Ông Dương Danh Dy đã từ trần hôm 17 tháng 9 và được đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng một cách lặng lẽ. Chỉ có vài cơ quan truyền thông thuộc hệ thống truyền thông chính thức loan báo điều này sau khi mạng xã hội và hệ thống truyền thông quốc tế đưa tin.
Ông Dương Danh Dy (Facebook Truong Huy San)
Với ông Dy, chết không phải là hết. Chuyện ông giã từ cuộc đời là dịp để người ta ôn – nhớ lại nhiều thứ, cả riêng với cá nhân ông lẫn những vấn đề có liên quan tới lịch sử, giờ tác động không chỉ tới hiện tại mà còn ảnh hưởng đến tương lai :
- Dương Danh Dy - Bí thư thứ nhất của Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, rồi Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc suốt hai thập niên (1977 – 1996), một trong những người được xem là "hiểu Trung Quốc nhất" đã đưa ra nhiều cảnh báo, khuyến cáo có giá trị nhất về quan hệ Việt – Trung. Góp sức cảnh tỉnh, loại bỏ sự mơ hồ giữa vận nước với "tình hữu nghị" và nỗ lực toan làm cho nó "đời đời bền vững"...
- Dương Danh Dy – viên chức ngoại giao kỳ cựu, thành viên của một thế hệ các viên chức ngoại giao như Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ,… tuy là Đảng viên cộng sản Việt Nam nhưng suy tư và hành động vì lợi ích lâu dài của quốc gia, đặt lợi ích quốc gia bên trên tham vọng đổi hết mọi thứ để duy trì quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam, nâng tinh thần dân tộc lên cao hơn "tinh thần quốc tế vô sản"...
- Dương Danh Dy từ biệt cuộc đời một cách lặng lẽ nhưng thời điểm ông "bỏ cuộc chơi" lại nhắc - khiến người ta nhớ tới "Hồi ức và suy nghĩ" của ông Trần Quang Cơ (1927 – 2015) – một viên chức có 44 năm phục vụ trong lĩnh vực ngoại giao, từ chối khi được phân công làm Ngoại trưởng, xin rút ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Người ta nhớ tới Dương Danh Dy vì ông là người trực tiếp dùng Internet phổ biến "Hồi ức và suy nghĩ" (1) – bạch hóa những bất thường, phi lý trong quá trình "bình thường hóa quan hệ Việt – Trung" mà di hại chưa biết đến bao giờ mới có thể khắc phục !
***
Một tuần trước khi ông Dy từ biệt cuộc đời, hệ thống truyền thông chính thức loan báo, Cục Xuất bản, in và phát hành yêu cầu Sở Thông tin và truyền thông các tỉnh, thành phố kiểm tra, rà soát và thu hồi cuốn "Gạc Ma - Vòng tròn bất tử" trên toàn quốc để "ngăn chặn việc phát tán cuốn sách có nội dung sai sót ra thị trường".
Mặc dù ra lệnh cho 64 liệt sĩ bảo vệ Gạc Ma không được nổ súng, năm 1988, trong chuyến thị sát tại quần đảo Trường Sa, ông Lê Đức Anh vẫn ngang nhiên xin thề : Chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau "Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta".
"Gạc Ma – Vòng tròn bất tử" là cuốn sách đầu tiên hệ thống hóa những thông tin, dữ kiện liên quan tới chuyện Trung Quốc cưỡng đoạt các bãi đá ngầm thuộc chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa hồi đầu năm 1988, kèm tường thuật của một số nhân chứng may mắn sống sót sau cuộc thảm sát ngày 14 tháng 3 năm 1988 ở bãi đá ngầm Gạc Ma, được… in - xuất bản – phát hành một cách… hợp pháp trên… lãnh thổ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cho dù tham gia tổ chức nội dung, biên soạn "Gạc Ma – Vòng tròn bất tử" có hai ông tướng (Lê Mã Lương – Thiếu tướng, cựu Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Lê Kế Lâm – Chuẩn Đô đốc, cựu Tham mưu phó đặc trách tác chiến của Quân chủng Hải quân, cựu Giám đốc Học viện Hải quân), một cựu Vụ trưởng đặc trách Cơ quan Thường trực phía Nam của Ban Tuyên giáo Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (Đào Văn Lừng), một Đại biểu quốc hội bốn nhiệm kỳ kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (Dương Trung Quốc), 68 nhà báo và các cựu chiến binh là nhân chứng vụ thảm sát ở bãi đá Gạc Ma nhưng tất cả đều bị một số ông tướng xem là "những kẻ đang thực hiện âm mưu xét lại lịch sử, hạ bệ thần tượng, bôi nhọ quân đội và xúc phạm vai trò lãnh đạo của Đảng"...
Cho dù chính quyền Việt Nam đã thành lập một hội đồng cấp quốc gia để thẩm định nội dung của riêng "Gạc Ma – Vòng tròn bất tử" và sau khi nâng lên, đặt xuống nhiều lần, hội đồng này mới gật đầu, giấy phép xuất bản mới được cấp cho nhà xuất bản thứ 14 (Nhà xuất bản Văn học) nhưng cuối cùng hóa ra vẫn còn "sai sót" đến mức phải thu hồi !
"Sai sót" chính dẫn tới chuyện "Gạc Ma – Vòng tròn bất tử" bị xem là "cực kỳ nghiêm trọng, có hệ thống, nằm trong âm mưu xét lại lịch sử nhằm làm suy yếu chế độ, làm phân hóa nội bộ Đảng, tiếp tay cho âm mưu ‘bài Trung, phò Mỹ, lật sử, dựng cờ vàng, thay chế độ’ của các thế lực thù địch, tiến hành ‘diễn biến hòa bình’ chống phá chế độ ta" là thông tin về "lệnh cấm nổ súng". Dẫu không nêu đích danh nhưng "Gạc Ma – Vòng tròn bất tử" khiến người ta phải liên tưởng đến vai trò, trách nhiệm của ông Lê Đức Anh, khi ấy là Đại tướng, Bộ trưởng quốc phòng, sau này là Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cùng lúc với sự kiện công bố lệnh thu hồi "Gạc Ma – Vòng tròn bất tử", người ta thấy một số diễn đàn điện tử, một số trang facebook đăng lại bài "Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung Quốc và Biển Đông" (2) của ông Khuất Biên Hòa, Đại tá, Trợ lý của ông Lê Đức Anh.
Nếu đọc "Hồi ức và suy nghĩ" của ông Trần Quang Cơ, sẽ tìm thấy tại phần tường thuật về "Đại hội 7 và cái giá phải trả cho việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc", ông Cơ than như thế này về Lê Đức Anh : Xin ý kiến đối phương và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong lịch sử đối ngoại ! Thời điểm 1990, tướng Lê Đức Anh tìm mọi cách để thuyết phục Bộ Chính trị nên trả mọi giá để "bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc" vì : "Mỹ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh đó là Trung Quốc" (Hồi ức và suy nghĩ – chương 14)…
Nói cách khác, "Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung Quốc và Biển Đông" của ông Khuất Biên Hòa là một nỗ lực "giải độc dư luận" từ thông tin, ý kiến của những người trong cuộc như ông Trần Quang Cơ, vừa nhằm loại bỏ trách nhiệm, vừa tô vẽ lại hình ảnh của ông Lê Đức Anh, kiểu như tác giả của 2/3 cuộc "lui quân vĩ đại trong lịch sử nhân loại ở thế kỷ 20" (rút quân khỏi Campuchia và rút quân khỏi biên giới phía Bắc của cả Việt Nam lẫn Trung Quốc để "khôi phục đường biên giới hữu nghị, lập lại quan hệ bình thường giữa hai quốc gia, hai dân tộc).
***
Thập niên 1990, ít nhất, Việt Nam cũng có một Nguyễn Cơ Thạch - Ngoại trưởng, Ủy viên Bộ Chính trị - tuyệt vọng cảnh báo "Chúng ta lại bước vào thời kỳ Bắc thuộc mới", vì không cản được nỗ lực trả mọi giá để "bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc" và chính vì can ngăn, nhận định như thế mà bị Trung Quốc xem là trở ngại, bị giới lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gạt ra rìa.
Thập niên 2000, ít nhất cũng có một Trần Quang Cơ, cảnh báo đồng chí, đồng bào bằng "Hồi ức và suy nghĩ". Thập niên 2010, ít nhất cũng có một Dương Danh Dy, lưu ý phải chú ý về "Hội nghị Thành Đô", công khai thừa nhận trong một cuộc tọa đàm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm rằng, trong Hiệp định Phân định biên giới Việt – Trung, Việt Nam mất 1.500 cây số vuông – tương đương diện tích tỉnh Thái Bình và mất toàn những địa danh có tính biểu tượng như : Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm… vì bị Trung Quốc gài từ hồi thập niên 1950, 1960 của thế kỷ trước (3)...
Đáng buồn là những nhân vật như thế quá ít nên "tinh thần bốn tốt", "16 chữ vàng" mà Trung Quốc đề ra vẫn được giới lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam xem là "kim chỉ nam", nên sau những ông tướng như Lê Đức Anh, vẫn còn nhiều ông tướng khác như Nguyễn Chí Vịnh, cổ súy cho suy nghĩ : "Nếu có được một người bạn xã hội chủ nghĩa rất lớn bên cạnh ủng hộ và hợp tác cùng có lợi thì sẽ vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" (4) !..
***
Những Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ, giờ là Dương Danh Dy… đã từ biệt cuộc đời một cách lặng lẽ nhưng có muốn cũng chưa thể đặt dấu chấm hết cho những cuộc ra đi đó.
Với tuổi tác, tình trạng sức khỏe như đã biết về ông Lê Đức Anh, có lẽ ông Anh cũng sắp chết và chắc chắn, dù muốn hay không, "toàn Đảng, toàn quân, toàn dân" cũng phải để tang ông Anh.
Dẫu quốc tang rình rang tới mức nào, Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tụng ca tới đâu thì người Việt và các thế hệ hậu sinh của người Việt cũng sẽ nhớ : 1988 - ngoài bãi đá Gạc Ma (Johnson), Trung Quốc còn cưỡng đoạt của Việt Nam sáu bãi đá ngầm khác ở quần đảo Trường Sa : Châu Viên (Cuarteron), Chữ Thập (Fiery Cross), Ga Ven (Gaven), Tư Nghĩa (Hughes), Vành Khăn (Mischief), Xu Bi (Subi), song một tháng sau ngày mất bảy bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa và sự kiện Trung Quốc thảm sát 64 người lính Việt Nam vẫn còn nóng hổi, lúc đến thăm quần đảo Trường Sa nhân dịp kỷ niệm 33 năm Ngày Truyền thống của Quân chủng Hải quân (07/05/1955 – 07/05/1988), chính ông - Lê Đức Anh – vẫn khẳng định "nhân dân Việt Nam biết ơn sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Trung Quốc", dù "nhất quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ" nhưng sẽ "nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa nhân dân hai nước Việt - Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước" ?
Người Việt và các thế hệ hậu sinh của người Việt sẽ ghi nhận, bất kể bảy bãi đá ngầm mà Trung Quốc cưỡng chiếm của Việt Nam đã được bồi đắp thành chuỗi căn cứ quân sự nhằm hiện thực hóa dã tâm mà ai cũng thấy là độc chiếm Biển Đông nhưng khi xây dựng Bảo tàng Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa tại Lý Sơn - Quảng Ngãi, nhằm trưng bày dấu tích về lịch sử chủ quyền của người Việt trên Biển Đông, những cá nhân mà ông – Lê Đức Anh – đã tham gia đào tạo, quy hoạch để lãnh đạo quốc gia, quân đội vẫn không quên giới thiệu những "lời vàng, ý ngọc" của chính ông về ơn nghĩa Trung Quốc và mối tình sâu nặng giữa Việt với Trung !
Chắc chắn sẽ rất ít người Việt và con cháu quên rằng, từ 1990, sau khi ông – Lê Đức Anh - và các đồng chí đồng thời với ông hoàn thành "bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc", những người lính Việt đã tử trận ở biên giới Việt – Trung từ 1979 đến 1988, ở Campuchia đều bị gạt ra khỏi lịch sử. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam và lịch sử hiện đại do Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam soạn thảo không giành chỗ cho họ vì điều đó ảnh hưởng đến cam kết thực thi "Láng giềng tốt. Bạn bè tốt. Đồng chí tốt, Đối tác tốt" và "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai".
Chết không phải là hết nên sống, hành xử thế nào mới quan trọng. Sợ, lên án, ngăn chặn "lật sử" cũng không thể cản được việc lật lại lịch sử, xác định chính xác, rõ ràng, ai thực sự có công, ai thực sự đắc tội với dân tộc này.
Trân Văn
Nguồn : VOA, 20/09/2018
Chú thích
(1) http://www.truyen-thong.org/so14/so14.html
(2) http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-voi-van-de-trung-quoc-va-bien-dong-219675.html
(3) https://www.facebook.com/nxdien2k15/posts/1912455759057386?_tn_=K-R
(4) https://tinquansu.wordpress.com/2013/01/01/khong-ai-quen-loi-ich-quoc-gia-dan-toc/#more-5977
‘Người Việt Nam hiểu Trung Quốc nhất’ qua đời lặng lẽ (VOA, 19/09/2018)
Dương Danh Dy, nhà ngoại giao và nghiên cứu của Việt Nam, được biết đến như là một trong những người hay chỉ trích Trung Quốc, qua đời "lặng lẽ" hôm 18/9.
Ông Dương Danh Dy (phải) trong tấm ảnh được Nhà báo Huy Đức đăng lên trang Facebook cá nhân ngay sau khi ông qua đời hôm 18/9.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện của viện Hán-Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam cho VOA biết rằng tang lễ của ông Dy diễn ra chiều ngày 19/9 và cho tới lúc đó chưa có một thông tin nào về việc cựu Tổng lãnh sự của Việt Nam ở Quảng Đông, Trung Quốc, qua đời trên truyền thông trong nước.
"Tin về việc qua đời của nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu độc lập, chuyên gia về Trung Quốc Dương Danh Dy mất rất là im ắng. Sự qua đời lặng lẽ và tính cho tới tận chiều nay (19/9) khi mà linh cữu của ông đã rời khỏi nhà tang lễ rồi, tức là đi an táng rồi, mà vẫn không có một bài báo nào trên báo chí nhà nước".
Điều này cho thấy người ta "có một e ngại gì khi nhắc đến ông Dương Danh Dy, một người vốn không ưa gì Trung Quốc", theo Tiến sĩ Diện, một người từng nhiều lần tiếp xúc với ông Dy.
Tuy nhiên cho tới 8 giờ tối, giờ Việt Nam, ngày 19/9 chúng tôi thấy xuất hiện một bản tin ngắn của VnExpress đưa tin về việc này.
Một trong số ít những người thông báo tin về việc ông Dy qua đời trên mạng xã hội là ông Hoàng Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký ASEAN và cựu đại sứ Việt Nam tại Indonesia. Ông viết trên trang Facebook cá nhân : "Ông Dy là một trong những cây đa, cây đề về những nhà nghiên cứu gạo cội về chính sách đối ngoại của Trung Quốc và Trung Quốc đương đại còn sót lại".
Ông Dy, người mà blogger Trương Huy San gọi là "một trong những người Việt Nam hiểu Trung Quốc nhất", thường đưa ra những chỉ trích về Trung Quốc và tham vọng bá quyền của quốc gia láng giềng phương Bắc của Việt Nam.
"Ông là một người làm việc lâu năm ở Trung Quốc cho nên hiểu Trung Quốc và chống Trung Quốc và có những cảnh báo đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam về âm mưu của Trung Quốc", theo Tiến sĩ Diện.
*****************
Dương Danh Dy, một trong những người hiểu biết Trung Quốc nhất, đã ra đi (Osinhuyduc, 19/09/2018)
Nhà ngoại giao Dương Danh Dy vừa mất hôm qua. Ông được coi là một trong những người Việt Nam hiểu Trung Quốc nhất ; đúng hơn là hiểu dã tâm đối với Việt Nam của Chính quyền Trung Quốc nhất.
Nhà ngoại giao Dương Danh Dy (phải)
Ông nhận vai trò Bí thứ thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh vào tháng 9/1977, thời điểm mà xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc đang bị đẩy dần tới đỉnh điểm ; và, rời Trung Quốc năm 1996, thời kỳ "hữu nghị hậu Thành Đô", khi đang làm Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu.
Không chỉ tiếp xúc được với nhiều nhân chứng lịch sử, nhờ rất thông thạo tiếng Trung, Dương Danh Dy có lẽ là người Việt Nam đọc được nhiều nhất các tài liệu, sách báo, nhật ký, hồi ký có liên quan tới Việt Nam của các lãnh đạo và nhà ngoại giao Trung Quốc. Cho dù có rất nhiều bạn bè người Hoa, ông Dương Danh Dy chưa bao giờ mơ hồ về chính quyền Bắc Kinh.
Theo đại sứ (Việt Nam tại Hà Lan) Đinh Hoàng Thắng, ông Dương Danh Dy là người được Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ trao tận tay hai tập đánh máy cuốn Hồi Ức của ông. Sau khi giúp ông Trần Quang Cơ hoàn chỉnh cuốn Hồi Ức, chính ông Dương Danh Dy là người đã công bố cuốn Hồi Ức nói chi tiết nhất về các chuyển động trước Hội nghị Thành Đô này (khi Thứ trưởng Trần Quang Cơ còn sống).
Cùng Đại sứ Đinh Hoàng Thắng tại nhà riêng nhà ngoại giao Dương Danh Dy 11/2010.
Trí tuệ, tâm huyết và nhiệt thành yêu tổ quốc, Dương Danh Dy không chỉ là một nhà ngoại giao mà còn là một nhà Trung Quốc học. Các công trình của ông vừa giúp người Việt nhìn thấu tâm can "bạn vàng" vừa nhận ra cả những sai lầm của chính mình sau vừa đúng 7 thập niên dùng gạch đá và máu để đắp đường biên vô sản.
******************
Nhớ lại đêm 17 tháng 2 năm 1979
Dương Danh Dy, BBC, 18/02/2009
Tháng 9 năm 1977, tôi được lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam cử sang làm Bí thư thứ nhất tại Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, chuyên làm công tác nghiên cứu.
Quan hệ hai nước Việt Trung, từ lúc tôi ở trong nước đã xấu, lúc này càng xấu đi từng ngày.
Dòng "nạn kiều" dưới sự kích động của nhà đương cục Trung Quốc vẫn lũ lượt kéo nhau rời khỏi Việt Nam, một phần về Trung Quốc một phần đi sang các nước khác.
Lấy lý do cần có tiền để "nuôi nạn kiều", ngày 13/5/1978 lần đầu tiên nhà cầm quyền Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút một bộ phận chuyên gia về nước.
Không lâu sau đó, ngày 3/7/1978 chính phủ Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước.
Xung đột biên giới trên đất liền, nhất là tại điểm nối ray trên đường sắt liên vận Hà Nội-Bằng Tường ngày càng tăng (có lúc có nơi đã xảy ra đổ máu).
Bộ đội Việt Nam trên dường sang Campuchia tham chiến
Chuẩn bị tình huống xấu
Tháng 7 năm 1978 chúng tôi được phổ biến Nghị Quyết TW 4, tinh thần là phải thấu suốt quan điểm nắm vững cả hai nhiệm vụ vừa xây dựng kinh tế vừa tăng cường lực lượng quốc phòng, chuẩn bị tốt và sẵn sàng chiến đấu.
Tháng 11 năm 1978 Việt Nam ký "hiệp ước hữu nghị và hợp tác" với Liên Xô.
Đến tháng 12 năm 1978 mọi việc chuẩn bị cho tình huống xấu nhất trong đại sứ quán đã làm xong. Sứ quán nhận được máy phát điện chạy xăng (và đã cho chạy thử), gạo nước, thực phẩm khô đã được tích trữ đầy đủ, đại sứ quán mấy nước anh em thân thiết cũng nhận được các đề nghị cụ thể khi bất trắc xẩy ra…
Tôi được đồng chí đại sứ phân công đọc và lựa chọn các tài liệu lưu trữ quan trọng, cái phải gửi về nhà, cái có thể hủy,
Tháng 12 năm 1978 trong chuyến thăm mấy nước Đông Nam Á, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Đặng Tiểu Bình vừa hùng hổ vừa tức tối nói một câu không xứng đáng với tư cách của một người lãnh đạo một nước được coi là văn minh : "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học".
Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói "bạo đồ" đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là "hooligan" - tức du côn, côn đồ.
Rồi ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc đơn phương ngừng vận chuyển hành khách xe lửa liên vận tới Việt Nam, rất nhiều cán bộ, sinh viên Việt Nam từ Liên Xô Đông Âu trở về bị đọng lại trong nhà khách sứ quán chờ đường hàng không và cuối cùng đến đầu tháng 1 năm 1979 đường bay Bắc Kinh Hà Nội cũng bị cắt.
Đầu tháng 1 năm 1979 quân đội Việt Nam bất ngờ phản công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, chỉ trong thời gian ngắn đã đập tan sức chống cự của bè lũ Polpot, tiến vào giải phóng Phom Penh. Đây cũng là điều mà Đặng Tiểu Bình không ngờ.
Lại một quả đắng khó nuốt nữa đối với nhà lãnh đạo Trung Quốc này.
'Không đánh nhau không xong'
Cuối tháng 1 năm 1979 Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ, được Tổng thống Carter đón tiếp với nghi lễ rất cao, hai nước quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao, và không biết còn bàn bạc gì nữa ? Trên đường về nước Đặng Tiểu Bình ghé qua Nhật Bản.
Trước những tình hình trên, một số anh em nghiên cứu chúng tôi đã khẳng định khá sớm : hai nước anh em thân thiết như răng với môi này không đánh nhau một trận không xong !
Lính Trung Quốc bị bắt tại Phố Lu
Lý trí mách bảo như vậy, thậm chí còn mách bảo hơn nữa : Trung quốc đã từng gây cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ và nhất là với Liên Xô và cả hai lần họ đều bất ngờ ra tay trước.
Thế nhưng về mặt tình cảm (bây giờ nhìn lại thì còn có cả sự ngây thơ, cả tin nữa) vẫn hy vọng dù chỉ là chút ít thôi : quan hệ Việt Trung đã từng gắn bó, sâu nặng như vậy, họ không thể một sớm một chiều trở mặt được.
Không nói tới những khoản viện trợ to lớn có hiệu quả, những tình cảm thân thiết như anh em trước đây, mà ngay trong những giờ phút căng thẳng này, tôi vẫn không thể quên được những việc làm tốt hay tỏ ra biết điều của một số cán bộ Trung Quốc :
Năm 1977, Nhà máy dệt Vĩnh Phúc do Trung Quốc viện trợ cho ta, sau một hồi chạy thử vẫn không hiện đúng màu nhuộm cần thiết, một kỹ sư Trung Quốc đã bí mật cung cấp cho ta bí quyết. Khi các chuyên gia Trung Quốc khác thấy kết quả đó, không biết do ai chỉ đạo, họ đã "xử lý" một cách tàn bạo, anh bị đánh tới chết.
Khi đoàn chuyên gia Trung Quốc thi công cầu Thăng Long bị cấp trên của họ điều về nước, một số đồng chí đã để lại khá nhiều bản vẽ, tài liệu kỹ thuật về chiếc cầu này cho ta. Tôi biết chiếc cầu Chương Dương do ta tự thiết kế thi công sau này đã dùng một số sắt thép do phía Trung Quốc đưa sang để dựng cầu Thăng Long.
Mặc dù khi truyền hình trực tiếp , Trung Quốc không thể cắt được câu nói lỗ mãng của Đặng Tiểu Bình : Việt Nam là côn đồ, nhưng báo chí chính thức ngày hôm sau của Trung Quốc đã cắt bỏ câu này khi đưa tin (chỉ còn đăng câu "phải dạy cho Việt Nam bài học" , nghĩa là đỡ tệ hơn).
Chúng tôi đã làm gì ?
Trong bối cảnh trên, cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu ngày 17/2/1979 do nhà cầm quyền Trung Quốc - mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình, phát động, về tổng thể không bất ngờ đối với chúng tôi, nhưng về thời gian cụ thể và nhất là về qui mô binh lực mà Trung Quốc sử dụng thì quả là không tính tới.
Sau này những day dứt về dự báo không chính xác trên đã có phần giảm bớt, khi được biết có một số cán bộ trung cấp và một số đơn vị quân đội Trung Quốc chỉ sau khi đã tiến vào lãnh thổ nước ta rồi họ mới biết là phải đi đánh Việt Nam.
10 giờ tối ngày 17/2/79 (tức 9 giờ tối Việt Nam) tôi bật đài nghe tin của đài tiếng nói Việt Nam, không thấy có tin quan trọng nào liên quan đến hai nước, tôi chuyển đài khác nghe tin.
Khoảng 10 giờ 30 phút đồng chí Trần Trung, tham tán đại biện lâm thời (thời gian này đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh về Việt Nam họp) đến đập mạnh vào cửa phòng tôi : Dy, lên phòng hạnh phúc họp ngay, Trung Quốc đánh ta rồi !
Ít phút sau, một số đồng chí có trách nhiệm đã có mặt đông đủ. Đồng chí Trần Trung phổ biến tình hình nhà vừa thông báo : sáng sớm ngày 17/2, bọn bành trướng Trung Quốc đã tấn công trên toàn tuyến biên giới trên đất liền (6 tỉnh của Việt Nam lúc đó) với qui mô 20 sư đoàn bộ binh.
Hai sư đoàn chủ lực của ta cùng với bộ đội địa phương và anh chị em dân quân du kích đang anh dũng chống trả.
"Nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là dịch ngay bản Tuyên Bố của chính phủ ta ra 3 tiếng Trung, Anh, Pháp để phục vụ cho cuộc họp báo quốc tế sẽ phải tổ chức và để thông bào càng rộng càng tốt cho một số nhân dân Trung Quốc biết rõ sự thực".
Bộ phận dịch tiếng Trung, dưới sự chỉ huy của anh Thái Hoàng-Bí thư thứ nhất, gồm hai đồng chí Hoàng Như Lý, bí thư thứ ba và Chu Công Phùng cán bộ phòng chính trị, đã dịch văn bản một cách "ngon lành" ; đồng chí Lê Công Phụng, bí thư thứ ba phụ trách phần dịch tiếng Anh cũng không vất vả gì ; riêng phần tiếng Pháp, đồng chí Minh, phiên dịch tiếng Pháp do mới ra trường không lâu, nên có đôi lúc tỏ ra luống cuống.
Guồng máy dịch, in roneo, soát, sửa lại bản in nhanh chóng chạy đều, mọi người làm việc không biết mệt với lòng căm giận bọn bành trướng.
Thi thoảng mấy câu chửi bọn chúng như kìm nén không nổi lại khe khẽ bật ra từ vài đồng chí. Không căm tức uất hận sao được ?
Khi chúng tôi hoàn thành công việc thì trời đã hửng sáng (đài BBC sau đó đã đưa tin, tối ngày 17/2/1979 toàn Đại sứ quán Việt Nam để sáng đèn).
Những người ngoài 40, 50 chúng tôi sau một đêm vất vả không ngủ vẫn tỏ ra bình thường nhưng riêng hai đồng chí Phùng và Minh đang tuổi ăn tuổi ngủ, tuy được đồng chí Đặng Hữu-Bí thư thứ nhất, tiếp sâm, nhưng vẻ mặt sau một đêm căng thẳng đã lộ nét mệt mỏi. Thương cảm vô cùng.
Tuy vậy, chúng tôi đã nhanh chóng bước vào ngày làm việc mới với tất cả sức mạnh tinh thần và lòng căm thù bọn bành trướng bá quyền, nước lớn.
Quá khứ 30 năm
Cuộc chiến tranh do nhà cầm quyền Bắc Kinh mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình gây ra, kết thúc đã 30 năm.
Sau khi bình thường hóa, quan hệ hai nước nhìn chung phát triển khá tốt.
Tuy nhiên cần nhấn mạnh một điều, vì nghĩa lớn, chúng ta đã thực hiện đúng lời cam kết : không nhắc lại chuyện cũ. Nhưng ở phía bên kia, một số kẻ không biết điều, vẫn thường xuyên, xuyên tạc sự thật lịch sử, rêu rao, tự cho là đã "giành thắng lợi", là "chính nghĩa", là "Việt Nam bài Hoa, Việt Nam chống Hoa, Việt Nam "xua đuổi nạn kiều", Việt Nam xâm lược Cămpuchia" v.v..
Cho đến hôm nay, một số cuốn sách lịch sử, sách nghiên cứu, không ít bài thơ, truyện, ký…vẫn nhai lại những luận điệu trên dù hai nước đã bình thường hóa quan hệ được gần hai chục năm.
Tôi nghỉ hưu đã được hơn mười năm nhưng do vẫn tiếp tục nghiên cứu về Trung Quốc, nên thỉnh thoảng vẫn có dịp gặp các bạn cũ công tác tại Bộ Ngoại Giao Trung Quốc trước đây cũng như nhiều học giả Trung Quốc.
Không dưới một lần tôi đã thân tình và nghiêm túc nhắc họ : nếu các bạn chỉ nhận phần đúng trong những việc xảy ra trong thời gian trước đây, đổ hết lỗi cho cho người khác thì quan hệ Việt Trung dù ai đó có dùng những chữ vàng để tô vẽ cũng không thể nào xóa bỏ được những vết hằn lịch sử do người lãnh đạo của các bạn gây ra, quan hệ hai nước không thể nào thực sự phát triển tốt đẹp được, vì những hoài nghi lớn của nhân dân hai bên chưa được giải tỏa ?
Mong rằng một số nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay nên nhớ chuyện sau : nếu không biết lời dặn của Chủ tịch Mao với đoàn cố vấn Trung Quốc khi sang giúp Việt nam thời kỳ chống Pháp : ‘Tổ tiên chúng ta trước đây đã làm một số việc không phải với nhân dân Việt Nam, các anh sang giúp nước bạn lần này là để trả nợ cho cha ông’ ; và nếu không thấy trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, Thủ tướng Chu đã tới dâng hương tại đền thờ Hai Bà, thì chắc chắn những người Việt Nam thời đó không dễ quên được chuyện cũ để nhanh chóng hòa hiếu với Trung Quốc như sau đó đâu ?
Vết thương chung phải do cả hai bên cùng đồng tâm, thành ý chữa trị thì mới có thể lành hẳn.
Chúng ta không nói lại chuyện cũ là vì nghĩa lớn, chứ không phải vì chúng ta không có lý, không phải vì người Việt Nam sợ hãi hay chóng quên.
BBC tiếng Việt
Tác giả Dương Danh Dy hiện đang sống ở Hà Nội.