Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có thể sẽ đi vào lịch sử nếu như Nghị quyết 112 có hiệu lực trên thực tế. Cũng như việc bãi bỏ hàng nghìn điều kiện kinh doanh, Nghị quyết này là một trong những hành động thiết thực dân cần chứ không phải là những tuyên bố cải cách to tát nói rồi để đấy. Tuy nhiên, Dự luật An ninh mạng có thể sẽ nhận chìm uy tín chính trị của ông (và cả Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân), đặc biệt, là uy tín trước cộng đồng quốc tế.

anninh0

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân - Ảnh minh họa

Chủ quyền quốc gia và tự do của người dân

Không có gì quá ngạc nhiên khi một số nhà báo, trí thức... ngạc nhiên khi Google, Facebook... chưa phản ứng Dự luật đòi Google, Facebook... phải đặt máy chủ ở Việt Nam mà người trong nước đã nêu ý kiến. Các bạn trí thức này đã tư duy trên nền tảng chủ quyền quốc gia truyền thống, họ ý kiến trên tâm thế "Nhà nước" (cho dù tôi biết nhiều người không phải là người nhà nước) chứ không trên tâm thế của những người dân được hưởng lợi từ Google, Facebook...

Nếu như, điều kiện đặt máy chủ tại Việt Nam đối với Google, Facebook... chủ yếu đặt họ trước các bài toán kinh doanh khi phải bỏ thêm tiền lắp đặt thêm các "server", thì đối với người Việt Nam là vấn đề tự do. Chính quyền sẽ dễ dàng gây sức ép với các nhà cung cấp dịch vụ như email, youtube, Facebook... buộc áp dụng điều 9, điều 10 của Dự thảo gỡ bỏ các bài viết của người dân khi họ đặt máy chủ tại Việt Nam thay vì tại Hongkong hay Singapore như hiện nay.

Theo Dự thảo và theo tuyên bố mới đây của Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thì mối quan tâm ưu tiên của Dự luật này không phải là để bảo vệ các cơ sở dữ liệu liên quan đến an ninh quốc gia và bí mật cá nhân của người dân (đặc biệt là sau khi có "cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư") mà là những thông tin "tuyên truyền chống chế độ".

Mạng xã hội chỉ là công cụ, nó cũng như con dao, thái rau hay gây án là tùy người dùng. Bộ Luật Hình sự có đủ tội danh để chính quyền bắt bớ những ai trái ý.

Chỉ có vài quốc gia còn hình sự hóa quyền chỉ trích chính quyền của người dân và Việt Nam là một trong số ít đang có quá nhiều điều luật để buộc tội những hành vi mà ở các quốc gia tiến bộ coi là quyền tự do của dân chúng (ngôn luận và bày tỏ chính kiến). Lẽ ra, chính quyền Việt Nam đã phải đủ trưởng thành để nhận thức rằng, chính mình đã mạnh lên rất nhiều, bộ máy đã bớt nhũng nhiễu đi rất nhiều kể từ khi có internet và người dân có thể dùng Mạng xã hội để lên tiếng.

Chủ quyền quốc gia liệu còn ý nghĩa gì không khi mà trong đó người dân được sống với ít tự do hơn. Chính Hồ Chí Minh - người sáng lập ra chế độ này - cũng đã tuyên bố, "Nước có độc lập mà dân không có tự do thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa". Một khi buộc được các nhà cung cấp dịch vụ đặt máy chủ trong nước, đắc chí vì thấy họ phải tuân theo điều mà vài người tưởng là chủ quyền quốc gia, quyền tự do của người dân sẽ bị can thiệp. Chỉ chiếu theo các tiêu chí của Hồ Chí Minh thôi, đã thấy đòi hỏi chủ quyền kiểu đó là vô nghĩa.

Có hai Bộ công an ?

Trong hai năm đầu của mình, Bộ trưởng Tô Lâm đã làm được rất nhiều việc, cả về chống tham nhũng trong hệ thống và cải cách trong ngành. Nghị quyết 112 rõ ràng mang đậm dấu ấn của ông. Nếu Nghị quyết này triển khai thành công theo hướng - người dân không bị đặt trong tình trạng "bất hợp pháp" chỉ vì thiếu các thủ tục hành chánh và không còn bị cảnh sát khu vực đe dọa quyền tự do đi lại & tự do cư trú chỉ vì thiếu tờ KT3 hay tờ hộ khẩu - thì ông Tô Lâm và ông Trần Tuấn Anh có thể được coi là hai thành viên tiên phong cải cách của Nội các ; việc làm của hai ông cho dân chúng lờ mờ thấy nội hàm của "Chính phủ kiến tạo".

Nhưng, Nghị quyết 112 & Dự luật An ninh mạng tuy cùng xuất phát từ Bộ Công An đã cho thấy hai cách tiếp cận khác xa nhau. Một bên Bộ sẵn sàng từ bỏ quyền lực, một bên Bộ lại thể hiện cách tiếp cận như thời Việt Nam chưa có internet. Nếu những điều luật đi ngược lại xu thế của thời đại trong Dự luật An ninh mạng thành hiện thực, rất khó để tin rằng, hiện chỉ có một Bộ Công an của ông Tô Lâm.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân

Cho dù có mấy Bộ Công an thì Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc & Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cũng sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Nếu người dân không còn công cụ để giám sát bộ máy thì những nỗ lực bãi bỏ hộ khẩu, giấy phép con, điều kiện kinh doanh... sẽ dần dần bị vô hiệu hóa bởi chính những quan chức (mặc sức) tha hóa nằm trong bộ máy.

Nghiêm trọng hơn, nếu ông bà cho phá vỡ các cam kết quốc tế của những người tiền nhiệm - không buộc nhà cung cấp các dịch vụ mạng phải đặt máy chủ tại Việt Nam - thì không những uy tín chính trị của ông bà trên trường quốc tế sẽ bị thách thức mà ông bà có thể sẽ trở thành những nhà lãnh đạo đầu tiên của Đảng cộng sản để lọt một đạo luật thắt chặt không gian tự do nhất kể từ khi Việt Nam đổi mới.

Huy Đức

Nguồn : FB Truong Huy San, 07/11/2018

****************

Bộ luật tước đi quyền ẩn danh của dân chúng lại được Quốc hội bỏ phiếu ẩn danh

Các tướng Công an tuyên bố trước diễn đàn, bên hành lang Quốc hội và trong họp báo Chính phủ : "18 quốc gia trên thế giới đã có văn bản luật quy định các doanh nghiệp nước ngoài phải lưu trữ dữ liệu quan trọng trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, như Mỹ, Canada, Trung Quốc…". Họ không nghiên cứu hay họ không chịu hiểu. Rất tiếc là rất nhiều cơ quan quyền lực, rất nhiều nhân vật chịu trách nhiệm ban hành chính sách đã tin vào những tuyên bố này.

Chính phủ cần phải biết sự thật. Trước khi thông qua 2 nghị định hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng, các thành viên Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nên đọc kỹ bài viết này và lắng nghe thêm ý kiến từ các chuyên gia và những người lo lắng cho tương lai đất nước.

Trong trường hợp link bị chặn, các bạn đọc bài dưới đây :

Theo VnExpress, trong cuộc họp báo ngày 3/11/2018, thiếu tướng Lương Tam Quang – Chánh văn phòng Bộ Công an đã nói :

[...] có 18 quốc gia trên thế giới đã có văn bản luật quy định các doanh nghiệp nước ngoài phải lưu trữ dữ liệu quan trọng trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, như Mỹ, Canada, Trung Quốc.

Ngày 25/5, quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân của Liên Hiệp Châu Âu cũng chính thức có hiệu lực, cho phép cá nhân kiểm soát dữ liệu của mình khi tham gia các diễn đàn, mạng xã hội. Các công ty phải cam kết không chuyển dữ liệu cá nhân cho bên thứ 3 ; nếu bị phát hiện sẽ bị phạt 20 triệu euro hay 4% doanh số toàn cầu.

Về con số 18 quốc gia tôi đã phân tích trong bài về dự thảo 03/10/2018, chỉ nhắc lại ở đây là ông Quang nhắc đến "dữ liệu quan trọng" nên chắc ông cũng đã tìm hiểu để thấy rằng Mỹ chỉ yêu cầu lưu trữ dữ liệu tài chính và thuế, còn Canada chỉ yêu cầu lưu trữ dữ liệu của những tổ chức hành chính công như trường học công, bệnh viện công hay cơ quan nhà nước (nguồn). Giả sử như người Mỹ hay người Canda sử dụng Zalo, chính phủ Mỹ và chính phủ Canada không yêu cầu Zalo phải lưu dữ liệu ở Mỹ hay Canada. Do đó tôi thấy thật khó hiểu khi ông Quang đem hai quốc gia này ra làm ví dụ.

Đến khi ông Quang nhắc đến General Data Protection Regulation (GDPR) của Châu Âu tôi chuyển từ khó hiểu sang khó ở. GDPR không giống gì với Luật An ninh mạng Việt Nam, đặt hai bộ Luật này vào cùng một câu giống như ăn hủ tíu mà cho mắm tôm.

Thứ nhất, luật An ninh mạng Việt Nam yêu cầu các công ty phải lưu dữ liệu ở Việt Nam, nhưng GDPR không bắt buộc phải lưu dữ liệu ở Châu Âu, miễn sao dữ liệu được lưu ở một quốc gia đạt tiêu chuẩn an toàn dữ liệu.

Hiện tại có 13 quốc gia nằm trong danh sách này, trong đó có Mỹ, nếu bên nhận dữ liệu đảm bảo được tiêu chuẩn Privacy Shield. Các công ty công nghệ lớn của Mỹ như Amazon, Facebook, Google, Microsoft, v.v. đều đạt chuẩn Privacy Shield. Tóm lại, Châu Âu không yêu cầu các công ty này phải lưu dữ liệu ở Châu Âu, mà họ có thể lưu ở Mỹ hoặc ở các nước khác đạt chuẩn. Ở Việt Nam đến cái bồn cầu còn theo tiêu chuẩn Châu Âu, vậy mà Luật An ninh mạng lại không theo.

Thứ hai, GDPR không có bất kỳ điều luật nào yêu cầu các công ty phải cung cấp dữ liệu của người dân Châu Âu cho Nghị viện Châu Âu hay chính phủ các nước thành viên, vì bảo vệ riêng tư của người dân, trước tiên, là không chuyển dữ liệu cho chính phủ, nếu không có lệnh của tòa án.

Trách nhiệm của chính phủ là giúp người dân bảo vệ dữ liệu, nhưng dữ liệu vẫn thuộc sở hữu của người dân, chứ chính phủ không có quyền tự ý quốc hữu hóa dữ liệu của dân chúng. Trong khi GDPR yêu cầu các công ty phải có trách nhiệm bảo vệ dữ liệu của người dân Châu Âu và cung cấp công cụ để người dân kiểm soát dữ liệu của chính họ, Luật An ninh mạng Việt Nam yêu cầu các công ty phải cung cấp dữ liệu cho Bộ Công an, mà không có sự kiểm soát của tòa án hay bất kỳ thể chế độc lập nào.

Thứ ba, Luật An ninh mạng và dự thảo 31/10/2018 tước đi quyền ẩn danh trên Internet, tức là cản trở người dân tự bảo vệ và thực thi quyền riêng tư, vì ẩn danh chính là cách bảo vệ riêng tư tốt nhất. Các công nghệ riêng tư phổ biến như Tor hay VPN chẳng làm gì khác ngoài việc che dấu danh tính của người dùng.

Thay vì giúp người dân che dấu danh tính khi sử dụng Internet, Bộ Công an lại bắt buộc người dân phải tiết lộ danh tính, yêu cầu những công ty Internet phải thu thập, xác minh và cung cấp cho Bộ Công an họ tên, ngày tháng năm sinh cho đến số chứng minh thư, số thẻ tín dụng, tình trạng sức khỏe, v.v.

Thử tưởng tượng mỗi khi đi ăn hủ tíu bà bán hủ tíu yêu cầu bạn phải cung cấp đầy đủ họ tên, địa chỉ, số chứng minh thư, sau đó bả chuyển qua cho Bộ Công an khi họ yêu cầu. Rõ ràng chuyện này không thể xảy ra ở ngoài đời. Vậy cơ sở pháp lý nào cho phép Bộ Công an bắt buộc người dân phải khai báo danh tính khi tham gia Internet ?

Về mặt kỹ thuật, mạng Internet không hề yêu cầu chúng ta phải dùng danh tính thật. Bản chất của Internet là ẩn danh. Ai cũng có thể vào blog này hoặc email cho tôi mà không cần phải báo cho tôi biết họ là ai. Tiết lộ danh tính hay không là một lựa chọn của người dân, chính phủ không có quyền ép buộc.

Tôi đoán chính phủ muốn biết danh tính của người dùng Internet để dễ bắt tội phạm. Nhưng có lẽ nào vì những trang blog không do dân chúng tạo ra như Chân Dung Quyền Lực hay Quan Làm Báo mà phải hi sinh riêng tư của tất cả dân chúng và cả hệ thống chính trị ?

Dân chúng lên tiếng phê phán chính quyền và các quan chức là phúc chứ không phải họa. Sợ là sợ dân giàu và giỏi bỏ đi hết, chứ sợ gì chuyện người ta bức xúc. Phàm đã là quan chức chính phủ, tức đã là người của công chúng, hãy để cho công luận quyết định công và tội. Cây ngay không sợ chết đứng, nếu có ai đó nói sai về mình, thay vì dùng quyền lực để bịt miệng người ta, hãy để công chúng lên tiếng bảo vệ. Người dân luôn biết rõ ai làm được việc cho họ, đừng sợ làm tốt mà người ta không biết đến.

Cuối cùng, còn gì mỉa mai và cay đắng bằng khi bộ luật tước đi quyền ẩn danh của dân chúng lại được Quốc hội bỏ phiếu ẩn danh. Ngoại trừ lác đác vài ba vị đại biểu đã lên tiếng, cho đến nay dân chúng hoàn toàn không biết ai đã bỏ phiếu thuận, ai đã bỏ phiếu chống Luật An ninh mạng.

Đất nước mình lạ quá phải không em ? Những người quyền cao chức trọng cần phải tuyệt đối rõ ràng minh bạch lại được quyền ẩn danh hèn nhát, còn người dân thấp cổ bé họng lại sắp bị tước đi cả cái quyền lẩn mình vào đám đông để tự vệ trước cường quyền.

Truong Huy San, 07/11/2018
Published in Diễn đàn

Gần 4 năm sau Đại hội 12, có thể cho rằng đây là lần thứ hai Huy Đức tung ra một bài viết có trọng lượng với quan điểm vận động sự ủng hộ cho ‘người đang thực sự nắm quyền lực tối cao ở Việt Nam’.

huyduc1

Blogger Huy Đức

Ngày 30/9 năm 2018 và trùng với một tin tức ngoài lề cho biết Bộ Chính trị rốt cuộc đã họp bàn về các phương án nhân sự cho cái ghế chủ tịch nước, Huy Đức đã đưa lên facebook của blogger này bài ‘Nhất thể hóa’, với lời mào đầu :

"Nhất thể hóa tạo tính chính danh cho người đang thực sự nắm quyền lực tối cao ở Việt Nam. Từ thay đổi tưởng chỉ "cấu thành hình thức" này, trong quá trình vận hành, chắc chắn sẽ làm xuất hiện nhiều tình huống, gợi ý cho Việt Nam cải cách. Cho dù vẫn một đảng, về mặt lý thuyết, Việt Nam sẽ tiến gần hơn tới một nền cộng hòa bán tổng thống". 

Đáng chú ý, bài PR ‘nhất thể hóa’ hiện ra cùng lúc với một tin tức ngoài lề cho biết kết quả ‘tôi không bất ngờ’ dành cho Nguyễn Phú Trọng, còn vai trò ‘quyền chủ tịch nước’ của ủy viên trung ương Đặng Thị Ngọc Thịnh có lẽ chỉ có được tuổi thọ vỏn vẹn một tháng.

Buổi sáng 28/9, trong một cuộc họp báo của Ban Tuyên giáo Trung ương để thông tin về ‘Hội nghị Trung ương 8, khóa XII diễn ra vào tuần tới’, cái cách thông báo của quan chức Lê Quang Vĩnh - Phó chánh Văn phòng Trung ương Đảng - về "Với sự phân công này, các quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước được thực hiện bình thường, đầy đủ" (phân công bà Đặng Thị Ngọc Thịnh là quyền Chủ tịch nước) chắc chắn là ẩn số đáng mổ xẻ nhất trong phương trình mang tên ‘Ai sẽ làm chủ tịch nước’.

Trong khi đó, lại có thông tin cho biết kịch bản ‘hợp nhất chủ tịch nước và tổng bí thư’ đang chiếm ưu thế. Thậm chí thông tin này còn dự đoán chính ông Nguyễn Phú Trọng, chứ chẳng phải ai khác, sẽ ngồi vào ghế chủ tịch nước.

Tại Hội nghị trung ương 8, nếu xuất hiện hiện tượng một số cựu thần, quan chức và ‘quần chúng nhân dân’ đồng loạt xướng lên quan điểm cần ‘nhất thể hóa’ hai chức danh chủ tịch nước và tổng bí thư với lý do chủ yếu ‘có lợi cho dân tộc và nhân dân’, có thể cho rằng Quyền chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh chỉ là phương án ‘nghi binh’ trong một kịch bản tổ chức một chiến dịch PR cho ông Nguyễn Phú Trọng chính thức trở thành bản sao của Tập Cận Bình - nhân vật chủ tịch nước kiêm tổng bí thư của đảng Cộng sản Trung Quốc.

Đã thành một thói quen, không ít người quan tâm đến biến động chính trị trong nội bộ đảng và chiến dịch được tuyên truyền là "chống tham nhũng" của Tổng bí thư Trọng ngày càng dựa vào những tin tức, dù được thể hiện rõ ràng hay mơ hồ lấp lửng, của Huy Đức để nhận định và dự đoán về tương quan chính trị cùng những biến động, biến cố có thể xảy ra trong tương lai gần. Đặc biệt là về "ai sắp bị bắt" hay "ai sắp chết"…

Với lợi thế có được nhiều tin tức nội bộ và thâm cung bí sử, Huy Đức đã trở thành một cây bút tín hiệu ghê gớm. Vào giữa năm 2017, chỉ một dòng status lấp lửng của cây bút quá thâm này về số phận đại gia Trần Bắc Hà đã khiến thị trường chứng khoán Việt Nam suýt rơi vào hoảng loạn và lao dốc khiến mất đi 2 tỷ USD vốn hóa.

Gần 4 năm sau Đại hội 12, có thể cho rằng đây là lần thứ hai Huy Đức tung ra một bài viết có trọng lượng với quan điểm vận động sự ủng hộ cho ‘người đang thực sự nắm quyền lực tối cao ở Việt Nam’, dù trong bài viết này không hề nhắc đến cái tên Tổng bí thư Trọng - người đã chiếm thế thượng phong sau khi tái cử tổng bí thư tại đại hội 12, được tụng ca thành ‘Người đốt lò vĩ đại’ và ‘Bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo’ sau vụ chỉ đạo bắt Ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng vào cuối năm 2017, và trong thực tế đã mất sạch đối thủ chia sẻ trách nhiệm ‘thống lĩnh các lực lượng vũ trang’ sau cái chết của Trần Đại Quang.

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 01/10/2018

********************

Nhất thể hóa

Huy Đức, 30/09/2018

Tôi không bình luận nhân sự cụ thể. Nhưng nếu quyết định để Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước lần này trở thành tiền lệ thì cũng rất có ý nghĩa. Ít nhất "biên chế" sẽ chỉ còn là Bộ Tam thay vì Bộ Tứ.

Newly re-elected Vietnam Communist Party Secretary General Nguyen Phu Trong (C) claps with Politburo members Tran Dai Quang (2nd L), Nguyen Xuan Phuc (2nd R), Nguyen Thi Kim Ngan (R) and Dinh The Huynh (L) as they pose with the VCP's new 200-member centra

Bộ Tứ trước kia. Ảnh minh họa

Nhất thể hóa tạo tính chính danh cho người đang thực sự nắm quyền lực tối cao ở Việt Nam. Từ thay đổi tưởng chỉ "cấu thành hình thức" này, trong quá trình vận hành, chắc chắn sẽ làm xuất hiện nhiều tình huống, gợi ý cho Việt Nam cải cách. Cho dù vẫn một đảng, về mặt lý thuyết, Việt Nam sẽ tiến gần hơn tới một nền cộng hòa bán tổng thống.

Chủ tịch – nên là chức danh duy nhất được coi là nguyên thủ – thống lĩnh lực lượng vũ trang và đại diện Nhà nước trong các hoạt động đối ngoại. Đây là cái ghế mà chỉ ai thực sự là một chính trị gia hàng đầu mới nên ngồi vào.

huyduc3

Nguyễn Phú Trọng và Trần Quốc Vượng đang chuẩn bị cái gì đây ? Ảnh : VOV

Trong khi đó, Thủ tướng chỉ nên là một nhà kỹ trị. Vai trò của Thủ tướng là thiết lập được một nền hành chính công chuyên nghiệp và đưa ra được các công cụ hành pháp kịp thời để phát triển kinh tế – xã hội. Không nên làm Thủ tướng mất thời gian vào các cuộc họp bàn chuyện bắt bớ hay các buổi tiếp tân hình thức.

Tuy nhiên, nếu các chính sách của ông và nội các kinh tế có dấu hiệu phục vụ cho lợi ích nhóm thì ông và các thành viên mà ông chọn có thể phải đối diện với các cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm hay thậm chí bị bắt bớ. Vì, cơ quan điều tra có một vị trí độc lập hơn với "nội các".

Tháng 9/1997, khi chuẩn bị rời nhiệm sở, ông Võ Văn Kiệt nói về người kế nhiệm, "Thủ tướng Phan Văn Khải là một nhà kinh tế hàng đầu của đất nước". Trong khi ông Phan Văn Khải thừa nhận, "Về bản lĩnh chính trị tôi không thể nào so sách với đồng chí Võ Văn Kiệt".

Cho dù bị trì hãm trong cái kiềng "Tam Nhân", ông Kiệt đã hành động như một nguyên thủ và ông Khải thực sự là người đứng đầu "nội các kinh tế". Ông Khải là một nhà kỹ trị. Chính phủ của ông rất khác với Chính phủ Võ Văn Kiệt và càng rất khác với Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Và, cho dù dưới thời một Tổng bí thư như Tướng Lê Khả Phiêu hay như Nông Đức Mạnh, ông Khải vẫn điều hành "nội các kinh tế" (phần mà ông có thực quyền) một cách mực thước và để lại các di sản rất là quan trọng.

Đừng sợ tập trung quyền lực vào một người. Nếu tôn trọng các nhánh quyền lực nhà nước theo thẩm quyền được ghi trong Hiến pháp thì không ai có thể lạm quyền dù họ là nguyên thủ. Nước cũng chỉ nên có một "vua". Ai cũng muốn đứng đầu. Ai cũng làm chính trị mà thiếu một người kỹ trị thì chính trường rất dễ thành đất "quần ngư tranh thực" ; thị trường chỉ là chợ đen ; hành chính rối ren và xã hội không thể nào ổn định.

Con đường để một quốc gia đi đến thịnh vượng còn rất dài. Nhưng với những gì vừa diễn ra chiều nay, nếu không phải để tập trung quyền lực mà nhằm mở ra một hướng đi thì thời gian không lúc nào là quá trễ để bàn một lộ trình đáng hy vọng hơn cho đất nước.

Huy Đức

Nguồn : FB Huy Đức, 30/09/2018

Published in Diễn đàn
mercredi, 08 août 2018 23:55

Quyền lực và Bộ công an

Nói "Cách Mạng" thì hơi đao to búa lớn vì lần cải tổ này vẫn mang nhiều tính cơ học hơn là dựa trên những nền tảng khoa học về quyền lực.

bca1

Quyền lực và Bộ Công an - Ảnh minh họa

Tuy nhiên, sáng nay, khi ngồi với các sĩ quan công an cao cấp nghỉ hưu, nghe nói về "ý nghĩa kinh tế" của những "thư mời, giấy triệu tập…" mới thấy việc bỏ bớt 6 tổng cục, 60 cục và 300 phòng, giảm được cho doanh nghiệp và các cơ quan đơn vị những cái gánh nặng thế nào.

Một sĩ quan D3 (Học viện An ninh) kể : Khi làm cuốn sách tưởng niệm cố bộ trưởng Bùi Thiện Ngộ, Thủ tướng Phan Văn Khải viết bài, nhắc chuyện Nhà nước từng đề nghị phong đại tướng cho ông Ba Ngộ nhưng ông từ chối vì cho rằng, "chỉ những người cầm quân trong chiến tranh mới xứng danh đại tướng". Ông Ba Ngộ và người kế nhiệm ông, ông Lê Minh Hương, chỉ nhận quân hàm thượng tướng.

Nhưng, những người chủ biên cuốn sách đã phải cắt câu nói này của Thủ tướng vì Bộ trưởng lúc đó của họ "chỉ nhận quân hàm đại tướng mà thôi" [Trong lịch sử Bộ Công an có hai đại tướng là dân "tay ngang", Mai Chí Thọ và Lê Hồng Anh].

"Ghế" trong ngành công an chủ yếu được "đóng" trong hai nhiệm kỳ vừa qua. Mầm mống của những vụ "đánh bạc nghìn tỷ" hay "Vũ Nhôm" đều được nuôi dưỡng từ hai nhiệm kỳ tướng tá "đông như quân Nguyên" đó.

Mạng xã hội vẫn nhầm lẫn là Vũ Nhôm điều khiển được các tướng. Vũ Nhôm là công cụ chứ không phải là kẻ chủ mưu. Tội danh chính xác nhất cho Vũ Nhôm phải là "người tiêu thụ tài sản do người khác ăn cắp của công (nhà, đất) mà có".

Đây không phải nhiệm kỳ đầu tiên có tướng tá công an bị tống giam, nhưng đây là nhiệm kỳ đầu tiên mà các tướng không phải bị tống giam vì xung đột nội bộ ngành. Khối u đã có từ trước và nay mới bị "phẫu thuật".

Sở dĩ các tướng có thể phạm tội trắng trợn như vậy là vì đã có thời, quyền lực của Bộ Công an là một thành trì. Chính trị gia thường ở trong tay các tướng chứ không phải các tướng đứng dưới các chính trị gia.

Dẹp bỏ các đầu mối, xử lý tội phạm trong ngành là cần thiết. Nhưng, cả bộ máy công an và chức năng của nó còn phải được tiếp tục kiện toàn. Một khi, vẫn có ngành nào đó, hay nhà lãnh đạo nào đó, nắm giữ quyền lực tuyệt đối, khi đó sự tha hoá của hệ thống vẫn có nguy cơ tuyệt đối.

Huy Đức

Nguồn : fb.osinhuyduc, 08/08/2018

Published in Diễn đàn

Trong lịch sử hơn 20 năm có internet (1997-2018) chưa bao giờ lợi ích quốc gia, dân tộc và tự do của người dân bị đe dọa lớn như những gì đang được chuẩn bị trong dự luật An ninh mạng.

kethu1

Ngoài Prineville ở bang Oregon, Facebook hiện có bốn trung tâm dữ liệu khổng lồ ở Hoa Kỳ, hai ở Châu Âu và hai ở Châu Á

Điều đáng lo ngại là, Chính phủ và các đại biểu quốc hội chưa nhận thấy nguy cơ tự cô lập mình với phần còn lại của thế giới ; nguy cơ đi ngược lại những nỗ lực của Chính phủ và chống lại sự tiến bộ của người dân, nếu thông qua dự luật.

Khi thương thảo lại để ký CPTPP thay thế TPP, Việt Nam đã đồng ý từ cấp tối cao, không buộc các công ty cung cấp dịch vụ internet đặt máy chủ, lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam. Dự luật này lách bằng cách đòi "lưu trữ tại Việt Nam các dữ liệu cá nhân của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam" (Google, Facebook… vẫn đang có máy chủ đặt tại Việt Nam nhưng đó là lựa chọn của họ thay vì bắt buộc).

Có cách nào để không đặt máy chủ mà lưu trữ được dữ liệu tại Việt Nam ? Đòi hỏi này nếu Quốc hội bị qua mặt và thông qua sẽ trở thành vấn đề danh dự của một quốc gia trước những điều mình cam kết chứ không còn là những 'mẹo vặt' ở tầm 'trinh thám An Nam' nữa.

'Địa phương hóa dữ liệu' ?

Điều đáng nói là, khi buộc các nhà cung cấp dịch vụ internet như Facebook, Google… mở văn phòng đại diện hay để dữ liệu tại Việt Nam (địa phương hóa dữ liệu) theo cách mà dự thảo này thiết kế có rất ít ý nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia từ không gian mạng. Các quy phạm dường như chỉ nhắm tới mục đích cao nhất là gỡ những bài viết trên Blog hay trên Facebook. Các hậu quả mà quốc gia phải gánh chịu do những đòi hỏi này gây ra không hề được cân nhắc.

Theo tính toán của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Chính trị Châu Âu (ECIPE), 'địa phương hóa dữ liệu' - một biện pháp rất ít quốc gia áp dụng - sẽ khiến cho GDP của Việt Nam sụt giảm 1,7% ; đầu tư nước ngoài giảm 3,1% (so với việc không yêu cầu mở văn phòng hay đặt máy chủ tại Việt Nam như hiện nay).

Chính phủ và các nhà làm luật cần tránh rơi vào cái bẫy tư duy thiển cận rằng, chi phí thực thi chỉ do Google, Facebook hay Amazon… gánh chịu. Trong tình huống phải làm vậy, gánh nặng chi phí tăng thêm sẽ bị phân bổ đến toàn bộ các doanh nghiệp Việt Nam chứ không phải các doanh nghiệp trên gánh một mình. Các lập luận cho rằng, các doanh nghiệp nêu trên "kinh doanh nhưng không đóng thuế, không làm tăng GDP cho đất nước trong nhiều năm qua" - như tài liệu gửi cho các đại biểu là những lập luận thiển cận.

Càng nhiều người dân có thể tham gia mạng xã hội, trao đổi thông tin đầu tư, kinh doanh, tiếp cận với thương mại điện tử của các doanh nghiệp công nghệ, sẽ tạo ra ảnh hưởng lan toả, tác động tích cực đến kinh tế, đặc biệt là xuất nhập khẩu.

Theo một báo cáo mà cơ quan An ninh soạn thảo cung cấp cho các đại biểu quốc hội thì chính sách an ninh mạng của Trung Quốc, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ… đặc biệt là Trung Quốc, được tham khảo nhiều nhất trong dự luật này. Tuy nhiên, ngay cả những quốc gia thù địch nhất với internet đó cũng không trao cho cơ quan công an quá nhiều quyền như Dự luật mà Quốc hội Việt Nam đang thảo luận.

Dự luật định trao cho "lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Thông tin và truyền thông" có quyền yêu cầu chặn 'share', xóa các thông tin mà 'lực lượng' này cho rằng là "tuyên tuyền chống nhà nước" và "yêu cầu các nhà mạng ngưng cung cấp dịch vụ viễn thông, internet cho người có các bài viết đó".

Chỉ có tòa án mới có quyền tuyên bố hành vi nào là "tuyên truyền chống nhà nước". Nếu Việt Nam có tính tới yêu cầu buộc gỡ các "fake news" (tin giả) trên mạng xã hội thì cũng chỉ nên tiến hành sau khi có phán quyết của Tòa. Nếu để cho các quan chức của Bộ Công an và Bộ Thông tin đưa ra các phán quyết đó thì trong thời gian vừa qua, những sai phạm ở Bộ Thông tin (trong vụ MobiFone-AVG), ở Bộ Công an (trong vụ Vũ Nhôm, vụ các tướng chủ mưu đánh bạc…) liệu nhân dân có cơ hội mà bàn đến.

Quyền tự do cá nhân bị đe dọa ?

Đặc biệt, dự luật không những không bảo đảm an ninh mà còn đe dọa quyền tự do cá nhân của người dân khi yêu cầu các công ty dịch vụ internet "cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản".

Người dân không chỉ có nhu cầu được bảo vệ khỏi các mối đe dọa từ các thế lực thù địch mà còn cần được bảo vệ khỏi các mối đe dọa từ sự lạm quyền của những người thi hành công vụ. Quyền tự do cá nhân, quyền riêng tư chỉ có thể bị can thiệp khi có trát của toà. Không có một đất nước có luật pháp nào, cảnh sát lại được trao cho quyền đó.

Nên nhớ là có không ít thông tin cá nhân, người dân đã tự nguyện cung cấp khi mua vé máy bay, đặt khách sạn… chứ không chỉ khi mở tài khoản trên mạng xã hội. Những thông tin này đều được lưu giữ ở nước cung cấp dịch vụ. Vấn đề là, chưa chắc người dân - ở những quốc gia như Việt Nam - lại bị đe dọa hơn khi những thông tin của mình được lưu giữ bằng các 'cơ quan chức năng' trong nước.

Hình ảnh ông chủ Facebook, Mark Zuckenburg, phải ra điều trần trước Quốc hội Mỹ đang được sử dụng sai lệch (trong một văn bản gửi đại biểu). Mark bị nghi để lộ 87 triệu tài khoản Facebook cho Cambridge Analytica sử dụng vào các mục tiêu chính trị và thương mại [cũng như cách mà Vinaphone, Viettel… cung cấp số điện thoại cho các đại lý bán đất nền, căn hộ và bảo hiểm…] chứ không phải như cách mà các nhà dự thảo luật đang âm mưu. Nếu Mark cũng học theo FPT cung cấp dữ liệu người dùng (một số bloggers) cho cơ quan an ninh thì không cần tới Quốc hội, Mark đã nhận ngay sự tẩy chay của người tiêu dùng khắp nơi trên thế giới.

Nếu thực sự muốn bảo vệ dữ liệu, muốn tham khảo những kinh nghiệm tốt về bảo vệ người dùng, cơ quan soạn thảo không thể bỏ qua những yêu cầu bảo vệ người dùng như phải có sự đồng thuận khi thu thập dữ liệu (consent required for data collection), chấp nhận của người dùng khi chuyển, trao dữ liệu cho bên thứ ba (consent required fort transfer to third party) hay quyền được kiểm soát dữ liệu cá nhân (right to review)…. mà các nước Châu Âu hay Singapore đang áp dụng.

Tôi sẽ nói về những quy định trao rất nhiều quyền can thiệp của công an vào các công ty kinh doanh trên nền tảng internet, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp, trong một bài viết khác.

Phản ứng của Chính phủ ?

Rất lạ là chưa thấy Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có phản ứng gì. Hình như cơ quan tham mưu của ông hoàn toàn không nhận ra dự luật đang tạo ra các khoảng trống để giấy phép con, điều kiện kinh doanh, các loại thanh kiểm tra và nhũng nhiễu xuất hiện. Biết bao nỗ lực của Chính phủ từ đầu nhiệm kỳ chỉ cải thiện được rất ít môi trường kinh doanh. Trong khi, cách làm luật thế này đang khiến cho những cố gắng vừa qua của Thủ tướng đổ xuống sông, xuống biển.

Năm 1997, khi bắt đầu có internet, Chính phủ khi đó đã rất dè chừng khi - trong Nghị định 21 - chủ trương, "quản lý được tới đâu thì phát triển tới đó". Nhưng tới năm 2000, thì chính Bộ Chính trị đã phá vỡ nguyên tắc này, bằng cách đưa vào Chỉ thị 58, "nhu cầu phát triển internet tới đâu thì năng lực quản lý của các ngành phải theo kịp sự phát triển tới đó".

Bộ Chính trị hiện thời cũng không đòi các công ty dịch vụ internet phải đặt máy chủ trong nước, cơ quan soạn thảo đưa ra dự luật thế này là đã trái với ý chí của cơ quan lãnh đạo tối cao, Quốc hội cũng không nên 'bảo hoàng' hơn Bộ Chính trị.

Phải thừa nhận rằng, không phải là không có những tội phạm sử dụng internet để thực hiện các hành vi phạm tội. Nhưng, không ai đe dọa sự tồn vong của chế độ bằng chính những tên tham nhũng đang nắm quyền trong chế độ. Chưa chắc những 'Quan Làm Báo', 'Chân Dung Quyền Lực'… là do 'các thế lực thù địch' với chế độ vận hành.

Không chỉ mang lại biết bao tiện ích về kinh tế, internet đã giúp cho người dân thực hiện được những quyền tự do mà báo chí nhà nước không thể cung cấp. Tuy điều đó có làm cho bọn tham nhũng khó chịu nhưng đồng thời cũng mang lại cho chính quyền một gương mặt sáng sủa hơn.

Dự luật này không hề mang lại lợi ích gì cho nước cho dân, cả chính trị và kinh tế, mà chỉ giúp cho bọn tham nhũng đang bị truy đuổi hơn hai năm qua có khả năng 'lật cờ', trỗi dậy. Cho dù đã có nhiều cải cách, Việt Nam vẫn đang được thế giới xếp vào hàng các quốc gia có rất ít tự do. Đừng đi tiếp xuống đáy bằng việc thông qua dự luật này. Đừng để Việt Nam trở thành kẻ thù của những giá trị mà loài người đang coi là tiến bộ.

Huy Đức

Nguồn : BBC, 25/05/2018

Tác giả là một cây bút tự do ở Việt Nam.

Published in Diễn đàn

Đừng trách báo chí hai hôm nay không nói một lời về Thủ Thiêm. Họ đã đưa được những tiếng nói oan khiên lên mặt báo và giờ đây là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta đã có dữ liệu để "share" và lên tiếng.

nhieuloc0

Bà Trần Thị Mỹ, cử tri Quận 2 – Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh : Báo PLTP

"Tôi phải nói ! Anh biết không, tôi phải nói bởi tôi già sắp chết rồi" – nhiều bạn bị ám ảnh bởi câu nói này của cụ bà Trần Thị Mỹ, 77 tuổi.

Tất nhiên là tôi vẫn mong có những tổng biên tập trừng mắt với Tuyên giáo như cụ bà Trần Thị Mỹ đã làm và nói với họ rằng, "Chúng tôi phải nói ! Các anh biết không, vì chúng tôi im lặng mà hàng vạn người dân Thủ Thiêm đã phải tha phương trong khi rất có thể bọn tham nhũng đã chia chác nhau hàng ngàn tỷ. Các anh cứ nhìn tài sản nhà ông Hai Nhật, Tất Thành Cang… và cả một ông tưởng là thanh liêm như ông Ba Đua, mà xem."

Nhưng, đó không phải là một điều dễ dàng trong thể chế này. Thế hệ chúng tôi đã từng bảo vệ đất cho dân từ những năm cuối thập niên 1980s, đầu 1990s. Nhưng, chúng tôi cũng nhiều lần phải dở dang công việc.

Hôm nay, tôi nghe nói Thành ủy sẽ họp. Trước khi bàn về Thủ Thiêm, tôi muốn nhắc lại cho các vị một câu chuyện giải tỏa đền bù ở Dự án Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Trên con kênh nước đen này cũng có hàng vạn người dân sống đời tăm tối. Phần lớn họ tự dựng lều, sống trên mặt kênh thối um, có người đã sống ở đây từ cuối thập niên 1960s. Chẳng ai có mảnh giấy dắt cạp quần nào cả. Nhưng, không ai bị "giải tỏa trắng".

Thành phố đưa giải pháp cho các công ty kinh doanh và quản lý nhà các quận, nổi bật hồi đó là những giám đốc Quách Văn Hân, Lê Phụng Thiều… Cách bờ kênh không xa mọc lên rất nhiều chung cư từ Tân Bình tới quận Nhất. Mỗi hộ cắm lều trên con kênh nước đen, được "bồi thường" một khoản tiền đủ mua một căn hộ.

Chủ nhà mà tôi mua lại, năm 1996, được bồi thường 34 triệu, đủ mua một căn hộ gần 60m2 trong một chung cư mà "nếu hắt hơi cả Bình Thạnh, Phú Nhuận và quận Nhất (Đa Kao) cùng nghe thấy".

Khi tôi mới về đây, 2006, đi từ tầng trệt lên lầu II, tầm 10 giờ đêm, thể nào cũng gặp vài trường hợp vạ vật vì say rượu hay phê thuốc. Nhà thơ Đỗ Trung Quân mỗi lần sang chơi thường bắt gặp rất nhiều ánh mắt lườm nguýt. Các bạn ở đây rất ít đọc thơ, nhìn một cha râu ria, nặng 37kg, tưởng sang giành mối thuốc.

Thế mà tôi đã sống ở đây được 12 năm. Nhiều cư dân "gốc" đã chuyển đi. Có người bán nhà ra Hóc Môn, quận 12 ; nhiều người ở lại đã đổi đời. Những thay đổi đó là hợp lẽ. Tại sao Nhiêu Lộc bây giờ đã có "đò trăng", kênh đen đã có cá lội… mà những phúc lợi ấy lại không phải dành cho cả những cư dân từng ở đó.

Tất nhiên, cái gốc vẫn là chính sách, đặc biệt là chính sách chung về đất đai. Cũng trong thập niên 1990s, nhất là những năm đầu 1990-1993, các cư dân ở Nhà Bè đã bị thu hồi đất với giá rẻ mạt để làm Khu chế xuất Tân Thuận và khu đô thị Phú Mỹ Hưng.

Có thể những người từng đuổi dân ở Thủ Thiêm cũng nói, "Không có biện pháp mạnh làm sao có một khu đô thị đẹp như Phú Mỹ Hưng". Vấn đề là ai đang ở trong những khu nhà tiện nghi ở Phú Mỹ Hưng hay Thủ Thiêm…. Có ai biết người dân Nhà Bè bị lấy đất gần 30 năm trước bây giờ đi đâu. Phải chăng họ xứng đáng hy sinh để cho bọn vô lại giàu lên và chúng ta có thể tung tẩy dưới những vòm me ngây thơ, vô tội.

Huy Đức

Nguồn : fb.osinhuyduc, 13/05/2018

Published in Diễn đàn

Một trong những thiếu sót lớn trong lĩnh vực Việt Nam Học của khoảng một thế hệ qua là không có một ghi chép đầy đủ hoặc thực sự uy tín về hiện tượng lịch sử Đổi Mới (Renovation, trong tiếng Anh).

doimoi0

Nhà nghiên cứu Peter Zinoman

Dù đây là định hướng chính sách tháo khoán nhờ đảng-nhà nước khởi xướng ở Đại hội Đảng 6 hay tinh thần cải tổ chung trong cả nước cuối thập niên 1980, thì Đổi mới rõ ràng lực đẩy quan trọng trong đời sống trí thức, văn hóa, chính trị, kinh tế Việt Nam trong hơn 30 năm qua.

Tuy nhiên, các học giả nước ngoài quan tâm chủ đề này có xu hướng chỉ tập trung hạn hẹp vào một số góc cạnh Đổi Mới mà lại không xem xét toàn bộ hiện tượng.

Khi các sinh viên hỏi tôi tư liệu về Đổi Mới, tôi thường giới thiệu tác phẩm của Adam Fforde về kinh tế, Carlyle Thayer chính trị, Tường Vũ ý thức hệ, Ben Kerkvliet nông nghiệp, Hy Văn Lương văn hóa làng xã, Pam McElwee chính trị môi trường, Nguyễn Võ Thu Hương quan hệ giới, John Schafer văn học…

Nhưng thật khó tìm ra một bài báo, sách, hay một học giả nào cung cấp tổng quan về Đổi Mới - bao gồm lịch sử về nguồn gốc của nó, diễn trình thay đổi theo thời gian, và ảnh hưởng khác nhau lên các lĩnh vực đời sống người Việt.

doimoi1

Giáo sư Peter Zinoman phát biểu của trong buổi thảo luận về sách Bên Thắng Cuộc hôm 24/3, tại Hội thảo hàng năm của Hội nghiên cứu Châu Á (Association for Asian Studies) ở Washington DC, Mỹ. Đây là hội thảo học thuật lớn nhất về Châu Á ở Bắc Mỹ, với hơn 400 nhóm thảo luận các chủ đề, hơn 3.000 người dự.

Cái nhìn toàn cảnh

Một trong những thành tựu của sách Bên Thắng Cuộc (tác giả Huy Đức) là đem lại ghi chép tốt nhất, ở bất kỳ ngôn ngữ nào, về lịch sử và tầm quan trọng của Đổi Mới. Cuốn sách xem xét kỹ lưỡng cuộc khủng hoảng trong nước đã thúc đẩy đòi hỏi xã hội muốn có những cải tổ sâu rộng trong thập niên sau kết thúc Chiến tranh Đông dương lần hai.

Sách kể lại quá trình tiến hành cải tổ theo kiểu "tiến một bước, lùi hai bước". Sách cũng mô tả các lý do cắt bỏ đột ngột nghị trình cải cách, đặc biệt về văn hóa và chính trị.

Tóm lại, Bên Thắng Cuộc cho chúng ta cái nhìn toàn cảnh về Đổi mới - giúp khám phá và giải thích những thành công và thất bại của nó.

doimoi2

Tác giả Huy Đức phát biểu tại buổi thảo luận về sách của ông hôm 24/3

Bên Thắng Cuộc xác định nguồn gốc Đổi mới là trong khủng hoảng tự tạo ra khiến Việt Nam khó khăn trong giai đoạn hậu chiến 1975-1986. Khủng hoảng này gồm bảy thành tố chủ chốt, được Huy Đức viết trong bảy chương:

1. Giam cầm không qua xử án hàng trăm ngàn người miền Nam trong các trại cải tạo khắc nghiệt sau chiến tranh

2. Đảng-Nhà nước đàn áp thành phần tư sản miền Nam, đóng cửa, hoặc quốc hữu hóa doanh nghiệp của họ, tịch thu của cải

3. Trừng phạt dân số gốc Hoa. Ban đầu chính sách này chỉ là một phần của cuộc tấn công tư sản miền Nam, nhưng sau nó phát động lên thành một phần chiến dịch riêng loại bỏ "gián điệp" ở Việt Nam trong cuộc chiến biên giới chống Trung Quốc

4. Quân đội Việt Nam tiến vào và chiếm đóng Campuchia từ 1978

5. Hàng trăm ngàn người chạy trốn qua đường biển, trên bộ vào cuối 1970, đầu 1980, hy vọng thoát khỏi sự cai trị của người cộng sản và định cư ở nước ngoài

6. Nỗ lực chính thức của chính phủ nhằm chuyển hóa miền Nam thông qua xóa bỏ văn hóa "suy đồi". Các biện pháp gồm đốt sách, cấm "tác giả phản động", kiểm soát việc mặc gì, thời trang, kiểu tóc, kiểm duyệt khắt khe về nghệ thuật, ưu tiên cho con em người lao động và cách mạng, phân biệt các gia đình từng làm cho chính thể cũ

7. Miền Bắc chiến thắng áp đặt hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa kém cỏi lên miền Nam bị đánh bại.

Thẳng thắn

Một trong những điều phi thường về Bên Thắng Cuộc là sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên trong các phần này của sách, nhất là khi ta biết sách là của một nhà báo sống trong nước. Huy Đức mô tả các viên chức cộng sản nói dối thản nhiên và liên tục về thời hạn cải tạo. Ông mô tả các thành viên gia đình được khuyến khích khai báo về người thân. Ông liệt kê điều kiện khổ sở trong các trại, và sự đối xử tệ bạc với gia đình người bị giữ. Ông mô tả làn sóng chống tư sản, chống người Hoa là chiến dịch tham lam của ăn cướp, bóp nặn, cưỡng ép ra đi.

Phần viết về cuộc xâm phạm Campuchia nhấn mạnh sự trớ trêu trong quan hệ lịch sử gần gũi giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Pol Pot. Mô tả về làn sóng ra đi sau 1975 bộc lộ vai trò của giới an ninh địa phương thoái hóa khi họ tạo điều kiện và kiếm lời từ đợt chạy trốn. Ông cũng không ngần ngại mô tả việc "Bắc hóa" tai hại trong kinh tế miền Nam, là một chiến dịch xuất phát từ kiêu ngạo, ngu dốt và bám vào ý thức hệ.

Huy Đức trách Lê Duẩn về việc "Bắc hóa" nhưng ông cũng ngụ ý về vai trò Hồ Chí Minh khi đặt cạnh nhau phần nói về chính sách (chương 8) với đoạn về "Con đường của Bác".

Trong "Con đường của Bác", Huy Đức mô tả Hồ Chí Minh ủng hộ tập thể hóa kinh tế miền Bắc giai đoạn 1950 - trong đó có cuộc Cải cách Ruộng đất 1953-56 tai tiếng, tấn công tư sản miền Bắc là tiền đề cho tấn công tư sản miền Nam sau 1975.

Ở đây, Huy Đức vượt khỏi cách giải thích ngày càng phổ biến về chính trị cộng sản Việt Nam giai đoạn 1950, 60 xem Lê Duẩn quá khích khác Hồ Chí Minh trung dung (một cách nghĩ được phim tài liệu mới đây của Ken Burns áp dụng).

Huy Đức không phải là cây bút đầu tiên trong nước nhắc đến những phần tiêu cực này trong lịch sử hậu chiến Việt Nam. Nhưng đáng kinh ngạc là cách ông từ bỏ bút pháp quen thuộc của giới cầm bút trong nước (dùng uyển ngữ, nói tránh nói giảm).

Điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây là ghi chép của Huy Đức về khủng hoảng hậu chiến thật quan trọng không chỉ vì sự bộc trực, không úp mở mà còn vì cách nó giúp giải thích sự xuất hiện của chính sách Đổi mới giữa thập niên 1980.

Giống như phần mô tả về khủng hoảng dẫn tới Đổi mới, phần viết về quá trình cải cách của Huy Đức cũng bao gồm nhiều yếu tố phức tạp.

1. Tường thuật các thử nghiệm về làm ăn tư nhân không được trên cho phép - thường gọi là phá rào - ở nhiều địa phương cuối 1970, tạo ra tăng trưởng và năng động trái ngược với trì trệ và thiếu hiệu quả của kinh tế xã hội chủ nghĩa

2. Mô tả các lãnh đạo đảng bắt đầu ủng hộ các thử nghiệm tại Đại hội Đảng lần 6

3. Tường thuật Việt Nam rút quân khỏi Campuchia nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn giúp Việt Nam mở rộng và củng cố cải tổ kinh tế

4. Mô tả nỗ lực thành công phần nào trong cuối thập niên 1980 mở rộng tinh thần cải cách kinh tế sang lĩnh vực trí thức và văn hóa, thông qua giải phóng cho truyền thông và giảm kiểm duyệt nghệ thuật

Mô tả thất bại của cố gắng mở rộng tinh thần cải tổ sang chính trị thông qua cổ vũ các hình thức đa nguyên và dân chủ đa đảng

Khủng hoảng 1975-1986 cung cấp bối cảnh rộng lớn cho Đổi mới được mô tả trong sách, ngoài ra, Huy Đức cũng chỉ rõ những yếu tố khác tác động việc áp dụng nghị trình cải cách. Một trong đó là môi trường toàn cầu mới có lợi bất ngờ cho cải cách ở Việt Nam. Môi trường này bao gồm giới lãnh đạo đổi mới ở Trung Quốc và Liên Xô, Bức tường Berlin sụp đổ, các đồng minh xã hội chủ nghĩa ngừng viện trợ, các tổ chức đa phương và phi chính phủ sẵn sàng giúp đỡ, và môi trường ngoại giao thay đổi trong ASEAN, EU và Mỹ.

Truyền thống đổi mới

Một yếu tố nữa là lịch sử lâu dài từ trước của cải cách kinh tế, hoạt động kinh doanh trong dân, đã đem lại truyền thống để từ đó Đổi mới phát triển.

Huy Đức mô tả các thử nghiệm quan trọng của Kim Ngọc với chủ trương "khoán hộ" ở Vĩnh Phú thập niên 1960, việc phá rào ở Long An của Bùi Văn Giao, Bí thư Tỉnh ủy Long An Nguyễn Văn Chính những năm 1970. Ở chương 16, ông kể thêm về sự nghiệp các doanh nhân thành đạt như Bạch Thái Bưởi giai đoạn thực dân, sự bền gan của thương nhân tơ lụa Trịnh Văn Bô trong Chiến tranh Đông dương lần một và những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Những ví dụ này báo trước sự lớn dậy tự phát của doanh nghiệp nhỏ thành công ở miền Nam trước thời Đổi mới, như vá ép áo mưa rách, bơm mực ruột bút bi, tái chế dép nhựa cũ, nấu xà bông. Số liệu ở đây cân đối thú vị với phần về bối cảnh toàn cầu để chứng tỏ năng lượng đổi mới cũng được dựng xây từ nền tảng trong nước trước đó. Nó cũng gợi ý rằng phát triển kinh tế thị trường giai đoạn 1980 có cả việc học lại tư duy đã lãng quên chứ không phải là phát triển những thói quen này từ điểm số không.

Theo Huy Đức, một yếu tố nữa định hình và khuyến khích cải tổ là việc giới trí thức Việt Nam tiếp xúc với các phiên bản quá khích của xã hội cộng sản Châu Á từ giữa tới cuối 1970.

Ví dụ, ông cho rằng sau khi Nguyên Ngọc quan sát Campuchia thời hậu Khmer Đỏ bị tàn phá, ông đã đặt câu hỏi căn bản về tính chất của các hệ thống cộng sản: "Tại sao chỉ có các quốc gia cộng sản mới có cách mạng văn hóa và những cánh đồng chết?"

Hay cái nhìn tiêu cực về chủ nghĩa cộng sản của nhà báo đổi mới Kim Hạnh là do sau khi dự "Liên hoan Thanh niên, Sinh viên" tại Bình Nhưỡng trở về năm 1989, bà thấy Bắc Hàn "như một thứ trại tập trung có quy mô toàn quốc".

Huy Đức cũng viết những người miền Bắc chứng kiến sự phồn thịnh vật chất của các đô thị miền Nam sau 1975 đã đặt câu hỏi về tuyên truyền nhà nước xoay quanh đời sống miền Nam. Sự say mê của người Bắc về tủ lạnh, xe máy khiến họ quan tâm đến cách làm của kinh tế tư bản miền Nam. Sự tiếp xúc với miền Nam đã "đánh thức nhu cầu văn hóa của người dân miền Bắc".

Mới lạ

Với tôi, một phần bất ngờ khi đọc Huy Đức kể về sự trổi dậy của cải cách là vai trò của sinh viên đại học. Trong chương về Đa nguyên, ông kể lại lịch sử hoạt động sinh viên mà ít người biết trong thập niên 1980, khá giống với phong trào sinh viên chống độc đoán lúc đó ở Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc.

Cuối cùng, cách Huy Đức giải thích về sự xuất hiện của Đổi mới tỏ ra chú ý khác lạ về các vai trò phức tạp của nhóm chóp bu trong Đảng. Điều này trái ngược với hầu hết ghi chép về Đổi mới ở phương Tây. Do thiếu dữ liệu về nguồn gốc gia đình, lịch sử nghề nghiệp, tính cách, xu hướng chính trị, triết lý, kết nối xã hội của các thành viên Bộ chính trị, các nghiên cứu cũ thường đặt các lãnh đạo cộng sản vào các nhóm thô sơ mang tính chất cố định, nhị nguyên.

Họ mô tả quan hệ chính trị ở Việt Nam cộng sản là cuộc đấu tranh nhị nguyên giữa các đại biểu của phe "bắc và nam", "quốc gia, quốc tế", "thân Trung, thân Liên Xô", "ủng hộ cải cách, chống cải cách". Sự trái ngược của Bên Thắng Cuộc thật kinh ngạc.

Cuốn sách mô tả thật chi tiết về tính cách, tiểu sử nhiều lãnh đạo cộng sản như Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng, Phan Văn Khải, Nguyễn Phú Trọng.

Một chương 15 hấp dẫn chỉ nói về các cuộc đấu tranh liên quan đời tư, sự nghiệp và chính trị của Võ Nguyên Giáp.

Chương 14 thì so sánh hệ thống về sự nghiệp, gia đình, phong thái của Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt. Chương 18 lại tìm hiểu quan hệ và cạnh tranh giữa Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Dữ liệu tiểu sử tập thể này cung cấp một phần quan trọng giúp ta hiểu về tiến trình cải tổ vì tính cách và quan hệ đóng vai trò lớn trong hệ thống chính trị khép kín.

Anh hùng rõ rệt trong Bên Thắng Cuộc là nhà cải cách Võ Văn Kiệt, nhưng người ủng hộ bất ngờ Đổi mới lại là Trường Chinh. Ông thay đổi suy nghĩ từ một nhà bảo thủ Marxist-Leninist thành người ủng hộ đổi mới vững chắc là chủ đề chương 10.

Dù đã 80, nhân vật linh động này thành thật nghiên cứu các vấn đề miền Nam và rồi ủng hộ, đề xuất giải pháp đổi mới. Nghiên cứu trước đây xem cải tổ bắt đầu khi Trường Chinh qua đời và Nguyễn Văn Linh lên làm lãnh đạo đảng năm 1986, nhưng Huy Đức ghi nhận đóng góp quyết định của Trường Chinh cho cải tổ.

Mặt khác, một số học giả phương Tây từng xem Nguyễn Văn Linh là thủ lĩnh đổi mới, nhưng ông này, trong sách Huy Đức, là nhân vật dao động và rốt cuộc thành người bảo thủ, đã bỏ lỡ cơ hội thúc đổi mới tiến lên sau tiến bộ ban đầu. Xu hướng hiện nay của Việt Nam - kinh tế thị trường gắn với hệ thống độc đảng không nhân nhượng, lạc hậu - đã củng cố từ thời Nguyễn Văn Linh.

Hạn chế của Đổi Mới

Hạn chế của đổi mới được xem xét trong các chương 12, 13 đánh giá số phận phức tạp của cải cách về tự do trí thức và thúc đẩy dân chủ. Sau khi mô tả sự cởi trói báo chí ngắn ngủi của Nguyễn Văn Linh cuối 1980, chương 12 kể nhiều về sự đàn áp phong trào Nhân văn Giai phẩm thập niên 1950.

Sự bịt miệng phong trào này dường như tương tự câu chuyện Huy Đức kể về việc Nguyên Ngọc mất chức lãnh đạo tạp chí Văn Nghệ cuối thập niên 1980.

Chương 13 bắt đầu với câu chuyện tích cực về giới thiệu bầu cử dân chủ trong trường đại học, nhưng giọng văn tối dần khi Đảng đối diện sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan, và sau đó là sự biến mất đột ngột của chính thể cộng sản Đông Âu. Sau khi ghi lại phản ứng lúng túng, lạc lõng của ban lãnh đạo trước tiến trình dân chủ hóa ở Đông Âu, chương này mô tả thăng trầm của những người cổ vũ dân chủ như chính khách Trần Xuân Bách, nhà báo Bùi Tín, và tướng quân đội Trần Độ.

Trong các chương sau đó, những người cải cách rơi vào thế thủ, dính vào bê bối, mâu thuẫn nội bộ, không thể thúc đẩy nghị trình bên ngoài kinh tế. Đánh giá thấp của Huy Đức dành cho những lãnh đạo sau này như Lê Khả Phiêu và Nguyễn Tấn Dũng mang lại không khí bi quan trong các chương cuối. Sau hứa hẹn của cuối thập niên 1980, cải cách tại Việt Nam đã kẹt trong sa lầy của chính trị độc đoán trong nhà nước độc đảng.

Kiến thức từ bên trong ít người sánh bằng của Huy Đức về chính trị cấp cao cho phép ông mô tả các cuộc phiêu lưu cải tổ thời hậu chiến. Cuốn sách nổi trội nhờ chi tiết và sự sâu sắc hơn mọi ghi chép đã có.

Thật đáng tiếc các nhà xuất bản ngoại quốc lại thấy sách quá dài, quá chi tiết nên không muốn cho dịch. Nhưng tôi tin rằng một khi được ra mắt bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp, Bên Thắng Cuộc sẽ thay đổi căn bản cách những nhà quan sát Việt Nam ở Tây phương suy nghĩ về giai đoạn quan trọng này trong lịch sử hiện đại của Việt Nam.

Peter Zinoman

(Đại học California, Berkeley)

Nguồn : BBC, 28/03/2018

Published in Diễn đàn
vendredi, 12 janvier 2018 18:04

Ung thư giai đoạn cuối

Cách đây mấy năm, khi có biến – ông Bắc Hà cũng từng bị… "ung thư" – để rồi sau khi Nguyễn Tấn Dũng hoàn hồn, ông lại khỏe như võ sĩ. Một tướng, bám ghế sau hai năm quá tuổi mới chịu bàn giao, năm ngoái vẫn còn kỳ kèo xin một chức trợ lý để hòng ngồi lại ; nay, ngửi thấy mùi còng số 8, nghe nói, lại vừa phát bệnh... ; một tướng khác thì ở trong trạng thái "tâm thần".

ungthu1

Ngửi thấy mùi còng số 8, tướng Trần Bắc Hà (trái) bỗng phát bệnh...

Phát biểu của Đinh La Thăng về giải Nobel Y học thời còn Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh có khi chẳng phải là phét lác, mầm bệnh ung thư ở Việt Nam không như những gì loài người từng biết mà nó di căn bởi nhân cách tế bào.

Rất lạ là quan chức Việt Nam khi còn chức thì lại thường giấu bệnh. Từ Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, đến – đặc biệt là – Đoàn Khuê. Đại tá Vũ Bằng Đình mất chức Giám đốc Viện 108 chỉ vì báo cho Trung ương bệnh án ung thư hạch của tướng Đoàn Khuê ở thời điểm mà ông này khát khao trở thành Chủ tịch.

Trong chính trường Việt Nam, tôi chỉ biết mỗi ông Nguyễn Minh Triết là khác với các đồng chí của mình. Năm 2003, khi đang là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, các bác sĩ phát hiện ông bị ung thư tiền liệt. Sức khỏe trên hết. Việc đầu tiên ông Triết làm là viết đơn từ chức. Tôi nhớ ngay sau đó, cả Tổng bí thư Nông Đức Mạnh & Trưởng ban Tổ Chức Trần Đình Hoan đã đích thân bay vô động viên ông Triết yên tâm chữa bệnh mà không cần từ chức. Không rõ do bác sĩ chẩn đoán sai hay do điều trị kịp thời, ông Triết "vui thú điền viên" tới tận bây giờ sau khi qua một nhiệm kỳ tưng bừng làm Chủ tịch.

Đã từng có một bị án chết vì thực sự ung thư mà (trước sức ép dư luận) không được hoãn thi hành án để điều trị. Tuy nhiên, những hành vi vi phạm pháp luật trước khi bị ung thư, thậm chí trước khi bị tâm thần phải bị khởi tố điều tra. Nếu họ bệnh thật thì cho dù không phải chịu hình phạt tù, trách nhiệm trả lại tiền đã ăn cắp của dân cũng phải tuân theo pháp luật. Những ai thực sự bệnh tật khi tại chức thì cũng nên nêu gương ông Triết, mạng mình còn không quý làm sao các ông biết quý mạng dân. Đừng bám cho đến khi nhân cách bị ung thư tới giai đoạn cuối.

Huy Đức

Nguồn : fb.truonghuysan, 12/01/2018

Đọc thêm :

Trần Bắc Hà đi Singapore chữa ung thư gan hay ‘lánh nạn’ ?

Published in Diễn đàn
mercredi, 03 janvier 2018 13:13

Hãy giảm án tử hình cho Hồ Duy Hải

Nếu chưa thể minh hoan hãy giảm án tử hình cho Hồ Duy Hải

Nếu có một bồi thẩm đoàn độc lập, rất có thể Hồ Duy Hải đã được tuyên vô tội. Nếu những gì nêu trong bài báo này là đúng, rất nhiều dấu hiệu "cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án" đã xuất hiện trong các tiến trình tố tụng. Tôi không rõ, các vị thẩm phán có đủ niềm tin nội tâm Hải có tội không mà dám lạnh lùng áp dụng mức tử hình với Hải.

hoduyhai1

Nếu có một bồi thẩm đoàn độc lập, rất có thể Hồ Duy Hải đã được tuyên vô tội.

Tháng 12/2014, Chủ tịch nước (Trương Tấn Sang) đã quyết định hoãn thi hành án cho Hải. Không chỉ ông, dư luận, kể cả các cơ quan tố tụng lúc đó, đã không đủ niềm tin vững chắc Hải có tội để tước đoạt mạng sống của anh.

Khi chưa tìm thấy ai khác đã gây án (như các vụ án Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Văn Chấn...) không ai dám cả quyết Hồ Duy Hải có vô tội hay không. Nhưng, bằng cách suy đoán đó (trên nền tảng các bằng chứng buộc tội sơ sài và mâu thuẫn) mà ta vẫn cho rằng Hải có tội chúng ta đã vi phạm nguyên tắc căn bản nhất của công lý rồi (suy đoán vô tội). Nói chi đến trường hợp coi Hải là có tội khi bằng chứng không thuyết phục.

Hơn 4 năm qua, các cơ quan tố tụng không bổ sung được bất cứ chứng cứ mới nào để cũng cố một bản án từng khiến chúng ta ngờ vực. Chủ tịch Nước Trần Đại Quang nên ký ân giảm cho Hồ Duy Hải. Khi nắm trong tay sinh mệnh của một con người, sức nặng mà ông đang gánh không chỉ là cây bút. Ngay cả khi có đủ niềm tin nội tâm, "sát sinh" vẫn phải cần cân nhắc, nói chi đến trường hợp bị kết án rất khiên cưỡng như Hồ Duy Hải.

Huy Đức

Nguồn : fb.osinhuyduc, 03/01/2018

*******************

Làm rõ 'nhân chứng đặc biệt' vụ tử hình Hồ Duy Hải (Tuổi Trẻ, 29/05/2017)

Mới đây, gia đình Hồ Duy Hải đã có đơn gửi đến lãnh đạo các cơ quan tố tụng trung ương đề nghị làm rõ việc rút bớt hồ sơ trong điều tra vụ án mạng tại Bưu điện Cầu Voi.

hoduyhai2

Hồ Duy Hải đã bị phúc thẩm tuyên tử hình - Ảnh : Tư liệu Tuổi Trẻ

Trong đơn, người thân của Hồ Duy Hải - người bị kết án tử hình trong vụ giết hại hai nữ nhân viên Bưu điện Cầu Voi (huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An) cho rằng các cơ quan tố tụng đã rút bớt hoặc không đưa vào kết luận điều tra, cáo trạng những bằng chứng, hồ sơ có lợi cho Hải, dẫn đến việc làm sai lệch hồ sơ vụ án để kết tội bị cáo.

Rút bớt hồ sơ ?

Theo luật sư Trần Hồng Phong (người hỗ trợ pháp lý cho Hồ Duy Hải), trong hồ sơ vụ án có nhiều bút lục là các biên bản, kết luận giám định hoặc giấy xác nhận liên quan đến vụ án nhưng lại không thể hiện trong kết luận điều tra và cáo trạng.

Cụ thể, hồ sơ rút bỏ kết luận giám định về dấu vân tay và diễn giải sai lệch về kết quả giám định dấu vân tay - trong khi đây chính là tình tiết ngoại phạm của Hồ Duy Hải. Tự ý sửa, thay đổi kết quả nhận dạng (về "chiếc xe máy" và "người thanh niên") của nhân chứng Đinh Vũ Thường.

Tự ý sửa lời khai của nhân chứng về kích thước con dao (được xác định Hồ Duy Hải đã dùng để cắt cổ hai nạn nhân). Rút khỏi hồ sơ những tình tiết liên quan đến một nhân chứng đặc biệt quan trọng, có dấu hiệu liên quan đến cái chết của hai nạn nhân...

Theo đơn tố cáo, sau khi Hồ Duy Hải bị bắt giam, cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định 4 tang vật : dấu vân tay, lông tóc, máu và than tro. Nhưng cơ quan điều tra chỉ sử dụng duy nhất 1 trong số 4 kết quả giám định của Viện Khoa học hình sự kết luận về "than tro" thu được tại nhà Hải.

Tuy nhiên, phần sử dụng này lại cắt bỏ phần nội dung quan trọng nhất : "Không đủ yếu tố kết luận có thành phần các nguyên liệu làm ra dây thắt lưng, quần áo và simcard".

Điều này cho thấy chưa thể kết luận Hồ Duy Hải đã đốt thắt lưng, quần áo, simcard sau khi gây án để che giấu hành vi tội phạm (như quan điểm của cơ quan điều tra).

Thế nhưng trong kết luận điều tra và cáo trạng, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân đã cắt bỏ phần kết luận quan trọng nhất, đồng thời lại mô tả là "phù hợp" với lời khai của Hồ Duy Hải vì "có thành phần vải và nhựa polyter".

Trong khi đó, các kết luận giám định còn lại (máu, lông tóc) thể hiện không có sự liên quan đến Hồ Duy Hải thì không được đưa vào.

Đề nghị làm rõ bản chất vụ án

Tại bản kết luận giám định số 158 ngày 11/4/2008 kết luận : Các dấu vết vân tay thu được tại hiện trường vụ án không trùng khớp với điểm chỉ 10 ngón in trên chỉ bản của Hồ Duy Hải.

"Như vậy, với việc dấu vân tay của hung thủ thu được tại hiện trường không trùng với dấu vân tay của Hồ Duy Hải, phải chăng các cơ quan tố tụng đã rút khỏi hồ sơ tình tiết ngoại phạm của Hồ Duy Hải ?" - luật sư Phong đặt nghi vấn.

Từ những căn cứ pháp lý trên, luật sư Trần Hồng Phong và gia đình đề nghị các cơ quan tố tụng xem xét đơn này để làm rõ bản chất vụ án.

Thực tế Hồ Duy Hải đã bị kết án tử hình và có quyết định thi hành án. Tuy nhiên, sau đó Hải được tạm hoãn thực hiện việc thi hành bản án này. Từ năm 2011 đến nay, gia đình Hồ Duy Hải liên tục làm đơn kêu oan cho Hồ Duy Hải và đơn tố giác tội phạm.

Sau khi đơn được gửi ra Tòa án nhân dân tối cao, tòa này đã có thông báo cho gia đình và luật sư biết nội dung đơn tố cáo đã được chuyển cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xem xét xử lý.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết tòa này vẫn chưa nhận được hồ sơ tố cáo và hứa sẽ cho kiểm tra lại.

Nếu nội dung đơn tố cáo của gia đình Hồ Duy Hải và luật sư về hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án của một số cán bộ tiến hành tố tụng thì thẩm quyền xem xét giải quyết là cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chứ không phải Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Cũng theo vị này, nếu hồ sơ có được chuyển về tòa thì tòa cũng sẽ chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.

Rút khỏi hồ sơ "nhân chứng đặc biệt"

Trong vụ án Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Nghị là người có liên quan và vai trò đặc biệt quan trọng. Trên thực tế, Nguyễn Văn Nghị là người yêu của nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng (thể hiện trong lời khai của anh Cao Hoàng Tuấn Anh).

Trong đêm xảy ra vụ án, Nguyễn Văn Nghị có ghé vào Bưu điện Cầu Voi và có lời khai nhìn thấy một thanh niên trong bưu điện tối 13/1/2008. Sau đó Nguyễn Văn Nghị đã bị bắt.

Cơ quan điều tra từng tạm giữ và lấy lời khai của Nguyễn Văn Nghị. Thế nhưng sau đó Nguyễn Văn Nghị không được đưa vào danh sách "nhân chứng".

"Toàn bộ thông tin, tài liệu liên quan đến Nguyễn Văn Nghị đều bị rút khỏi hồ sơ vụ án. Vì sao không cho Nguyễn Văn Nghị nhận dạng Hồ Duy Hải ? Vì sao không giám định vân tay của Nguyễn Văn Nghị ? Đây là những điều rất bất thường" - luật sư Trần Hồng Phong đặt câu hỏi.

Hai nữ nhân viên bị sát hại dã man

Theo hồ sơ, ngày 13/1/2008 tại Bưu điện Cầu Voi (huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An) đã xảy ra một vụ giết người. Nạn nhân là hai nữ nhân viên Nguyễn Thị Ánh Hồng (22 tuổi) và Nguyễn Thị Thu Vân (21 tuổi) bị giết hại dã man (cắt cổ) ở khu vực cầu thang phía sau.

Tại hiện trường vương lại nhiều dấu vân tay của hung thủ.

Hơn hai tháng sau, ngày 21/3/2008, Hồ Duy Hải - nam thanh niên tại địa phương, nhà cách Bưu điện Cầu Voi khoảng 2km - bị bắt giữ. Hồ sơ thể hiện Hồ Duy Hải là hung thủ duy nhất, thực hiện hành vi giết người tại Bưu điện Cầu Voi.

Tại hai phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, Hồ Duy Hải đều kêu oan.

Hoàng Điệp

*********************

Nhiều cơ quan cùng vào cuộc vụ tử tù Hồ Duy Hải (Tuổi Trẻ, 05/12/2014)

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Sơn - phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao - xác nhận cơ quan này đã nhận được công văn do báo Tuổi Trẻ gửi kèm đơn đề nghị khẩn cấp của luật sư Trần Hồng Phong.

hoduyhai3

Bị cáo Hồ Duy Hải tại phiên tòa sáng 29/11/2008 - Ảnh : Diệu Hi

Dù bận rất nhiều cuộc họp trong cả ngày 4/12 nhưng ông Sơn đã đọc gấp đơn và các tài liệu đính kèm (gồm cáo trạng, bản án sơ thẩm và phúc thẩm, các quyết định trưng cầu giám định liên quan đến vụ án khẳng định mẫu dấu vân tay thu được tại hiện trường không phải là của Hồ Duy Hải).

Sau khi đọc xong đơn đề nghị khẩn cấp trên, ông Nguyễn Sơn đã có kiến nghị gửi chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị xem xét lại vụ án ngay lập tức.

Ông Sơn cũng chuyển đơn của luật sư Phong kèm các hồ sơ cho chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình.

Không chỉ có các kiến nghị của luật sư Trần Hồng Phong hay văn bản của luật sư Trần Văn Tạo được gửi đến Chủ tịch nước và các cơ quan có thẩm quyền.

Trong ngày 4/12, ông Lê Thúc Anh - chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam - đã có công văn gửi đến ông Trương Hòa Bình về việc đề nghị xem xét kháng nghị bản án đối với Hồ Duy Hải.

Ngoài nội dung này, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng đề nghị tạm hoãn việc thi hành bản án tử hình đối với bị án Hồ Duy Hải bởi qua nghiên cứu đơn và hồ sơ do luật sư Trần Hồng Phong cung cấp.

Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhận thấy hồ sơ vụ án có những tình tiết, chứng cứ cần phải được xác định đánh giá để đảm bảo bản án tử hình đúng người đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai có liên quan đến tính mạng con người.

Hoàng Điệp - V. Trường

Published in Diễn đàn
samedi, 18 novembre 2017 09:57

Mạng xã hội

Dữ liệu rất quan trọng cho công tác nghiên cứu và hoạch định chính sách. Nhưng sử dụng các số liệu từ Đức, Hàn Quốc... thậm chí từ Trung Quốc để so sánh với Việt Nam cũng giống như so sánh hai số hạng không cùng đại lượng (mét so với kg).

facebook1

Người Đức, người Mỹ... sử dụng mạng xã hội đôi khi chỉ để đáp ứng những nhu cầu bạn bè trong từng group nhỏ. Người Việt Nam sử dụng mạng xã hội ngoài những nhu cầu thông thường, còn là để thực hiện các quyền Hiến định - quyền tự do ngôn luận, bày tỏ chính kiến; quyền làm công tác từ thiện, giúp đỡ người yếu thế. Những quyền mà báo chí nhà nước và không gian chính trị của Việt Nam không có khả năng cung cấp.

Tự do biểu đạt chính kiến quan trọng đến nỗi, tổng thống của một quốc gia tự do như D. Trump cũng phải sử dụng mạng xã hội để tuyên ngôn khi ông không còn tin báo chí. Đừng so với Trung Quốc, chỉ trong một quốc gia mà việc người dân chỉ trích lãnh đạo, chỉ trích chính quyền được coi là "văn hoá" thì quốc gia đó mới có cơ may được coi là văn minh, chính quyền của quốc gia đó mới được coi là chính quyền mạnh.

Với những tiến sỹ rừng như ông Trương Minh Tuấn thì tôi không chấp, tôi rất tiếc khi nghe phát biểu của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam. Ông có một trí nhớ tuyệt vời, một khả năng diễn thuyết rất thuyết phục, nhưng ông đã mơn trớn các đại biểu có chức có quyền trong quốc hội thay vì giúp phần lớn trong họ nắm được mạng xã hội là môi trường sống của thế giới ngày nay. Nó chứa chấp đủ thứ dịch bệnh của loài người nhưng nó cũng giúp chính loài người từng bước loại bỏ các dịch bệnh đó và nuôi nấng từng mầm tích cực.

Chỉ từ khi có internet, Việt Nam mới tốt lên như vậy và chính quyền mới mạnh như vậy (dù bị chỉ trích nhiều hơn, dù nhiều người chỉ trích chính quyền không muốn thế).

Dân trí của Việt Nam như ông nói, chưa bằng Thái và tất nhiên là chưa bằng Đức. Nhưng vì sao. Chưa có một quốc gia nào (tôi không tính Trung Quốc và Bắc Hàn) mà Bộ Luật Hình Sự chứa đựng nhiều điều luật để đe doạ người sử dụng mạng xã hội như Việt Nam. Tuy nhiên, các công cụ này chủ yếu nhắm vào những người sử dụng mạng xã hội để "nói xấu lãnh đạo và tuyên truyền chống chế độ". Danh dự, nhân phẩm và bí mật đời tư của thường dân, trong thi hành luật, chưa bao giờ được ưu tiên bảo vệ.

Đừng lẫn lộn các khái niệm trong an ninh mạng. Những gì thuộc về bí mật quốc gia phải thuộc trách nhiệm của những người được giao nắm giữ nó. Có thể vận đông ý thức của công dân trừ những vụ việc nhân danh bí mật quốc gia để lén lút chia chác tài sản của dân. Trong thời đại ngày này, quốc gia nào cũng phải có ý thức lập nhiều tầng dữ liệu (cái gì local, cái gì international). Còn thông tin cá nhân thì kể từ khi ta mua vé máy bay, mua hàng trên Alibaba, xin visa... từng cá nhân đã chấp nhận tiết lộ bí mật đời tư của mình, đừng đổ hết cho mạng xã hội.

Cũng không nên dùng con số doanh thu quảng cáo 300 triệu USD (như anh Đam nói) hay 100 triệu (như anh Tuấn nói) để kích thích dạ dày quốc hội. Facebook, Google không kinh doanh ở Việt Nam, họ kinh doanh toàn cầu. Ngay cả các cường quốc cũng vẫn còn đang phải tranh cãi việc đánh thuế như thế nào. Các nhà cung cấp dịch vụ internet phải tuân thủ luật thương mại điện tử nhưng các quốc gia cũng phải tuân thủ các cam kết "tránh đánh thuế hai lần".

Đành rằng, thu được đồng thuế nào từ con số 300 triệu đó đều tốt. Nhưng chỉ chăm bẵm vào những con số đó là đã để lá che mất rừng. Thử tính, nếu người dân Việt đã bỏ ra 300 triệu USD quảng cáo trên mạng xã hội toàn cầu thì doanh thu có đóng thuế cho ngân khố quốc gia phải tăng lên đến nhường nào.

Đành rằng, để mạng xã hội phát triển thì việc nhũng nhiễu dân sẽ không còn như chỗ không người nữa; việc đưa con đàn cháu đống vào bộ máy quyền lực sẽ bị săm soi; công trình nghìn tỷ đắp chiếu sẽ không thể che mắt dân cho đến khi mục nát... Nhưng, cầm quyền thì phải nhận ra rằng, mạng xã hội không chỉ đang chỉ trích chính quyền - giúp Chính phủ tu sửa để rồi vừa có quyền vừa có dân - mà còn đang chỉ trích những thói hư tật xấu trong xã hội, đang "khai dân trí và chấn dân khí" chứ không chỉ mắng nhiếc nhau. Hãy vì lợi ích bền lâu của Việt Nam, đừng vì những mục tiêu ngắn hạn.

Huy Đức

Nguồn : fb.Truong Huy San, 18/11/2017

*****************

Đọc thêm :

Bị chặn facebook vì bán rượu gây quỹ cho Nhịp Cầu Hoàng Sa

Facebook đã chặn một số chức năng (gửi tin nhắn, post cmts, edit...) trên account của tôi trong vòng 24 giờ và mãi tới chiều hôm qua, họ mới gửi cho mấy post bán rượu gây quỹ cho Nhịp Cầu Hoàng Sa trên tường nhà tôi, nói là nó vi phạm các nguyên tắc của facebook. Xin lỗi anh Mark và các bạn nhưng chúng tôi cũng muốn có lại đôi lời rằng.

facebook2

Thỉnh thoảng những người ủng hộ chương trình Nhịp Cầu Hoàng Sa - thường là bạn đọc của tôi, nhà thơ Nguyễn Duy, Đỗ Trung Quân, nhà văn Nguyễn Quang Lập, nhà báo Quốc Vĩnh... - lại gửi tặng chút quà, phần lớn là rượu. Chúng tôi thống nhất với nhau là với những chai có giá hàng triệu trở lên thì chỉ được bán gây quỹ.

Không chỉ vì ngồi uống với nhau những chai rượu có khi có giá 5, 7 chục triệu là rất lãng phí và không thể chấp nhận (như thư của cựu Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Đào Đình Bình dưới đây); chúng tôi muốn sử dụng uy tín xã hội của mình cho những mục tiêu xã hội. Đôi khi nhìn những chai rượu ngon, chúng tôi chưa một lần được thử, được đưa bán, anh em cũng có người cằn nhằn. Cằn nhằn nhưng không có ai đòi uống cả.

facebook không tự nhiên chặn account của ai đó, phải có người "báo cáo". Trước đây anh Trần Đăng Tuấn cũng đã bị một lần. Rõ ràng, những người báo cáo phải thuộc các "thế lực thù địch", những kẻ không muốn nhìn thấy khía cạnh tích cực của mạng xã hội. Rượu bán từ đầu tháng họ đợi tới khi Quốc hội chất vấn về mạng xã hội mới "report" hẳn không phải là không có ý gì.

Huy Đức, 18/11/2017

Published in Diễn đàn
mercredi, 15 novembre 2017 17:12

Ngân sách và Tiến sĩ

Tôi rất ấn tượng cái cách ông cựu chủ tịch tỉnh An Giang Nguyễn Minh Nhị hay tự giới thiệu trình độ văn hóa của ông là "tiểu học". Cho dù kể từ khi "tham gia cách mạng" ông được cho bổ túc rất nhiều, có đủ bằng cấp, nhưng theo ông phần tiểu học của ông là thực học ; các bằng cấp kia là ráng học để làm. Ông Võ Văn Kiệt cũng chỉ khai trong lý lịch là biết đọc, biết viết.

ts1

Ông Nguyễn Minh Nhị, cựu chủ tịch tỉnh An Giang nói : ""Tôi rất không hài lòng giáo dục phổ thông và "Bổ túc văn hóa" (mà tôi có học sau 1975)"…

Đành rằng, thời bình mà lãnh đạo không được học hành đầy đủ là bi kịch của dân tộc ; nhưng dân tộc ấy còn bi kịch hơn khi có các nhà lãnh đạo vì mặc cảm thất học mà cố khoác cho mình bao nhiêu bằng cấp cho dù chẳng thực học được mấy ngày.

Cái tư duy chính sách đưa ra chỉ tiêu đào tạo hàng chục nghìn tiến sĩ rồi chi hàng chục nghìn tỷ đồng nếu không phải vì mưu đồ "% dự án" thì cũng thật là bệnh hoạn. Khoa học kỹ thuật của nước nhà thua kém phải chăng là vì tỷ lệ tiến sĩ của Ta thấp hơn. Tại sao mấy ông "chính trị gia" lại cần phải giáo sư tiến sĩ ; tại sao các tỉnh lại phải thu hút người có bằng cấp ; trong khi, những loại bằng cấp đó chỉ thực sự cần cho người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu mà thôi.

Nên giải tán cái gọi là các "Viện hàn lâm" của Việt Nam, đưa nó về các trường đại học theo đúng chuyên ngành. Để cho các trường đại học đào tạo tiến sĩ theo chuẩn chất lượng của mình và chịu trách nhiệm về sản phẩm của họ. Cái mà các trường, các trung tâm nghiên cứu cần ở nhà nước là bảo hộ được quyền sở hữu trí tuệ ; cho tự do sáng tạo chứ không phải chi bao nhiêu ngân sách để sản xuất ra bao nhiêu tiến sĩ.

Huy Đức

Nguồn : fb.osinhuyduc, 15/11/2017

PS : Đọc các luận văn Tiến sĩ của quan chức, nhớ câu chuyện một ông chủ tịch hội đồng Tiến sĩ nhận xét, "luận văn của anh rất giống báo cáo uỷ ban" ; vị nghiên cứu sinh thành thât trả lời, "Dạ, thầy để tôi về kêu thư ký viết lại" (đã hỏi thầy Đào Công Tiến về "riu-mơ" này, thầy cười).

Published in Diễn đàn