Vấn đề tốc độ và chất lượng tăng trường kinh tế của Việt Nam (RFA, 20/05/2019)
Trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 7 của Quốc hội Việt Nam Khóa XIV vào ngày 20/5, ông phó thủ tướng Trương Hòa Bình thay mặt chính phủ báo cáo trước Quốc hội rằng tình hình kinh tế xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực, tình trạng lạm phát đã được kiểm soát, chỉ số tiêu dùng (CPI) bình quân 4 tháng tăng lên 2,71% và thấp nhất trong ba năm qua.
Phó thủ tướng Trương Hòa Bình báo cáo trước Quốc hội hôm 20/5. RFA
Ngoài ra, ông Trương Hòa Bình còn khẳng định trong năm 2018 Việt Nam có tốc độ tăng trưởng được xem thuộc trong nhóm cao nhất khu vực và thế giới.
Chuyên gia kinh tế, tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng, đây cũng có thể xem là tốc độ phát triển cao nhưng cao nhất thì cần phải xem xét.
"Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2018 đạt được khoảng 7,08% là thuộc dạng cao so với khu vực nhưng trong năm 2019 này thì tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đạt 6,7% – 6,8% mà thôi vì yếu tố khu vực cũng như trên thê giới có nhiều yếu tố bất lợi. Tôi nghĩ đây cũng được xem là tốc độ cao nhưng có phải cao nhất hay không thì cần phải được xem xét bởi vì ngay cả Campuchia hay Myanmar cũng có tốc độ tăng trưởng được xem là khá cao".
Còn đối với chuyên gia kinh tế Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu thì tốc độ tăng trưởng cao như báo cáo của chính phủ Việt Nam là chuyện bình thường vì nền kinh tế Việt Nam vẫn còn ở dạng quy mô nhỏ.
Ông giải thích "Có thể tốc độ tăng trưởng cao đối với các nước trong khu vực, tuy nhiên để tốc độ tăng trưởng của Việt Nam cao thì cũng là chuyện bình thường vì nền kinh tế Việt Nam vẫn trong một quy mô nhỏ, giống như một đứa trẻ khi mà còn nhỏ sẽ lớn nhanh hơn người trưởng thành. Tất nhiên đối với nền kinh tế non trẻ như Việt Nam thì tốc độ tăng trưởng phải nhanh hơn những nền kinh tế đã có bề dày kinh nghiệm về kinh tế. Nên thành ra điều đó không có gì là lạ cả".
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu khẳng định với chúng tôi rằng, vấn đề chính của Việt Nam không phải tăng trưởng cao hay thấp mà quan trọng là chất lượng của tăng trưởng đó có mang lại lợi ích cho quốc gia hay không.
"Không chỉ tăng trưởng về số mà còn về chất lượng, tăng trưởng đó nó phải giúp cho toàn thể các thành phần kinh tế trong các vấn đề về dân sinh, môi trường. Tóm lại điều quan trọng là tăng được chất lượng cuộc sống thì đó mới là điều chính. Nếu ở tỉ lệ cao thì nó cũng có sự tích cực nhưng không thể xem cái tỉ lệ đó như là một hình thức để khích lệ và đi ngược với chất lượng sự phát triển tăng trưởng".
Báo cáo của phó thủ tướng Trương Hòa Bình còn nêu ra tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm hẳn, các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường đạt được nhiều kết quả rất quan trọng.
Công nhân trong một dây chuyền lắp ráp xe - Ảnh minh họa. AFP
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu thừa nhận những ai từng sống ở Việt Nam hơn 20 năm qua đều thấy được những thay đổi thuộc mọi lĩnh vực tại các thành phố lớn, đô thị hay trong sinh hoạt của người dân ; thế nhưng sự phân bố nguồn lợi không đều và khoảng cách giàu-nghèo là vấn đề phải quan tâm :
"Hiện tại GDP bình quân đầu người đâu đó khoảng 2.580 USD một đầu người đã tăng gấp đôi trong vòng hơn 10 năm qua. Tôi khẳng định là tốc độ tăng trưởng của Việt Nam khá tích cực. Còn tỉ lệ tăng trưởng đứng thứ nhất nhìn thế giới hay trong khu vực thì cái đó chỉ là một phần trong những cái mà chúng ta cần quân tâm nhưng cái cần quan tâm hơn về chất lượng để nâng cao đời sống chất lượng của người dân và đặc biệt trong sự ổn định và bền vững".
Nền kinh tế Việt Nam lâu nay dựa vào xuất khẩu là chủ yếu. Hai thị trường lớn nhất của nhiều hàng hóa xuất đi từ Việt Nam là Trung Quốc và Hoa Kỳ. Cả hai nước này đang vướng vào cuộc thương chiến và giới sản xuất như Việt Nam tất nhiên phải chịu tác động.
Vấn đề là Việt Nam ứng phó ra sao để có thể tận dụng cơ hội như trình bày của Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu :
"Cuộc chiến tranh thương mại này nó cũng mở ra cho Việt Nam một số những cơ hội đặc biệt là về đầu tư. Như chúng ta cũng biết là một số nhà đầu tư từ Trung Quốc, họ đã và đang đi tìm những cơ hội để dịch chuyển các cơ sở sản xuất kinh doanh của họ sang những nước lân cận và trong đó có Việt Nam nên tôi nghĩ rằng thời gian sắp tới Việt Nam sẽ nhận được những nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và nếu Việt Nam tận dụng việc đó để chuyển giao công nghệ thì sẽ thành lợi thế lớn cho Việt Nam".
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh chỉ ra những biện pháp mà Việt Nam cần thực hiện :
"Điều quan trọng nhất là tiếp tục cải cách về thể chế để làm sao có khung pháp luật, giảm bớt các chi phí về thời gian và tiền bạc. Có bộ máy và có một đội ngũ cán bộ thật sự kiến tạo sự phát triển cho doanh nghiệp chứ không phải là một đội ngũ chỉ ngồi quản lý và xem xét các doanh nghiệp, điều thứ hai là phải cải thiện kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, bến cảng, điện và công nghệ thông tin, thì đó là những yếu tố mà ta có thể cải thiện được".
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nhắc lại lợi thế lâu nay của Việt Nam là nguồn lao động giá rẻ và lương thấp nhưng lợi thế đó ngày nay đã dần phai nhạt bởi vì cách mạng công nghiệp 4.0 cần những lao động có tay nghề và được đào tạo bài bản chuyên môn cao. Do đó, cần cải cách chất lượng đào tạo, giáo dục để đáp ứng được nền kinh tế thị trường trong tương lai.
Những biện pháp mà Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đưa ra không hề mới ; tuy nhiên qua thời gian những điều được nói đến như thế vẫn chưa được thực hiện.
Thực tế trì trệ không tiến hành cải cách theo những đề nghị nêu ra làm chậm lại bước phát triển chung của cả nước mà lẽ ra tăng trưởng còn phải nhanh hơn và mang lại phúc lợi cho nhiều tầng lớp dân chúng hơn nữa ; chứ không chỉ một nhóm người được hưởng lợi như bấy lâu nay.
RFA tiếng Việt
****************
Nợ công của Việt Nam giảm : ý kiến khác biệt ! (RFA, 20/05/2019)
Truyền thông trong nước ngày 20/5 loan tin trích từ báo cáo Chính phủ gửi cho Quốc hội, cho biết nợ công Việt Nam tính đến hết ngày 31/12/2018 là 58,4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), được xem là mức thấp nhất tính từ năm 2015 đến nay.
Nhân viên tại một ngân hàng ở Hà Nội đếm tiền đô la Mỹ - AFP
Theo báo cáo của Chính phủ Hà Nội, các số liệu về nợ đều nằm trong giới hạn được Quốc hội quyết định và thấp hơn so với dự kiến của Bộ Tài chính đưa ra vào cuối năm 2018. Cụ thể, mức nợ công được đề ra là 61,4% GDP và nợ chính phủ là 52,1%.
Số liệu thống kê trước đó cho thấy vào năm 2015 và 2017, mức nợ công của nhà nước Việt Nam là 61,3% GDP, trong khi năm 2016 là 63,7% GDP, chỉ riêng năm 2018 là dưới 60%.
Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do, Phó Giáo sư - Tiến sĩ kinh tế Ngô Trí Long cho rằng nợ công giảm thấp so với nhiều năm trước đây là do cách tính thôi chứ bản chất không thay đổi, vẫn tương đối cao. Ông giải thích rõ hơn về cách tính nợ công mới mà chính phủ áp dụng cho năm 2018 :
"Chuyển phần để trả nợ loại ra ngoài, đương nhiên (nợ công) thấp. Nếu tính theo phương pháp cũ, thì vẫn như vậy, không có gì thay đổi. Về mặt kỹ thuật thôi. Tất nhiên giữ được mức độ không làm tăng thì cũng quý rồi nhưng với cách tính mới thì sẽ phản ảnh coi như nợ công giảm nhưng bản chất tính theo công thức cũ thì không có gì thay đổi".
Báo cáo của Chính phủ Hà Nội chỉ ra rằng một nguyên nhân giúp cho nợ công Việt Nam xuống thấp được như vậy một phần là do tăng trưởng GDP vượt kế hoạch và cao nhất trong 11 năm qua, đạt 5,5 triệu tỷ đồng và cao hơn kế hoạch 5.300 tỷ đồng.
Nhận xét về điều này, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Ngô Trí Long cho rằng nợ công tính trên GDP chỉ là chỉ tiêu để xem xét và những nhà nghiên cứu đang tính về mặt số lượng thôi, nhưng thực chất chủ yếu đánh giá về mặt tăng trưởng cần đánh giá về chất lượng, hiệu quả.
Còn theo Tiến sĩ kinh tế Đinh Trọng Thịnh, thuộc Học viện Tài chính Việt Nam, thì có nhiều nguyên nhân giúp giảm nợ công mà trong đó bao gồm cả GDP và việc quản lý nợ công.
Giải thích vai trò của GDP trong mối quan hệ với nợ công, Tiến sĩ Thịnh cho biết rằng do GDP lớn lên thì tỉ lệ nợ công/GDP sẽ nhỏ đi, đặc biệt là trong năm 2018, tăng trưởng GDP Việt Nam đạt hơn 7%, nên tổng GDP lớn, giúp giảm nợ công Việt Nam.
Vẫn theo Tiến sĩ Thịnh, sau rất nhiều lần các chuyên gia kinh tế cũng như các nhà quản lý có ý kiến về việc tăng cường quản lý nợ công để giảm thiểu nợ công của quốc gia thì phía chính phủ Việt Nam cũng có những biện pháp rất quan trọng.
"Trước hết là việc phát hành trái phiếu để vay nợ trong nước bởi vì vay nợ trong nước thời gian gần đây tăng lên để thay thế cho nợ vay từ nước ngoài. Người ta cố gắng giảm nợ vay nước ngoài vì thường vay bằng ngoại tệ thì việc trả nợ khó khăn hơn vì ngoại tệ có những biến động lên xuống thất thường. Cơ cấu nợ công chủ yếu là nợ trong nước.
Điều thứ hai đáng nói là mặc dù nợ công trong nước tăng lên nhưng tỉ trọng vay nợ dài hạn trong nước nhiều hơn tỉ trọng vay nợ ngắn hạn trong nước trong khoảng thời gian trước đây. Tức là nợ công mà phát hành trái phiếu dài hạn trên 5 năm nhiều lên so với trái phiếu 3 năm, 2 năm như trước đây. Bây giờ giảm thiểu vay nợ ngắn hạn mà tăng vay nợ dài hạn. Đây cũng là một chiều hướng được đánh giá là thay đổi tỉ trọng vay nợ ở phương hướng tốt hơn vì thời gian vay càng dài thì thời gian sử dụng càng tốt và sẽ khả năng trả nợ sẽ có cơ hội tốt hơn".
Tiến sĩ Đinh Trọng Thịnh cho rằng đây cũng là một đường hướng rất tốt trong việc vay nợ và quản lý nợ của Việt Nam trong thời gian vừa qua, đặc biệt từ năm 2016 đến nay. Nó đang có chiều hướng theo đúng mong muốn của chuyên gia cũng như các nhà quản trị đó là cố gắng giảm thiểu tỉ trọng vay nợ công, cố gắng giảm tỉ lệ vay nước ngoài.
Khả năng chi trả
Theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Ngô Trí Long, việc nợ công tại Việt Nam hiện nay chỉ là một chỉ số, điều đáng quan tâm hơn là khả năng trả nợ của Việt Nam có khả thi hay không, mà trong đó, khả năng trả nợ phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế, đầu tư và làm ăn có hiệu quả hay không. Do đó, ông không lạc quan lắm về khả năng trả nợ của chính phủ Hà Nội :
"Khả năng trả nợ của Việt Nam đang rất nan giải mặc dù nhà nước Việt Nam ra rất nhiều luật như đầu tư công hay kéo lãi suất tiết kiệm, nhưng cuối cùng luật thì có đầy đủ nhưng khó có khả năng thực thi. Nên nếu không chấn chỉnh lại, với quan điểm cá nhân tôi thì tuy nợ công ở mức độ thấp nhưng khả năng trả nợ khó có khả năng thực hiện ở mức độ hiệu quả".
Còn Tiến sĩ Đinh Trọng Thịnh lại khẳng định khả năng trả nợ của Việt Nam hiện nay tốt hơn so với trước đây :
"Có thể yên tâm về mặt tính thanh khoản của khoản trả nợ công cũng như nợ nước ngoài hoàn toàn có thể đảm bảo được bởi vì dự trữ hối đoái của Việt Nam tương đối lớn. Thứ hai là các khoản chi ngân sách nhà nước ngày càng được siết chặt hơn và mất cân đối của ngân sách giảm đi nên khả năng trả nợ của chính phủ Việt Nam trong năm 2018-2019 đang tốt hơn lên".
Theo Báo cáo thẩm tra về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2018, dự toán và phân bổ ngân sách nhà nước năm 2019 do Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách, ông Nguyễn Đức Hải trình bày tại Hà Nội hôm 22/10/2018, mỗi người dân Việt Nam gánh hơn 34 triệu đồng nợ công, tăng gần 3 triệu đồng mỗi người so với năm 2017.
RFA tiếng Việt
******************
Nợ công Việt Nam xuống mức thấp nhất trong 4 năm qua (RFA, 20/05/2019)
Nợ công Việt Nam tính đến hết ngày 31/12/2018 là 58,4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), được xem là mức thấp nhất tính từ năm 2015 đến nay.
GDP lớn lên thì tỉ lệ nợ công/GDP sẽ nhỏ đi - Ảnh minh họa. AFP
Truyền thông trong nước loan tin ngày 20/5, trích nội dung từ báo cáo Chính phủ gửi cho Quốc hội, cho biết thêm nợ Chính phủ là 50%, nợ nước ngoài/GDP là 46%.
Tin cũng cho biết, các số liệu về nợ vừa nêu đều nằm trong giới hạn được Quốc hội quyết định và thấp hơn so với dự kiến của Bộ Tài chính đưa ra vào cuối năm 2018. Cụ thể, mức nợ công được đề ra là 61,4% GDP và nợ chính phủ là 52,1%.
Báo cáo cũng chỉ ra những nguyên nhân giúp cho nợ công Việt Nam xuống thấp được như vậy một phần là do tăng trưởng GDP vượt kế hoạch và cao nhất trong 11 năm qua, đạt 5,5 triệu tỷ đồng và cao hơn kế hoạch 5.300 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, chính sách tài khóa được thực hiện tốt giúp thu cân đối ngân sách vượt 7,8% so với dự toán và bội chi ngân sách thấp hơn dự toán 3,7%. Việc tăng thu và giảm bội chi này cũng đã giúp giảm nhu cầu huy động vốn vay của phía Chính phủ Hà Nội.
Trước đó, vào năm 2015 và 2017, mức nợ công của nhà nước Việt Nam là 61,3% GDP, trong khi năm 2016 là 63,7% GDP, chỉ riêng năm 2018 là dưới 60%.