Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Văn hóa

25/04/2021

Kinh tế (Mỹ) dễ hiểu

Đoàn Hưng Quốc

Chương 1 :

Ba mô hình kinh tế

 

kinhte1

Ba nền kinh tế lớn nhất toàn cầu hiện là Mỹ-Trung-Âu

Theo cách hiểu thông thường thì Hoa Kỳ gắn liền với tư bản và thị trường tự do (free market), Châu Âu với nền Dân chủ xã hội (Social Democracy) còn Trung Quốc với Chuyên chế tư bản (Authoritarian Capitalism). Ba mô hình này không chỉ đơn thuần về kinh tế mà còn liên quan đến tổ chức nhà nước và xã hội (dân chủ, độc đảng, bình đẳng v.v.), cũng như đang tranh đua ráo riết để trở thành hình mẫu chinh phục phần còn lại của thế giới chọn lựa noi theo, cho nên phần dưới đây sẽ tìm hiểu sự khác biệt giữa 3 mô hình nói trên.

***

Kinh tế thị trường tự do

Thị trường tự do gắn liền với tên tuổi của Adam Smith – người Tô Cách Lan (Scotland) vốn được xem như cha đẻ của bộ môn kinh tế học. Ông viết quyển sách luận bàn về Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations, 1776, tức là vào cùng năm với Hoa Kỳ tuyên bố độc lập) trong đó ông phân tích rằng một nước giàu mạnh không phải do tích trữ vàng bạc châu báu mà khi mỗi người dân có tự do để làm việc, tạo ra của cải và trao đổi hàng hóa. Mỗi người tuy sống vì tư lợi (self-interest) nhưng khi sinh hoạt tập quần trong thị trường tự do lại được một bàn tay vô hình (the invisible hand) điều phối để mang lại lợi ích và thịnh vượng chung đến cho toàn thể xã hội.

Một thí dụ của bàn tay vô hình là giữa hàng ngàn người trồng lúa và mua gạo lại dần dần đi đến một thỏa thuận chung về giá cả khiến mọi người đều hài lòng. Trái lại chính quyền không thể quy định phải trồng bao nhiêu cây lúa, mỗi gia đình được mua bao nhiêu ký gạo với giá tiền là bao nhiêu bởi vì bàn tay hữu hình (the visible hand, còn gọi là bàn tay lông lá) của Nhà nước sẽ bóp méo (distort) sự vận hành của thị trường tự do. Cho nên vai trò của chính quyền chỉ giới hạn vào giám sát và an ninh (như ngăn ngừa gian lận và trộm cướp) mà không thể can thiệp vào thị trường tự do. 

Xã hội Châu Âu đang công nghiệp hóa trong thời đại của Adam Smith. Ông quan sát một hãng xưởng làm kim (pin factory) để nhận xét rằng năng suất sẽ tăng khi công việc được phân phối ra cho nhiều người. Từ đó ông kết luận giữa các nước phải có tự do mậu dịch để sản xuất được phân công theo lợi thế của từng quốc gia nhằm mang đến lợi ích cho toàn thể nhân loại thay vì bị rào cản bởi thuế má, chính sách bế quan (isolationism) hay trục lợi (mercantilism). Cho nên tên tuổi của Adam Smith ngày nay gắn liền với thị trường tự do (free market) và tự do mậu dịch (free trade).

***

Trước khi bàn về Dân chủ xã hội (Châu Âu) và Chuyên chính tư bản (Trung Quốc) tưởng cũng nên nhắc đến chủ nghĩa cộng sản và Karl Marx bởi vì mô hình kinh tế này tuy đã lỗi thời và biến mất nhưng thuyết cộng sản vẫn còn ảnh hưởng rất mạnh với các lý luận hùng hồn công kích chế độ tư bản.

Marx viết quyển Tư bản luận (Das Kapital) năm 1867, tức là gần 100 năm sau Adam Smith. Ở Châu Âu vào thời đại của Smith chỉ gồm các hãng xưởng vừa và nhỏ nhưng đến Marx đã thành hình những đại xí nghiệp thu dụng vô số công nhân từ nông thôn ra thành phố. Châu Âu ở vào giai đoạn đỉnh điểm của tiến trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. 

***

Dân chủ xã hội

Mô hình Dân chủ xã hội có thể được xem như con đường trung đạo nhằm bù đắp cho các thất bại của tư bản mà không dẫn đến cộng sản. Tên tuổi gắn liền với nền Dân chủ xã hội là John Maynard Keynes, người vốn được xem là 1 trong 3 cột trụ trong kinh tế học ngang hàng với Adam Smith và Karl Marx.

Keynes sống ở Anh vào đầu thế kỷ 20 trong giai đoạn cực kỳ hỗn loạn của Châu Âu. Ông chứng kiến cuộc cách mạng Nga năm 1917 và sự ra đời của Nhà nước Xô Viết năm 1922 để kết luận rằng chủ nghĩa cộng sản mang lại nghèo đói và tước đoạt tự do. Keynes tham dự Hòa đàm Versailles chấm dứt Thế chiến thứ nhất nhưng ông phản đối các điều kiện nghiệt ngã do Anh-Pháp đặt ra nhằm trừng phạt nước Đức bại trận, vì sẽ khiến dân Đức phẫn uất mà sau này dẫn đến trào lưu dân túy, phát-xít và Chiến tranh thế giới lần thứ Hai. Keynes chứng kiến cuộc Đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 1929 để kết luận rằng nếu Nhà nước không can thiệp để bù đắp cho các thất bại của thị trường (market failures) thì dân chúng sẽ nổi loạn để rồi dẫn đến các chủ nghĩa dân tộc, phát xít hay cộng sản, hoặc mang lại chiến tranh hay đánh mất tự do.

Keynes viết quyển Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (The General Theory of Employment, Interest and Money) năm 1936 (1). Ông nhận xét rằng kinh tế thị trường trải qua các chu kỳ thăng trầm. Khu vực tư nhân chủ động đầu tư khi tăng trưởng nhưng gặp lúc suy thoái thì đến phiên Nhà nước phải chi tiêu đảo chu kỳ (countercyclical spending) nhằm bù đắp cho các thiếu hụt, giúp tạo công ăn việc làm và thúc đẩy nền kinh tế tái khởi động. Ngày nay thường gọi đây là gói kích cầu (stimulus). Thâm thủng ngân sách (deficit spending) trong khủng hoảng là bắt buộc do chi tiêu công tăng trong khi thuế má thu vào giảm cho đến khi kinh tế trở lại chu kỳ tăng trưởng thì thuế má lại tăng để lấp đầy khoảng thiếu.

Một thí dụ dễ hiểu là cổ xe kinh tế đang chạy ngon trớn trên xa lộ (chu kỳ tăng trưởng) lại sụp ổ gà (chu kỳ khủng hoảng). Chi tiêu nhà nước là ống nhúng tự động (automatic stabilizer) giúp không gãy sườn xe để rồi xe tiếp tục chạy.

Mô hình Dân chủ xã hội khai triển từ Keynes với trách nhiệm của Nhà nước không chỉ nhằm giải quyết khủng hoảng mà còn phải mưu cầu an sinh xã hội như bảo vệ người lao động, trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm y tế và hưu trí đến cho mọi người tức là những thứ mà thị trường tự do không cung cấp. Theo cách nhìn thông thường thì Mỹ theo mô hình thị trường tự do nên kinh tế tăng trưởng nhanh và năng động nhưng về an sinh xã hội lại không bằng so với nền dân chủ xã hội của Châu Âu. 

Sang đến thế kỷ 21, mô hình Dân chủ xã hội lại phát huy theo một khuynh hướng mới là Nhà nước không những chỉ thụ động bù đắp cho các khiếm khuyết của thị trường tự do mà còn phải tích cực huy động nền kinh tế giải quyết các vấn đề lớn của thời đại (như bất bình đẳng xã hội, đại dịch toàn cầu hay biến đổi khí hậu) mà khu vực tư nhân không thể nào đảm trách nổi. Nói cách khác, vai trò của Nhà nước ngày càng bành trướng, bắt đầu từ cấp cứu (khủng hoảng kinh tế) đến bao thầu (an sinh xã hội) và nay là chủ động. Chi tiêu nhà nước ngày càng tăng nên thuế má và nợ công cũng vì đó nhảy vọt.

Để tóm tắt, Adam Smith chủ trương bàn tay vô hình điều phối thị trường tự do ; Karl Marx hô hào bàn tay sắt của Nhà nước chỉ huy nền kinh tế ; John M. Keynes đưa ra giải pháp bàn tay hữu hình của Nhà nước bù đắp cho các thất bại của thị trường. Phe ủng hộ cho rằng Keynes cứu sống tư bản (save capitalism) còn bên chống đối tố cáo bàn tay lông lá của Nhà nước rồi sẽ bóp nghẹt thị trường tự do. Nước Mỹ hiện đang chứng kiến trận chiến quyết liệt giữa hai khuynh hướng này. 

***

Chuyên chế tư bản

Chuyên chế tư bản được dùng để mô tả Trung Quốc và Việt Nam là hai nước có nền kinh tế thị trường (cạnh tranh kinh tế) nhưng chuyên chế độc đảng (không có cạnh tranh chính trị). Cách nói thông thường là đảng cầm quyền ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Cho nên "màu sắc Trung Quốc" hay "định hướng xã hội chủ nghĩa" đều mang cùng là ý nghĩa chuyên chế độc đảng. Mô hình này hiện do Bắc Kinh phô trương, dựa vào thành tích tăng trưởng ngoạn mục trong gần nửa thế kỷ như một khuôn mẫu cho các nước đang mở mang noi theo, thay vì nền dân chủ hỗn loạn giống như kiểu cách mạng hoa nhài ở Trung Đông rồi nay lan tràn sang cả Âu-Mỹ.

Một tên gọi khác là Tư bản nhà nước (State Capitalism) trong đó Nhà nước chủ động nền kinh tế. Nhưng Chuyên chế tư bản (Authoritarian Capitalism) nhấn mạnh không có cạnh tranh chính trị cho dù có cạnh tranh kinh tế. Mô hình tuy này bị các kinh tế gia phê bình là chứa đầy nghịch lý nên không thể phát triển lâu dài nhưng trên thực tế thì nền kinh tế Trung Quốc (và Việt Nam) tăng trưởng chóng mặt trong gần 40 năm mặc dù lúc nào cũng bị tiên đoán là sẽ sụp đổ vì những mâu thuẫn nội tại. Vì lý thuyết phải phù hợp với thực tế chớ không thể bẻ cong hiện thực để phục vụ lý luận cho nên mô hình chuyên chế tư bản phải có những điểm mạnh và yếu của nó (sẽ được phân tích sau này) thì mới thành công ngoạn mục như vậy. 

Theo nhiều dự đoán gần đây nhất, GDP của Trung Quốc sẽ qua mặt Hoa Kỳ vào khoảng năm 2026-2030. Nếu quả thực vậy đây sẽ là một khúc quanh trọng đại trong lịch sử nhân loại không kém gì lúc Mỹ qua mặt Anh để trở thành siêu cường số một trong thế kỷ 20, và sẽ là một chiến thắng tuyên truyền rực rỡ cho Bắc Kinh hơn 100 năm sau ngày Đảng cộng sản Trung Hoa thành hình năm 1921.

Nhiều người cho rằng mức thu nhập đầu người Hoa sẽ không bao giờ sánh bằng Âu-Mỹ cho dù GDP có vượt trội. Nhưng trên phương diện địa chính trị thì chính GDP mới thể hiện sức mạnh và trọng lượng kinh tế của một quốc gia trên thế giới. Thí dụ dễ hiểu là mức thu nhập đầu người dân Na-Uy cao hơn Mỹ nhưng Na-Uy không là một siêu cường vì tỷ trọng GDP quá nhỏ so với toàn cầu. Giữa các nước buôn bán bằng USD nên GDP (tính theo USD) càng lớn thì sức hút càng mạnh để những quốc gia còn lại rơi vào quỹ đạo kinh tế, rồi đến chính trị và văn hóa của mình. 

Một nhận xét cuối cùng liên quan đến nền chuyên chế tư bản là Bắc Kinh không cần xây dựng một mô hình kinh tế toàn hảo mà chỉ cần đẩy GDP lớn hơn Mỹ thì cũng đủ để thực hiện thế kỷ Trung Hoa (the China Century). Còn tiên đoán mô hình chuyên chế tư bản sẽ sụp đổ cũng giống như thầy bói đoán "anh sắp chết" rồi thì phải đúng bởi vì ai cũng sẽ chết, nhà nước nào rồi cũng lụn bại.

Từ đầu thế kỷ thứ 21 nhiều kinh tế gia đã nói đến một trận đại hồng thủy (titanic shift) với trọng tâm kinh tế toàn cầu di chuyển từ Phương Tây sang Đông Á với tầm ảnh hưởng đến địa cầu không khác gì giai đoạn Âu-Mỹ công nghiệp hóa để rồi dẫn đến tư bản, thực dân và dân chủ. Cho đến cuối thập niên đầu tiên người ta mới bắt đầu thấy các hậu quả khủng khiếp bao gồm từ sự trỗi dậy của Trung Quốc, cuộc Đại suy thoái 2007-2008, trào lưu dân túy ở Âu-Mỹ vốn dẫn đến Brexit, Trump rồi nay đảo ngược sang Biden, và tương lai GDP của Trung Quốc qua mặt Mỹ không còn xa.

Kinh tế dễ hiểu sẽ tiếp tục trình bày các vấn đề này một cách… dễ hiểu !

Đoàn Hưng Quốc

Nguồn : VNTB, 14/03/2021

________________

Tóm tắt :

1. Tư bản (Capitalism) : thị trường tự do (free market) ; bàn tay vô hình (invisible hand) ; Adam Smith ; Mỹ

2. Cộng sản (Communism) : kinh tế chỉ huy (control economy) ; bàn tay sắt của Nhà nước vô sản (dictatorship of the proletariat) ; Karl Marx

3. Dân chủ xã hội (Social Democracy) : bàn tay hữu hình (the visible hand, hay bàn tay lông lá) của Nhà nước can thiệp bù đắp cho các thất bại của thị trường ; John M. Keynes ; Châu Âu

4. Chuyên chế tư bản (Authoritarian Capitalism) : kinh tế thị trường nhưng chuyên chế độc đảng ; cạnh tranh kinh tế nhưng không có cạnh tranh chính trị ; Trung Quốc và Việt Nam

____________

Ghi chú :

(1) Tựa đề Lý thuyết tổng quát… của Keynes 1936 dựa theo tên gọi Lý thuyết tổng quát về thuyết tương đối (General Theory of Relativity) của Albert Einstein 1915 cho thấy kỳ vọng của Keynes là thay đổi kinh tế học từ nền tảng của Smith và Marx, cũng giống như Einstein thay đổi vật lý học từ nền tảng của Newton. Quyển Lý thuyết tổng quát… của Keynes cực kỳ khó hiểu nên nhà Nobel kinh tế Paul Krugman có lần nhận xét giống như miếng thịt bít-tết thật ngon nhưng nấu chưa chính nên nhai mãi nuốt không trôi (dịch thoát ý).

********************

Chương 2 :

Thị trường

 

kinhte2

Ba nhân vật trụ cột của bộ môn kinh tế học là Adam Smith, Karl Marx và John M. Keynes. Chương 2 trình bày những lý luận kinh tế đi sau ba vị này ở Mỹ, lý do chọn Hoa Kỳ vì là nền kinh tế lớn nhưng thay đổi qua nhiều thời tổng thống với các chính sách kinh tế khác nhau. Nhưng trước hết để tóm tắt :

Adam Smith chủ trương thị trường có tự do thì dân chúng mới hăng hái làm việc, tạo ra của cải và trao đổi hàng hóa để rồi tất cả mọi người được hưởng lợi ích từ giá trị lao động của chính mình.

Karl Marx phê bình trong chủ nghĩa tư bản giới chủ bóc lột giá trị lao động của thợ thuyền. Lenin duy trì khu vực tư nhân và thị trường nhưng kinh tế do Nhà nước lãnh đạo (New Economic Policy 1921-1928). Đến thời Stalin hoàn toàn loại bỏ thị trường tự do để thay thế bằng nền kinh tế chỉ huy.

John M. Keynes phân tích thị trường lên xuống theo chu kỳ thăng trầm nên Nhà nước phải bù đắp vào những khiếm khuyết của thị trường nhằm ổn định xã hội.

Như vậy ba kinh tế gia lỗi lạc mỗi người đều có một cái nhìn khác nhau về mối tương quan giữa Nhà nước và Thị trường. Mục tiêu phần này nhằm trình bày các trường phái tiếp nối Smith, Marx và Keynes mà không đi đến kết luận bởi vì cuộc tranh cãi này sẽ còn kéo dài thêm vài trăm năm nữa (nhằm tạo công ăn việc làm cho các kinh tế gia !).

Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value). Khác ở chỗ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột.

Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá trị biên tế hay Marginal Value.

Thị trường định đoạt giá trị (giá cả, lương bổng) để trao đổi hàng hóa (sản phẩm, lao động). Một người có thể bỏ ra công sức lao động tạo ra một món hàng không giá trị vì không ai mua (giống như Kinh tế dễ hiểu viết mà chẳng ai đọc !). Giá trị của mỗi người ở chỗ làm ra tiền nhiều hay ít là do nơi khả năng của họ đáp ứng nhu cầu của thị trường giỏi hay dở (người Mỹ gọi là "sell yourself", tức là tìm giá tự bán khả năng của mình).

Nhà tư bản để dành tiền dùng làm vốn đầu tư (capital), tức là họ nhịn không hưởng thụ tiện ích ngay bây giờ thay vào đó chuẩn bị cho tiện ích trong tương lai mặc dù gặp nhiều rủi ro thua lỗ hay mất vốn. Cho nên khi nhà tư bản sau này gặt hái lợi lộc từ tiền đầu tư thì không thể bị xem là bóc lột giá trị lao động của thợ thuyền mà ngồi không hưởng lợi. Thương gia tạo ra giá trị bằng cách môi giới và quảng cáo hàng hóa nhằm mang tiện ích đến cho người tiêu dùng (cho dù không trực tiếp lao động tạo ra sản phẩm) nên cũng không thể bị gọi là bóc lột giá trị lao động của công nhân.

Cho nên theo cánh Giá trị biên tế (Marginalists) thì trong thị trường tự do không ai bị ép buộc phải mua hay bán nên tuy có giàu nghèo do nơi mỗi người tạo ra giá trị cao hay thấp nên không có bóc lột.

Quan điểm về Thị trường tự do (Adam Smith) phối hợp với trường phái Giá trị biên tế (Marginalists) được gọi chung là cánh Tân cổ điển (neo-classical), nôm na là Tư bản Mỹ. Thị trường tuy chênh lệch giàu nghèo nhưng không bất công vì giá trị tiện ích cao thấp khác nhau. Nhà nước đừng viện dẫn lý do công bằng xã hội mà thò bàn tay lông lá bẻ cong (distort) thị trường hoặc tìm cách đánh thuế (tịch thu) của nhà giàu cho nhà nghèo (bỏ tiền vào túi nhà nước).

Nhưng như John M. Keynes nhận xét thị trường trải qua các chu kỳ thăng trầm gây ra rất nhiều xáo trộn nên cần đến bàn tay hữu hình của Nhà nước can thiệp nhằm ổn định xã hội. Để trả lời cho vấn nạn này kinh tế gia Milton Friedman (Nobel 1976) chứng minh cuộc Đại khủng hoảng kinh tế 1929 do chính nơi Nhà nước kém cỏi tăng lãi suất quá sớm khiến một cuộc khủng hoảng thuộc loại xoàng xoàng (garden variety crisis) trở thành một cuộc đại khủng hoảng. Nói cách khác, Nhà nước phá hỏng thị trường trước rồi sau này tự khen là cứu vớt thị trường ! 

Dùng thí dụ cho dễ hiểu, thị trường như cơ thể cần đến trái tim (ngân hàng) bơm máu huyết (tiền). Thiếu máu thì suy thoái (tiền lưu hành ít khó vay mượn đầu tư) ; dư máu sinh lạm phát (tiền lưu hành nhiều thành ra mất giá) ; còn nghẹt tim (ngân hàng kẹt vốn) mà không cấp cứu thì chết ! Cho nên cần một Ngân hàng trung ương độc lập để giám sát hệ thống ngân hàng, để bơm hay hút tiền và kiểm soát lãi suất nhằm giúp cơ thể mạnh khỏe thay vì trông cậy vào Nhà nước siết chặt không cho uống rượu, hút thuốc, v.v. bởi vì Nhà nước sẽ lạm dung. 

Xin lưu ý là Ngân hàng trung ương Mỹ (Central Bank hay Federal Reserve – Quỹ Dự trữ liên bang, gọi tắt là the Fed) tuy do Tổng thống và Quốc hội bổ nhiệm nhưng độc lập (ít nhất là trên nguyên tắc) với chính quyền (gồm Hành pháp và Lập pháp). Ngân hàng trung ương quyết định chính sách tiền tệ (monetary policy) trong khi chính quyền quyết định ngân sách (fiscal policy) và thuế khóa (tax policy). Ngân sách và thuế khóa lại là hai quyết định chính trị (political decisions) ưu đãi phe này thiệt thòi phía kia nên chậm chạp, gặp nhiều chỉ trích và sai phạm. Ngược lại Ngân hàng trung ương do một nhóm chuyên gia độc lập quyết định mà không bị áp lực của lá phiếu bầu nên đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế một cách nhanh chóng và hữu hiệu. Cho nên bàn tay hữu hình (the visible hand, hay bàn tay lông lá) nhằm chỉ vào chính quyền thay vì Ngân hàng trung ương. 

(Ngược lại Ngân hàng trung ương của các nước chuyên chế tư bản gồm Trung Quốc và Việt Nam không độc lập vì là cánh tay của Nhà nước sai bảo cho công ty quốc doanh hay tư nhân nào vay mượn thì phải vâng lời).

Hai trường phái Giá trị biên tế (Marginalists) và Tiền tệ (Monetarists) đặt nền tảng lý thuyết cho kinh tế thị trường và Ngân hàng trung ương ở Mỹ trong suốt 40 năm từ 1981-2021. Thống đốc Ngân hàng trung ương Paul Vocker nổi tiếng nhờ cắt lượng tiền lưu hành chặn đứng lạm phát phi mã năm 1979. Tổng thống Ronald Reagan tuyên bố "Nhà nước tạo ra vấn đề thay vì giải quyết vấn đề" (Government is not the solution to our problem, government is the problem) năm 1981, tức là Nhà nước không can thiệp vào thị trường tự do, đồng thời chủ trương giảm thuế để tư nhân có thêm tiền đầu tư hay tiêu xài (nghịch lý là giảm thuế nhưng vẫn tăng chi, lý do một khi Nhà nước đã mập thì ngay cả Reagan cũng không dám mổ bụng hút mỡ !)

Cho nên từ 1981-2021 nước Mỹ tuy áp dụng kinh tế thị trường tự do (free market economy) nhưng vai trò của Ngân hàng trung ương rất lớn. Nếu trên sân khấu thị trường tự do là cô đào thì Ngân hàng trung ương là kép 1 còn chính quyền (Hành pháp và Quốc hội) là kép 2. Dù vậy Ngân hàng trung ương bị chỉ trích là có bàn tay nhám nhúa ưa sờ soạng, trong khi bàn tay lông lá của Nhà nước lúc nào cũng đòi bóp… mạnh hay nhẹ tùy theo đảng Cộng hòa hay Dân chủ.

Donald Trump là Tổng thống không giống ai nên công khai hù dọa Ngân hàng trung ương trên Twitter khi Thống đốc Jerome Powell tăng lãi suất quá nhanh. Báo chí phản đối Trump đe dọa tính độc lập của Ngân hàng trung ương (nhưng kết quả cho thấy Trump đúng Powell sai). Dù vậy Trump vẫn thuộc cánh thị trường tự do vì bớt giám sát (de-regulation) và giảm thuế cho dù ngân sách tiếp tục tăng.

Cho đến năm 2021 khi Biden làm Tổng thống và đảng Dân chủ nắm Quốc hội thì Ngân hàng trung ương mới sẽ nhường chỗ cho Nhà nước làm kép chánh trên sân khấu, tức là Milton Friedman cùng hai trường phái Giá trị biên tế và Tiền tệ bị thay thế bởi lý thuyết John M. Keynes cùng với thuyết Tân tiền tệ (Modern Monetary Theory – Stephanie Kelton). Hơn thế, Nhà nước không chỉ can thiệp (government intervention) mà nay phải chủ động (government activism – Mariana Mazzucato) vào nền kinh tế. Thập niên 2020 là thời đại của các kinh tế gia phụ nữ !

Xin mời đọc các chương kế tiếp.

Đoàn Hưng Quốc

Nguồn : VNTB, 25/03/2021

______________ 

Tóm tắt :

1. Phái Cổ điển (Classical Economic) Adam Smith và Karl Marx : lao động (labour) tạo ra giá trị (value). Marx lên án tư bản bóc lột giá trị lao động.

2. Phái Tân cổ điển (Neo-classical Economic) : giá trị (value) là do tiện ích (utility). Thí dụ lương bổng cao hay thấp do thị trường trả giá theo nhu cầu tiện ích nhiều hay ít nên không có bóc lột.

3. Phái Tiền tệ (Monetarists) : tiền trong kinh tế như máu huyết trong cơ thể. Thiếu máu thì yếu (suy thoái) còn dư máu thì căng đứt mạch máu (lạm phát).

4. Ngân hàng trung ương, tức Ngân hàng Dự trữ liên bang Hoa Kỳ hay Cục Dự trữ liên bang (Federal Reserve System - FRS hay FED) độc lập với chính quyền, và kiểm soát lượng tiền (máu trong cơ thể) mà không bẻ cong (distort) thị trường như bàn tay lông lá của Nhà nước.

5. Cộng lại có 4 bàn tay : 

  • bàn tay vô hình (the invisible hand, Adam Smith) điều hợp thị trường tự do
  • bàn tay sắt trong kinh tế chỉ huy
  • bàn tay hữu hình (the visible hand hay bàn tay lông lá, John M. Keynes) của Nhà nước cứu vớt hay bóp mép thị trường
  • bàn tay nhám nhúa của Ngân hàng trung ương sờ soạn thị trường.

________________

[1] Chú ý : Hai chữ rent (tiền thuê) và rent seekers (ngồi không hưởng lợi) có ý nghĩa rất quan trọng trong sách vở kinh tế Anh-Mỹ nên cần giải thích cặn kẽ dưới đây :

Rent seekers dịch theo cộng sản là thành phần hút máu mủ giai cấp công/nông dân (tư bản, địa chủ) nhờ vào vốn (capital) hay tiền thuê đất (rent) rồi ngồi không hưởng lợi mà không phải lao động.

Rent hiểu theo nghĩa rộng hiện giờ gồm tất cả mọi thứ cản trở thị trường tự do : bảo hộ (protectionism), độc quyền (monopoly), bản quyền (patent), tập đoàn, phe phái, v.v.

**********************

Chương 3 :

Bàn tay hữu hình của Nhà nước dưới thời Biden

 

kinhte3

Nhắc lại chương 1 & 2 :

1. Adam Smith : bàn tay vô hình điều hợp thị trường nơi đó tư nhân tự do tạo ra của cải và trao đổi hàng hóa ; Nhà nước chỉ giữ vai trò giới hạn nhằm bảo đảm an ninh và trật tự.

2. John M. Keynes : bàn tay hữu hình của Nhà nước phải tích cực can thiệp và bù đắp các sai sót của thị trường (market failures).

Dù Smith hay Keynes thì Nhà nước vẫn giữ vai trò hỗ trợ dù nhiều hay ít nhưng chỉ có tư nhân mới tạo ra của cải và sự thịnh vượng. Do Keynes chú trọng đến sự can thiệp tích cực của Nhà nước nên phe tán đồng cho rằng ông cứu vớt tư bản vì ngăn ngừa không cho những xáo trộn của thị trường dẫn đến khủng hoảng kinh tế rồi sau đó là bạo loạn, cách mạng để cuối cùng đi đến cộng sản hay phát-xít. Phe chống đối cảnh giác mô hình dân chủ xã hội kiểu Keynes rồi sẽ trở thành xã hội chủ nghĩa, bởi vì bàn tay thô bạo của Nhà nước mỗi ngày sẽ tăng thuế má và quyền lực để rồi bóp chết thị trường tự do, cho nên họ lên án chính sách kinh tế của Biden đang đi trên con đường thứ 2 này. Ngược lại những người ủng hộ giải thích Biden mở rộng vai trò của Nhà nước chính vì những bất cập của thị trường.

Trong tư bản Mỹ thì tư nhân tạo ra giá trị (value) nhờ mang lại tiện ích (utility) khi sản xuất hàng tiêu dùng. Giá cả (price) lại là thước đo giá trị : hàng đắt vì giá trị cao nên nhiều người muốn mua ; một người được trả lương lớn vì thỏa mãn nhu cầu tiện ích của xã hội. Quan điểm này tuy hợp lý về kinh tế nhưng lại sinh chuyện lấn cấn về đạo đức bởi vì giá trị của một người thành ra họ làm tiền nhiều hay ít (người Mỹ gọi là make money dịch sát tiếng Việt là làm ra tiền nên đúng cả nghĩa đen lẫn bóng).

Nói rộng ra thì giá trị (hay tính chính đáng – legitimacy) của nhiều nhà nước như Trung Quốc và Việt Nam ngày nay đặt nơi GDP tăng trưởng nhanh hay chậm, tức là Nhà nước có thành công đẩy quốc gia làm ra tiền nhiều hay ít thay vì chú trọng đến hạnh phúc, bình đẳng và an sinh xã hội (môi trường, giáo dục, y tế, v.v.).

Bên cạnh đó, giá cả không phải lúc nào cũng phản ảnh giá trị thực tế bởi vì thị trường có thể bơm lên bong bóng. Những ngành nghề chuyên môn "làm ra tiền" như thị trường tài chính ở Mỹ ngày nay chiếm đến gần 8% GDP mà không hề sản xuất ra một vật dụng tiêu dùng nào. Các công ty tài chính phân bua họ mang đến tiện ích nhờ cung cấp vốn cho doanh nghiệp và cơ hội đầu tư cho dân chúng (điều này đúng) nên khi giá địa ốc và chứng khoáng bay bổng thì họ thu vào lợi nhuận khổng lồ. Nhưng, ngược lại, lúc các ngân hàng đầu tư cẩu thả như trong cuộc Đại suy thoái năm 2007 lại không gánh chịu trách nhiệm đã hủy hoại giá cả trên thị trường (value destruction) khiến hàng chục triệu dân chúng mất nhà mất việc và suýt làm sụp đổ nền kinh tế. Cho nên "làm ra tiền" không hẳn đã tạo ra giá trị.

Tài sản của 26 người giàu nhất thế giới hiện ngang bằng 50% phần còn lại của nhân loại (1). Riêng ở Mỹ vào năm 2017, của cải của 3 nhà giàu nhất nước nhiều hơn 50% dân chúng còn lại (2). Những tỷ phú như Jeff Bezos hay Mark Zuckerberg quả tình mang đến tiện ích cho hàng tỷ con người qua các dịch vụ trên Amazon và Facebook, nhưng khó lòng giải thích tài sản hàng trăm tỷ của họ 100% là đến từ giá trị tiện ích, mà không phải nhờ các công ty này bẻ cong luật pháp và bóp méo thị trường nhằm tránh thuế và giết chết cạnh tranh.

Ở Mỹ hay nhiều nước khác ngày nay tuy không bóc lột lao động (mất việc hay không chịu đi làm thì lãnh trợ cấp nhà nước) nhưng vô cùng chênh lệch : nhiều gia đình làm việc quần quật nhưng vẫn sống chật vật với đồng lương thấp trong khi một số khác hưởng lợi to nhờ giá bất động sản và chứng khoán tăng vọt. Một khi quần chúng phẫn nộ cho là bất công thì mô hình kinh tế phải thay đổi, bởi vì mô hình kinh tế phải phục vụ con người chớ xã hội không thể bị bẻ cong vì lý thuyết kinh tế (trừ độc tài cộng sản !).

Cho dù thị trường tự do có những khuyết điểm như trên nhưng nhiều người e sợ bàn tay thô bạo của Nhà nước một khi can thiệp để lấp bớt hố sâu giàu nghèo sẽ khiến mọi người cùng nghèo như nhau (equality = equally poor). Tuy nhiên bài học của Nam Hàn, Đài Loan, Trung Quốc cho thấy có những trường hợp bàn tay hữu hình của Nhà nước đưa quốc gia trở nên cường thịnh trong thời gian kỷ lục. Một thực tế khác nữa là các công ty Âu-Mỹ-Nhật đều không thể cạnh tranh với Nhà nước cộng sản trong thị trường ở Trung Quốc, tức khu vực tư nhân cần đến sự hỗ trợ tích cực của chính quyền trong thương mại quốc tế.

Cuối cùng, có những vấn nạn của thời đại như đại dịch Vũ Hán và biến đổi khí hậu đòi hỏi quy mô ở tầm vóc quốc gia hay quốc tế mà khu vực tư nhân không thể nào đảm trách nổi, cho nên cần đến bàn tay của Nhà nước huy động nhân vật lực của cả một nước hay phối hợp toàn cầu để đối phó.

***

Những khuyết điểm nói trên của thị trường tự do ngấm ngầm làm sôi sục lên hai làn sóng phản đối, một bên cánh hữu dân túy (Brexit, Trump) và bên kia cánh tả xã hội (Bernie Sanders, Elizabeth Warren). Chính sách kinh tế của Biden thể hiện sự đắc thắng của cánh tả, ít nhất là cho đến kỳ tái đấu bầu Quốc hội năm 2022.

Trong suốt 40 năm, từ thời Reagan (1981) cho đến Trump (2020), các tổng thống Mỹ đều tránh né để không bị gọi là Big Government, tức là bóng đen của một Nhà nước to lớn che phủ lên toàn bộ nền kinh tế. Ngay khi Nhà nước can thiệp mạnh bạo trong lần Đại suy trầm (Obama, 2007-2009) hay Đại dịch Vũ Hán (Trump, 2020) thì các chính quyền cũng chỉ giải thích do nhu cầu hỗ trợ nền kinh tế. Tranh cãi giữa hai đảng Cộng hòa và Dân chủ là nơi Nhà nước "lấn" nhiều hay ít vào thị trường tự do.

Đến Biden thì Nhà nước không chỉ can thiệp thụ động (government intervention) mà phải tích cực chủ động (government activism) nền kinh tế vì 3 lý do :

1. Chính sách kinh tế của Nhà nước phải chủ động mang lại công bằng xã hội (equality) và bình đẳng màu da, giới tính (racial, gender equity), tức là những điều mà thị trường tự do không thể giải quyết (3).

2. Chính sách kinh tế của Nhà nước phải chủ động đối phó với đại dịch Vũ Hán và biến đổi khí hậu vốn là những vấn đề lớn của thời đại mà khu vực tư nhân không đủ sức cáng đáng.

3. Chính sách kinh tế của Nhà nước phải chủ động tạo ra tiện ích và giá trị kinh tế.

Điểm thứ 3 là một thay đổi cực kỳ sâu rộng trong lý luận vì đi xa hơn cả John M. Keynes, tức không chỉ tư nhân mà Nhà nước cũng tạo ra giá trị kinh tế. Hai thí dụ thường được nêu lên là Nhà nước đã đầu tư khai sinh công nghệ bán dẫn (semiconductor) và Internet mà sau này các công ty tư nhân như Intel, Apple, Google… khai thác làm thay đổi bộ mặt nhân loại. Cho nên theo kinh tế gia Mariana Mazzucato và các chính trị gia cánh tả, như Bernie Sanders, Elizabeth Warren và Biden, thì Nhà nước không thể chỉ "rụt rè" hỗ trợ mà phải "táo bạo" (cánh tả dùng chữ tiếng Anh là "bold") đầu tư và điều khiển khu vực tư nhân vào những công trình làm biến đổi thế giới như năng lượng xanh (green energy), trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence) và vi sinh học (biotechnology) (4).

Kinh tế của các nước công nghiệp gồm Âu-Mỹ-Nhật đang ở trong tình trạng đình trệ lâu dài (secular stagnation – Larry Summers) từ đầu năm 2000 cho đến nay, tức là tư nhân không đầu tư vào sản xuất để tạo công ăn việc làm trong nước mà di dời hãng xưởng sang Đông Nam Á nhằm khai thác nguồn nhân công rẻ và các quy định kiểm soát lỏng lẻo. Thu nhập của giới công nhân và thành phần trung lưu vừa và thấp không hề tăng trong suốt 30 năm kể từ ngày toàn cầu hóa. Như vậy thị trường tự do và tự do mậu dịch đã không đáp ứng đủ nhu cầu của xã hội cho nên Nhà nước phải chủ động đầu tư ào ạt vào giáo dục, hạ tầng và các công nghệ tiên tiến nhằm tạo công ăn việc làm và thúc đẩy nền kinh tế cạnh tranh với đà vươn lên của Trung Quốc. Nói cách khác, chính sách công nghiệp quốc gia (national industrial policy) và tư bản dân tộc là những quan điểm cấm kỵ trong suốt 40 năm từ thời Ronald Regan (1981) nay bắt đầu xuất hiện trở lại.

Nhà nước chủ động can thiệp nên phải… xài lớn. Chưa đầy 3 tháng từ khi nhậm chức mà Biden đã xài 1.900 tỷ USD kích cầu (stimulus spending) rồi nay đề nghị thêm 2.000 tỷ USD đầu tư hạ tầng (infrastructure spending). Đây là chưa kể đến những chương trình vô cùng tốn kém tiếp theo như hủy bỏ một phần nợ cho sinh viên (student loan cancellation), giữ trẻ miễn phí, y tế cho mọi người (medicare for all), giáo dục cho mọi người (education for all) và lương căn bản cho mọi người (UBI, hay Universal Basic Income). For all dịch sang tiếng Việt là của toàn dân. Câu hỏi ở đây là tiền đâu mà xài dữ vậy trong khi mà nước Mỹ đang mắc nợ như chúa chổm ?

Câu trả lời thứ nhất là thế giới đang tràn ngập tiền tiết kiệm (savings glut – Ben Bernanke) do 4 nguyên nhân : 

(1) Hố sâu giàu nghèo – tiền của tích tụ vào nhà giàu xài không hết nên còn dư để dành ; 

(2) Chênh lệch mậu dịch – các nước như Trung Quốc hay Việt Nam tích tụ những khoảng dự trữ ngoại tệ khổng lồ nhằm thao túng tiền tệ và đề phòng nạn tư bản tháo vốn ; 

(3) Trong những năm giá dầu nhảy vọt thì khối các nước sản xuất dầu như Nga, Saudi và Na Uy thu về các khoản lợi nhuận khổng lồ (nhưng khối tiền này đang vơi dần trong những năm gần đây) ;

(4) Dân chúng Âu-Mỹ-Nhật để dành tiền trong các quỹ hồi hưu. 

Vì tiền tiết kiệm tràn ngập nên nước Mỹ có thể tha hồ vay mượn với lãi suất âm (negative interest rate, sau khi trừ lạm phát) dại gì không mượn để đầu tư hay tiêu xài… cho sướng !

Một hệ lụy là Mỹ nợ 100% hay 150% GDP không còn quan trọng miễn là giữ tiền trả nợ hàng năm dưới 2% GDP. Vì nếu tăng trưởng hay lạm phát cũng khoảng 2% thì nợ sẽ dần dần bốc hơi biến mất (Larry Summers và Jason Furman, tức hai tay đại phù thủy kinh tế gia "hô biến" thì nợ biến mất !).

Điểm cuối cùng nhưng quan trọng là thuyết Tân tiền tệ (Modern Monetary Theory hay MMT – Stephanie Kelton) lý luận rằng Mỹ mượn nợ bằng USD nên không bao giờ quỵt nợ vì có thể in USD trả nợ ! Mỹ chỉ không mượn được nợ ngày nào thế giới "chê" đô-la vì USD mất giá (như trước đây dân Việt "chê" tiền Bác Hồ mất giá quá nhanh nên chuộng vàng và USD). Mỹ mượn nợ ào ạt từ 6% GDP năm 2000 nay tăng vọt lên 109% GDP năm 2020 vậy mà lãi suất thực rơi từ 4,1% xuống chỉ còn -0,1%, tức là ngày càng thêm nhiều người muốn cho Mỹ mượn tiền. Vì thế giá USD không giảm so với EUR (Euro), JPY (Yen), CNY (Nhân dân tệ) hay ngay cả VND (đồng Việt Nam). Thí dụ cho dễ hiểu, Việt Nam hiện có khoảng 80 tỷ USD trong quỹ, cộng với thu vào hàng năm trên 60 tỷ USD từ chênh lệch mậu dịch, vậy mà Việt Nam tuy dư thừa USD nhưng vẫn không "chê" USD, trái lại chỉ sợ Mỹ không chịu in tiền hay mượn tiền để mua hàng Việt Nam. Việt Nam không lo USD cao giá chỉ sợ USD mất giá ! 

Nước Pháp có lần tức giận gọi Mỹ được hưởng tiện nghi quá đáng (exorbitant privilege) nhờ vai trò đồng đô-la. Ngược lại nhiều chuyên viên kinh tế cho rằng Mỹ mang gánh nặng quá đáng (exorbitant burden) cũng vì USD – nhưng đây là câu chuyện sẽ bàn về sau. Còn nay trở lại với thuyết MMT thì Mỹ cứ tiếp tục in tiền hay vay tiền cho đến khi lạm phát, tức là USD bắt đầu mất giá ! 

Đoàn Hưng Quốc

Nguồn : VNTB, 06/04/2021

Tóm tắt :

1. Nhà nước phải táo bạo (bold) chủ động thúc đẩy nền kinh tế thoát khỏi tình trạng đình trệ lâu dài (secular stagnation) để mang lại công bằng xã hội (equality), để đầu tư vào công nghiệp xanh, trí tuệ nhân tạo hay vi sinh học nhằm đưa nền kinh tế Mỹ tiếp tục dẫn đầu so với đà trỗi dậy của Trung Quốc.

2. Nhà nước phải xài tiền cho bạo chừng nào mà Mỹ còn có thể mượn tiền gần không giới hạn do tình trạng tràn ngập tiết kiệm (savings glut), và bởi Mỹ in USD trả nợ nên không bao giờ quỵt nợ (MMT).

___________________

Ghi chú :

(1) "Word’s 26 richest people own as much as poorest 50%", The Guardian 01/20/2019

(2) "The 3 richest Americans hold more wealth than botto 50% of the country", Forbes 11/09/2017

(3) Chính sách kinh tế nặng về xã hội của Biden được cánh tả xem là bước thứ 3 tiếp nối The New Deal của Franklin D. Roosevelt (thập niên 1930) và The Great Society của Lyndon B. Johnson (thập niên 1960). Khuynh hướng này suy yếu từ thời Ronald Reagan (1981) cho đến nay mới bộc phát trở lại. Các chương sau sẽ trình bày rõ ràng hơn về tiến trình kinh tế nước Mỹ.

 (4) Cái khó là chưa có cách để đo lường các "giá trị" của Nhà nước tạo ra. Tư nhân đầu tư thua lỗ sẽ bị phá sản. Trái lại Nhà nước thua lổ bị phá sản thì dân chúng… chết trước chớ đợi gì tới bầu cử thay đổi lãnh đạo.

*************************

Chương 4 :

Nhà nước và Ngân hàng trung ương

 

kinhte4

Chương 2 phân biệt giữa bàn tay hữu hình của Nhà nước và bàn tay Midas của Ngân hàng trung ương. Tưởng cũng nên tìm hiểu thêm sự khác biệt giữa hai cơ quan chính quyền này ở Mỹ.

Nếu so sánh với nuôi con thì có 2 việc là cho ăn và dạy dỗ. Ăn uống phải đầy đủ và điều độ (không mặn, ngọt, béo, v.v.) để cơ thể khỏe mạnh. Giáo dục không gò bó thì trẻ hoặc hư hay cương cường tự lập, trái lại rầy la đánh đập hay nuông chiều thì trẻ sinh ra nhút nhát, kém tự tin hoặc ỷ lại.

Ngân hàng trung ương ví với bàn tay Midas nuôi dưỡng thức ăn (tiền) cho nền kinh tế, trong khi bàn tay hữu hình (hay thô bạo) của Nhà nước (gồm Hành pháp và Quốc hội ở Mỹ) có quyền hạn thả lỏng hay siết chặt thị trường.

Phái thị trường tự do (từ Reagan 1981 đến Trump 2020) quan niệm rằng :

- Bàn tay Midas của Ngân hàng trung ương điều chỉnh lượng tiền và lãi suất trong nền kinh tế như nuôi cơ thể ăn uống điều độ ;

- Bàn tay thô bạo của Nhà nước phải để thị trường phát triển tự do (trẻ tự lập) mà đừng can thiệp bẻ cong thị trường ;

- Trong khủng hoảng thì vai trò chính là của Ngân hàng trung ương điều chỉnh lượng tiền cho đúng mức thì kinh tế sẽ phục hồi, cũng giống như cơ thể ăn uống điều độ sẽ mạnh khỏe trở lại ;

- Khủng hoảng kinh tế dẫn đến xáo trộn xã hội. Do Nhà nước chịu áp lực bởi tâm lý bất mãn nhất thời trong quần chúng nên các quyết định chính trị nhất thời của Nhà nước nhằm thoả mãn một thành phần cử tri sẽ tác hại lâu dài đến sinh hoạt của thị trường tự do.

- Cho nên Ngân hàng trung ương phải độc lập khỏi Nhà nước để có những quyết định chuyên môn với mục đích duy nhất là hỗ trợ cho nền kinh tế mà không bị tác động bởi chính trị.

Phái Nhà nước chủ động (Biden) cho rằng thị trường đã được thả lỏng trong 40 năm đâm ra hư hỏng, nên nay phối hợp :

- Bàn tay hữu hình của Nhà nước uốn nắn (hay bẻ cong – distort) thị trường để trừng trị thói hư tật xấu ; 

- Bàn tay Midas của Ngân hàng trung ương tiếp tục điều chỉnh lượng tiền và lãi suất như cũ ;

- Thị trường tự do trong 40 năm chẳng những không giải quyết mà còn làm trầm trọng thêm bất bình đẳng và hố sâu giàu nghèo trong xã hội ;

- Hoa Kỳ mất dần ưu thế so với Trung Quốc do các công ty tư nhân tham lợi, cho nên phải đặt lại vai trò của Nhà nước Mỹ đối đầu với Nhà nước Trung Quốc về mậu dịch (trade) hay chính sách công nghiệp quốc gia (national industrial policy) ;

- Hệ thống hạ tầng của Mỹ được xây từ thập niên 1930 nay đã hư hỏng nên cần đầu tư ồ ạt để sửa chữa và canh tân theo đà tiến của thế kỷ thứ 21 ;

- Nước Mỹ và thế giới đang đối đầu với những nan đề của thế kỷ như đại dịch Vũ Hán và biến đổi khí hậu mà chỉ có Nhà nước mới có thể huy động nhân vật lực toàn quốc để phối hợp với thế giới đối phó ;

- Đã đến lúc nhà nước táo bạo (bold) chủ động nền kinh tế với sự hỗổ trợ của Ngân hàng trung ương.

Nếu thị trường là cô đào thì từ thời Reagan đến Trump, Ngân hàng trung ương là kép 1 còn Nhà nước là kép 2. Đến Biden đổi vai trò Nhà nước thành kép 1 trong khi Ngân hàng trung ương là kép 2.

Nhà nước ở đây bao gồm Hành pháp và Lập pháp, tức là chính quyền dân cử nên các quyết định chính trị thường là bị áp lực của cử tri. 

Ngân hàng trung ương gồm những chuyên viên kinh tế do Tổng thống đề cử và Quốc hội chấp thuận (tức là không do dân chúng chọn lựa) để có các quyết định đơn thuần về kinh tế.

Quyền lực nhà nước rất lớn. Bàn tay của Nhà nước gọi là hữu hình (hay thô bạo) vì các chính sách về giám thị (regulations), thuế má (tax policy) và ngân sách (fiscal policy) đều có thể hổ trợ hay bóp nghẽn thị trường tự do.

Vai trò của Ngân hàng trung ương giới hạn trong kiểm soát các ngân hàng tư nhân, lãi suất ngắn hạn và lượng tiền lưu hành. Được ví với bàn tay Midas (vua Midas sờ vật gì cũng thành vàng) do Ngân hàng trung ương bấm chuột ra tiền để bơm vào hay hút ra khỏi thị trường. Tiền quan trọng trong tư bản cũng như thức ăn nuôi cơ thể :

- ăn uống điều độ giúp cơ thể khỏe mạnh ; 

- thiếu ăn (tiền lưu hành ít) thành suy nhược (kinh tế suy trầm) ; 

- ăn nhiều (tiền lưu hành nhiều) sanh béo phì (lạm phát) ;

- áp huyết phải vừa đúng (gọi là lãi suất tự nhiên hay natural interest rate) còn nếu máu cao hay thấp phải uống thuốc ;

- nghẽn tim hay đứt mạch máu (ngân hàng kẹt vốn) phải cứu cấp.

Ngân hàng trung ương tuy quyền lực không bao trùm như Nhà nước nhưng chỉ riêng hai việc bơm hay rút tiền cũng đủ để nền kinh tế tăng trưởng mạnh hay yếu. Bàn tay của Ngân hàng trung ương chỉ đẻ ra tiền nhưng bẻ quẹo thị trường tương tự như vua Midas sờ ra vàng mà thành ra đói khi thức ăn cũng thành vàng.

Tiền bơm vào kinh tế khiến phân lời thấp (cheap money), doanh nghiệp dễ vay mượn (easy money) và mướn người nên thúc đẩy tăng trưởng.

Nhưng lượng tiền lưu hành nhiều quá thành ra mất giá (lạm phát). 

Dễ vay mượn thì kinh tế tăng trưởng nóng (bong bóng).

Muốn hạ nhiệt phải rút bớt lượng tiền lưu hành khiến lãi suất tăng. 

Kinh tế nguội với tình trạng kéo dài của doanh nghiệp không đầu tư, tư nhân không tiêu xài.

Thị trường chứng khoán nhắm vào chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương mà lên hay xuống : kinh tế lên thì sàn chứng khoán tăng ; kinh tế xuống thì sàn chứng khoán hạ.

Thị trường địa ốc cũng nhắm theo chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương mà tăng hay giảm : tiền lời thấp giá nhà lên vì nhiều người mua ; tiền lời cao giá nhà xuống do bớt người mua.

Nước chảy vào lỗ trũng còn tiền chạy đến chỗ nào sinh lời. Tiền ở Mỹ do Ngân hàng trung ương bơm ra không thúc đẩy sản xuất (do hãng xưởng di dời sang Đông Nam Á để khai thác nhân lực rẻ) mà chạy sang ngành dịch vụ (service sector như du lịch, thời trang, nhà hàng…), phần còn lại bơm giá địa ốc và cổ phiếu (tiền rẻ dễ mua nhà ; tiền dư mua chứng khoán). Do lương bổng trong sản xuất cao hơn dịch vụ nên kết quả là thu nhập của giới lao động thợ thuyền không tăng. Trong khi đó tài sản của những người mua nhà và chứng khoán lại nhảy vọt. Kết quả là hố sâu giàu nghèo tăng không dựa vào giá trị lao động (labor value) hay giá trị tiện ích tăng giảm (marginal utility value) mà do của cải (tiền đẻ ra tiền cho nên nhà giàu càng giàu thêm).

Rõ ràng là bàn tay Midas của Ngân hàng trung ương cho dù không thô bạo nhưng vẫn bẻ cong (distort) thị trường "tự do" : giá cả không do thị trường quyết định mà tùy thuộc vào chính sách của Ngân hàng trung ương. Nhiều người thắc mắc 12 ông bà bỏ phiếu trong ban lãnh đạo của Ngân hàng trung ương không do dân bầu mà sao uy quyền dữ vậy ? 

***

Ngân hàng trung ương ra đời ở Mỹ vào cuối thế kỷ 19 nhằm giám sát các ngân hàng tư nhân. Giả dụ : 

- Ngân hàng A cho vay cẩu thả nên thua lỗ ;

- Tin đồn khiến dân chúng hốt hoảng kéo nhau rút tiền không những từ ngân hàng A (yếu) mà cả các ngân hàng B và C (mạnh) ;

- Ngân hàng A (yếu) bị phá sản mà các ngân hàng B, C (mạnh) cũng hụt vốn. Thí dụ cho dễ hiểu hàng ngày có khoảng 10% dân chúng rút tiền nên các ngân hàng chỉ dự trữ 20% tiền mặt. Gặp lúc hoảng loạn 30% dân chúng xếp hàng rút tiền nên các ngân hàng sẽ thiếu tiền mặt ;

- Ngân hàng B, C cạn tiền mặt nên thủ vốn không cho doanh nghiệp D, E, F, G vay mượn ;

- Doanh nghiệp D, E (yếu) bị phá sản ; doanh nghiệp F, G (mạnh) cũng cắt bớt nhân viên sinh ra nạn thất nghiệp ;

- Ngân hàng B, C (mạnh) còn tăng vốn bằng cách bán bớt tài sản ngân hàng. Giá trị tài sản xấu lúc này đã lủng đáy nên ngân hàng B, C (mạnh) bắt buộc phải bán các tài sản tốt ;

- Giá cả tài sản tốt trên thị trường không liên quan gì đến ngân hàng A (yếu) nhưng chịu ảnh hưởng dây chuyền phải phá giá.

Khủng hoảng tài chánh (financial crisis) tai hại do lây lan nhanh như dịch cúm Tàu (ngược lại các loại khủng hoảng như bong bóng trứng cút, đuôi cắc kè, bong bóng điện toán (hi-tech bubble) chỉ giới hạn trong một khu vực nên giống như bệnh ung thư tuy nan y mà lại không lây).

Trở lại với thí dụ ở phần trên thì Ngân hàng trung ương phải siết chặt giám sát (regulations) để các ngân hàng tư không cho vay cẩu thả ; đồng thời bắt buộc các ngân hàng tư phải tăng quỹ dự trữ lên 40% để đề phòng trường hợp 30% dân chúng cuốn cuồn rút tiền. Các ngân hàng tư như vậy chỉ còn lại 60% lượng tiền cho vay ra thị trường – tức là tiền bị hút ra khỏi thị trường khi các ngân hàng tư tăng dự trữ. 

Ngược lại, khi kinh tế cần tăng trưởng, Ngân hàng trung ương bơm thêm tiền vào thị trường bằng cách cho phép ngân hàng tư giảm dự trữ. 

***

Cách thứ hai để Ngân hàng trung ương bơm tiền là in thêm tiền mới (nhà máy in bạc thuộc Bộ Tài chánh). Ngân hàng trung ương dùng tiền mới để mua vào các tài sản của ngân hàng tư. Tài sản của ngân hàng tư gồm các trái phiếu cho Nhà nước và tư nhân vay mượn. Ngân hàng tư bán một số các trái phiếu này cho Ngân hàng trung ương để Ngân hàng trung ương cung cấp tiền mặt. Ngân hàng tư có thể dùng số tiền này để tăng quỹ dự trữ hay tăng vốn cho vay tiền lưu hành trong thị trường (money expansion).

Ngược lại Ngân hàng trung ương hút tiền ra khỏi thị trường bằng cách bán ra (hoàn trả) số trái phiếu nói trên cho các ngân hàng tư mua trở lại. Các ngân hàng tư phải rút tiền về để mua lại số tài sản thế chấp – tức là lượng tiền lưu hành giảm.

Bàn tay Midas của Ngân hàng trung ương quả là bấm chuột ra tiền !

***

Midas là vua nhưng ở Mỹ Nhà nước mới là hoàng đế. Pháp thuật đẻ ra tiền của Ngân hàng trung ương mà rơi vào tay Nhà nước vô cùng nguy hiểm bởi vì trước mỗi lần bầu cử là Tổng thống và Quốc hội sẽ ép Ngân hàng trung ương in thêm tiền cho kinh tế tăng trưởng để dụ dỗ dân chúng bỏ phiếu cho phe mình còn hậu hoạn như lạm phát thì sẽ tính sau. 

Cho nên trên nguyên tắc Ngân hàng trung ương độc lập đối với Nhà nước. Các quyết định của Ngân hàng trung ương đơn thuần về kinh tế như chống lạm phát, chống suy thoái, tạo công ăn việc làm mà không thể bị áp lực chính trị của đảng Cộng hòa hay là Dân chủ.

***

Trong lần Đại khủng hoảng tài chánh năm 2007-2008, các ngân hàng lớn ở Mỹ cho vay cẩu thả nên khi thị trường địa ốc sụp đổ đâm ra hụt vốn. Vì là các ngân hàng lớn kẹt tiền nên nền kinh tế Mỹ như bị nghẽn tim. Ngân hàng trung ương phải bơm tiền ào ạt như bơm thuốc phiện giúp người sắp chết qua khỏi cơn đau. Bệnh nhân được cứu sống nhưng đâm ra… ghiền thuốc phiện, tức là khi Ngân hàng trung ương tăng lãi suất hay rút tiền (phòng lạm phạt) thì thị trường dẫy nãy sùi bọt mép (báo chí Mỹ gọi là temper tantrum, tức là con nít không được cho ăn kẹo nên làm dỗi) khiến Ngân hàng trung ương hoảng hốt nuông chiều phải tiếp tục với chính sách tiền tệ dễ dãi (easy money policy). Cho nên Ngân hàng trung ương nuông chiều mà thị trường sinh ra ỷ lại. Nền kinh tế Mỹ (và của thế giới) nằm trên núi bạc… giấy do Ngân hàng trung ương in ra không ai biết sẽ kéo dài đến bao giờ.

***

Cũng từ Đại khủng hoảng 2007-2008, Ngân hàng trung ương mua ồ ạt tài sản gồm các trái phiếu công và tư của các ngân hàng tư nhằm gây vốn cho ngân hàng tư. Ngân hàng trung ương khi mua lại nợ công tức là Ngân hàng trung ương cho Nhà nước mượn tiền và như vậy đã soi mòn tính độc lập giữa Ngân hàng trung ương và Nhà nước, bởi vì Nhà nước biết in nợ được bảo đảm có người mượn ! Ngân hàng trung ương khi mua lại nợ tư tức là Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường giúp cho nhiều công ty yếu đứng vững trong giai đoạn khủng hoảng.

Cho nên Ngân hàng trung ương trong thực tế không độc lập mà còn góp sức cho Nhà nước bẻ cong thị trường ! Nhưng đó là câu chuyện về sau (bắt chước 1001 đêm !)

Đoàn Hưng Quốc

Nguồn : VNTB, 14/04/2021

Tóm tắt :

- Hai nhiệm vụ (mandates) của Ngân hàng trung ương là dùng chính sách tiền tệ (monetary policy) để ổn định giá cả (chống lạm phát) và tạo công ăn việc làm

- Nhà nước ban hành các quy định giám sát (regulations), thuế má (tax policy) và ngân sách (fiscal policy)

- Ngân hàng trung ương cần phải độc lập để không bị Nhà nước thúc in tiền cho các mục tiêu chính trị

*********************

Chương 5 :

Khoảng cách giàu nghèo

 

kinhte5 

Mỹ là nước tư bản cho nên dân chúng không chống đối chuyện giàu nghèo cách biệt. Hố sâu giàu nghèo không phải đợi đến bây giờ mà trước đây đã có những đại tư bản như Rockfeller, Ford… đến nay là Bill Gates, Jeff Bezos hay Elon Musk tạo dựng các khối tài sản khổng lồ không kém gì vua chúa ngày xưa. Dân Mỹ chẳng những không ganh ghét mà còn tự hào rằng mô hình tư bản tuy không hoàn thiện nhưng sản sinh ra những người làm giàu bằng năng lực và trí tuệ để đóng góp nhiều tiến bộ vượt bực làm đổi thay bộ mặt nhân loại. 

Nhưng nếu tính sáng tạo và năng động trong tư bản Mỹ vẫn còn là niềm mơ ước của thế giới thì thất bại nơi đâu mà cánh tả đòi chuyển đổi mô hình kinh tế Hoa Kỳ theo hướng dân chủ xã hội kiểu Tây-Âu, còn riêng chính quyền Biden dùng bàn tay hữu hình của Nhà nước để can thiệp ồ-ạt nhằm sửa đổi thị trường tự do ?

Một dấu hiệu không tốt là chênh lệch giàu nghèo ở Mỹ hiện ngang bằng với khoảng thời gian trước cuộc Đại khủng hoảng 1929 (*). Lương bổng của giới trung lưu và lao động thợ thuyền không hề tăng (sau lạm phát) trong suốt 40 năm kể từ ngày toàn cầu hóa trong khi thu nhập của giới trí thức thành thị và các nhà đại tư bản nhảy vọt cũng vào giai đoạn này. Một số đông dân Mỹ bi quan cho rằng đời sống của thế hệ con cái họ sẽ không cải tiến so với chính họ.

Cánh hữu lên án Nhà nước đi sai đường vì ưu đãi giới tinh hoa (elite) mà bỏ rơi người lao động. Ngược lại, cánh tả tố cáo nguyên do là nơi Nhà nước thả lỏng (laissez faire) thị trường tự do. Đâu là sự thật ? 

Nếu so sánh thì chênh lệch giàu nghèo ở Trung Quốc hay Việt Nam còn tăng vọt nhanh hơn Mỹ cũng trong 30 năm kể từ ngày toàn cầu hóa. Trong dân chúng lan tràn nỗi bất mãn với tình trạng cướp nhà đất, với mạng lưới an sinh xã hội yếu kém bên cạnh tình trạng nhũng lạm quyền thế và nếp sống xa hoa đốt tiền của giới đại gia khoe khoang cho chúng ghét ! Nhưng ít nhất trên bề mặt nền chính trị nơi đây không bị xáo trộn như ở Hoa Kỳ có thể vì hai nguyên do : (1) người nghèo ở các nước đang phát triển không có tiếng nói lớn mạnh như tại Âu-Mỹ ; (2) mặc dù khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa nhưng cùng lúc cuộc sống của đa số dân chúng đều được cải thiện (điện nước, đường nhựa, nhà lầu… về đến thôn quê).

Nếu so sánh với đoàn xe lửa kinh tế đang lên dốc ở Trung Quốc hay Việt Nam thì các toa đầu máy chạy ngày càng nhanh trong khi các toa cuối tuy không bắt kịp nhưng vẫn lên dốc, tức là mức sống của dân chúng tuy khổ cực nhưng đang lên và họ hy vọng thế hệ con cái sau này sẽ khá hơn. Ngược lại, đoàn xe lửa kinh tế ở Mỹ cũng lên dốc nhưng các toa đầu máy bỏ xa những toa còn lại đang tuột dốc, tức là móc xích bị cắt đứt ở giữa đoàn xe cho nên lợi tức tập trung vào giới trí thức ưu tú trong khi thu nhập của giới trung lưu và giai cấp thợ thuyền không tăng mà còn bị giảm. Họ lo âu cho đời sống con cái sẽ trở nên khó khăn hơn chính họ. Lên voi dễ hơn là xuống chó khiến trào lưu dân túy sinh phẫn nộ và bùng phát. Một nhánh theo cánh hữu tố cáo Nhà nước sai lầm còn phe theo cánh tả lên án thị trường tự do bị thả lỏng (laissez-faire).

Chương 5 sẽ tìm hiểu những thất bại trong mô hình Mỹ, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế, bởi vì còn những vấn đề lịch sử và xã hội như nô lệ, di dân, v.v. nằm ngoài khuôn khổ chương này.

***

Phe mác-xít phê bình giàu nghèo do giới chủ bóc lột giá trị lao động thặng dự của thợ thuyền. Phe giá trị biên tế (marginal value theory) phân tích trong thị trường giá cả phản ảnh giá trị, còn giá trị lại được định đoạt bởi mức độ tiện ích cao hay thấp của hàng hóa hay lao động. Như vậy trong tư bản không có bóc lột vì người làm nhiều tiền nhờ đáp ứng cao nhu cầu tiện ích tăng giảm trong xã hội ; hàng hóa rẻ hay mắc tùy vào nhu cầu tiện ích nhiều hay ít của quần chúng

Nhưng tiền đẻ ra tiền ! Vì tiền đẻ ra tiền nên tư bản và của cải tích tụ nhanh hơn giá trị lao động hay tiện ích vốn chỉ tăng theo đường thẳng. Của cải lại thừa hưởng được trong khi lao động hay tiện ích không thể để dành cho con cái. Thí dụ giá nhà và chứng khoán tăng nhanh hơn tiền lương nên người vừa sở hữu của cải lẫn lương bổng (lại thừa hưởng gia tài) tất nhiên giàu nhanh hơn là người chỉ sống bằng lao động.

Kinh tế gia nổi tiếng Thomas Piketty trong quyển Vốn tư bản ở thế kỷ thứ 21 (Capital in the Twenty First Century) nhận xét rằng khuynh hướng tự nhiên trong một xã hội tư sản là tài sản được tích tụ và chuyền tay giữa các thế hệ (gia tài). Vì của cải đẻ ra của cải nên trải qua một vài thế hệ như vậy sinh một giai cấp giàu vượt trội hơn hẳn số đông còn lại. 

Sách báo kinh tế Mỹ gọi thành phần ăn trên ngồi trước là rent seekers, tức chủ cho thuê, nhưng hàm ý thành phần tư bản hay địa chủ tích lũy tài sản của xã hội. Việt Nam có câu "con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa nên quét lá đa", tức là trong xã hội có giai tầng. Giai cấp ăn trên ngồi trước một khi ăn sâu bám rễ chính là kẻ thù của dân chủ lẫn tư bản : giai cấp này vừa cản trở sự tham gia đồng đều của mọi tầng lớp dân chúng vào môi trường chính trị, lại giết chết tính cạnh tranh trong thị trường tự do.

Dùng thí dụ ở Việt Nam để thấy vào thế kỷ thứ 21 tài sản tích lũy nhanh chóng như thế nào. Trước đây một điền chủ có 10 người con đến khi chết đất đai chia manh mún ra thành 10 mảnh nhỏ nên gia tài không để lại bao nhiêu. Nhưng nay một cặp vợ chồng khá giả ở Sài Gòn có được 2 người con và 2 căn nhà, đến khi họ chết mỗi người con hưởng gia tài 1 căn nhà trị giá trên 500 ngàn USD. Giả dụ một thanh niên từ dưới quê thật giỏi với mức lương 10 ngàn USD một năm thì mất 50 năm không ăn không xài mới mua được 1 căn nhà thành phố (chưa tính giá nhà tăng). Thanh niên Sài Gòn lại có điều kiện đi du học lấy bằng cấp Mỹ, trong khi thanh niên ở dưới quê chỉ có mảnh bằng kém hơn ở Việt Nam cho nên thanh niên dưới quê không bao giờ bắt kịp người ở thành phố. Nói chung thì của cải, cơ hội và quyền lực ngày thêm tập trung vào thành phố.

Một nghiên cứu của giáo sư Walter Scheidel (**) thuộc đại học Stanford cho thấy trong lịch sử có 4 cách để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo :

1) đại dịch đen vào thế kỷ 14 giết chết 40% dân chúng giúp giá trị lao động tăng vọt vì thiếu người làm ruộng ;

2) đại chiến như chiến tranh thế giới lần thứ hai tàn phá tài sản xã hội nhưng đồng thời tạo sân chơi bình đẳng ;

3) cách mạng lật đổ tầng lớp thượng lưu giàu có ;

4) chế độ suy thoái kiểu ngày tàn của La Mã hay đời nhà Hán ! 

Nói cách khác, xã hội trở nên khô cằn thiếu sinh động một khi của cải và quyền lực tập trung vào giới tinh hoa – cũng giống như rừng già vì các cổ thụ bén rễ giết chết cây non. Phải đợi đến cháy rừng hay thác lũ đào xới đất đai thì rừng mới non trẻ trở lại. 

Chẳng ai ham bốn liều thuốc độc nói trên ! Cho nên cánh cấp tiến chủ trương thay vì để mặc cho quy luật tự nhiên có ngày đào xới xã hội thì Nhà nước phải dùng bàn tay hữu hình đốn cây cổ thụ trước khi chênh lệch giàu nghèo dẫn đến bạo loạn xã hội. Nhà nước phải can thiệp dùng các biện pháp như đánh thuế tài sản (wealth tax) và thuế gia tài (estate tax) nhằm ngăn chặn sự hình thành của các giai tầng trong xã hội.

Nhà nước lại thường hay lạm dụng quyền lực. Đối với phái tự do và bảo thủ thì động cơ thúc đẩy con người hăng hái làm việc chính là vì tư lợi để tạo ra của cải cho dòng họ. Nay Nhà nước đòi đánh thuế 1/2 tài sản, tức là cướp của – nhất là khi nhà nước nói đánh thuế nhà giàu rồi những người không giàu cũng lãnh búa tạ sưu cao thuế nặng để nuôi cho đám lười biếng không chịu đi làm !

***

Một nguyên do thứ hai tạo ra cách biệt giàu nghèo vì thế kỷ 21 thuận lợi cho thành phần chuyên viên ưu tú (vốn thích ứng với toàn cầu hóa và tự động hóa) mà thiệt hại cho giới có chuyên môn thấp. Công việc của thành phần trung lưu cấp thấp bị thay thế bởi máy điện toán trong khi giới lao động thợ thuyền mất việc khi hảng xưởng di dời sang Trung Quốc, Việt Nam… 

Thành phần chuyên viên trí thức có văn bằng cao lại sống tập trung ở các đô thị lớn hai vùng ven biển (Seattle, California, Boston, New York, Washington D.C. vốn là những trung tâm thương mại toàn cầu) trong khi giới lao động người da trắng sống rải rác ở vòng đai han rỉ (rust belt) thuộc các tiểu bang nằm sâu trong nội địa. Giá nhà Cali, Seattle, Boston… bay bổng trong khi địa ốc trong các khu vực còn lại không tăng. Lương tăng, giá nhà tăng, giới chuyên viên trí thức lại có tiền đầu tư mua chứng khoán. Hậu quả là của cải tích lũy vào 2 vùng ven biển trong khi thành phần trung lưu và công nhân sống chật vật làm ra đồng nào xài hết sạch. Cho nên chênh lệch giàu nghèo giữa 10% giới ưu tú trí thức với thành phần trung lưu và thợ thuyền nhảy vọt tạo ra rạn nứt vô cùng sâu rộng trong xã hội.

***

Thêm một lý do khiến tài sản tăng giá giúp nhà giàu ngày càng giàu là do Ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương ban hành chính sách tiền tệ dễ dãi nhằm giúp cho tư nhân vay mượn đầu tư thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhưng lãi suất thấp nên nhiều người mượn tiền mua nhà (thay vì đầu tư tạo công ăn việc làm) khiến giá địa ốc tăng nhanh trong khi lương bổng tăng chậm giúp cho người có nhà cửa giàu nhanh hơn người ở thuê.

***

Tài sản khi tập trung ép giá lương. Nhà tư bản bỏ vốn để canh tân nhà máy hay di dời sản xuất ra nước ngoài đồng thời cắt giảm công nhân trong nước. Công ăn việc làm khó kiếm tạo áp lực đẩy đồng lương xuống thấp.

***

Tài sản khi tập trung ép giảm sức tiêu thụ. Thí dụ cho dễ hiểu : nhà giàu 1 tỷ USD mua 20 chiếc xe Lamborghini thượng hạng thì phát chán ! Nhưng nếu chia đều ra cho 10.000 gia đình thì mỗi nhà sẽ mua 1 chiếc xe xoàn xoàn. Sản xuất 10.000 chiếc xe loại này tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn chỉ cho 20 chiếc Lamborghini. Nói cách khác, nhà giàu tiền xài không hết phải để dành trong khi nhà nghèo có bao nhiêu xài hết bấy nhiêu. Cho nên tài sản khi tập trung sẽ khiến tiêu thụ giảm, cắt giảm người làm việc và hạ thấp tiền lương.

***

Kinh tế số (digital economy) khiến tài sản nhanh chóng tích lũy. Thí dụ số người dùng Google, Facebook… ngày càng tăng khiến các công ty này mặc nhiên trở thành độc quyền, trong khi các công ty nhỏ chỉ mong được công ty lớn thu mua do cạnh tranh quá sức khó khăn. Một trường hợp khác là hợp đồng quảng cáo giày thể thao với Michael Jordan với giá cao kỷ lục vì cầu thủ bóng rổ này nổi tiếng khắp thế giới, trong khi một cầu thủ hạng nhì nhảy cao chỉ kém hơn Michael Jordan một vài phân mà không được nhiều người biết nên không tìm ra hợp đồng quảng cáo. Hiện tượng này trong kinh tế số được gọi là winners-take-all (phe thắng hốt trọn) hay winners-take-most (phe thắng hốt nhiều nhất).

***

Nhà giàu ở khu trường học tốt nên con cái học vấn cao hơn so với lứa đồng tuổi. Con nhà giàu lại cưới gả cho con nhà giàu. Sân chơi trở nên không bình đẳng bởi vì một trẻ em nghèo không có cơ hội vươn lên, tức là nền tư bản Mỹ không còn tạo môi trường cho những kẻ khố rách mồng tơi trở thành tỷ phú (from rags to riches). Trên đây chỉ là lý luận vì nước Mỹ vẫn là vùng đất cơ hội cho những người xây dựng sự nghiệp từ hai bàn tay trắng. Cho nên xã hội một khi hình thành giai tầng sẽ đánh mất đi sức sống vươn lên (upward mobility).

***

Nhà đất ở những trung tâm kinh tế như Cali, Seattle, Boston, New York, Washington DC giá cao ngất ngưỡng nên người ở tiểu bang khác không thể dọn về. Lâu ngày xã hội mất đi tính di động (mobility) thiếu trộn lẫn nên mỗi khu vực tạo thành cách sống và quan điểm chính trị cách riêng biệt cho dù sống trong cùng đất nước dân chủ và bình đẳng. Đây là một trong những lý do mà bất bình đẳng về kinh tế đi đôi với cuộc chiến văn hóa (cultural war) giữa những tiểu bang nằm trong nội địa với các tiểu bang dọc theo bờ biển.

***

Giàu sang sinh quyền lực. Cánh tả (Bernie Sander) lẫn cánh hữu (Donald Trump) đều tố cáo nền dân chủ Mỹ bị dàn dựng (rigged). Cánh tả hô hào Nhà nước phải tích cực giám sát các thế lực tư bản, đồng thời tăng thuế nhằm tạo một sân chơi bình đẳng. Ngược lại cánh hữu cho rằng chính sự giám sát của Nhà nước đã kìm hãm bản năng hung hãn (animal instinct) của thị trường tự do, cho nên Nhà nước phải ngừng mó máy mà giảm thuế để thả lỏng (laissez faire) thị trường tự do.

***

Giới ưu tú (elite) vùng duyên hải nắm độc quyền trên báo chí dòng chính (mainstream media) và trong các đại học nên dùng đó tuyên truyền cho một nền văn hóa mới. Trước đây những người sống rải rác ở các tiểu bang nội địa không có phương tiện để tập hợp thành một thế lực chính trị, nhưng nay Facebook và Twitter mở ra cơ hội để họ liên kết thành một tiếng nói chung bảo vệ cho nền văn hóa truyền thống. Cho nên mới xảy ra các trận đấu đá dữ dội từ năm 2016 giữa thông tin dòng chính (CNN, New York Times…) và truyền thông dòng ngược (alternative media, chủ yếu là qua Internet nhưng sau này hình thành những cơ quan ngôn luận như Fox, Newsmax, One New Network…)

***

Nhà nước tăng thuế má để chi tiêu giúp người nghèo. Nhưng ngược lại chính sách của Nhà nước mang đến lười biếng và ỷ lại.

Một thí dụ thấy được trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt : có những người lúc sống ở Việt Nam vô cùng xông xáo tự lập nhưng khi sang Mỹ xin lãnh được trợ cấp xã hội lại không một ngày đi làm trong suốt mấy chục năm. Có những thiếu nữ không chồng nhưng bắt đầu sinh đẻ từ năm 16 tuổi nên có đến 4-5 đứa con và lãnh trợ cấp xã hội trọn đời. Bàn tay hữu hình của Nhà nước không những bẻ cong thị trường tự do mà còn làm thay đổi nếp sống và quan niệm sống của từng cá nhân. Cho nên cánh tự do mới tố cáo bàn tay thô bạo của Nhà nước tước đoạt tự do, dù không cần đến công an cảnh sát nhưng vẫn giam hãm con người trong vòng ỷ lại ngửa tay xin trợ cấp xã hội nên đánh mất đi ý chí tự lập và tiến thân.

Nhiều gia đình người Mỹ gốc Việt tuy lạm dụng trợ cấp xã hội nhưng sau một thế hệ con cái của họ thành tài ra bác sĩ, luật sư, kỹ sư… với đồng lương cao đóng thuế cho xã hội. Ngược lại, người da đen ở các ổ chuột nằm sâu trong đô thị (inner cities) hay da trắng tại vòng đai han rỉ (rust belt) lại không thoát khỏi vòng xoáy nghiện ngập, trộm cướp, không chồng đẻ con… từ đời cha sang đời con. Cho nên chính sách an sinh xã hội của Nhà nước dựng lên hàng rào giai cấp hay là những ung nhọt mà xã hội không giải quyết được.

***

Một trường hợp khác là giới công nhân thợ thuyền da trắng mất việc ở vòng đai han rỉ (rust belt) do toàn cầu hóa nhận nên nhận nhiều trợ cấp y tế, xã hội và giáo dục. Dù vậy số người này bỏ phiếu cho Trump thay vì bỏ phiếu cho đảng Dân chủ để được tăng trợ cấp xã hội.

Lý do vì chỉ có công ăn việc làm mới mang lại sự tự trọng (dignity), trong khi nhàn cư vi bất thiện và bất mãn. Kinh tế gia cấp tiến Paul Krugman (Nobel 2008) có lần nhận xét là không một kinh tế gia nào biết cách xây dựng lòng tự trọng. Chính sách an sinh xã hội của nước Mỹ tạo ra hai khu ổ chuột nằm sâu trong các đô thị lớn (inner cities, đa số là người da đen) hay rải rác ở vòng đai han rỉ (rust belt, đa số là giới công nhân thợ thuyền da trắng thấp nghiệp) mà nhà nước bỏ ra không biết bao nhiêu tiền của mà không giải quyết được. Bàn tay hữu hình của Nhà nước khi thô bạo can thiệp nhằm giải quyết hố sâu giàu nghèo đã mặc nhiên sinh ra một giai cấp nghèo triền miên do lười biếng và ỷ lại.

Paul Krugman sai bởi vì Nhà nước thay vì mở rộng mạng lưới an sinh xã hội phải có chính sách để tạo công ăn việc làm. Tự trọng chỉ đến từ giá trị cần lao khi mỗi người làm việc với đồng lương tốt (good salary) để tự nuôi thân và nuôi gia đình. Còn nếu đồng lương chết đói thì cũng không thể có tự trọng. Bần cùng sinh đạo tặc, giàu sang sinh lễ nghĩa.

Mô hình kinh tế nước Mỹ thay vì đặt nặng tiêu thụ (consumption 70% GDP, trong khi ở Tàu tiêu thụ 40% GDP) cần chuyển trọng tâm sang đầu tư (investment) để tạo công ăn việc làm tốt. Mỹ thay vì dạy Trung Quốc nên rút tỉa kinh nghiệm này từ Bắc Kinh.

Đoàn Hưng Quốc

Nguồn : VNTB, 25/04/2021

Tóm tắt :

- Tài sản tích lũy trong xã hội tư sản và kinh tế số (digital economy) sẽ sinh ra giai cấp, trong khi giai cấp lại chính là kẻ thù của dân chủ và tư bản.

- Trong lịch sử, hố sâu giàu nghèo chỉ được xóa bỏ bởi : 1) đại dịch ; 2) đại chiến ; 3) cách mạng ; 4) thể chế suy tàn.

- Phe cấp tiến cho rằng để tránh 4 tai họa nói trên Nhà nước phải chủ động dùng bàn tay hữu hình tái phân phối tài sản trong xã hội.

- Phe tự do phản đối cho rằng Nhà nước sẽ lạm dụng quyền hạn và chà đạp quyền tự do tạo ra của cải và mưu cầu hạnh phúc của cá nhân

_____________

Ghi chú :

(*) "America America’s 1% hasn’t had this much wealth since just before the Great Depression", Market Watch, 02/24/2019

(**) "Can inequality only be fixed by war, revolution or plague ?", The Economist, 10/09/2018

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Đoàn Hưng Quốc
Read 930 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)