Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Việt Nam

19/09/2018

Học giả Dương Danh Dy lặng lẽ từ giã cõi đời ở tuổi 84

Tổng hợp

‘Người Việt Nam hiểu Trung Quốc nhất’ qua đời lặng lẽ (VOA, 19/09/2018)

Dương Danh Dy, nhà ngoi giao và nghiên cu ca Vit Nam, được biết đến như là mt trong nhng người hay ch trích Trung Quc, qua đi "lng l" hôm 18/9.

dy1

Ông Dương Danh Dy (phi) trong tm nh được Nhà báo Huy Đc đăng lên trang Facebook cá nhân ngay sau khi ông qua đi hôm 18/9.

Tiến sĩ Nguyn Xuân Din ca vin Hán-Nôm thuc Vin Hàn lâm Khoa hc Vit Nam cho VOA biết rng tang l ca ông Dy din ra chiu ngày 19/9 và cho ti lúc đó chưa có mt thông tin nào v vic cu Tng lãnh s ca Vit Nam Qung Đông, Trung Quốc, qua đời trên truyn thông trong nước.

"Tin về vic qua đi ca nhà ngoi giao, nhà nghiên cu đc lp, chuyên gia v Trung Quc Dương Danh Dy mt rt là im ng. S qua đi lng l và tính cho ti tn chiu nay (19/9) khi mà linh cu ca ông đã ri khi nhà tang lễ ri, tc là đi an táng ri, mà vn không có mt bài báo nào trên báo chí nhà nước".

Điều này cho thy người ta "có mt e ngi gì khi nhc đến ông Dương Danh Dy, mt người vn không ưa gì Trung Quc", theo Tiến sĩ Din, mt người tng nhiu ln tiếp xúc vi ông Dy.

Tuy nhiên cho tới 8 gi ti, gi Vit Nam, ngày 19/9 chúng tôi thy xut hin một bản tin ngn ca VnExpress đưa tin v vic này.

Một trong s ít nhng người thông báo tin v vic ông Dy qua đi trên mng xã hi là ông Hoàng Anh Tun, Phó Tng thư ký ASEAN và cu đi s Vit Nam ti Indonesia. Ông viết trên trang Facebook cá nhân : "Ông Dy là một trong nhng cây đa, cây đ v nhng nhà nghiên cu go ci v chính sách đi ngoi ca Trung Quc và Trung Quc đương đi còn sót li".

Ông Dy, người mà blogger Trương Huy San gi là "mt trong nhng người Vit Nam hiu Trung Quc nht", thường đưa ra nhng ch trích v Trung Quc và tham vng bá quyn ca quc gia láng ging phương Bc ca Vit Nam.

"Ông là một người làm vic lâu năm Trung Quc cho nên hiu Trung Quc và chng Trung Quc và có nhng cnh báo đi vi các nhà lãnh đo Vit Nam về âm mưu ca Trung Quc", theo Tiến sĩ Din.

*****************

Dương Danh Dy, một trong những người hiểu biết Trung Quốc nhất, đã ra đi (Osinhuyduc, 19/09/2018)

Nhà ngoại giao Dương Danh Dy vừa mất hôm qua. Ông được coi là một trong những người Việt Nam hiểu Trung Quốc nhất ; đúng hơn là hiểu dã tâm đối với Việt Nam của Chính quyền Trung Quốc nhất.

dy2

Nhà ngoại giao Dương Danh Dy (phải)

Ông nhận vai trò Bí thứ thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh vào tháng 9/1977, thời điểm mà xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc đang bị đẩy dần tới đỉnh điểm ; và, rời Trung Quốc năm 1996, thời kỳ "hữu nghị hậu Thành Đô", khi đang làm Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu.

Không chỉ tiếp xúc được với nhiều nhân chứng lịch sử, nhờ rất thông thạo tiếng Trung, Dương Danh Dy có lẽ là người Việt Nam đọc được nhiều nhất các tài liệu, sách báo, nhật ký, hồi ký có liên quan tới Việt Nam của các lãnh đạo và nhà ngoại giao Trung Quốc. Cho dù có rất nhiều bạn bè người Hoa, ông Dương Danh Dy chưa bao giờ mơ hồ về chính quyền Bắc Kinh.

Theo đại sứ (Việt Nam tại Hà Lan) Đinh Hoàng Thắng, ông Dương Danh Dy là người được Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ trao tận tay hai tập đánh máy cuốn Hồi Ức của ông. Sau khi giúp ông Trần Quang Cơ hoàn chỉnh cuốn Hồi Ức, chính ông Dương Danh Dy là người đã công bố cuốn Hồi Ức nói chi tiết nhất về các chuyển động trước Hội nghị Thành Đô này (khi Thứ trưởng Trần Quang Cơ còn sống).

dy3

Cùng Đại sứ Đinh Hoàng Thắng tại nhà riêng nhà ngoại giao Dương Danh Dy 11/2010.

Trí tuệ, tâm huyết và nhiệt thành yêu tổ quốc, Dương Danh Dy không chỉ là một nhà ngoại giao mà còn là một nhà Trung Quốc học. Các công trình của ông vừa giúp người Việt nhìn thấu tâm can "bạn vàng" vừa nhận ra cả những sai lầm của chính mình sau vừa đúng 7 thập niên dùng gạch đá và máu để đắp đường biên vô sản.

******************

Nhớ lại đêm 17 tháng 2 năm 1979

Dương Danh Dy, BBC, 18/02/2009

Tháng 9 năm 1977, tôi được lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam cử sang làm Bí thư thứ nhất tại Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, chuyên làm công tác nghiên cứu.

Quan hệ hai nước Việt Trung, từ lúc tôi ở trong nước đã xấu, lúc này càng xấu đi từng ngày.

Dòng "nạn kiều" dưới sự kích động của nhà đương cục Trung Quốc vẫn lũ lượt kéo nhau rời khỏi Việt Nam, một phần về Trung Quốc một phần đi sang các nước khác.

Lấy lý do cần có tiền để "nuôi nạn kiều", ngày 13/5/1978 lần đầu tiên nhà cầm quyền Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút một bộ phận chuyên gia về nước.

Không lâu sau đó, ngày 3/7/1978 chính phủ Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước.

Xung đột biên giới trên đất liền, nhất là tại điểm nối ray trên đường sắt liên vận Hà Nội-Bằng Tường ngày càng tăng (có lúc có nơi đã xảy ra đổ máu).

dy4

Bộ đội Việt Nam trên dường sang Campuchia tham chiến

Chuẩn bị tình huống xấu

Tháng 7 năm 1978 chúng tôi được phổ biến Nghị Quyết TW 4, tinh thần là phải thấu suốt quan điểm nắm vững cả hai nhiệm vụ vừa xây dựng kinh tế vừa tăng cường lực lượng quốc phòng, chuẩn bị tốt và sẵn sàng chiến đấu.

Tháng 11 năm 1978 Việt Nam ký "hiệp ước hữu nghị và hợp tác" với Liên Xô.

Đến tháng 12 năm 1978 mọi việc chuẩn bị cho tình huống xấu nhất trong đại sứ quán đã làm xong. Sứ quán nhận được máy phát điện chạy xăng (và đã cho chạy thử), gạo nước, thực phẩm khô đã được tích trữ đầy đủ, đại sứ quán mấy nước anh em thân thiết cũng nhận được các đề nghị cụ thể khi bất trắc xẩy ra…

Tôi được đồng chí đại sứ phân công đọc và lựa chọn các tài liệu lưu trữ quan trọng, cái phải gửi về nhà, cái có thể hủy,

Tháng 12 năm 1978 trong chuyến thăm mấy nước Đông Nam Á, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Đặng Tiểu Bình vừa hùng hổ vừa tức tối nói một câu không xứng đáng với tư cách của một người lãnh đạo một nước được coi là văn minh : "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học".

Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói "bạo đồ" đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là "hooligan" - tức du côn, côn đồ.

Rồi ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc đơn phương ngừng vận chuyển hành khách xe lửa liên vận tới Việt Nam, rất nhiều cán bộ, sinh viên Việt Nam từ Liên Xô Đông Âu trở về bị đọng lại trong nhà khách sứ quán chờ đường hàng không và cuối cùng đến đầu tháng 1 năm 1979 đường bay Bắc Kinh Hà Nội cũng bị cắt.

Đầu tháng 1 năm 1979 quân đội Việt Nam bất ngờ phản công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, chỉ trong thời gian ngắn đã đập tan sức chống cự của bè lũ Polpot, tiến vào giải phóng Phom Penh. Đây cũng là điều mà Đặng Tiểu Bình không ngờ.

Lại một quả đắng khó nuốt nữa đối với nhà lãnh đạo Trung Quốc này.

'Không đánh nhau không xong'

Cuối tháng 1 năm 1979 Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ, được Tổng thống Carter đón tiếp với nghi lễ rất cao, hai nước quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao, và không biết còn bàn bạc gì nữa ? Trên đường về nước Đặng Tiểu Bình ghé qua Nhật Bản.

Trước những tình hình trên, một số anh em nghiên cứu chúng tôi đã khẳng định khá sớm : hai nước anh em thân thiết như răng với môi này không đánh nhau một trận không xong !

dy5

Lính Trung Quốc bị bắt tại Phố Lu

Lý trí mách bảo như vậy, thậm chí còn mách bảo hơn nữa : Trung quốc đã từng gây cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ và nhất là với Liên Xô và cả hai lần họ đều bất ngờ ra tay trước.

Thế nhưng về mặt tình cảm (bây giờ nhìn lại thì còn có cả sự ngây thơ, cả tin nữa) vẫn hy vọng dù chỉ là chút ít thôi : quan hệ Việt Trung đã từng gắn bó, sâu nặng như vậy, họ không thể một sớm một chiều trở mặt được.

Không nói tới những khoản viện trợ to lớn có hiệu quả, những tình cảm thân thiết như anh em trước đây, mà ngay trong những giờ phút căng thẳng này, tôi vẫn không thể quên được những việc làm tốt hay tỏ ra biết điều của một số cán bộ Trung Quốc :

Năm 1977, Nhà máy dệt Vĩnh Phúc do Trung Quốc viện trợ cho ta, sau một hồi chạy thử vẫn không hiện đúng màu nhuộm cần thiết, một kỹ sư Trung Quốc đã bí mật cung cấp cho ta bí quyết. Khi các chuyên gia Trung Quốc khác thấy kết quả đó, không biết do ai chỉ đạo, họ đã "xử lý" một cách tàn bạo, anh bị đánh tới chết.

Khi đoàn chuyên gia Trung Quốc thi công cầu Thăng Long bị cấp trên của họ điều về nước, một số đồng chí đã để lại khá nhiều bản vẽ, tài liệu kỹ thuật về chiếc cầu này cho ta. Tôi biết chiếc cầu Chương Dương do ta tự thiết kế thi công sau này đã dùng một số sắt thép do phía Trung Quốc đưa sang để dựng cầu Thăng Long.

Mặc dù khi truyền hình trực tiếp , Trung Quốc không thể cắt được câu nói lỗ mãng của Đặng Tiểu Bình : Việt Nam là côn đồ, nhưng báo chí chính thức ngày hôm sau của Trung Quốc đã cắt bỏ câu này khi đưa tin (chỉ còn đăng câu "phải dạy cho Việt Nam bài học" , nghĩa là đỡ tệ hơn).

Chúng tôi đã làm gì ?

Trong bối cảnh trên, cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu ngày 17/2/1979 do nhà cầm quyền Trung Quốc - mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình, phát động, về tổng thể không bất ngờ đối với chúng tôi, nhưng về thời gian cụ thể và nhất là về qui mô binh lực mà Trung Quốc sử dụng thì quả là không tính tới.

Sau này những day dứt về dự báo không chính xác trên đã có phần giảm bớt, khi được biết có một số cán bộ trung cấp và một số đơn vị quân đội Trung Quốc chỉ sau khi đã tiến vào lãnh thổ nước ta rồi họ mới biết là phải đi đánh Việt Nam.

10 giờ tối ngày 17/2/79 (tức 9 giờ tối Việt Nam) tôi bật đài nghe tin của đài tiếng nói Việt Nam, không thấy có tin quan trọng nào liên quan đến hai nước, tôi chuyển đài khác nghe tin.

Khoảng 10 giờ 30 phút đồng chí Trần Trung, tham tán đại biện lâm thời (thời gian này đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh về Việt Nam họp) đến đập mạnh vào cửa phòng tôi : Dy, lên phòng hạnh phúc họp ngay, Trung Quốc đánh ta rồi !

Ít phút sau, một số đồng chí có trách nhiệm đã có mặt đông đủ. Đồng chí Trần Trung phổ biến tình hình nhà vừa thông báo : sáng sớm ngày 17/2, bọn bành trướng Trung Quốc đã tấn công trên toàn tuyến biên giới trên đất liền (6 tỉnh của Việt Nam lúc đó) với qui mô 20 sư đoàn bộ binh.

Hai sư đoàn chủ lực của ta cùng với bộ đội địa phương và anh chị em dân quân du kích đang anh dũng chống trả.

"Nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là dịch ngay bản Tuyên Bố của chính phủ ta ra 3 tiếng Trung, Anh, Pháp để phục vụ cho cuộc họp báo quốc tế sẽ phải tổ chức và để thông bào càng rộng càng tốt cho một số nhân dân Trung Quốc biết rõ sự thực".

Bộ phận dịch tiếng Trung, dưới sự chỉ huy của anh Thái Hoàng-Bí thư thứ nhất, gồm hai đồng chí Hoàng Như Lý, bí thư thứ ba và Chu Công Phùng cán bộ phòng chính trị, đã dịch văn bản một cách "ngon lành" ; đồng chí Lê Công Phụng, bí thư thứ ba phụ trách phần dịch tiếng Anh cũng không vất vả gì ; riêng phần tiếng Pháp, đồng chí Minh, phiên dịch tiếng Pháp do mới ra trường không lâu, nên có đôi lúc tỏ ra luống cuống.

Guồng máy dịch, in roneo, soát, sửa lại bản in nhanh chóng chạy đều, mọi người làm việc không biết mệt với lòng căm giận bọn bành trướng.

Thi thoảng mấy câu chửi bọn chúng như kìm nén không nổi lại khe khẽ bật ra từ vài đồng chí. Không căm tức uất hận sao được ?

Khi chúng tôi hoàn thành công việc thì trời đã hửng sáng (đài BBC sau đó đã đưa tin, tối ngày 17/2/1979 toàn Đại sứ quán Việt Nam để sáng đèn).

Những người ngoài 40, 50 chúng tôi sau một đêm vất vả không ngủ vẫn tỏ ra bình thường nhưng riêng hai đồng chí Phùng và Minh đang tuổi ăn tuổi ngủ, tuy được đồng chí Đặng Hữu-Bí thư thứ nhất, tiếp sâm, nhưng vẻ mặt sau một đêm căng thẳng đã lộ nét mệt mỏi. Thương cảm vô cùng.

Tuy vậy, chúng tôi đã nhanh chóng bước vào ngày làm việc mới với tất cả sức mạnh tinh thần và lòng căm thù bọn bành trướng bá quyền, nước lớn.

Quá khứ 30 năm

Cuộc chiến tranh do nhà cầm quyền Bắc Kinh mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình gây ra, kết thúc đã 30 năm.

Sau khi bình thường hóa, quan hệ hai nước nhìn chung phát triển khá tốt.

Tuy nhiên cần nhấn mạnh một điều, vì nghĩa lớn, chúng ta đã thực hiện đúng lời cam kết : không nhắc lại chuyện cũ. Nhưng ở phía bên kia, một số kẻ không biết điều, vẫn thường xuyên, xuyên tạc sự thật lịch sử, rêu rao, tự cho là đã "giành thắng lợi", là "chính nghĩa", là "Việt Nam bài Hoa, Việt Nam chống Hoa, Việt Nam "xua đuổi nạn kiều", Việt Nam xâm lược Cămpuchia" v.v..

Cho đến hôm nay, một số cuốn sách lịch sử, sách nghiên cứu, không ít bài thơ, truyện, ký…vẫn nhai lại những luận điệu trên dù hai nước đã bình thường hóa quan hệ được gần hai chục năm.

Tôi nghỉ hưu đã được hơn mười năm nhưng do vẫn tiếp tục nghiên cứu về Trung Quốc, nên thỉnh thoảng vẫn có dịp gặp các bạn cũ công tác tại Bộ Ngoại Giao Trung Quốc trước đây cũng như nhiều học giả Trung Quốc.

Không dưới một lần tôi đã thân tình và nghiêm túc nhắc họ : nếu các bạn chỉ nhận phần đúng trong những việc xảy ra trong thời gian trước đây, đổ hết lỗi cho cho người khác thì quan hệ Việt Trung dù ai đó có dùng những chữ vàng để tô vẽ cũng không thể nào xóa bỏ được những vết hằn lịch sử do người lãnh đạo của các bạn gây ra, quan hệ hai nước không thể nào thực sự phát triển tốt đẹp được, vì những hoài nghi lớn của nhân dân hai bên chưa được giải tỏa ?

Mong rằng một số nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay nên nhớ chuyện sau : nếu không biết lời dặn của Chủ tịch Mao với đoàn cố vấn Trung Quốc khi sang giúp Việt nam thời kỳ chống Pháp : ‘Tổ tiên chúng ta trước đây đã làm một số việc không phải với nhân dân Việt Nam, các anh sang giúp nước bạn lần này là để trả nợ cho cha ông’ ; và nếu không thấy trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, Thủ tướng Chu đã tới dâng hương tại đền thờ Hai Bà, thì chắc chắn những người Việt Nam thời đó không dễ quên được chuyện cũ để nhanh chóng hòa hiếu với Trung Quốc như sau đó đâu ?

Vết thương chung phải do cả hai bên cùng đồng tâm, thành ý chữa trị thì mới có thể lành hẳn.

Chúng ta không nói lại chuyện cũ là vì nghĩa lớn, chứ không phải vì chúng ta không có lý, không phải vì người Việt Nam sợ hãi hay chóng quên.

BBC tiếng Việt

Tác giả Dương Danh Dy hiện đang sống ở Hà Nội.

Quay lại trang chủ
Read 527 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)