sách quốc gia.
Tổng sản phẩm nội địa
Tổng sản phẩm nội địa (gross domestic product – GDP) là tổng số giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được mỗi quốc gia sản xuất và bán trong một khoảng thời gian cụ thể. Sau khi suy giảm ở mức -2,8% vào năm 2020 vì đại dịch Covid-19, GDP của Hoa Kỳ đã phục hồi đáng kể với tỉ lệ 5,9% vào năm 2021 nhờ đại dịch đã giảm bớt với thuốc chủng ngừa và những biện pháp cứu nguy kinh tế của chính quyền Biden được Quốc hội thông qua, gồm American Rescue Plan Act of 2021, Covid-19 Bankruptcy Relief Extension of 2021, Infrastructure Investment and Job Act (2021) và Infration Reduction Act of 2022. Bước qua 2022, GDP đã tăng trưởng bình thường trở lại ở mức 2,1%. Khi GDP tăng trưởng trong khoảng 2% và 3%, nền kinh tế được xem như lành mạnh. Khi mức tăng trưởng trên 3% nền kinh tế phát triển quá nhanh. Khi chỉ số này xuống dưới 2%, kinh tế Hoa Kỳ có nguy cơ suy thoái.
Theo sự tiên liệu vào ba tháng trước đây của một số nhà nghiên cứu, nền kinh tế Hoa Kỳ có thể có 70% nguy cơ suy thoái vào năm 2023. Điều này có nghĩa là mức tăng trưởng GDP xuống dưới 0%. Một số các kinh tế gia nghĩ rằng sự suy thoái sẽ không đáng kể. Goldman Sachs và JPMorgan Chase, hai công ty tài chánh và ngân hàng đầu tư Hoa Kỳ, có cùng một dự đoán. Wells Fargo Investment Institute và Barclays Capital nói rằng kinh tế Hoa Kỳ sẽ phải đối phó với một tình trạng suy thoái nghiêm trọng.
Tuy nhiên, triển vọng của nền kinh tế Hoa Kỳ vào năm 2023 hiện tại có vẻ tốt hơn một chút so với tiên đoán ba tháng trước theo 37 nhà dự báo được Ngân hàng Dự trữ Liên bang Philadelphia khảo sát. Theo dự đoán này, nền kinh tế sẽ mở rộng với tốc độ hàng năm là 0,6% trong quý một, 1,0% trong quý hai năm 2023 và 1,3% cho cả năm 2023. Như vậy có nghĩa là suy thoái kinh tế sẽ không xẩy ra vào 2023 dù Quỹ Dự trữ Liên bang tăng lãi suất để giảm lạm phát.
Tỉ lệ thất nghiệp
Thị trường lao động phát triển phát triển mạnh mẽ trong hai năm qua gây ngạc nhiên cho mọi người. Nạn thất nghiệp tiếp tục giảm từ tháng 4/2020 với tỉ lệ cao nhất là 14,7% vì đại dịch Covid-19. Vào tháng 1/2021 tỉ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 6,3% nhờ đại dịch bớt dần đã giúp kinh tế hoạt động trở lại. Đúng một năm sau, tỉ lệ thất nghiệp hạ xuống còn 4% vào tháng 1/2022. Con số của tháng 1/2023 là 3,4%, một tỉ lệ thấp nhất kể từ 1969, nghĩa là hơn nửa thế kỷ trước. Kinh tế đã tạo thêm tổng cộng 6,5 triệu việc làm trong năm 2021, 4,8 triệu trong năm 2022 và 517.000 việc làm riêng trong tháng 1/2023. Đối với mỗi công nhân thất nghiệp, có 1,9 việc làm chờ họ.
Khi tỉ lệ thất nghiệp thấp như hiện nay, guồng máy kinh tế có nhiều công nhân làm việc để sản xuất hàng hóa và dịch vụ, giúp tăng tổng sản phẩm nội địa. Sự kiện này chứng tỏ rằng kinh tế còn đang trong giai đoạn bành trướng của chu kỳ kinh doanh. Do đó tình trạng trì trệ chưa thể xẩy ra.
Theo các nhà dự báo được Ngân hàng Dự trữ Liên bang Philadelphia khảo sát, tỉ lệ thất nghiệp sẽ gia tăng đôi chút trong 2023 từ 3,5% vào quý một lên đến 4,1% vào quý bốn hay là 3,8% cho cả năm 2023. Đây là kết quả gián tiếp của việc Quỹ Dự trữ Liên bang (Federal Reserves) tăng lãi suất để giảm lạm phát. Một số công ty đã phải điều chỉnh để thích ứng với thay đổi môi trường kinh doanh và phải giảm bớt đầu tư vì chi phí tài trợ cao.
Sa thải hàng loạt (mass layoff) nhân viên đã xẩy ra trong 2022 tại 26 công ty bao gồm Cisco, Amazon, Meta, và Twitter. Riêng trong hai tháng đầu của 2023, sa thải hàng loạt đã áp dụng tại 21 công ty bao gồm cả Disney, Zoom, Dell, Paypal, IBM, 3M, Google, Microsoft, Amazon, DirecTV, Vimeo, và Goldman Sachs.
Sa thải hàng hoạt xẩy ra khi ít nhất 50 nhân viên bị cho nghỉ việc trong vòng 30 ngày, tương đương với 1/3 tổng số nhân viên của công ty hoặc là 500 nhân viên bị sa thải trong vòng 30 ngày bất kể công ty lớn hay nhỏ.
Lạm phát
Lạm phát là tỉ lệ giá tăng hay giảm giữa hai thời điểm. Chỉ số giá tiêu thụ (consumer price index – CPI) thường được dùng để đo mức lạm phát. Vào cuối năm 2020, tỉ lệ lạm phát rất thấp là 1,4% vì kinh tế đang co cụm (14,7% toàn năm), nạn thất nghiệp cao, và mức cầu kinh tế giảm. Ngược lại vào cuối năm 2021, lạm phát tăng vọt lên đến 7% do kinh tế tăng trưởng mạnh (5,9% toàn năm) nhờ đạo luật Kế hoạch Giải cứu Hoa Kỳ 2021 (American Rescue Plan Act of 2021).
Mức lạm pháp tiếp tục tăng sáu tháng đầu của 2022 cho tới đỉnh điểm 9,1% vào tháng 6/2022. Sau đó may mắn tỉ lệ lạm pháp hạ liên tục sáu lần xuống còn 6,5% vào tháng 12/2022. Tuy nhiên con số này còn quá cao so với mức lạm phát lành mạnh là 2%. Đây là một dấu hiệu cho thấy kinh tế chưa ở trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh.
Hiện nay chưa có con số lạm phát chính thức cho 2023 cho đến khi Bureau of Labor Statistics công bố thống kê mới vào 14/2/2023. Với việc tăng lãi suất của Quỹ Dự trữ Liên bang bốn lần liên tiếp để đánh bại lạm phát, mỗi lần là 3/4 điểm bách phân trong năm 2022. Quỹ Dự trữ Liên bang với chủ đích hạ mức lạm phát xuống tới mức 2% và với tỉ lệ thấp nghiệp thấp hiện nay, sẽ còn tăng lãi suất đôi chút nữa trong năm 2023. Trong kịch bản này, các nhà phân tách kinh tế tiên đoán lạm phát sẽ tiếp tục đi xuống.
Theo các nhà dự báo được Ngân hàng Dự trữ Liên bang Philadelphia khảo sát, mức lạm phát trung bình dựa trên CPI sẽ là 3,3% và 3,4% vào quý một và hai của 2023 và 3,1% cho cả năm.
Không những thế sau khi đại dịch Covid-19 đã yên ổn, những chuỗi cung ứng toàn cầu được cải thiện cũng giúp cho giảm lạm phát. Thị trường xăng dầu cũng đã ổn định. Theo cuộc thăm dò thị trường xăng dầu hàng năm của Reuters, giá dầu Brent sẽ ở mức 90 USD/thùng trong năm năm tới. Một cuộc tiên đoán cũng của Reuters cho thấy giá dầu trung bình trong năm 2023 sẽ ở trong khoảng 70 USD-105 USD/thùng.
Nói đến lạm phát phải nói đến giá xăng dầu. Giá xăng trung bình trên toàn nước Mỹ trong sáu năm nay từ 1/1/2018 đến 9/2/2023 là 2,91 USD/gallon. Khi ảnh hưởng của đợt Covid-19 đầu tiên bớt đi và mức tiêu thụ xăng tăng dần vào đầu tháng 5/2020, giá xăng tăng trong gần 14 tháng và lên đỉnh điểm 4,99 USD vào ngày 16/6/2022. Giá xăng tăng nhanh nhất trong khoảng thời gian từ 30/12/2021 đến 16/6/2022. Một lý do quan trọng là tổ chức OPEC không đạt được thỏa thuận tăng mức sản xuất dầu. Thứ hai, kinh tế đang phục hồi nhờ các biện pháp cứu nguy của chính quyền Biden. Thêm vào đó là tác động tiêu cực của chiến tranh tại Ukraine vào thị trường thế giới. Nhà Trắng quyết định cấm mua năng lượng của Nga vào ngày 8/3/2022. Đồng thời Nga cắt giảm mức sản xuất dầu để trả đũa.
Trong nửa phần sau của 2022, giá xăng hạ dần xuống nhờ chính quyền tung ra thị trường một số lượng lớn dầu thô dự trữ chiến lược, 180 triệu thùng trong vòng sáu tháng, Các thành viên của International Energy Administration cũng giải tỏa 60 triệu thùng dầu thô. Theo báo cáo của AAA, nhu cầu tiêu thụ xăng thông thường giảm bớt vào mùa lạnh và giá xăng trung bình tăng khoảng giữa 35 – 85 cents/gallon từ tháng 3 cho đến Memorial Day khi thời tiết ấm lại.
Đầu năm 2023 chứng kiến giá xăng tăng bất ngờ. Giá xăng trung bình từ 3,25 USD/gallon vào ngày 15/12/2022 vọt lên đến 3,49 USD/gallon vào ngày 26/1/2023. Lý do không phải vì mức cầu mà vì mức cung có vấn đề. Thời tiết vào mùa đông năm nay đã làm tê liệt một số xưởng lọc dầu ở Hoa Kỳ như nhà máy Suncor ở ngoại ô thành phố Denver. Các nhà máy lọc dầu ở Mỹ hiện nay chỉ hoạt động ở 86% công suất so với mức thông thường là khoảng 95%. Ngoài ra, cách đây vài ngày Nga tuyên bố sẽ cắt giảm sản xuất 500.000 thùng dầu mỗi ngày bắt đầu vào tháng 3 để trả đũa cấm vận của Liên Hiệp Âu Châu. Nếu chiến tranh Ukraine còn tiếp diễn, thị trường xăng dầu thế giới còn giao động.
Lãi suất
Lãi suất là một trong những công cụ của Quỹ Dự trữ Liên bang để gián tiếp kiềm chế lạm phát và nạn thất nghiệp. Khi lãi suất cao, chi phí vay nợ sẽ cao hơn nên các công ty và người tiêu thụ bớt chi tiêu, giảm mức cầu và như vậy là giảm sức ép lạm phát. Đó là chiến thuật Quỹ Dự trữ Liên bang đang áp dụng. Lãi suất của Quỹ Dự trữ Liên bang hướng dẫn hầu hết những lãi suất khác trên thị trường.
Quỹ Dự trữ Liên bang đã 7 lần liên tiếp tăng lãi suất trong năm 2022 để đối phó với lạm phát cao, từ 0% vào đầu năm 2022 khi còn Covid-19, lên đến 4,25% - 4,50% vào 14/12/2022. Vào đầu năm 2023, Quỹ Dự trữ Liên bang một lần nữa đã tăng lãi suất lên 4,50% - 4,75%. Tỉ lệ tăng lãi suất lần đầu của 2023 là 0,25%, tương đối nhỏ hơn sáu lần trước (0,50% – 0,75%). Điều này cho thấy là Quỹ Dự trữ Liên bang thận trọng, không muốn quá tay với lạm phát, để tránh đẩy kinh tế vào vòng suy thoái. Tuy nhiên, Jerome Powell, chủ tịch của Quỹ Dự trữ Liên bang tuyên bố rất có thể sẽ còn phải tăng lãi suất vài lần nữa. Quỹ Dự trữ Liên bang sẽ chưa hài lòng khi lạm phát ở trên mức 2% như hiện nay.
Lãi suất thế chấp mua bất động sản (mortgage rate) được xác định bởi nhiều yếu tố bao gồm nền kinh tế, nhu cầu mua bán nhà, lợi suất ngân khố phiếu Hoa Kỳ, và đặc biệt là chính sách tiền tệ của Quỹ Dự trữ Liên bang. Lãi suất thế chấp 30 năm cố định ở Hoa Kỳ trung bình ở dưới mức 4% trong suốt hai năm 2020 và 2021 nhưng bắt đầu tăng lên trên 4% kể từ 17/3/2022 khi Quỹ Dự trữ Liên bang cùng trong ngày tăng lãi suất lần đầu lên đến 0,25% - 0,50% để đối phó với lạm phát.
Lãi suất thế chấp tiếp tục tăng dần lên đến đỉnh điểm 7,08% vào ngày 10/11/2022 và sau đó hạ thấp dần theo lãi suất của Quỹ Dự trữ Liên bang. Hiện nay lãi suất thế chấp giảm xuống còn 6,12% vào ngày 9/2/2023 theo Freddie Mac. Nếu Quỹ Dự trữ Liên bang tiếp tục chính sách tiền tệ hạn chế hiện nay, lãi suất thế chấp sẽ tiếp tục bớt xuống. Có nhiều tiên đoán bi quan khác nhau về lãi suất thế chấp trong 2023, nhưng theo Mortgage Bankers Association, lãi suất thế chấp 30 năm cố định sẽ thuyên giảm xuống còn 5,2%.
Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán phản ảnh lợi nhuận của công ty và như vậy cho biết công ty có hoạt động hữu hiệu hay không và sức mạnh của nền kinh tế như thế nào. Thị trường chứng khoán cũng cho biết những gì các nhà đầu tư nghĩ về tương lai của nền kinh tế. Ba chỉ số thị trường chứng khoán quan trọng nhất ở Hoa Kỳ là Dow Jones Industrial Average, S&P 500, và Nasdaq Composite.
Vào đầu tháng 2/2020 một số nhà phân tích vẫn lạc quan rằng đợt bùng phát đại dịch Covid-19 sẽ giảm bớt. Tuy nhiên, sự lây lan ngày càng tăng của virus bắt đầu ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư, khiến thị trường chứng khoán lao dốc kỷ lục. Đại dịch Covid-19 đã gây ra một giai đoạn hỗn loạn cho thị trường chứng khoán, nhưng đã phục hồi một cách tốt đẹp hơn là mong đợi từ sau đại dịch.
Chỉ số Trung bình Dow Jones Industrial Average (DJIA) giảm khoảng 8.000 điểm trong bốn tuần từ ngày 12/2 đến ngày 11/3/2020, nhưng sau đó đã phục hồi lên 33.973,01 điểm vào ngày 11/1/2023. Vào tháng 2/2020 - ngay trước đại dịch toàn cầu Covid-19, chỉ số DJIA đứng ở mức hơn 29.000 điểm một chút.
S&P 500 và Nasdaq Composite cũng bị sụt giảm nghiêm trọng. Từ ngày 4/3 đến ngày 11/3 năm 2020, chỉ số S&P 500 giảm 12%, rơi vào thị trường giá xuống lâu dài. Vào ngày 12/3/2020, S&P 500 lao dốc 9,5%, mức giảm mạnh nhất trong một ngày kể từ năm 1987. Chỉ số này bắt đầu phục hồi vào đầu tháng 4 và tính đến ngày 20/1/2021 đã đạt kỷ lục mới là 3.849,62. Kể từ ngày 11/1/2023, giá trị hàng tuần của S&P 500 là 3.969,61 điểm và đến 16/2/2023 là 4.090,41.
Chỉ số Nasdaq Composite đã giảm khoảng 2.400 điểm trong bốn tuần từ ngày 12/2 đến ngày 11/3 năm 2020, nhưng sau đó đã phục hồi lên 10.931,67 điểm vào ngày 11/1/2023. Vào tháng 2/2020 - ngay trước khi xảy ra đại dịch toàn cầu do vi-rút corona (Covid-19) ) xảy ra đại dịch, chỉ số Nasdaq Composite đứng ở mức hơn 9.700 điểm một chút.
Ngoài Covid-19, trong thời gian gần đây thị trường chứng khoán còn phải chịu ảnh hưởng tăng lãi suất của Quỹ Dự trữ Liên bang trong 2022.
Nguyên tắc là khi lãi suất tăng, giá trị của cổ phiếu có xu hướng giảm vì thu nhập trong tương lai thấp hơn. Khi lãi suất giảm, ảnh hưởng sẽ ngược lại. Vào ngày 4/12/2022, vì lo ngại Quỹ Dự trữ Liên bang tăng lãi suất đáng kể, các nhà đầu tư đã làm chỉ số Dow Jones Industrial Average giảm 482,78 điểm, tương đương 1,4%. Nasdaq nặng về công nghệ giảm 221,56 điểm, tương đương 1,9%, trong khi S&P 500 giảm 72,86 điểm, tương đương 1,8%.
Chứng khoán tăng vào 23/1/2023 khi các nhà đầu tư dự đoán Quỹ Dự trữ Liên bang sẽ tăng lãi suất chậm lại. Nasdaq Composite tăng 2,01%, kết thúc ở mức 11.364,41, trong khi chỉ số Dow Jones tăng 0,76%, kết thúc ở mức 33.629,56. S&P 500 tăng 1,19% lên 4.019,81.
Ngân sách quốc gia thiếu hụt
Kể từ cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới đến nay, hầu như trong tài khóa nào ngân sách quốc gia Hoa Kỳ cũng thiếu hụt. Tuy nhiên trong những năm gần đây ngân sách thiếu hụt tăng vọt lên đến 3.132 tỉ USD, tương đương với 15% GDP vào tài khóa 2020 dưới thời Tổng thống Donald Trump so với 585 tỉ USD tương đương với 3,1% GDP vào tài khóa cuối cùng của tổng thống Barack Obama. Vào 2019 trước khi có đại dịch Covid-19, ngân sách quốc gia cũng đã thiếu hụt 984 tỉ USD tương đương với 4,6% GDP.
Qua tài khóa 2021, Tổng thống Joe Biden đã giảm thiếu hụt ngân sách xuống còn 2.772 tỉ USD tương đương với 12,1% GDP. Theo ước tính của Ngân khố Hoa Kỳ (US Treasury), thiếu hụt ngân sách của tài khóa 2022 chấm dứt vào ngày 30/9 là 1.150 tỉ USD.
Thiếu hụt ngân sách làm tăng nợ quốc gia và có thể làm đảo lộn nền kinh tế nếu tỉ lệ nợ quốc gia so với khả năng trả nợ tức là GDP lên quá cao. Để bù đắp thiếu hụt ngân sách, Chính quyền liên bang trong những năm gần đây phải thương lượng với Quốc hội tăng nợ trần để vay thêm tiền như bán công khố phiếu với lãi suất hấp dẫn. Nhưng lãi suất cao sẽ tạo ra lạm phát và suy thoái kinh tế.
Kết luận
Nền kinh tế Hoa Kỳ đã phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch Covid-19 nhờ những biện pháp kích thích chưa từng thấy. Chỉ hơn hai năm sau cú sốc Covid-19, tỷ lệ thất nghiệp và tổng sản lượng nội địa đã trở lại các mức trước đại dịch. Chính sách kinh tế đã tạo được hơn 11,8 triệu việc làm trong khoảng thời gian từ tháng 1/2021 đến 1/2023.
Gia tăng giá năng lượng, chuỗi cung ứng xáo trộn, và mức cầu phục hồi sau đại dịch là những nguyên nhân gây ra lạm phát trong 2021-2022. Chính sách tiền tệ thâu hẹp chừng mực của Quỹ Dự trữ Liên bang đã giúp lạm phát tiếp tục giảm và nguy cơ trì trệ kinh tế mờ dần. Cố gắng giảm bớt thiếu hụt ngân sách quốc gia cũng đã góp phần đáng kể vào việc kiềm chế lạm phát.
2023 đang chứng một nền kinh tế Hoa Kỳ ổn định ngay trong giai đoạn phức tạp và khó khăn mà cả thế giới đang phải đối phó với những xáo trộn bên ngoài do cuộc xâm lăng Ukraine của Nga gây ra.
Nguyễn Quốc Khải
(15/02/2023)
Chương 1 :
Theo cách hiểu thông thường thì Hoa Kỳ gắn liền với tư bản và thị trường tự do (free market), Châu Âu với nền Dân chủ xã hội (Social Democracy) còn Trung Quốc với Chuyên chế tư bản (Authoritarian Capitalism). Ba mô hình này không chỉ đơn thuần về kinh tế mà còn liên quan đến tổ chức nhà nước và xã hội (dân chủ, độc đảng, bình đẳng v.v.), cũng như đang tranh đua ráo riết để trở thành hình mẫu chinh phục phần còn lại của thế giới chọn lựa noi theo, cho nên phần dưới đây sẽ tìm hiểu sự khác biệt giữa 3 mô hình nói trên.
***
Thị trường tự do gắn liền với tên tuổi của Adam Smith – người Tô Cách Lan (Scotland) vốn được xem như cha đẻ của bộ môn kinh tế học. Ông viết quyển sách luận bàn về Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations, 1776, tức là vào cùng năm với Hoa Kỳ tuyên bố độc lập) trong đó ông phân tích rằng một nước giàu mạnh không phải do tích trữ vàng bạc châu báu mà khi mỗi người dân có tự do để làm việc, tạo ra của cải và trao đổi hàng hóa. Mỗi người tuy sống vì tư lợi (self-interest) nhưng khi sinh hoạt tập quần trong thị trường tự do lại được một bàn tay vô hình (the invisible hand) điều phối để mang lại lợi ích và thịnh vượng chung đến cho toàn thể xã hội.
Một thí dụ của bàn tay vô hình là giữa hàng ngàn người trồng lúa và mua gạo lại dần dần đi đến một thỏa thuận chung về giá cả khiến mọi người đều hài lòng. Trái lại chính quyền không thể quy định phải trồng bao nhiêu cây lúa, mỗi gia đình được mua bao nhiêu ký gạo với giá tiền là bao nhiêu bởi vì bàn tay hữu hình (the visible hand, còn gọi là bàn tay lông lá) của Nhà nước sẽ bóp méo (distort) sự vận hành của thị trường tự do. Cho nên vai trò của chính quyền chỉ giới hạn vào giám sát và an ninh (như ngăn ngừa gian lận và trộm cướp) mà không thể can thiệp vào thị trường tự do.
Xã hội Châu Âu đang công nghiệp hóa trong thời đại của Adam Smith. Ông quan sát một hãng xưởng làm kim (pin factory) để nhận xét rằng năng suất sẽ tăng khi công việc được phân phối ra cho nhiều người. Từ đó ông kết luận giữa các nước phải có tự do mậu dịch để sản xuất được phân công theo lợi thế của từng quốc gia nhằm mang đến lợi ích cho toàn thể nhân loại thay vì bị rào cản bởi thuế má, chính sách bế quan (isolationism) hay trục lợi (mercantilism). Cho nên tên tuổi của Adam Smith ngày nay gắn liền với thị trường tự do (free market) và tự do mậu dịch (free trade).
***
Trước khi bàn về Dân chủ xã hội (Châu Âu) và Chuyên chính tư bản (Trung Quốc) tưởng cũng nên nhắc đến chủ nghĩa cộng sản và Karl Marx bởi vì mô hình kinh tế này tuy đã lỗi thời và biến mất nhưng thuyết cộng sản vẫn còn ảnh hưởng rất mạnh với các lý luận hùng hồn công kích chế độ tư bản.
Marx viết quyển Tư bản luận (Das Kapital) năm 1867, tức là gần 100 năm sau Adam Smith. Ở Châu Âu vào thời đại của Smith chỉ gồm các hãng xưởng vừa và nhỏ nhưng đến Marx đã thành hình những đại xí nghiệp thu dụng vô số công nhân từ nông thôn ra thành phố. Châu Âu ở vào giai đoạn đỉnh điểm của tiến trình công nghiệp hóa và đô thị hóa.
***
Mô hình Dân chủ xã hội có thể được xem như con đường trung đạo nhằm bù đắp cho các thất bại của tư bản mà không dẫn đến cộng sản. Tên tuổi gắn liền với nền Dân chủ xã hội là John Maynard Keynes, người vốn được xem là 1 trong 3 cột trụ trong kinh tế học ngang hàng với Adam Smith và Karl Marx.
Keynes sống ở Anh vào đầu thế kỷ 20 trong giai đoạn cực kỳ hỗn loạn của Châu Âu. Ông chứng kiến cuộc cách mạng Nga năm 1917 và sự ra đời của Nhà nước Xô Viết năm 1922 để kết luận rằng chủ nghĩa cộng sản mang lại nghèo đói và tước đoạt tự do. Keynes tham dự Hòa đàm Versailles chấm dứt Thế chiến thứ nhất nhưng ông phản đối các điều kiện nghiệt ngã do Anh-Pháp đặt ra nhằm trừng phạt nước Đức bại trận, vì sẽ khiến dân Đức phẫn uất mà sau này dẫn đến trào lưu dân túy, phát-xít và Chiến tranh thế giới lần thứ Hai. Keynes chứng kiến cuộc Đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 1929 để kết luận rằng nếu Nhà nước không can thiệp để bù đắp cho các thất bại của thị trường (market failures) thì dân chúng sẽ nổi loạn để rồi dẫn đến các chủ nghĩa dân tộc, phát xít hay cộng sản, hoặc mang lại chiến tranh hay đánh mất tự do.
Keynes viết quyển Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (The General Theory of Employment, Interest and Money) năm 1936 (1). Ông nhận xét rằng kinh tế thị trường trải qua các chu kỳ thăng trầm. Khu vực tư nhân chủ động đầu tư khi tăng trưởng nhưng gặp lúc suy thoái thì đến phiên Nhà nước phải chi tiêu đảo chu kỳ (countercyclical spending) nhằm bù đắp cho các thiếu hụt, giúp tạo công ăn việc làm và thúc đẩy nền kinh tế tái khởi động. Ngày nay thường gọi đây là gói kích cầu (stimulus). Thâm thủng ngân sách (deficit spending) trong khủng hoảng là bắt buộc do chi tiêu công tăng trong khi thuế má thu vào giảm cho đến khi kinh tế trở lại chu kỳ tăng trưởng thì thuế má lại tăng để lấp đầy khoảng thiếu.
Một thí dụ dễ hiểu là cổ xe kinh tế đang chạy ngon trớn trên xa lộ (chu kỳ tăng trưởng) lại sụp ổ gà (chu kỳ khủng hoảng). Chi tiêu nhà nước là ống nhúng tự động (automatic stabilizer) giúp không gãy sườn xe để rồi xe tiếp tục chạy.
Mô hình Dân chủ xã hội khai triển từ Keynes với trách nhiệm của Nhà nước không chỉ nhằm giải quyết khủng hoảng mà còn phải mưu cầu an sinh xã hội như bảo vệ người lao động, trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm y tế và hưu trí đến cho mọi người tức là những thứ mà thị trường tự do không cung cấp. Theo cách nhìn thông thường thì Mỹ theo mô hình thị trường tự do nên kinh tế tăng trưởng nhanh và năng động nhưng về an sinh xã hội lại không bằng so với nền dân chủ xã hội của Châu Âu.
Sang đến thế kỷ 21, mô hình Dân chủ xã hội lại phát huy theo một khuynh hướng mới là Nhà nước không những chỉ thụ động bù đắp cho các khiếm khuyết của thị trường tự do mà còn phải tích cực huy động nền kinh tế giải quyết các vấn đề lớn của thời đại (như bất bình đẳng xã hội, đại dịch toàn cầu hay biến đổi khí hậu) mà khu vực tư nhân không thể nào đảm trách nổi. Nói cách khác, vai trò của Nhà nước ngày càng bành trướng, bắt đầu từ cấp cứu (khủng hoảng kinh tế) đến bao thầu (an sinh xã hội) và nay là chủ động. Chi tiêu nhà nước ngày càng tăng nên thuế má và nợ công cũng vì đó nhảy vọt.
Để tóm tắt, Adam Smith chủ trương bàn tay vô hình điều phối thị trường tự do ; Karl Marx hô hào bàn tay sắt của Nhà nước chỉ huy nền kinh tế ; John M. Keynes đưa ra giải pháp bàn tay hữu hình của Nhà nước bù đắp cho các thất bại của thị trường. Phe ủng hộ cho rằng Keynes cứu sống tư bản (save capitalism) còn bên chống đối tố cáo bàn tay lông lá của Nhà nước rồi sẽ bóp nghẹt thị trường tự do. Nước Mỹ hiện đang chứng kiến trận chiến quyết liệt giữa hai khuynh hướng này.
***
Chuyên chế tư bản được dùng để mô tả Trung Quốc và Việt Nam là hai nước có nền kinh tế thị trường (cạnh tranh kinh tế) nhưng chuyên chế độc đảng (không có cạnh tranh chính trị). Cách nói thông thường là đảng cầm quyền ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Cho nên "màu sắc Trung Quốc" hay "định hướng xã hội chủ nghĩa" đều mang cùng là ý nghĩa chuyên chế độc đảng. Mô hình này hiện do Bắc Kinh phô trương, dựa vào thành tích tăng trưởng ngoạn mục trong gần nửa thế kỷ như một khuôn mẫu cho các nước đang mở mang noi theo, thay vì nền dân chủ hỗn loạn giống như kiểu cách mạng hoa nhài ở Trung Đông rồi nay lan tràn sang cả Âu-Mỹ.
Một tên gọi khác là Tư bản nhà nước (State Capitalism) trong đó Nhà nước chủ động nền kinh tế. Nhưng Chuyên chế tư bản (Authoritarian Capitalism) nhấn mạnh không có cạnh tranh chính trị cho dù có cạnh tranh kinh tế. Mô hình tuy này bị các kinh tế gia phê bình là chứa đầy nghịch lý nên không thể phát triển lâu dài nhưng trên thực tế thì nền kinh tế Trung Quốc (và Việt Nam) tăng trưởng chóng mặt trong gần 40 năm mặc dù lúc nào cũng bị tiên đoán là sẽ sụp đổ vì những mâu thuẫn nội tại. Vì lý thuyết phải phù hợp với thực tế chớ không thể bẻ cong hiện thực để phục vụ lý luận cho nên mô hình chuyên chế tư bản phải có những điểm mạnh và yếu của nó (sẽ được phân tích sau này) thì mới thành công ngoạn mục như vậy.
Theo nhiều dự đoán gần đây nhất, GDP của Trung Quốc sẽ qua mặt Hoa Kỳ vào khoảng năm 2026-2030. Nếu quả thực vậy đây sẽ là một khúc quanh trọng đại trong lịch sử nhân loại không kém gì lúc Mỹ qua mặt Anh để trở thành siêu cường số một trong thế kỷ 20, và sẽ là một chiến thắng tuyên truyền rực rỡ cho Bắc Kinh hơn 100 năm sau ngày Đảng cộng sản Trung Hoa thành hình năm 1921.
Nhiều người cho rằng mức thu nhập đầu người Hoa sẽ không bao giờ sánh bằng Âu-Mỹ cho dù GDP có vượt trội. Nhưng trên phương diện địa chính trị thì chính GDP mới thể hiện sức mạnh và trọng lượng kinh tế của một quốc gia trên thế giới. Thí dụ dễ hiểu là mức thu nhập đầu người dân Na-Uy cao hơn Mỹ nhưng Na-Uy không là một siêu cường vì tỷ trọng GDP quá nhỏ so với toàn cầu. Giữa các nước buôn bán bằng USD nên GDP (tính theo USD) càng lớn thì sức hút càng mạnh để những quốc gia còn lại rơi vào quỹ đạo kinh tế, rồi đến chính trị và văn hóa của mình.
Một nhận xét cuối cùng liên quan đến nền chuyên chế tư bản là Bắc Kinh không cần xây dựng một mô hình kinh tế toàn hảo mà chỉ cần đẩy GDP lớn hơn Mỹ thì cũng đủ để thực hiện thế kỷ Trung Hoa (the China Century). Còn tiên đoán mô hình chuyên chế tư bản sẽ sụp đổ cũng giống như thầy bói đoán "anh sắp chết" rồi thì phải đúng bởi vì ai cũng sẽ chết, nhà nước nào rồi cũng lụn bại.
Từ đầu thế kỷ thứ 21 nhiều kinh tế gia đã nói đến một trận đại hồng thủy (titanic shift) với trọng tâm kinh tế toàn cầu di chuyển từ Phương Tây sang Đông Á với tầm ảnh hưởng đến địa cầu không khác gì giai đoạn Âu-Mỹ công nghiệp hóa để rồi dẫn đến tư bản, thực dân và dân chủ. Cho đến cuối thập niên đầu tiên người ta mới bắt đầu thấy các hậu quả khủng khiếp bao gồm từ sự trỗi dậy của Trung Quốc, cuộc Đại suy thoái 2007-2008, trào lưu dân túy ở Âu-Mỹ vốn dẫn đến Brexit, Trump rồi nay đảo ngược sang Biden, và tương lai GDP của Trung Quốc qua mặt Mỹ không còn xa.
Kinh tế dễ hiểu sẽ tiếp tục trình bày các vấn đề này một cách… dễ hiểu !
Đoàn Hưng Quốc
Nguồn : VNTB, 14/03/2021
________________
Tóm tắt :
1. Tư bản (Capitalism) : thị trường tự do (free market) ; bàn tay vô hình (invisible hand) ; Adam Smith ; Mỹ
2. Cộng sản (Communism) : kinh tế chỉ huy (control economy) ; bàn tay sắt của Nhà nước vô sản (dictatorship of the proletariat) ; Karl Marx
3. Dân chủ xã hội (Social Democracy) : bàn tay hữu hình (the visible hand, hay bàn tay lông lá) của Nhà nước can thiệp bù đắp cho các thất bại của thị trường ; John M. Keynes ; Châu Âu
4. Chuyên chế tư bản (Authoritarian Capitalism) : kinh tế thị trường nhưng chuyên chế độc đảng ; cạnh tranh kinh tế nhưng không có cạnh tranh chính trị ; Trung Quốc và Việt Nam
____________
Ghi chú :
(1) Tựa đề Lý thuyết tổng quát… của Keynes 1936 dựa theo tên gọi Lý thuyết tổng quát về thuyết tương đối (General Theory of Relativity) của Albert Einstein 1915 cho thấy kỳ vọng của Keynes là thay đổi kinh tế học từ nền tảng của Smith và Marx, cũng giống như Einstein thay đổi vật lý học từ nền tảng của Newton. Quyển Lý thuyết tổng quát… của Keynes cực kỳ khó hiểu nên nhà Nobel kinh tế Paul Krugman có lần nhận xét giống như miếng thịt bít-tết thật ngon nhưng nấu chưa chính nên nhai mãi nuốt không trôi (dịch thoát ý).
********************
Chương 2 :
Thị trường
Ba nhân vật trụ cột của bộ môn kinh tế học là Adam Smith, Karl Marx và John M. Keynes. Chương 2 trình bày những lý luận kinh tế đi sau ba vị này ở Mỹ, lý do chọn Hoa Kỳ vì là nền kinh tế lớn nhưng thay đổi qua nhiều thời tổng thống với các chính sách kinh tế khác nhau. Nhưng trước hết để tóm tắt :
Adam Smith chủ trương thị trường có tự do thì dân chúng mới hăng hái làm việc, tạo ra của cải và trao đổi hàng hóa để rồi tất cả mọi người được hưởng lợi ích từ giá trị lao động của chính mình.
Karl Marx phê bình trong chủ nghĩa tư bản giới chủ bóc lột giá trị lao động của thợ thuyền. Lenin duy trì khu vực tư nhân và thị trường nhưng kinh tế do Nhà nước lãnh đạo (New Economic Policy 1921-1928). Đến thời Stalin hoàn toàn loại bỏ thị trường tự do để thay thế bằng nền kinh tế chỉ huy.
John M. Keynes phân tích thị trường lên xuống theo chu kỳ thăng trầm nên Nhà nước phải bù đắp vào những khiếm khuyết của thị trường nhằm ổn định xã hội.
Như vậy ba kinh tế gia lỗi lạc mỗi người đều có một cái nhìn khác nhau về mối tương quan giữa Nhà nước và Thị trường. Mục tiêu phần này nhằm trình bày các trường phái tiếp nối Smith, Marx và Keynes mà không đi đến kết luận bởi vì cuộc tranh cãi này sẽ còn kéo dài thêm vài trăm năm nữa (nhằm tạo công ăn việc làm cho các kinh tế gia !).
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value). Khác ở chỗ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột.
Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá trị biên tế hay Marginal Value.
Thị trường định đoạt giá trị (giá cả, lương bổng) để trao đổi hàng hóa (sản phẩm, lao động). Một người có thể bỏ ra công sức lao động tạo ra một món hàng không giá trị vì không ai mua (giống như Kinh tế dễ hiểu viết mà chẳng ai đọc !). Giá trị của mỗi người ở chỗ làm ra tiền nhiều hay ít là do nơi khả năng của họ đáp ứng nhu cầu của thị trường giỏi hay dở (người Mỹ gọi là "sell yourself", tức là tìm giá tự bán khả năng của mình).
Nhà tư bản để dành tiền dùng làm vốn đầu tư (capital), tức là họ nhịn không hưởng thụ tiện ích ngay bây giờ thay vào đó chuẩn bị cho tiện ích trong tương lai mặc dù gặp nhiều rủi ro thua lỗ hay mất vốn. Cho nên khi nhà tư bản sau này gặt hái lợi lộc từ tiền đầu tư thì không thể bị xem là bóc lột giá trị lao động của thợ thuyền mà ngồi không hưởng lợi. Thương gia tạo ra giá trị bằng cách môi giới và quảng cáo hàng hóa nhằm mang tiện ích đến cho người tiêu dùng (cho dù không trực tiếp lao động tạo ra sản phẩm) nên cũng không thể bị gọi là bóc lột giá trị lao động của công nhân.
Cho nên theo cánh Giá trị biên tế (Marginalists) thì trong thị trường tự do không ai bị ép buộc phải mua hay bán nên tuy có giàu nghèo do nơi mỗi người tạo ra giá trị cao hay thấp nên không có bóc lột.
Quan điểm về Thị trường tự do (Adam Smith) phối hợp với trường phái Giá trị biên tế (Marginalists) được gọi chung là cánh Tân cổ điển (neo-classical), nôm na là Tư bản Mỹ. Thị trường tuy chênh lệch giàu nghèo nhưng không bất công vì giá trị tiện ích cao thấp khác nhau. Nhà nước đừng viện dẫn lý do công bằng xã hội mà thò bàn tay lông lá bẻ cong (distort) thị trường hoặc tìm cách đánh thuế (tịch thu) của nhà giàu cho nhà nghèo (bỏ tiền vào túi nhà nước).
Nhưng như John M. Keynes nhận xét thị trường trải qua các chu kỳ thăng trầm gây ra rất nhiều xáo trộn nên cần đến bàn tay hữu hình của Nhà nước can thiệp nhằm ổn định xã hội. Để trả lời cho vấn nạn này kinh tế gia Milton Friedman (Nobel 1976) chứng minh cuộc Đại khủng hoảng kinh tế 1929 do chính nơi Nhà nước kém cỏi tăng lãi suất quá sớm khiến một cuộc khủng hoảng thuộc loại xoàng xoàng (garden variety crisis) trở thành một cuộc đại khủng hoảng. Nói cách khác, Nhà nước phá hỏng thị trường trước rồi sau này tự khen là cứu vớt thị trường !
Dùng thí dụ cho dễ hiểu, thị trường như cơ thể cần đến trái tim (ngân hàng) bơm máu huyết (tiền). Thiếu máu thì suy thoái (tiền lưu hành ít khó vay mượn đầu tư) ; dư máu sinh lạm phát (tiền lưu hành nhiều thành ra mất giá) ; còn nghẹt tim (ngân hàng kẹt vốn) mà không cấp cứu thì chết ! Cho nên cần một Ngân hàng trung ương độc lập để giám sát hệ thống ngân hàng, để bơm hay hút tiền và kiểm soát lãi suất nhằm giúp cơ thể mạnh khỏe thay vì trông cậy vào Nhà nước siết chặt không cho uống rượu, hút thuốc, v.v. bởi vì Nhà nước sẽ lạm dung.
Xin lưu ý là Ngân hàng trung ương Mỹ (Central Bank hay Federal Reserve – Quỹ Dự trữ liên bang, gọi tắt là the Fed) tuy do Tổng thống và Quốc hội bổ nhiệm nhưng độc lập (ít nhất là trên nguyên tắc) với chính quyền (gồm Hành pháp và Lập pháp). Ngân hàng trung ương quyết định chính sách tiền tệ (monetary policy) trong khi chính quyền quyết định ngân sách (fiscal policy) và thuế khóa (tax policy). Ngân sách và thuế khóa lại là hai quyết định chính trị (political decisions) ưu đãi phe này thiệt thòi phía kia nên chậm chạp, gặp nhiều chỉ trích và sai phạm. Ngược lại Ngân hàng trung ương do một nhóm chuyên gia độc lập quyết định mà không bị áp lực của lá phiếu bầu nên đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế một cách nhanh chóng và hữu hiệu. Cho nên bàn tay hữu hình (the visible hand, hay bàn tay lông lá) nhằm chỉ vào chính quyền thay vì Ngân hàng trung ương.
(Ngược lại Ngân hàng trung ương của các nước chuyên chế tư bản gồm Trung Quốc và Việt Nam không độc lập vì là cánh tay của Nhà nước sai bảo cho công ty quốc doanh hay tư nhân nào vay mượn thì phải vâng lời).
Hai trường phái Giá trị biên tế (Marginalists) và Tiền tệ (Monetarists) đặt nền tảng lý thuyết cho kinh tế thị trường và Ngân hàng trung ương ở Mỹ trong suốt 40 năm từ 1981-2021. Thống đốc Ngân hàng trung ương Paul Vocker nổi tiếng nhờ cắt lượng tiền lưu hành chặn đứng lạm phát phi mã năm 1979. Tổng thống Ronald Reagan tuyên bố "Nhà nước tạo ra vấn đề thay vì giải quyết vấn đề" (Government is not the solution to our problem, government is the problem) năm 1981, tức là Nhà nước không can thiệp vào thị trường tự do, đồng thời chủ trương giảm thuế để tư nhân có thêm tiền đầu tư hay tiêu xài (nghịch lý là giảm thuế nhưng vẫn tăng chi, lý do một khi Nhà nước đã mập thì ngay cả Reagan cũng không dám mổ bụng hút mỡ !)
Cho nên từ 1981-2021 nước Mỹ tuy áp dụng kinh tế thị trường tự do (free market economy) nhưng vai trò của Ngân hàng trung ương rất lớn. Nếu trên sân khấu thị trường tự do là cô đào thì Ngân hàng trung ương là kép 1 còn chính quyền (Hành pháp và Quốc hội) là kép 2. Dù vậy Ngân hàng trung ương bị chỉ trích là có bàn tay nhám nhúa ưa sờ soạng, trong khi bàn tay lông lá của Nhà nước lúc nào cũng đòi bóp… mạnh hay nhẹ tùy theo đảng Cộng hòa hay Dân chủ.
Donald Trump là Tổng thống không giống ai nên công khai hù dọa Ngân hàng trung ương trên Twitter khi Thống đốc Jerome Powell tăng lãi suất quá nhanh. Báo chí phản đối Trump đe dọa tính độc lập của Ngân hàng trung ương (nhưng kết quả cho thấy Trump đúng Powell sai). Dù vậy Trump vẫn thuộc cánh thị trường tự do vì bớt giám sát (de-regulation) và giảm thuế cho dù ngân sách tiếp tục tăng.
Cho đến năm 2021 khi Biden làm Tổng thống và đảng Dân chủ nắm Quốc hội thì Ngân hàng trung ương mới sẽ nhường chỗ cho Nhà nước làm kép chánh trên sân khấu, tức là Milton Friedman cùng hai trường phái Giá trị biên tế và Tiền tệ bị thay thế bởi lý thuyết John M. Keynes cùng với thuyết Tân tiền tệ (Modern Monetary Theory – Stephanie Kelton). Hơn thế, Nhà nước không chỉ can thiệp (government intervention) mà nay phải chủ động (government activism – Mariana Mazzucato) vào nền kinh tế. Thập niên 2020 là thời đại của các kinh tế gia phụ nữ !
Xin mời đọc các chương kế tiếp.
Đoàn Hưng Quốc
Nguồn : VNTB, 25/03/2021
______________
Tóm tắt :
1. Phái Cổ điển (Classical Economic) Adam Smith và Karl Marx : lao động (labour) tạo ra giá trị (value). Marx lên án tư bản bóc lột giá trị lao động.
2. Phái Tân cổ điển (Neo-classical Economic) : giá trị (value) là do tiện ích (utility). Thí dụ lương bổng cao hay thấp do thị trường trả giá theo nhu cầu tiện ích nhiều hay ít nên không có bóc lột.
3. Phái Tiền tệ (Monetarists) : tiền trong kinh tế như máu huyết trong cơ thể. Thiếu máu thì yếu (suy thoái) còn dư máu thì căng đứt mạch máu (lạm phát).
4. Ngân hàng trung ương, tức Ngân hàng Dự trữ liên bang Hoa Kỳ hay Cục Dự trữ liên bang (Federal Reserve System - FRS hay FED) độc lập với chính quyền, và kiểm soát lượng tiền (máu trong cơ thể) mà không bẻ cong (distort) thị trường như bàn tay lông lá của Nhà nước.
5. Cộng lại có 4 bàn tay :
________________
[1] Chú ý : Hai chữ rent (tiền thuê) và rent seekers (ngồi không hưởng lợi) có ý nghĩa rất quan trọng trong sách vở kinh tế Anh-Mỹ nên cần giải thích cặn kẽ dưới đây :
Rent seekers dịch theo cộng sản là thành phần hút máu mủ giai cấp công/nông dân (tư bản, địa chủ) nhờ vào vốn (capital) hay tiền thuê đất (rent) rồi ngồi không hưởng lợi mà không phải lao động.
Rent hiểu theo nghĩa rộng hiện giờ gồm tất cả mọi thứ cản trở thị trường tự do : bảo hộ (protectionism), độc quyền (monopoly), bản quyền (patent), tập đoàn, phe phái, v.v.
**********************
Chương 3 :
Bàn tay hữu hình của Nhà nước dưới thời Biden
Nhắc lại chương 1 & 2 :
1. Adam Smith : bàn tay vô hình điều hợp thị trường nơi đó tư nhân tự do tạo ra của cải và trao đổi hàng hóa ; Nhà nước chỉ giữ vai trò giới hạn nhằm bảo đảm an ninh và trật tự.
2. John M. Keynes : bàn tay hữu hình của Nhà nước phải tích cực can thiệp và bù đắp các sai sót của thị trường (market failures).
Dù Smith hay Keynes thì Nhà nước vẫn giữ vai trò hỗ trợ dù nhiều hay ít nhưng chỉ có tư nhân mới tạo ra của cải và sự thịnh vượng. Do Keynes chú trọng đến sự can thiệp tích cực của Nhà nước nên phe tán đồng cho rằng ông cứu vớt tư bản vì ngăn ngừa không cho những xáo trộn của thị trường dẫn đến khủng hoảng kinh tế rồi sau đó là bạo loạn, cách mạng để cuối cùng đi đến cộng sản hay phát-xít. Phe chống đối cảnh giác mô hình dân chủ xã hội kiểu Keynes rồi sẽ trở thành xã hội chủ nghĩa, bởi vì bàn tay thô bạo của Nhà nước mỗi ngày sẽ tăng thuế má và quyền lực để rồi bóp chết thị trường tự do, cho nên họ lên án chính sách kinh tế của Biden đang đi trên con đường thứ 2 này. Ngược lại những người ủng hộ giải thích Biden mở rộng vai trò của Nhà nước chính vì những bất cập của thị trường.
Trong tư bản Mỹ thì tư nhân tạo ra giá trị (value) nhờ mang lại tiện ích (utility) khi sản xuất hàng tiêu dùng. Giá cả (price) lại là thước đo giá trị : hàng đắt vì giá trị cao nên nhiều người muốn mua ; một người được trả lương lớn vì thỏa mãn nhu cầu tiện ích của xã hội. Quan điểm này tuy hợp lý về kinh tế nhưng lại sinh chuyện lấn cấn về đạo đức bởi vì giá trị của một người thành ra họ làm tiền nhiều hay ít (người Mỹ gọi là make money dịch sát tiếng Việt là làm ra tiền nên đúng cả nghĩa đen lẫn bóng).
Nói rộng ra thì giá trị (hay tính chính đáng – legitimacy) của nhiều nhà nước như Trung Quốc và Việt Nam ngày nay đặt nơi GDP tăng trưởng nhanh hay chậm, tức là Nhà nước có thành công đẩy quốc gia làm ra tiền nhiều hay ít thay vì chú trọng đến hạnh phúc, bình đẳng và an sinh xã hội (môi trường, giáo dục, y tế, v.v.).
Bên cạnh đó, giá cả không phải lúc nào cũng phản ảnh giá trị thực tế bởi vì thị trường có thể bơm lên bong bóng. Những ngành nghề chuyên môn "làm ra tiền" như thị trường tài chính ở Mỹ ngày nay chiếm đến gần 8% GDP mà không hề sản xuất ra một vật dụng tiêu dùng nào. Các công ty tài chính phân bua họ mang đến tiện ích nhờ cung cấp vốn cho doanh nghiệp và cơ hội đầu tư cho dân chúng (điều này đúng) nên khi giá địa ốc và chứng khoáng bay bổng thì họ thu vào lợi nhuận khổng lồ. Nhưng, ngược lại, lúc các ngân hàng đầu tư cẩu thả như trong cuộc Đại suy thoái năm 2007 lại không gánh chịu trách nhiệm đã hủy hoại giá cả trên thị trường (value destruction) khiến hàng chục triệu dân chúng mất nhà mất việc và suýt làm sụp đổ nền kinh tế. Cho nên "làm ra tiền" không hẳn đã tạo ra giá trị.
Tài sản của 26 người giàu nhất thế giới hiện ngang bằng 50% phần còn lại của nhân loại (1). Riêng ở Mỹ vào năm 2017, của cải của 3 nhà giàu nhất nước nhiều hơn 50% dân chúng còn lại (2). Những tỷ phú như Jeff Bezos hay Mark Zuckerberg quả tình mang đến tiện ích cho hàng tỷ con người qua các dịch vụ trên Amazon và Facebook, nhưng khó lòng giải thích tài sản hàng trăm tỷ của họ 100% là đến từ giá trị tiện ích, mà không phải nhờ các công ty này bẻ cong luật pháp và bóp méo thị trường nhằm tránh thuế và giết chết cạnh tranh.
Ở Mỹ hay nhiều nước khác ngày nay tuy không bóc lột lao động (mất việc hay không chịu đi làm thì lãnh trợ cấp nhà nước) nhưng vô cùng chênh lệch : nhiều gia đình làm việc quần quật nhưng vẫn sống chật vật với đồng lương thấp trong khi một số khác hưởng lợi to nhờ giá bất động sản và chứng khoán tăng vọt. Một khi quần chúng phẫn nộ cho là bất công thì mô hình kinh tế phải thay đổi, bởi vì mô hình kinh tế phải phục vụ con người chớ xã hội không thể bị bẻ cong vì lý thuyết kinh tế (trừ độc tài cộng sản !).
Cho dù thị trường tự do có những khuyết điểm như trên nhưng nhiều người e sợ bàn tay thô bạo của Nhà nước một khi can thiệp để lấp bớt hố sâu giàu nghèo sẽ khiến mọi người cùng nghèo như nhau (equality = equally poor). Tuy nhiên bài học của Nam Hàn, Đài Loan, Trung Quốc cho thấy có những trường hợp bàn tay hữu hình của Nhà nước đưa quốc gia trở nên cường thịnh trong thời gian kỷ lục. Một thực tế khác nữa là các công ty Âu-Mỹ-Nhật đều không thể cạnh tranh với Nhà nước cộng sản trong thị trường ở Trung Quốc, tức khu vực tư nhân cần đến sự hỗ trợ tích cực của chính quyền trong thương mại quốc tế.
Cuối cùng, có những vấn nạn của thời đại như đại dịch Vũ Hán và biến đổi khí hậu đòi hỏi quy mô ở tầm vóc quốc gia hay quốc tế mà khu vực tư nhân không thể nào đảm trách nổi, cho nên cần đến bàn tay của Nhà nước huy động nhân vật lực của cả một nước hay phối hợp toàn cầu để đối phó.
***
Những khuyết điểm nói trên của thị trường tự do ngấm ngầm làm sôi sục lên hai làn sóng phản đối, một bên cánh hữu dân túy (Brexit, Trump) và bên kia cánh tả xã hội (Bernie Sanders, Elizabeth Warren). Chính sách kinh tế của Biden thể hiện sự đắc thắng của cánh tả, ít nhất là cho đến kỳ tái đấu bầu Quốc hội năm 2022.
Trong suốt 40 năm, từ thời Reagan (1981) cho đến Trump (2020), các tổng thống Mỹ đều tránh né để không bị gọi là Big Government, tức là bóng đen của một Nhà nước to lớn che phủ lên toàn bộ nền kinh tế. Ngay khi Nhà nước can thiệp mạnh bạo trong lần Đại suy trầm (Obama, 2007-2009) hay Đại dịch Vũ Hán (Trump, 2020) thì các chính quyền cũng chỉ giải thích do nhu cầu hỗ trợ nền kinh tế. Tranh cãi giữa hai đảng Cộng hòa và Dân chủ là nơi Nhà nước "lấn" nhiều hay ít vào thị trường tự do.
Đến Biden thì Nhà nước không chỉ can thiệp thụ động (government intervention) mà phải tích cực chủ động (government activism) nền kinh tế vì 3 lý do :
1. Chính sách kinh tế của Nhà nước phải chủ động mang lại công bằng xã hội (equality) và bình đẳng màu da, giới tính (racial, gender equity), tức là những điều mà thị trường tự do không thể giải quyết (3).
2. Chính sách kinh tế của Nhà nước phải chủ động đối phó với đại dịch Vũ Hán và biến đổi khí hậu vốn là những vấn đề lớn của thời đại mà khu vực tư nhân không đủ sức cáng đáng.
3. Chính sách kinh tế của Nhà nước phải chủ động tạo ra tiện ích và giá trị kinh tế.
Điểm thứ 3 là một thay đổi cực kỳ sâu rộng trong lý luận vì đi xa hơn cả John M. Keynes, tức không chỉ tư nhân mà Nhà nước cũng tạo ra giá trị kinh tế. Hai thí dụ thường được nêu lên là Nhà nước đã đầu tư khai sinh công nghệ bán dẫn (semiconductor) và Internet mà sau này các công ty tư nhân như Intel, Apple, Google… khai thác làm thay đổi bộ mặt nhân loại. Cho nên theo kinh tế gia Mariana Mazzucato và các chính trị gia cánh tả, như Bernie Sanders, Elizabeth Warren và Biden, thì Nhà nước không thể chỉ "rụt rè" hỗ trợ mà phải "táo bạo" (cánh tả dùng chữ tiếng Anh là "bold") đầu tư và điều khiển khu vực tư nhân vào những công trình làm biến đổi thế giới như năng lượng xanh (green energy), trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence) và vi sinh học (biotechnology) (4).
Kinh tế của các nước công nghiệp gồm Âu-Mỹ-Nhật đang ở trong tình trạng đình trệ lâu dài (secular stagnation – Larry Summers) từ đầu năm 2000 cho đến nay, tức là tư nhân không đầu tư vào sản xuất để tạo công ăn việc làm trong nước mà di dời hãng xưởng sang Đông Nam Á nhằm khai thác nguồn nhân công rẻ và các quy định kiểm soát lỏng lẻo. Thu nhập của giới công nhân và thành phần trung lưu vừa và thấp không hề tăng trong suốt 30 năm kể từ ngày toàn cầu hóa. Như vậy thị trường tự do và tự do mậu dịch đã không đáp ứng đủ nhu cầu của xã hội cho nên Nhà nước phải chủ động đầu tư ào ạt vào giáo dục, hạ tầng và các công nghệ tiên tiến nhằm tạo công ăn việc làm và thúc đẩy nền kinh tế cạnh tranh với đà vươn lên của Trung Quốc. Nói cách khác, chính sách công nghiệp quốc gia (national industrial policy) và tư bản dân tộc là những quan điểm cấm kỵ trong suốt 40 năm từ thời Ronald Regan (1981) nay bắt đầu xuất hiện trở lại.
Nhà nước chủ động can thiệp nên phải… xài lớn. Chưa đầy 3 tháng từ khi nhậm chức mà Biden đã xài 1.900 tỷ USD kích cầu (stimulus spending) rồi nay đề nghị thêm 2.000 tỷ USD đầu tư hạ tầng (infrastructure spending). Đây là chưa kể đến những chương trình vô cùng tốn kém tiếp theo như hủy bỏ một phần nợ cho sinh viên (student loan cancellation), giữ trẻ miễn phí, y tế cho mọi người (medicare for all), giáo dục cho mọi người (education for all) và lương căn bản cho mọi người (UBI, hay Universal Basic Income). For all dịch sang tiếng Việt là của toàn dân. Câu hỏi ở đây là tiền đâu mà xài dữ vậy trong khi mà nước Mỹ đang mắc nợ như chúa chổm ?
Câu trả lời thứ nhất là thế giới đang tràn ngập tiền tiết kiệm (savings glut – Ben Bernanke) do 4 nguyên nhân :
(1) Hố sâu giàu nghèo – tiền của tích tụ vào nhà giàu xài không hết nên còn dư để dành ;
(2) Chênh lệch mậu dịch – các nước như Trung Quốc hay Việt Nam tích tụ những khoảng dự trữ ngoại tệ khổng lồ nhằm thao túng tiền tệ và đề phòng nạn tư bản tháo vốn ;
(3) Trong những năm giá dầu nhảy vọt thì khối các nước sản xuất dầu như Nga, Saudi và Na Uy thu về các khoản lợi nhuận khổng lồ (nhưng khối tiền này đang vơi dần trong những năm gần đây) ;
(4) Dân chúng Âu-Mỹ-Nhật để dành tiền trong các quỹ hồi hưu.
Vì tiền tiết kiệm tràn ngập nên nước Mỹ có thể tha hồ vay mượn với lãi suất âm (negative interest rate, sau khi trừ lạm phát) dại gì không mượn để đầu tư hay tiêu xài… cho sướng !
Một hệ lụy là Mỹ nợ 100% hay 150% GDP không còn quan trọng miễn là giữ tiền trả nợ hàng năm dưới 2% GDP. Vì nếu tăng trưởng hay lạm phát cũng khoảng 2% thì nợ sẽ dần dần bốc hơi biến mất (Larry Summers và Jason Furman, tức hai tay đại phù thủy kinh tế gia "hô biến" thì nợ biến mất !).
Điểm cuối cùng nhưng quan trọng là thuyết Tân tiền tệ (Modern Monetary Theory hay MMT – Stephanie Kelton) lý luận rằng Mỹ mượn nợ bằng USD nên không bao giờ quỵt nợ vì có thể in USD trả nợ ! Mỹ chỉ không mượn được nợ ngày nào thế giới "chê" đô-la vì USD mất giá (như trước đây dân Việt "chê" tiền Bác Hồ mất giá quá nhanh nên chuộng vàng và USD). Mỹ mượn nợ ào ạt từ 6% GDP năm 2000 nay tăng vọt lên 109% GDP năm 2020 vậy mà lãi suất thực rơi từ 4,1% xuống chỉ còn -0,1%, tức là ngày càng thêm nhiều người muốn cho Mỹ mượn tiền. Vì thế giá USD không giảm so với EUR (Euro), JPY (Yen), CNY (Nhân dân tệ) hay ngay cả VND (đồng Việt Nam). Thí dụ cho dễ hiểu, Việt Nam hiện có khoảng 80 tỷ USD trong quỹ, cộng với thu vào hàng năm trên 60 tỷ USD từ chênh lệch mậu dịch, vậy mà Việt Nam tuy dư thừa USD nhưng vẫn không "chê" USD, trái lại chỉ sợ Mỹ không chịu in tiền hay mượn tiền để mua hàng Việt Nam. Việt Nam không lo USD cao giá chỉ sợ USD mất giá !
Nước Pháp có lần tức giận gọi Mỹ được hưởng tiện nghi quá đáng (exorbitant privilege) nhờ vai trò đồng đô-la. Ngược lại nhiều chuyên viên kinh tế cho rằng Mỹ mang gánh nặng quá đáng (exorbitant burden) cũng vì USD – nhưng đây là câu chuyện sẽ bàn về sau. Còn nay trở lại với thuyết MMT thì Mỹ cứ tiếp tục in tiền hay vay tiền cho đến khi lạm phát, tức là USD bắt đầu mất giá !
Đoàn Hưng Quốc
Nguồn : VNTB, 06/04/2021
Tóm tắt :
1. Nhà nước phải táo bạo (bold) chủ động thúc đẩy nền kinh tế thoát khỏi tình trạng đình trệ lâu dài (secular stagnation) để mang lại công bằng xã hội (equality), để đầu tư vào công nghiệp xanh, trí tuệ nhân tạo hay vi sinh học nhằm đưa nền kinh tế Mỹ tiếp tục dẫn đầu so với đà trỗi dậy của Trung Quốc.
2. Nhà nước phải xài tiền cho bạo chừng nào mà Mỹ còn có thể mượn tiền gần không giới hạn do tình trạng tràn ngập tiết kiệm (savings glut), và bởi Mỹ in USD trả nợ nên không bao giờ quỵt nợ (MMT).
___________________
Ghi chú :
(1) "Word’s 26 richest people own as much as poorest 50%", The Guardian 01/20/2019
(2) "The 3 richest Americans hold more wealth than botto 50% of the country", Forbes 11/09/2017
(3) Chính sách kinh tế nặng về xã hội của Biden được cánh tả xem là bước thứ 3 tiếp nối The New Deal của Franklin D. Roosevelt (thập niên 1930) và The Great Society của Lyndon B. Johnson (thập niên 1960). Khuynh hướng này suy yếu từ thời Ronald Reagan (1981) cho đến nay mới bộc phát trở lại. Các chương sau sẽ trình bày rõ ràng hơn về tiến trình kinh tế nước Mỹ.
(4) Cái khó là chưa có cách để đo lường các "giá trị" của Nhà nước tạo ra. Tư nhân đầu tư thua lỗ sẽ bị phá sản. Trái lại Nhà nước thua lổ bị phá sản thì dân chúng… chết trước chớ đợi gì tới bầu cử thay đổi lãnh đạo.
*************************
Chương 4 :
Nhà nước và Ngân hàng trung ương
Chương 2 phân biệt giữa bàn tay hữu hình của Nhà nước và bàn tay Midas của Ngân hàng trung ương. Tưởng cũng nên tìm hiểu thêm sự khác biệt giữa hai cơ quan chính quyền này ở Mỹ.
Nếu so sánh với nuôi con thì có 2 việc là cho ăn và dạy dỗ. Ăn uống phải đầy đủ và điều độ (không mặn, ngọt, béo, v.v.) để cơ thể khỏe mạnh. Giáo dục không gò bó thì trẻ hoặc hư hay cương cường tự lập, trái lại rầy la đánh đập hay nuông chiều thì trẻ sinh ra nhút nhát, kém tự tin hoặc ỷ lại.
Ngân hàng trung ương ví với bàn tay Midas nuôi dưỡng thức ăn (tiền) cho nền kinh tế, trong khi bàn tay hữu hình (hay thô bạo) của Nhà nước (gồm Hành pháp và Quốc hội ở Mỹ) có quyền hạn thả lỏng hay siết chặt thị trường.
Phái thị trường tự do (từ Reagan 1981 đến Trump 2020) quan niệm rằng :
- Bàn tay Midas của Ngân hàng trung ương điều chỉnh lượng tiền và lãi suất trong nền kinh tế như nuôi cơ thể ăn uống điều độ ;
- Bàn tay thô bạo của Nhà nước phải để thị trường phát triển tự do (trẻ tự lập) mà đừng can thiệp bẻ cong thị trường ;
- Trong khủng hoảng thì vai trò chính là của Ngân hàng trung ương điều chỉnh lượng tiền cho đúng mức thì kinh tế sẽ phục hồi, cũng giống như cơ thể ăn uống điều độ sẽ mạnh khỏe trở lại ;
- Khủng hoảng kinh tế dẫn đến xáo trộn xã hội. Do Nhà nước chịu áp lực bởi tâm lý bất mãn nhất thời trong quần chúng nên các quyết định chính trị nhất thời của Nhà nước nhằm thoả mãn một thành phần cử tri sẽ tác hại lâu dài đến sinh hoạt của thị trường tự do.
- Cho nên Ngân hàng trung ương phải độc lập khỏi Nhà nước để có những quyết định chuyên môn với mục đích duy nhất là hỗ trợ cho nền kinh tế mà không bị tác động bởi chính trị.
Phái Nhà nước chủ động (Biden) cho rằng thị trường đã được thả lỏng trong 40 năm đâm ra hư hỏng, nên nay phối hợp :
- Bàn tay hữu hình của Nhà nước uốn nắn (hay bẻ cong – distort) thị trường để trừng trị thói hư tật xấu ;
- Bàn tay Midas của Ngân hàng trung ương tiếp tục điều chỉnh lượng tiền và lãi suất như cũ ;
- Thị trường tự do trong 40 năm chẳng những không giải quyết mà còn làm trầm trọng thêm bất bình đẳng và hố sâu giàu nghèo trong xã hội ;
- Hoa Kỳ mất dần ưu thế so với Trung Quốc do các công ty tư nhân tham lợi, cho nên phải đặt lại vai trò của Nhà nước Mỹ đối đầu với Nhà nước Trung Quốc về mậu dịch (trade) hay chính sách công nghiệp quốc gia (national industrial policy) ;
- Hệ thống hạ tầng của Mỹ được xây từ thập niên 1930 nay đã hư hỏng nên cần đầu tư ồ ạt để sửa chữa và canh tân theo đà tiến của thế kỷ thứ 21 ;
- Nước Mỹ và thế giới đang đối đầu với những nan đề của thế kỷ như đại dịch Vũ Hán và biến đổi khí hậu mà chỉ có Nhà nước mới có thể huy động nhân vật lực toàn quốc để phối hợp với thế giới đối phó ;
- Đã đến lúc nhà nước táo bạo (bold) chủ động nền kinh tế với sự hỗổ trợ của Ngân hàng trung ương.
Nếu thị trường là cô đào thì từ thời Reagan đến Trump, Ngân hàng trung ương là kép 1 còn Nhà nước là kép 2. Đến Biden đổi vai trò Nhà nước thành kép 1 trong khi Ngân hàng trung ương là kép 2.
Nhà nước ở đây bao gồm Hành pháp và Lập pháp, tức là chính quyền dân cử nên các quyết định chính trị thường là bị áp lực của cử tri.
Ngân hàng trung ương gồm những chuyên viên kinh tế do Tổng thống đề cử và Quốc hội chấp thuận (tức là không do dân chúng chọn lựa) để có các quyết định đơn thuần về kinh tế.
Quyền lực nhà nước rất lớn. Bàn tay của Nhà nước gọi là hữu hình (hay thô bạo) vì các chính sách về giám thị (regulations), thuế má (tax policy) và ngân sách (fiscal policy) đều có thể hổ trợ hay bóp nghẽn thị trường tự do.
Vai trò của Ngân hàng trung ương giới hạn trong kiểm soát các ngân hàng tư nhân, lãi suất ngắn hạn và lượng tiền lưu hành. Được ví với bàn tay Midas (vua Midas sờ vật gì cũng thành vàng) do Ngân hàng trung ương bấm chuột ra tiền để bơm vào hay hút ra khỏi thị trường. Tiền quan trọng trong tư bản cũng như thức ăn nuôi cơ thể :
- ăn uống điều độ giúp cơ thể khỏe mạnh ;
- thiếu ăn (tiền lưu hành ít) thành suy nhược (kinh tế suy trầm) ;
- ăn nhiều (tiền lưu hành nhiều) sanh béo phì (lạm phát) ;
- áp huyết phải vừa đúng (gọi là lãi suất tự nhiên hay natural interest rate) còn nếu máu cao hay thấp phải uống thuốc ;
- nghẽn tim hay đứt mạch máu (ngân hàng kẹt vốn) phải cứu cấp.
Ngân hàng trung ương tuy quyền lực không bao trùm như Nhà nước nhưng chỉ riêng hai việc bơm hay rút tiền cũng đủ để nền kinh tế tăng trưởng mạnh hay yếu. Bàn tay của Ngân hàng trung ương chỉ đẻ ra tiền nhưng bẻ quẹo thị trường tương tự như vua Midas sờ ra vàng mà thành ra đói khi thức ăn cũng thành vàng.
Tiền bơm vào kinh tế khiến phân lời thấp (cheap money), doanh nghiệp dễ vay mượn (easy money) và mướn người nên thúc đẩy tăng trưởng.
Nhưng lượng tiền lưu hành nhiều quá thành ra mất giá (lạm phát).
Dễ vay mượn thì kinh tế tăng trưởng nóng (bong bóng).
Muốn hạ nhiệt phải rút bớt lượng tiền lưu hành khiến lãi suất tăng.
Kinh tế nguội với tình trạng kéo dài của doanh nghiệp không đầu tư, tư nhân không tiêu xài.
Thị trường chứng khoán nhắm vào chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương mà lên hay xuống : kinh tế lên thì sàn chứng khoán tăng ; kinh tế xuống thì sàn chứng khoán hạ.
Thị trường địa ốc cũng nhắm theo chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương mà tăng hay giảm : tiền lời thấp giá nhà lên vì nhiều người mua ; tiền lời cao giá nhà xuống do bớt người mua.
Nước chảy vào lỗ trũng còn tiền chạy đến chỗ nào sinh lời. Tiền ở Mỹ do Ngân hàng trung ương bơm ra không thúc đẩy sản xuất (do hãng xưởng di dời sang Đông Nam Á để khai thác nhân lực rẻ) mà chạy sang ngành dịch vụ (service sector như du lịch, thời trang, nhà hàng…), phần còn lại bơm giá địa ốc và cổ phiếu (tiền rẻ dễ mua nhà ; tiền dư mua chứng khoán). Do lương bổng trong sản xuất cao hơn dịch vụ nên kết quả là thu nhập của giới lao động thợ thuyền không tăng. Trong khi đó tài sản của những người mua nhà và chứng khoán lại nhảy vọt. Kết quả là hố sâu giàu nghèo tăng không dựa vào giá trị lao động (labor value) hay giá trị tiện ích tăng giảm (marginal utility value) mà do của cải (tiền đẻ ra tiền cho nên nhà giàu càng giàu thêm).
Rõ ràng là bàn tay Midas của Ngân hàng trung ương cho dù không thô bạo nhưng vẫn bẻ cong (distort) thị trường "tự do" : giá cả không do thị trường quyết định mà tùy thuộc vào chính sách của Ngân hàng trung ương. Nhiều người thắc mắc 12 ông bà bỏ phiếu trong ban lãnh đạo của Ngân hàng trung ương không do dân bầu mà sao uy quyền dữ vậy ?
***
Ngân hàng trung ương ra đời ở Mỹ vào cuối thế kỷ 19 nhằm giám sát các ngân hàng tư nhân. Giả dụ :
- Ngân hàng A cho vay cẩu thả nên thua lỗ ;
- Tin đồn khiến dân chúng hốt hoảng kéo nhau rút tiền không những từ ngân hàng A (yếu) mà cả các ngân hàng B và C (mạnh) ;
- Ngân hàng A (yếu) bị phá sản mà các ngân hàng B, C (mạnh) cũng hụt vốn. Thí dụ cho dễ hiểu hàng ngày có khoảng 10% dân chúng rút tiền nên các ngân hàng chỉ dự trữ 20% tiền mặt. Gặp lúc hoảng loạn 30% dân chúng xếp hàng rút tiền nên các ngân hàng sẽ thiếu tiền mặt ;
- Ngân hàng B, C cạn tiền mặt nên thủ vốn không cho doanh nghiệp D, E, F, G vay mượn ;
- Doanh nghiệp D, E (yếu) bị phá sản ; doanh nghiệp F, G (mạnh) cũng cắt bớt nhân viên sinh ra nạn thất nghiệp ;
- Ngân hàng B, C (mạnh) còn tăng vốn bằng cách bán bớt tài sản ngân hàng. Giá trị tài sản xấu lúc này đã lủng đáy nên ngân hàng B, C (mạnh) bắt buộc phải bán các tài sản tốt ;
- Giá cả tài sản tốt trên thị trường không liên quan gì đến ngân hàng A (yếu) nhưng chịu ảnh hưởng dây chuyền phải phá giá.
Khủng hoảng tài chánh (financial crisis) tai hại do lây lan nhanh như dịch cúm Tàu (ngược lại các loại khủng hoảng như bong bóng trứng cút, đuôi cắc kè, bong bóng điện toán (hi-tech bubble) chỉ giới hạn trong một khu vực nên giống như bệnh ung thư tuy nan y mà lại không lây).
Trở lại với thí dụ ở phần trên thì Ngân hàng trung ương phải siết chặt giám sát (regulations) để các ngân hàng tư không cho vay cẩu thả ; đồng thời bắt buộc các ngân hàng tư phải tăng quỹ dự trữ lên 40% để đề phòng trường hợp 30% dân chúng cuốn cuồn rút tiền. Các ngân hàng tư như vậy chỉ còn lại 60% lượng tiền cho vay ra thị trường – tức là tiền bị hút ra khỏi thị trường khi các ngân hàng tư tăng dự trữ.
Ngược lại, khi kinh tế cần tăng trưởng, Ngân hàng trung ương bơm thêm tiền vào thị trường bằng cách cho phép ngân hàng tư giảm dự trữ.
***
Cách thứ hai để Ngân hàng trung ương bơm tiền là in thêm tiền mới (nhà máy in bạc thuộc Bộ Tài chánh). Ngân hàng trung ương dùng tiền mới để mua vào các tài sản của ngân hàng tư. Tài sản của ngân hàng tư gồm các trái phiếu cho Nhà nước và tư nhân vay mượn. Ngân hàng tư bán một số các trái phiếu này cho Ngân hàng trung ương để Ngân hàng trung ương cung cấp tiền mặt. Ngân hàng tư có thể dùng số tiền này để tăng quỹ dự trữ hay tăng vốn cho vay tiền lưu hành trong thị trường (money expansion).
Ngược lại Ngân hàng trung ương hút tiền ra khỏi thị trường bằng cách bán ra (hoàn trả) số trái phiếu nói trên cho các ngân hàng tư mua trở lại. Các ngân hàng tư phải rút tiền về để mua lại số tài sản thế chấp – tức là lượng tiền lưu hành giảm.
Bàn tay Midas của Ngân hàng trung ương quả là bấm chuột ra tiền !
***
Midas là vua nhưng ở Mỹ Nhà nước mới là hoàng đế. Pháp thuật đẻ ra tiền của Ngân hàng trung ương mà rơi vào tay Nhà nước vô cùng nguy hiểm bởi vì trước mỗi lần bầu cử là Tổng thống và Quốc hội sẽ ép Ngân hàng trung ương in thêm tiền cho kinh tế tăng trưởng để dụ dỗ dân chúng bỏ phiếu cho phe mình còn hậu hoạn như lạm phát thì sẽ tính sau.
Cho nên trên nguyên tắc Ngân hàng trung ương độc lập đối với Nhà nước. Các quyết định của Ngân hàng trung ương đơn thuần về kinh tế như chống lạm phát, chống suy thoái, tạo công ăn việc làm mà không thể bị áp lực chính trị của đảng Cộng hòa hay là Dân chủ.
***
Trong lần Đại khủng hoảng tài chánh năm 2007-2008, các ngân hàng lớn ở Mỹ cho vay cẩu thả nên khi thị trường địa ốc sụp đổ đâm ra hụt vốn. Vì là các ngân hàng lớn kẹt tiền nên nền kinh tế Mỹ như bị nghẽn tim. Ngân hàng trung ương phải bơm tiền ào ạt như bơm thuốc phiện giúp người sắp chết qua khỏi cơn đau. Bệnh nhân được cứu sống nhưng đâm ra… ghiền thuốc phiện, tức là khi Ngân hàng trung ương tăng lãi suất hay rút tiền (phòng lạm phạt) thì thị trường dẫy nãy sùi bọt mép (báo chí Mỹ gọi là temper tantrum, tức là con nít không được cho ăn kẹo nên làm dỗi) khiến Ngân hàng trung ương hoảng hốt nuông chiều phải tiếp tục với chính sách tiền tệ dễ dãi (easy money policy). Cho nên Ngân hàng trung ương nuông chiều mà thị trường sinh ra ỷ lại. Nền kinh tế Mỹ (và của thế giới) nằm trên núi bạc… giấy do Ngân hàng trung ương in ra không ai biết sẽ kéo dài đến bao giờ.
***
Cũng từ Đại khủng hoảng 2007-2008, Ngân hàng trung ương mua ồ ạt tài sản gồm các trái phiếu công và tư của các ngân hàng tư nhằm gây vốn cho ngân hàng tư. Ngân hàng trung ương khi mua lại nợ công tức là Ngân hàng trung ương cho Nhà nước mượn tiền và như vậy đã soi mòn tính độc lập giữa Ngân hàng trung ương và Nhà nước, bởi vì Nhà nước biết in nợ được bảo đảm có người mượn ! Ngân hàng trung ương khi mua lại nợ tư tức là Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường giúp cho nhiều công ty yếu đứng vững trong giai đoạn khủng hoảng.
Cho nên Ngân hàng trung ương trong thực tế không độc lập mà còn góp sức cho Nhà nước bẻ cong thị trường ! Nhưng đó là câu chuyện về sau (bắt chước 1001 đêm !)
Đoàn Hưng Quốc
Nguồn : VNTB, 14/04/2021
Tóm tắt :
- Hai nhiệm vụ (mandates) của Ngân hàng trung ương là dùng chính sách tiền tệ (monetary policy) để ổn định giá cả (chống lạm phát) và tạo công ăn việc làm
- Nhà nước ban hành các quy định giám sát (regulations), thuế má (tax policy) và ngân sách (fiscal policy)
- Ngân hàng trung ương cần phải độc lập để không bị Nhà nước thúc in tiền cho các mục tiêu chính trị
*********************
Chương 5 :
Khoảng cách giàu nghèo
Mỹ là nước tư bản cho nên dân chúng không chống đối chuyện giàu nghèo cách biệt. Hố sâu giàu nghèo không phải đợi đến bây giờ mà trước đây đã có những đại tư bản như Rockfeller, Ford… đến nay là Bill Gates, Jeff Bezos hay Elon Musk tạo dựng các khối tài sản khổng lồ không kém gì vua chúa ngày xưa. Dân Mỹ chẳng những không ganh ghét mà còn tự hào rằng mô hình tư bản tuy không hoàn thiện nhưng sản sinh ra những người làm giàu bằng năng lực và trí tuệ để đóng góp nhiều tiến bộ vượt bực làm đổi thay bộ mặt nhân loại.
Nhưng nếu tính sáng tạo và năng động trong tư bản Mỹ vẫn còn là niềm mơ ước của thế giới thì thất bại nơi đâu mà cánh tả đòi chuyển đổi mô hình kinh tế Hoa Kỳ theo hướng dân chủ xã hội kiểu Tây-Âu, còn riêng chính quyền Biden dùng bàn tay hữu hình của Nhà nước để can thiệp ồ-ạt nhằm sửa đổi thị trường tự do ?
Một dấu hiệu không tốt là chênh lệch giàu nghèo ở Mỹ hiện ngang bằng với khoảng thời gian trước cuộc Đại khủng hoảng 1929 (*). Lương bổng của giới trung lưu và lao động thợ thuyền không hề tăng (sau lạm phát) trong suốt 40 năm kể từ ngày toàn cầu hóa trong khi thu nhập của giới trí thức thành thị và các nhà đại tư bản nhảy vọt cũng vào giai đoạn này. Một số đông dân Mỹ bi quan cho rằng đời sống của thế hệ con cái họ sẽ không cải tiến so với chính họ.
Cánh hữu lên án Nhà nước đi sai đường vì ưu đãi giới tinh hoa (elite) mà bỏ rơi người lao động. Ngược lại, cánh tả tố cáo nguyên do là nơi Nhà nước thả lỏng (laissez faire) thị trường tự do. Đâu là sự thật ?
Nếu so sánh thì chênh lệch giàu nghèo ở Trung Quốc hay Việt Nam còn tăng vọt nhanh hơn Mỹ cũng trong 30 năm kể từ ngày toàn cầu hóa. Trong dân chúng lan tràn nỗi bất mãn với tình trạng cướp nhà đất, với mạng lưới an sinh xã hội yếu kém bên cạnh tình trạng nhũng lạm quyền thế và nếp sống xa hoa đốt tiền của giới đại gia khoe khoang cho chúng ghét ! Nhưng ít nhất trên bề mặt nền chính trị nơi đây không bị xáo trộn như ở Hoa Kỳ có thể vì hai nguyên do : (1) người nghèo ở các nước đang phát triển không có tiếng nói lớn mạnh như tại Âu-Mỹ ; (2) mặc dù khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa nhưng cùng lúc cuộc sống của đa số dân chúng đều được cải thiện (điện nước, đường nhựa, nhà lầu… về đến thôn quê).
Nếu so sánh với đoàn xe lửa kinh tế đang lên dốc ở Trung Quốc hay Việt Nam thì các toa đầu máy chạy ngày càng nhanh trong khi các toa cuối tuy không bắt kịp nhưng vẫn lên dốc, tức là mức sống của dân chúng tuy khổ cực nhưng đang lên và họ hy vọng thế hệ con cái sau này sẽ khá hơn. Ngược lại, đoàn xe lửa kinh tế ở Mỹ cũng lên dốc nhưng các toa đầu máy bỏ xa những toa còn lại đang tuột dốc, tức là móc xích bị cắt đứt ở giữa đoàn xe cho nên lợi tức tập trung vào giới trí thức ưu tú trong khi thu nhập của giới trung lưu và giai cấp thợ thuyền không tăng mà còn bị giảm. Họ lo âu cho đời sống con cái sẽ trở nên khó khăn hơn chính họ. Lên voi dễ hơn là xuống chó khiến trào lưu dân túy sinh phẫn nộ và bùng phát. Một nhánh theo cánh hữu tố cáo Nhà nước sai lầm còn phe theo cánh tả lên án thị trường tự do bị thả lỏng (laissez-faire).
Chương 5 sẽ tìm hiểu những thất bại trong mô hình Mỹ, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế, bởi vì còn những vấn đề lịch sử và xã hội như nô lệ, di dân, v.v. nằm ngoài khuôn khổ chương này.
***
Phe mác-xít phê bình giàu nghèo do giới chủ bóc lột giá trị lao động thặng dự của thợ thuyền. Phe giá trị biên tế (marginal value theory) phân tích trong thị trường giá cả phản ảnh giá trị, còn giá trị lại được định đoạt bởi mức độ tiện ích cao hay thấp của hàng hóa hay lao động. Như vậy trong tư bản không có bóc lột vì người làm nhiều tiền nhờ đáp ứng cao nhu cầu tiện ích tăng giảm trong xã hội ; hàng hóa rẻ hay mắc tùy vào nhu cầu tiện ích nhiều hay ít của quần chúng
Nhưng tiền đẻ ra tiền ! Vì tiền đẻ ra tiền nên tư bản và của cải tích tụ nhanh hơn giá trị lao động hay tiện ích vốn chỉ tăng theo đường thẳng. Của cải lại thừa hưởng được trong khi lao động hay tiện ích không thể để dành cho con cái. Thí dụ giá nhà và chứng khoán tăng nhanh hơn tiền lương nên người vừa sở hữu của cải lẫn lương bổng (lại thừa hưởng gia tài) tất nhiên giàu nhanh hơn là người chỉ sống bằng lao động.
Kinh tế gia nổi tiếng Thomas Piketty trong quyển Vốn tư bản ở thế kỷ thứ 21 (Capital in the Twenty First Century) nhận xét rằng khuynh hướng tự nhiên trong một xã hội tư sản là tài sản được tích tụ và chuyền tay giữa các thế hệ (gia tài). Vì của cải đẻ ra của cải nên trải qua một vài thế hệ như vậy sinh một giai cấp giàu vượt trội hơn hẳn số đông còn lại.
Sách báo kinh tế Mỹ gọi thành phần ăn trên ngồi trước là rent seekers, tức chủ cho thuê, nhưng hàm ý thành phần tư bản hay địa chủ tích lũy tài sản của xã hội. Việt Nam có câu "con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa nên quét lá đa", tức là trong xã hội có giai tầng. Giai cấp ăn trên ngồi trước một khi ăn sâu bám rễ chính là kẻ thù của dân chủ lẫn tư bản : giai cấp này vừa cản trở sự tham gia đồng đều của mọi tầng lớp dân chúng vào môi trường chính trị, lại giết chết tính cạnh tranh trong thị trường tự do.
Dùng thí dụ ở Việt Nam để thấy vào thế kỷ thứ 21 tài sản tích lũy nhanh chóng như thế nào. Trước đây một điền chủ có 10 người con đến khi chết đất đai chia manh mún ra thành 10 mảnh nhỏ nên gia tài không để lại bao nhiêu. Nhưng nay một cặp vợ chồng khá giả ở Sài Gòn có được 2 người con và 2 căn nhà, đến khi họ chết mỗi người con hưởng gia tài 1 căn nhà trị giá trên 500 ngàn USD. Giả dụ một thanh niên từ dưới quê thật giỏi với mức lương 10 ngàn USD một năm thì mất 50 năm không ăn không xài mới mua được 1 căn nhà thành phố (chưa tính giá nhà tăng). Thanh niên Sài Gòn lại có điều kiện đi du học lấy bằng cấp Mỹ, trong khi thanh niên ở dưới quê chỉ có mảnh bằng kém hơn ở Việt Nam cho nên thanh niên dưới quê không bao giờ bắt kịp người ở thành phố. Nói chung thì của cải, cơ hội và quyền lực ngày thêm tập trung vào thành phố.
Một nghiên cứu của giáo sư Walter Scheidel (**) thuộc đại học Stanford cho thấy trong lịch sử có 4 cách để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo :
1) đại dịch đen vào thế kỷ 14 giết chết 40% dân chúng giúp giá trị lao động tăng vọt vì thiếu người làm ruộng ;
2) đại chiến như chiến tranh thế giới lần thứ hai tàn phá tài sản xã hội nhưng đồng thời tạo sân chơi bình đẳng ;
3) cách mạng lật đổ tầng lớp thượng lưu giàu có ;
4) chế độ suy thoái kiểu ngày tàn của La Mã hay đời nhà Hán !
Nói cách khác, xã hội trở nên khô cằn thiếu sinh động một khi của cải và quyền lực tập trung vào giới tinh hoa – cũng giống như rừng già vì các cổ thụ bén rễ giết chết cây non. Phải đợi đến cháy rừng hay thác lũ đào xới đất đai thì rừng mới non trẻ trở lại.
Chẳng ai ham bốn liều thuốc độc nói trên ! Cho nên cánh cấp tiến chủ trương thay vì để mặc cho quy luật tự nhiên có ngày đào xới xã hội thì Nhà nước phải dùng bàn tay hữu hình đốn cây cổ thụ trước khi chênh lệch giàu nghèo dẫn đến bạo loạn xã hội. Nhà nước phải can thiệp dùng các biện pháp như đánh thuế tài sản (wealth tax) và thuế gia tài (estate tax) nhằm ngăn chặn sự hình thành của các giai tầng trong xã hội.
Nhà nước lại thường hay lạm dụng quyền lực. Đối với phái tự do và bảo thủ thì động cơ thúc đẩy con người hăng hái làm việc chính là vì tư lợi để tạo ra của cải cho dòng họ. Nay Nhà nước đòi đánh thuế 1/2 tài sản, tức là cướp của – nhất là khi nhà nước nói đánh thuế nhà giàu rồi những người không giàu cũng lãnh búa tạ sưu cao thuế nặng để nuôi cho đám lười biếng không chịu đi làm !
***
Một nguyên do thứ hai tạo ra cách biệt giàu nghèo vì thế kỷ 21 thuận lợi cho thành phần chuyên viên ưu tú (vốn thích ứng với toàn cầu hóa và tự động hóa) mà thiệt hại cho giới có chuyên môn thấp. Công việc của thành phần trung lưu cấp thấp bị thay thế bởi máy điện toán trong khi giới lao động thợ thuyền mất việc khi hảng xưởng di dời sang Trung Quốc, Việt Nam…
Thành phần chuyên viên trí thức có văn bằng cao lại sống tập trung ở các đô thị lớn hai vùng ven biển (Seattle, California, Boston, New York, Washington D.C. vốn là những trung tâm thương mại toàn cầu) trong khi giới lao động người da trắng sống rải rác ở vòng đai han rỉ (rust belt) thuộc các tiểu bang nằm sâu trong nội địa. Giá nhà Cali, Seattle, Boston… bay bổng trong khi địa ốc trong các khu vực còn lại không tăng. Lương tăng, giá nhà tăng, giới chuyên viên trí thức lại có tiền đầu tư mua chứng khoán. Hậu quả là của cải tích lũy vào 2 vùng ven biển trong khi thành phần trung lưu và công nhân sống chật vật làm ra đồng nào xài hết sạch. Cho nên chênh lệch giàu nghèo giữa 10% giới ưu tú trí thức với thành phần trung lưu và thợ thuyền nhảy vọt tạo ra rạn nứt vô cùng sâu rộng trong xã hội.
***
Thêm một lý do khiến tài sản tăng giá giúp nhà giàu ngày càng giàu là do Ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương ban hành chính sách tiền tệ dễ dãi nhằm giúp cho tư nhân vay mượn đầu tư thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhưng lãi suất thấp nên nhiều người mượn tiền mua nhà (thay vì đầu tư tạo công ăn việc làm) khiến giá địa ốc tăng nhanh trong khi lương bổng tăng chậm giúp cho người có nhà cửa giàu nhanh hơn người ở thuê.
***
Tài sản khi tập trung ép giá lương. Nhà tư bản bỏ vốn để canh tân nhà máy hay di dời sản xuất ra nước ngoài đồng thời cắt giảm công nhân trong nước. Công ăn việc làm khó kiếm tạo áp lực đẩy đồng lương xuống thấp.
***
Tài sản khi tập trung ép giảm sức tiêu thụ. Thí dụ cho dễ hiểu : nhà giàu 1 tỷ USD mua 20 chiếc xe Lamborghini thượng hạng thì phát chán ! Nhưng nếu chia đều ra cho 10.000 gia đình thì mỗi nhà sẽ mua 1 chiếc xe xoàn xoàn. Sản xuất 10.000 chiếc xe loại này tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn chỉ cho 20 chiếc Lamborghini. Nói cách khác, nhà giàu tiền xài không hết phải để dành trong khi nhà nghèo có bao nhiêu xài hết bấy nhiêu. Cho nên tài sản khi tập trung sẽ khiến tiêu thụ giảm, cắt giảm người làm việc và hạ thấp tiền lương.
***
Kinh tế số (digital economy) khiến tài sản nhanh chóng tích lũy. Thí dụ số người dùng Google, Facebook… ngày càng tăng khiến các công ty này mặc nhiên trở thành độc quyền, trong khi các công ty nhỏ chỉ mong được công ty lớn thu mua do cạnh tranh quá sức khó khăn. Một trường hợp khác là hợp đồng quảng cáo giày thể thao với Michael Jordan với giá cao kỷ lục vì cầu thủ bóng rổ này nổi tiếng khắp thế giới, trong khi một cầu thủ hạng nhì nhảy cao chỉ kém hơn Michael Jordan một vài phân mà không được nhiều người biết nên không tìm ra hợp đồng quảng cáo. Hiện tượng này trong kinh tế số được gọi là winners-take-all (phe thắng hốt trọn) hay winners-take-most (phe thắng hốt nhiều nhất).
***
Nhà giàu ở khu trường học tốt nên con cái học vấn cao hơn so với lứa đồng tuổi. Con nhà giàu lại cưới gả cho con nhà giàu. Sân chơi trở nên không bình đẳng bởi vì một trẻ em nghèo không có cơ hội vươn lên, tức là nền tư bản Mỹ không còn tạo môi trường cho những kẻ khố rách mồng tơi trở thành tỷ phú (from rags to riches). Trên đây chỉ là lý luận vì nước Mỹ vẫn là vùng đất cơ hội cho những người xây dựng sự nghiệp từ hai bàn tay trắng. Cho nên xã hội một khi hình thành giai tầng sẽ đánh mất đi sức sống vươn lên (upward mobility).
***
Nhà đất ở những trung tâm kinh tế như Cali, Seattle, Boston, New York, Washington DC giá cao ngất ngưỡng nên người ở tiểu bang khác không thể dọn về. Lâu ngày xã hội mất đi tính di động (mobility) thiếu trộn lẫn nên mỗi khu vực tạo thành cách sống và quan điểm chính trị cách riêng biệt cho dù sống trong cùng đất nước dân chủ và bình đẳng. Đây là một trong những lý do mà bất bình đẳng về kinh tế đi đôi với cuộc chiến văn hóa (cultural war) giữa những tiểu bang nằm trong nội địa với các tiểu bang dọc theo bờ biển.
***
Giàu sang sinh quyền lực. Cánh tả (Bernie Sander) lẫn cánh hữu (Donald Trump) đều tố cáo nền dân chủ Mỹ bị dàn dựng (rigged). Cánh tả hô hào Nhà nước phải tích cực giám sát các thế lực tư bản, đồng thời tăng thuế nhằm tạo một sân chơi bình đẳng. Ngược lại cánh hữu cho rằng chính sự giám sát của Nhà nước đã kìm hãm bản năng hung hãn (animal instinct) của thị trường tự do, cho nên Nhà nước phải ngừng mó máy mà giảm thuế để thả lỏng (laissez faire) thị trường tự do.
***
Giới ưu tú (elite) vùng duyên hải nắm độc quyền trên báo chí dòng chính (mainstream media) và trong các đại học nên dùng đó tuyên truyền cho một nền văn hóa mới. Trước đây những người sống rải rác ở các tiểu bang nội địa không có phương tiện để tập hợp thành một thế lực chính trị, nhưng nay Facebook và Twitter mở ra cơ hội để họ liên kết thành một tiếng nói chung bảo vệ cho nền văn hóa truyền thống. Cho nên mới xảy ra các trận đấu đá dữ dội từ năm 2016 giữa thông tin dòng chính (CNN, New York Times…) và truyền thông dòng ngược (alternative media, chủ yếu là qua Internet nhưng sau này hình thành những cơ quan ngôn luận như Fox, Newsmax, One New Network…)
***
Nhà nước tăng thuế má để chi tiêu giúp người nghèo. Nhưng ngược lại chính sách của Nhà nước mang đến lười biếng và ỷ lại.
Một thí dụ thấy được trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt : có những người lúc sống ở Việt Nam vô cùng xông xáo tự lập nhưng khi sang Mỹ xin lãnh được trợ cấp xã hội lại không một ngày đi làm trong suốt mấy chục năm. Có những thiếu nữ không chồng nhưng bắt đầu sinh đẻ từ năm 16 tuổi nên có đến 4-5 đứa con và lãnh trợ cấp xã hội trọn đời. Bàn tay hữu hình của Nhà nước không những bẻ cong thị trường tự do mà còn làm thay đổi nếp sống và quan niệm sống của từng cá nhân. Cho nên cánh tự do mới tố cáo bàn tay thô bạo của Nhà nước tước đoạt tự do, dù không cần đến công an cảnh sát nhưng vẫn giam hãm con người trong vòng ỷ lại ngửa tay xin trợ cấp xã hội nên đánh mất đi ý chí tự lập và tiến thân.
Nhiều gia đình người Mỹ gốc Việt tuy lạm dụng trợ cấp xã hội nhưng sau một thế hệ con cái của họ thành tài ra bác sĩ, luật sư, kỹ sư… với đồng lương cao đóng thuế cho xã hội. Ngược lại, người da đen ở các ổ chuột nằm sâu trong đô thị (inner cities) hay da trắng tại vòng đai han rỉ (rust belt) lại không thoát khỏi vòng xoáy nghiện ngập, trộm cướp, không chồng đẻ con… từ đời cha sang đời con. Cho nên chính sách an sinh xã hội của Nhà nước dựng lên hàng rào giai cấp hay là những ung nhọt mà xã hội không giải quyết được.
***
Một trường hợp khác là giới công nhân thợ thuyền da trắng mất việc ở vòng đai han rỉ (rust belt) do toàn cầu hóa nhận nên nhận nhiều trợ cấp y tế, xã hội và giáo dục. Dù vậy số người này bỏ phiếu cho Trump thay vì bỏ phiếu cho đảng Dân chủ để được tăng trợ cấp xã hội.
Lý do vì chỉ có công ăn việc làm mới mang lại sự tự trọng (dignity), trong khi nhàn cư vi bất thiện và bất mãn. Kinh tế gia cấp tiến Paul Krugman (Nobel 2008) có lần nhận xét là không một kinh tế gia nào biết cách xây dựng lòng tự trọng. Chính sách an sinh xã hội của nước Mỹ tạo ra hai khu ổ chuột nằm sâu trong các đô thị lớn (inner cities, đa số là người da đen) hay rải rác ở vòng đai han rỉ (rust belt, đa số là giới công nhân thợ thuyền da trắng thấp nghiệp) mà nhà nước bỏ ra không biết bao nhiêu tiền của mà không giải quyết được. Bàn tay hữu hình của Nhà nước khi thô bạo can thiệp nhằm giải quyết hố sâu giàu nghèo đã mặc nhiên sinh ra một giai cấp nghèo triền miên do lười biếng và ỷ lại.
Paul Krugman sai bởi vì Nhà nước thay vì mở rộng mạng lưới an sinh xã hội phải có chính sách để tạo công ăn việc làm. Tự trọng chỉ đến từ giá trị cần lao khi mỗi người làm việc với đồng lương tốt (good salary) để tự nuôi thân và nuôi gia đình. Còn nếu đồng lương chết đói thì cũng không thể có tự trọng. Bần cùng sinh đạo tặc, giàu sang sinh lễ nghĩa.
Mô hình kinh tế nước Mỹ thay vì đặt nặng tiêu thụ (consumption 70% GDP, trong khi ở Tàu tiêu thụ 40% GDP) cần chuyển trọng tâm sang đầu tư (investment) để tạo công ăn việc làm tốt. Mỹ thay vì dạy Trung Quốc nên rút tỉa kinh nghiệm này từ Bắc Kinh.
Đoàn Hưng Quốc
Nguồn : VNTB, 25/04/2021
Tóm tắt :
- Tài sản tích lũy trong xã hội tư sản và kinh tế số (digital economy) sẽ sinh ra giai cấp, trong khi giai cấp lại chính là kẻ thù của dân chủ và tư bản.
- Trong lịch sử, hố sâu giàu nghèo chỉ được xóa bỏ bởi : 1) đại dịch ; 2) đại chiến ; 3) cách mạng ; 4) thể chế suy tàn.
- Phe cấp tiến cho rằng để tránh 4 tai họa nói trên Nhà nước phải chủ động dùng bàn tay hữu hình tái phân phối tài sản trong xã hội.
- Phe tự do phản đối cho rằng Nhà nước sẽ lạm dụng quyền hạn và chà đạp quyền tự do tạo ra của cải và mưu cầu hạnh phúc của cá nhân
_____________
Ghi chú :
(*) "America America’s 1% hasn’t had this much wealth since just before the Great Depression", Market Watch, 02/24/2019
(**) "Can inequality only be fixed by war, revolution or plague ?", The Economist, 10/09/2018
Năm 2020 là một năm đầy sóng gió cho nước Mỹ. Chiến tranh thương mại bước sang năm thứ ba. Đại dịch Covid-19 làm tê liệt nước Mỹ. Cộng thêm xung đột sắc tộc. Và đặc biệt hơn cả 2020 là năm bầu cử tổng thống. Tất cả những sự kiện trên đây, ít hay nhiều đều liên quan đến kinh tế. Chỉ còn đúng 50 ngày nữa là đến ngày bầu cử. Chúng ta thử kiểm điểm lại tình hình kinh tế cho bốn năm của Tổng thống Trump sắp qua và tiên đoán cho năm sắp tới.
Phát triển kinh tế
Mức phát triển kinh tế trong năm 2019 là 2,2%. Dự đoán trước đây cho 2020 là 2% và Hoa Kỳ sẽ trải qua thời kỳ trì trệ kinh tế vào 2021 như hầu hết các nhà kinh tế tiên đoán. Tuy nhiên vì ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, kinh tế trì trệ đã đến sớm hơn một cách bất ngờ. Kinh tế đã suy giảm -5% trong quý I và -31,7% trong quý II. Theo dự đoán của Conference Board Economic Forecast for the U.S. Economy, kinh tế Hoa Kỳ sẽ phát triển 32,9% và 1,3% trong quý III và IV của 2020.
Số trường hợp nhiễm coronavirus đã bắt đầu thuyên giảm từ cuối tháng 7/2020 nhưng cơ hội kinh tế mở cửa toàn phần vẫn còn xa vời. Tính đến sáng 14/09/2020,con số người nhiễm coronavirus tại Hoa Kỳ đã lên hơn 6,4 triệu người được xác nhận và ít nhất 190.000 người chết, đứng đầu thế giới Các con số này trên thực tế có thể cao hơn nữa vì các cơ sở y tế không có đủ máy thử nghiệm trái với điều Tổng thống Trump nói.
Tuy nhiên, không có gì chắc chắn Covid-19 sẽ không bùng phát trở lại như vào cuối tháng 6 vừa qua vì sự bất cẩn của công chúng và chính quyền Trump. Các cơ sở thương mại phải chịu đựng sự bất ổn này và họ mất niềm tin vào khả năng của chính quyền để có thể ngăn chặn virus.
Bác sĩ Anthony Fauci, người lãnh đạo chương trình chống đại dịch, vào đầu tuần này nói báo chí rằng rất ít có triển vọng có thuốc chủng ngừa coronavirus vào cuối năm nay nhưng có hi vọng nhiều hơn vào đầu năm 2021. Ông nói tiếp dù có thuốc chủng ngừa, cuộc sống khó trở lại được bình thường ngay được. Sớm lắm là đến giữa năm tới và có thể cuối năm 2021. Ngoài ra việc sử dụng thuốc chủng cần phải được tiếp tục theo rõi trong khoảng 5 năm. Việc FDA tung ra tin sẽ có thuốc chủng vào cuối tháng 10 xem ra chỉ là một tin vận động tranh cử.
Biện pháp cứu nguy kinh tế của Quỹ Dự trữ liên bang
Để đối phó với Covid-19 Quỹ Dự Trữ Liên Bang (Federal Reserve) vào ngày 03/03/2020 đã nhanh chóng hạ lãi suất của quỹ liên bang (federal funds) xuống trong khoảng 1% - 1,25% và chỉ hơn một tuần sau và vào ngày 15/03/2020 đã lại hạ lãi suất này xuống một lần nữa trong khoảng 0% – 0,25%. Ngoài ra Quỹ Dự Trữ Liên Bang còn mua công khố phiếu để bình thường hóa sự lưu hoạt tiền tệ trong thị trường trong khi đó Tổng thống Trump vẫn cố tình dấu nhẹm dân chúng về sự nguy hiểm của Covid-19 và vẫn nhiều lần công khai tuyên bố Covid-19 là chuyện đảng Dân chủ bịa đặt.
Nhờ vào những biện pháp cứu nguy kinh tế của Quỹ Dự Trữ Liên Bang mà thị trường chứng khoán Hoa Kỳ đã phục hồi lại được hầu hết những mất mát do Covid-19 gây ra vào cuối tháng 2 và tháng 3 vừa qua. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán chỉ phản ảnh một phần nhỏ bé của nền kinh tế. Theo Market Watch, một yếu tố quan trọng đối với người đầu tư vào thị trường chứng khoán hiện nay không phải cuộc bầu cử cuối năm, không phải là Covid-19 bột phát trở lại, mà là những biện pháp can thiệp vào thị trường của Quỹ Dự Trữ Liên Bang và đặc biệt kinh tế sẽ hồi phục như thế nào : nhanh chóng (V), trì trệ, (W) hay chậm (U) dựa theo dạng hình của biểu đồ tổng sản phẩm nội địa (gross domestic product – GDP).
Biện pháp cứu nguy kinh tế của Quốc hội
Một tuần sau đó, Quốc hội Hoa Kỳ và Tòa Bạch Cung đạt được thỏa thuận về kế hoạch cứu nguy kinh tế trị giá 2,2 ngàn tỉ USD (Coronavirus Aid, Relief, and Economic Security Act viết tắt là CARES Act) trong đó bao gồm nhiều biện pháp khác nhau như bơm tiền vào thị trường bắng cách phát ngân phiếu 1.200 USD cho công chúng, thiết lập quỹ 367 tỉ USD để cho những cơ sở kinh doanh nhỏ vay, quỹ 500 tỉ USD cho công nghệ, thành phố và tiểu bang vay, tăng cường quỹ bảo hiểm thất nghiệp, chương trình trợ giúp thực phẩm và các bệnh viện.
Quốc hội Hoa Kỳ đang còn thương lượng về gói kích thích kinh tế đợt II. Có hai đề nghị khác nhau :
Đảng Cộng hòa (1 ngàn tỉ USD) : Health, Economic Assistance, Liability Protection and School Act (HEALS).
Đảng Dân chủ (3 ngàn tỉ USD) : Health and Economic Recovery Omnibus Emergency Solution Act (Heroes).
Đảng Cộng hòa cho rằng kích thích đợt I là đủ rồi, Kích thích đợt II quá tốn phí. Trong khi đó Đảng Dân chủ nhận định rằng kích thích đợt II rất cần thiết. Quỹ Dự Trữ Liên Bang đã kêu gọi Quốc hội ủng hộ đợt kích thích II để ngăn chặn kinh tế không suy giảm nghiêm trọng hơn nữa trong năm nay. Nhiều quyền lợi từ gói kích thích I đã được Quốc hội chấp thuận vào tháng 3 đã hay sắp hết hạn. Thị trường lao động mới chỉ được hồi phục một phần. Khoảng 29 triệu người vẫn còn cần trợ cấp thất nghiệp tính đến đầu tháng 9. Theo kết quả của cuộc thăm dò dư luận Household Pulse Survey của chính phủ phổ biến vào cuối tháng 8 vừa qua, 64 triệu người Mỹ vẫn còn phải chịu đựng nhiều khó khăn. Nhiều người vẫn phải đối phó với nguy cơ bị đuổi nhà.
Đảng Cộng hòa chống lại một số biện pháp trong đề nghị của Đảng Dân chủ như 1 ngàn tỉ USD trợ giúp các thành phố và các tiểu bang đang bị thiếu hụt ngân sách, trợ cấp 1.200 USD cho mỗi cá nhân. Ngược lại, Đảng Dân chủ bác bỏ một số biện pháp trong đề nghị của Đảng Cộng hòa như trợ giúp các học sinh học trường tư, bảo vệ các cơ sở kinh doanh chống lại tranh tụng vì Covid-19. Sau hơn hai tháng tranh cãi, Đảng Dân chủ đồng ý giảm gói kích thích II xuống còn 2,2 ngàn tỉ USD. Cơ may để hai đảng đạt được thỏa thuận về gói kích thích kinh tế II trước ngày bầu cử xem ra rất mong manh.
Thất nghiệp
Tỉ lệ thất nghiệp vào tháng 1/2020 là 3,6% đã vọt lên 14,7% vào tháng 4/2020,nay đã giảm bớt xuống còn 10,2% và 8,4% vào hai tháng 7 và 8. Tỉ lệ thất nghiệp sẽ tiếp tục cải thiện trong tháng 9 và các tháng sắp tới. Tuy nhiên hàng chục triệu người vẫn còn đang thất nghiệp vì Covid-19 đã buộc một phần kinh tế phải đóng cửa. Ít nhất 29,6 triệu người vẫn còn nhận tiền thất nghiệp tính đến 22/08/2020 và con số người lần đầu xin tiền thất nghiệp vẫn còn cao ở mức 884.000.
Nạn thất nghiệp đặc biệt ảnh hưởng nặng nề đến những gia đình lợi tức thấp và những người không có bằng đại học, phụ nữ, người Mỹ gốc Phi châu và Châu Mỹ Latinh. Nhiều người trong nhóm này không dư tiền bạc để có quỹ tiết kiệm hầu đối phó với những trường hợp khẩn cấp bất ngờ như Covid-19. Khu vực kinh tế chịu thiệt hại đáng kể là dịch vụ cần nhiều nhân lực như nhà hàng, tiệm bán thực phẩm, bán lẻ, chuyên chở công cộng, xây cất.
Ngân sách
Ngân sách thiếu hụt tiếp tục gia tăng mạnh mẽ trong những năm vừa qua từ 585 tỉ USD trong tài khóa 2016, tương đương với 3,1% GDP và theo dự đoán sẽ lên đến 1.083 tỉ USD trong tài khóa 2020, tương đương với 4,8% GDP. Tuy nhiên để đối phó với hậu quả của Covid-19, chính phủ phải chi thêm 2,2 tỉ USD cho kế hoạch kích thích kinh tế, nên ngân sách cho 2020 sẽ thiếu hụt 3,3 tỉ USD.
Vào đầu năm nay, trước khi xẩy ra đại dịch Covid-19, Tổng thống Trump đã đệ trình Quốc hội ngân sách 4,8 ngàn tỉ USD cho tài khóa 2020-2021. Ông đã đề nghị cắt giảm đáng kể hầu hết những chương trình an sinh xã hội, buộc những người có lợi tức thấp phải gánh chịu hậu quả của chính sách kinh tế sai lầm của ông. Đây là một việc bất công và thất nhân tâm (2/2019). Nay ngân sách thiếu hụt gia tăng gấp 3 lần từ 1,1 tỉ USD lên đến 3,3 tỉ USD, Đảng Cộng hòa lại có thêm lý do để áp lực cắt giảm những chương trình an sinh xã hội.
Các chương trình an sinh xã hội chiếm một ngân sách lớn nhất trong ngân sách quốc gia. Tiếp sau là ngân sách quốc phòng. Mặc dù ngân sách quốc gia thiếu hụt nghiêm trọng, chính quyền Trump tiếp tục gia tăng ngân sách quốc phòng trong 3 tài khóa vừa qua, từ 890,8 tỉ USD vào tài khóa 2018, lên đến 904,3 tỉ USD vào tài khóa 2019 và 935,8 tỉ USD cho tài khóa 2020 (đã được chuẩn chi). Riêng về tài khóa 2021 bắt đầu vào 1/10 sắp tới, ngân sách quốc phòng dự trù giảm xuống đôi chút 933,8 tỉ USD.
Ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ lớn hơn ngân sách quốc phòng của 10 nước kế tiếp cộng lại, lớn gấp ba lần ngân sách quốc phòng của Trung Quốc (250 tỉ USD) và gấp 10 lần ngân sách quốc phòng của Nga (61,4 tỉ USD).
Khi ra tranh cử Tổng thống Trump từng tuyên bố nhiều lần rằng nếu đắc cử ông sẽ cân bằng ngân sách và xóa hết nợ công. Nhưng cả hai mục tiêu này không những đã không đạt được mà ông còn làm tăng tới mức chưa từng có ngay cả trước khi có Covid-19.
Nợ công
Nợ công tăng từ 19.573 tỉ USD trong tài khóa 2016, tương đương với khoảng 104% GDP, lên đến 22.776 tỉ USD cho tài khóa 2019, tương đương với 106% GDP. Trước khi có đại dịch, nợ công ước tính sẽ là 24.057 tỉ USD cho tài khóa 2020, tương đương với 108% GDP. Đây đã là những con số kỷ lục. Nay vì đại dịch, nợ công của Hoa Kỳ sẽ tăng lên đến 26.000 tỉ USD, tương đương với 136% của GDP theo ước tính của Congressional Budget Office.
Theo dự đoán của The Fiscal Times, lần đầu tiên kể từ sau Thế Chiến II, nợ công của Hoa Kỳ vượt quá tổng sản phẩm nội địa. Lần này ở trong thời bình.
Chính sách giảm thuế 2018 của Tổng thống Trump đã thất bại. Phát triển kinh tế không đạt được mục tiêu như ông Trump hứa hẹn là 4%-6% để chính phủ tăng thêm thu nhập. Đây là một trong nhiều nguyên nhân khiến cho ngân sách thiếu hụt trầm trọng và làm tăng nợ công ngay trước cả khi có đại dịch. Thay vì tăng trưởng, đại dịch Covid-19 đã làm kinh tế co cụm đáng kể. Do đó, kinh tế Hoa Kỳ đang ở trong tình trạng bi thảm.
Chiến tranh thương mại
Chiến tranh thương mại do Tổng thống Trump gây ra với Trung Quốc và một số nước đồng minh vào đầu năm 2018 đã làm cho kinh tế thế giới suy giảm và đặc biệt gây thiệt hại đáng kể cho cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ. Hầu hết các dự án đầu tư bị trì hoãn hay hủy bỏ vì tình trạng thị trường bất ổn. Nông dân Hoa Kỳ điêu đứng vì thuế quan. Họ đã mất hầu hết thị trường Trung Quốc trị giá khoảng 24 tỉ Mỹ kim.
Khu vực công nghệ rơi vào tình trạng co cụm. Theo một nghiên cứu của Federal Reserve Bank of New York, giới tiêu thụ và các công ty Hoa Kỳ đã phải chịu hầu hết những phí tổn do thuế quan gia tăng. Họ phải chi thêm khoảng 46 tỉ USD vì thuế quan. Một cuộc nghiên cứu của Moody’s Analytics vào cuối năm 2019 cho thấy rằng Hoa Kỳ mất khoảng 300.000 việc làm. Một phúc trình của Bloomberg Economics ước tính chiến tranh thương mại gây thiệt hại khoảng 316 tỉ USD cho kinh tế Hoa Kỳ trong năm 2020.
Số lượng hàng hóa trao đổi giữa hai nước giảm xuống còn 558,1 tỉ USD vào năm 2019 so với 659 tỉ USD vào 2018. Trong khi đó, nhập siêu thương mại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc không hề giảm, mà còn có chiều hướng tăng. Hoa Kỳ mua nhiều hàng của Trung Quốc hơn là bán ra vào năm 2016 là 347 tỉ USD. Con số này tăng lên đến 375 tỉ USD vào 2017 và 419 tỉ USD vào 2018 và giảm xuống còn 345 tỉ USD vào năm 2019.
Đấy là chưa kể một số hàng Trung Quốc được lắp ráp ở những nước thứ ba, rồi xuất cảng qua Mỹ mà danh từ chuyên môn gọi là export diversion, theo báo cáo của tờ báo South China Morning Post. Phương pháp này vừa tránh được thuế quan vừa tạo việc làm cho nước chủ. Một số công ty dời khỏi Trung Quốc, không về Mỹ mà chuyển qua Việt Nam và Mexico. Trung Quốc tung ra một giải pháp mới gọi là "Made around China" thay vì "Made in China".
Phòng Thương Mại Hoa Kỳ tại Shanghai (American Chamber of Commerce in Shanghai) đã thực hiện một cuộc thăm dò các công ty Mỹ tại Trung Quốc, thành viên của phòng thương mại, vào giữa năm nay. Kết quả vừa công bố cho thấy 92,1% các công ty này quyết định ở lại Trung Quốc mặc dù Tổng thống Trump kêu gọi họ dời bỏ Trung Quốc, mối quan hệ giữa hai nước không tốt đẹp và thuế quan cao.
Như tôi đã dự đoán trước, cuộc chiến thuế quan rơi vào bế tắc và thiệt hại quá to lớn khiến đôi bên đã phải thỏa thuận giải pháp cho giai đoạn I. Ông Trump từng tuyên bố nhiều lần "Tôi là người của thuế quan… Chiến tranh thương mại tốt và dễ thắng". Một vài người ủng hộ Tổng thống Trump cho rằng chỉ cần dùng thuế quan là có thể đánh gục được Trung Quốc. Bất chiến tự nhiên thành. Thực tế đã chứng minh Tổng thống Trump và nhũng kinh tế gia này đã sai lầm một cách nghiêm trọng.
Theo một cuộc thăm dò dư luận của viện Gallup mới đây, 60% những người được hỏi không tán thành cách Tổng thống Trump xử lý việc tranh chấp thương mại với Trung Quốc so với 48% vào năm 2019. Trump nhiều lần nhấn mạnh về mục tiêu của chiến tranh thương mại là giảm chênh lệnh cán cân thương mại với Trung Quốc, cũng như mang việc làm và công ty về Mỹ. Cả ba mục tiêu này đều không thực hiện được. Tuy nhiên ông Trump đã thành công trong việc giảm thị phần (market share) của Trung Quốc tại thị trường Mỹ.
Vào cuối tháng 8 vừa qua, đôi bên dục dịch mở lại "trong những ngày tới" cuộc thương thuyết đã bị đình chỉ vì đại dịch Covid-19. Theo thỏa thuận đợt I Trung Quốc hứa sẽ mua thêm 200 tỉ USD hàng hóa và dịch vụ trong 2 năm để trở lại mức nhập cảng của Trung Quốc trước khi có thương chiến. Ngược lại Hoa Kỳ giảm một nửa thuế quan áp đặt trên 120 tỉ USD hàng Trung Quốc xuống còn 7,5%. Ngoài ra đôi bên hủy bỏ tất cả những dự tính tăng thuế quan khác. Tuy nhiên Covid-19 đã làm đảo lộn việc mua bán và ảnh hưởng tới thỏa thuận của giai đoạn I.
Dự đoán cho 2021
Một số các nhà phân tách kinh tế nhận định một cách lạc quan rằng kinh tế đã suy sụp nhanh chóng sẽ hồi phục cũng nhanh chóng theo mô hình chữ "V". Điều này có thể sẽ không xẩy ra vì thực tế đã cho thấy rõ vào tháng 4 một số tiểu bang mở rộng cửa vội vàng đã làm cho Covid-19 bột phát trở lại. Hiện nay kinh tế đang phải mở cửa từng giai đoạn và hồi phục dần dần. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund – IMF) nhận định rằng tương lai còn nhiều bất ổn và rủi ro to lớn khiến cho tổng sản phẩm nội địa của Hoa Kỳ khó có thể phục hồi lại mức trước khi có đại dịch.
Theo ước tính của IMF kinh tế Hoa Kỳ co cụm trung bình khoảng – 6,6% cho cả năm nay (July 2020), so với con số của CBO là – 5,8% (June 2020) và – 5,6% của Federal Reserve Bank of Philadelphia (Survey of Professional Forecast, May 2020). Dự đoán của IMF có thể gần với thực tế hơn vì thực hiện sau sự bột phát trở lại của Covid-19 vào cuối tháng 6. Kinh tế Hoa Kỳ sẽ phát triển ở mức 5,1% cho năm 2021. Tỉ lệ thất nghiệp cho cả năm sẽ là 9,7% và sẽ giảm xuống còn 7,4% cho năm tới.
Nếu thắng cử tổng thống vào tháng 11 sắp tới, tôi nghĩ rằng ông Joe Biden sẽ mang Hoa Kỳ trở lại TPP (Trans-Pacific Partnership) mà nay gọi là CP-TPP (Comprehensive and Progressive TPP). Ông sẽ gỡ bỏ một số hàng rào quan thuế mà Tổng thống Trump đã dựng lên. Từ sau Đệ Nhị Thế Chiến Hoa Kỳ đã vận động các nước bỏ hàng rào quan thuế để mở mang việc trao đổi hàng hóa trên thế giới.
Mặc dù chống lại việc toàn cầu hóa kinh tế vì làm Hoa Kỳ mất việc làm công nghệ, ông Biden sẽ ủng hộ viêc tăng cường các cơ quan như World Bank và Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (World Trade Organization) mà Hoa Kỳ đã gầy công xây dựng để thiết lập liên minh thương mại thân thiện cần thiết với Hoa Kỳ.
Ông đồng ý về nhiều điểm của Tổng thống Trump đối với Trung Quốc, nhưng không ủng hộ phương cách đối phó với Trung Quốc của Trump mà ông cho là thất thường, thiếu bài bản và tự làm hại mình.
Về kinh tế quốc nội, ông Joe Biden sẽ ủng hộ việc tăng lương tối thiểu quốc gia lên 15 USD/giờ. Ông sẽ vận động hủy bỏ luật giảm thuế 2017 (Tax Cut and Job Act) chủ yếu làm lợi cho những cá nhân giầu có. Ông ủng hộ việc thành lập những đại học cộng đồng và huấn nghệ cũng như chương trình đại học bốn năm miễn phí. Ông chủ trương duy trì ưu thế quân sự trước thái độ thù nghịch của Trung Quốc và Nga nhưng sẽ kiềm chế việc chi tiêu quốc phòng và sẽ chú trọng hơn về không gian và không gian mạng.