Khả năng đụng độ Việt Nam-Trung Quốc ‘ngày càng cao’ ở bãi Tư Chính (VOA, 23/07/2019)
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói với VOA hôm 22/7 rằng khả năng đụng độ trực tiếp giữa hai lực lượng cảnh sát biển Việt Nam và Trung Quốc mỗi lúc một cao hơn khi mà các tàu Trung Quốc vẫn có mặt tại bãi Tư Chính trên Biển Đông tính đến thời điểm này, theo thông tin mà VOA có được.
Các tàu cảnh sát biển của Trung Quốc và Việt Nam từng va chạm ở Biển Đông hồi tháng 5/2014
Theo cập nhật hôm 21/7 của ông Ryan Martinson, nhà nghiên cứu về hải quân Trung Quốc và là giảng viên tại Trường Hải chiến Mỹ, tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc "vẫn tiếp tục các hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam".
Tham khảo qua trang maritimetraffic.com, VOA nhận thấy đến tối 22/7 (giờ Việt Nam), có ít nhất 3 tàu không rõ số hiệu còn hiện diện ở đúng địa điểm mà ông Ryan Martinson đã cập nhật.
Tiến sĩ Hợp, nhà nghiên cứu kỳ cựu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak có trụ sở ở Singapore, so sánh rằng hoạt động của tàu Hải Dương Địa Chất 8 hiện nay có một điểm giống như sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan Haiyang Shiyou 981 vào phía tây bắc của Hoàng Sa cách đây 5 năm.
Hai năm sau sự kiện hồi hè năm 2014, Việt Nam có đại hội của đảng cộng sản cầm quyền vào năm 2016. Vào năm 2021, hai năm nữa tính từ thời điểm này, Việt Nam cũng sẽ có đại hội đảng. Từ đó, tiến sĩ Hợp nhận định rằng hai lần đưa dàn khoan của Trung Quốc vào các địa điểm thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là "phép thử về sự kiên định trong chính sách của Việt Nam, về đối ngoại là chính cũng như về chính sách cụ thể của Việt Nam về Biển Đông".
Dẫn thông tin do ông thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, nhà nghiên cứu của viện ISEAS-Yusof Ishak cho biết đối đầu giữa các tàu Trung Quốc và Việt Nam ở bãi Tư Chính không chỉ xảy ra từ 2/7 mà thậm chí còn từ trước đó gần 1 tháng.
Ông Hợp cho biết Trung Quốc từ khoảng hôm 4/6 bắt đầu có động thái cản trở việc hãng Rosneft của Nga và một công ty Nhật thực hiện hợp đồng khoan mở rộng để thăm dò dầu khí ở vùng biển, và mọi việc kéo dài từ đó đến nay.
Thông tin chính thức trên báo chí Việt Nam và Trung Quốc không cho biết các tàu hai nước đã có va chạm, đụng độ gì chưa, nhưng tiến sĩ Hợp cho rằng cứ mỗi ngày qua đi, khả năng đụng độ trực tiếp giữa các lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam, tức là các tàu cảnh sát biển của Việt Nam, với các tàu của cảnh sát biển Trung Quốc đang ở đó "ngày càng cao".
Nói về nguy cơ dẫn đến nổ súng, nhà nghiên cứu của viện ISEAS-Yusof Ishak bày tỏ lo ngại :
"Sẽ đến lúc mà không kiềm chế được là sẽ có bắn nhau. Nó sẽ xảy ra như thế nếu như người Trung Quốc trong thời gian tới không rút. Nó sẽ đi đến chỗ đó. Một khi phải đi đến chỗ bắn nhau rồi, không có cách gì để dừng lại được nữa. Nếu Trung Quốc tuyên bố kéo dàn khoan vào không phải khoan thăm dò nữa mà là khoan khai thác thì lúc đấy sẽ có đụng độ".
Trên bình diện quan hệ quốc tế đa phương, nhà nghiên cứu kỳ cựu tại viện ISEAS-Yusof Ishak tại Singapore, cho rằng các động thái "quấy rối"của Trung Quốc quanh bãi Tư Chính cũng có ý "dằn mặt" hãng Rosneft của Nga.
Theo tiến sĩ Hợp, Trung Quốc hiện tỏ ra "quá tự tin" trong quan hệ của họ với thế giới, không chỉ trong quan hệ với nước Nga. Việc Trung Quốc "quấy rối" phía Việt Nam ở vùng biển hiện nay có thể hiểu rằng điều đó về thực chất cũng đồng nghĩa với "quấy rối người Nga", ông Hợp nói.
VOA gửi đề nghị bình luận đến nhà chức trách Nga và hãng Rosneft nhưng chưa nhận được hồi đáp ở thời điểm bài này được đăng.
Mặc dù vậy, với kinh nghiệm của mình, tiến sĩ Hợp phân tích rằng người Nga không nhất thiết sẽ phải phát biểu điều gì, mà họ sẽ vẫn tiếp tục thực hiện công việc của mình. Ông Hợp nói với VOA :
"Có thể khẳng định rằng người Nga có nói gì hay không nói gì thì doanh nghiệp Nga đó chỉ rút về khi hết dầu, hết khí thôi. Tức là họ sẽ không rút. Người Nga khai thác ở vùng biển Việt Nam từ năm 1978. Người Nga người ta rất hiểu luật. Họ có tuyên bố, có nói gì hay không, cũng không thay đổi hiện trạng là công ty Rosneft và công ty khác của Nga không bao giờ người ta rút cả".
Mỹ, nước không có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông nhưng luôn khẳng định quyền tự do hàng hải ở đây, hôm 20/7 lên án Trung Quốc bằng những lời lẽ đanh thép, cáo buộc nước này có "hành vi bắt nạt" và "làm suy yếu hòa bình và an ninh" khu vực giữa lúc tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc tiếp tục hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Thông cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ cho thấy sự ủng hộ gần như rõ ràng đối với Việt Nam.
"Hoa Kỳ lo ngại về những bản tin về sự can thiệp của Trung Quốc vào các hoạt động dầu khí ở Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông], bao gồm các hoạt động thăm dò và sản xuất từ lâu nay của Việt Nam", phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus nói trong một tuyên bố sáng 20/7.
"Trung Quốc nên chấm dứt hành vi bắt nạt và kiềm chế thực hiện loại hoạt động khiêu khích và gây bất ổn này", một đoạn trích của tuyên bố cho hay.
******************
Bãi Tư Chính : Không thấy có biểu tình phản đối Trung Quốc (BBC, 23/07/2019)
Một nhà hoạt động nói với BBC rằng người dân không xuống đường lần này vì "cảm thấy lòng yêu nước của họ đã từng bị chính quyền lợi dụng và phản bội".
Một cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội vào ngày 14/3/2016
Trong bối cảnh căng thẳng của vụ đối đầu tại bãi Tư Chính vẫn tiếp diễn, báo chí ở Việt Nam sau hai tuần im lặng đã đăng khá nhiều bài với nội dung lên án Trung Quốc gay gắt.
Tờ Thanh Niên hôm 22/7 có bài "Trung Quốc nói một đằng, làm một nẻo", tờ Tuổi Trẻ cùng ngày dẫn lời một giáo sư Mỹ : 'Việt Nam có chiến lược bảo vệ từng centimet chủ quyền.'
Trong khi đó, báo Zing đăng bài "Đây là mức độ gây hấn mới của Trung Quốc trên Biển Đông".
Nhưng không có cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc diễn ra như hồi năm 2014, với hàng ngàn người dân xuống đường phản đối Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông.
Trên mạng xã hội, người ta chỉ thấy hình ảnh vài người cầm biểu ngữ phản đối Trung Quốc hôm 21/7 tại TP Hồ Chí Minh.
'Ổn định chính trị'
Hôm 22/7, nhà hoạt động Dương Đại Triều Lâm, thành viên Mạng lưới Blogger Việt Nam, nói với BBC :
Tàu hải cảnh Trung Quốc trong vụ giàn khoan HD-981 hồi năm 2014
"Theo tôi, người dân không xuống đường vì họ cảm thấy lòng yêu nước của họ đã từng bị chính quyền lợi dụng và "phản bội" thể hiện qua các sự kiện biểu tình phản đối HD-981 năm 2014 hay biểu tình phản đối Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sang Việt Nam năm 2015."
"Nhìn vào phản ứng của người dân trên mạng xã hội, tôi thấy người dân dường như không còn tin nhiều vào các biện pháp của chính quyền nữa. Trong vụ bãi Tư Chính, truyền thông mạng xã hội của dân chúng hay báo chí không thuộc quản lý của Nhà nước đã đi đầu trong việc đưa tin về sự kiện này."
"Còn các báo chính thống thì cả hơn chục ngày sau mới thấy đưa tin."
"Bên cạnh đó, việc chính quyền trấn áp, bỏ tù hơn 100 người trong sự kiện biểu tình phản đối dự luật Đặc khu hồi năm ngoái cũng là một trong những nguyên nhân."
"Tôi nghĩ rằng lòng yêu nước của người dân luôn rất mạnh mẽ. Một khi tổ quốc bị ngoại xâm thì bằng mọi hình thức, người dân sẽ chiến đấu để bảo vệ quê hương, dù trên mạng hay ngoài đường. Trong sự việc này, có lẽ chính quyền lựa chọn ổn định chính trị trong nước để "đàm phán" với Trung Quốc nên truyền thông Nhà nước đã đưa tin sự việc rất chậm trễ và chưa mạnh mẽ phản đối sự việc."
'Bị gạt qua một bên'
Cũng trong hôm 22/7, bà Ngô Thị Thứ, giáo viên trung học nghỉ hưu, nói với BBC từ TP Hồ Chí Minh :
"Trong vụ căng thẳng ở bãi Tư Chính, tôi thấy người dân không tin tưởng vào các biện pháp đàm phán, tuyên truyền của chính quyền."
"Vì lãnh đạo Việt, Trung vẫn qua lại thăm nhau bình thường... Chưa thấy Bộ Ngoại giao Việt Nam triệu đại sứ Trung Quốc trao công hàm phản đối gì cả... Chỉ mới thấy báo chí được phép nói cầm chừng."
"Trong bối cảnh đó, người dân do dự chuyện xuống đường là lẽ tất nhiên, vì thấy lâu nay trong những vụ hệ trọng của đất nước, họ đã bị gạt qua một bên."
"Cũng trong dịp này, tôi muốn nói rằng Nhà nước cần ra luật Biểu tình, cho phép tự do báo chí, minh bạch thông tin liên quan đến chủ quyền."
"Làm được những điều đó thì người dân mới tin Nhà nước thật sự "vì dân".
Trước đó, ông Nguyễn Thế Phương, nghiên cứu viên cộng tác của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế Sài Gòn (SCIS) lý giải với BBC về việc truyền thông Việt Nam im lặng về vụ bãi Tư Chính trong nhiều ngày trước khi được phép lên tiếng, một phần là vì tránh các vụ biểu tình lớn.
Ông Phương nói :
"Cách tiếp cận "không xác nhận cũng không bác bỏ" sẽ là cách tiếp cận chính trong thời điểm hiện tại. Theo tôi, có mấy lý do sau :
Tránh đánh động dư luận, gây ra các vụ biểu tình bạo động lớn như vụ giàn khoan HD-981 năm 2014.
Nếu xảy ra bạo động thì cũng không có lợi. Thứ nhất cho kinh tế, và thứ hai cho ngoại giao, vì điều này sẽ gây sức ép lớn lên quá trình giải quyết tình hình trên thực địa.
Chính phủ Việt Nam cho thấy họ ưu tiên ổn định đối nội. Kiểm soát thông tin là để thực hiện mục tiêu đó. Kiểm soát thông tin là một chuyện, các chính sách thực địa là một chuyện khác và không đánh đồng hai chuyện này với nhau được."
Trong một diễn biến khác, báo Người Lao Động hôm 20/7 dẫn lời Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong buổi gặp mặt các cán bộ công đoàn tiêu biểu ở Hà Nội :
"Cần chú trọng giáo dục bản lĩnh chính trị, tăng cường sức đề kháng trước những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của xã hội và sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tuyệt đối không để các thế lực thù địch lợi dụng lòng yêu nước chân chính của công nhân, người lao động kích động, lôi kéo biểu tình, tụ tập gây rối, làm mất an ninh, trật tự, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc."
Cũng có người nêu giả thuyết hay không thấy có biểu tình chống Trung Quốc lần này vì người dân lắng nghe lời nhắn nhủ của Tổng bí thư ?