Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Cộng đồng Công giáo di cư 1954 đã thay đổi miền Nam Việt Nam như thế nào ?

Cách đây 70 năm, năm 1954, có một cuộc di cư khổng lồ của khoảng gần một triệu người miền Bắc vào Nam, trong đó có hai phần ba, tức là khoảng 600 ngàn người, là người Công giáo. Giáo sư Tuấn Hoàng tại Đại học Peperdine cho biết.

dicu1

Poster của chiến dịch Hành Trình Tới Tự Do năm 1954 (Lưu trữ của Cục Thông tin Hoa Kỳ, ảnh số 306-ppb-226)

Theo Giáo sư Vũ Tường, Trưởng khoa Chính trị học, Đại học Oregon, cuộc di cư vĩ đại bị ẩn giấu trong phần lớn sách sử Việt Nam này đã góp phần thay đổi chính trị, xã hội, văn hóa miền Nam khi đó và ảnh hưởng của nó vẫn còn vang vọng đến Việt Nam ngày nay.

Trao đổi với RFA, Giáo sư Alex Thái Võ ở Trung tâm Việt Nam, Đại học Công nghệ Texas, giải thích về lý do cộng đồng Công giáo chiếm đến hai phần ba số người di cư năm 1954 :

"Lý do tại sao chúng ta có con số di dân Công giáo nhiều ? Trong cải cách ruộng đất, người nông dân Công giáo bị coi là tầng lớp "phản động". Họ bị coi là thân Pháp, phản động, cho nên trở thành tâm điểm trong việc trừng phạt trong cuộc cải cách ruộng đất. 

Những vùng Công giáo ven biển ở Thái Bình, Nam Định, những khu Bùi Chu, Phát Diệm là những khu sẽ và bị cải cách ruộng đất nặng nhất. Ngoài ra, họ lại ở vùng ven biển nên thuận lợi nhất để di cư. Đó là nguyên nhân khiến cho vùng Công giáo ra đi nhiều nhất".

Cuộc di cư vĩ đại đã diễn ra như thế nào ? Cuộc di cư đó đã thay đổi xã hội Việt Nam sau đó ra sao ? Trao đổi với RFA bên lề cuộc Triển lãm về tư liệu lịch sử kỉ niệm 70 năm cuộc cải cách ruộng đất 1953-1956 và cuộc di cư 1954 - 1955, do Viện Bảo tàng Di sản Người Việt, Trung tâm Việt Nam Đại học Công nghệ Texas, Trung tâm Nghiên cứu Việt Mỹ Đại học Oregon tổ chức, Giáo sư Tuấn Hoàng tại Đại học Peperdine cho biết cuộc di cư mang đến Miền Nam rất nhiều người Công giáo. Dĩ nhiên trước đó Miền Nam đã có nhiều người Công giáo, trường học, tu viện Công giáo. Nhưng cuộc di cư đã mang rất nhiều người Công giáo vào Nam, dẫn đến hình thành những giáo xứ mới như vùng Hố Nai ở Đồng Nai. Các vùng Tây Nguyên cũng có hoặc vùng Sài Gòn như khu vực Ngã ba Ông Tạ. Vị chuyên gia về lịch sử tôn giáo ở Việt Nam, lịch sử di cư của người gốc Á ở Mỹ nói :

"Tôi không nhớ chính xác nhưng có khoảng hơn sáu trăm mấy chục ngàn người Công giáo trong số khoảng hơn 900 triệu người di cư vào Nam. Cuộc di cư đã làm cho Miền Nam đa dạng hóa cơ sở tôn giáo miền Nam. Một số dòng Công giáo ngoài Bắc di cư vào Nam như dòng Đa Minh, dòng Tên, dòng La San. Họ cũng giúp phát triển thêm giáo dục Miền Nam mạnh hơn. Ngoài giáo dục, nó góp phần phát triển Thiên Chúa giáo sau thời thuộc địa".

Theo Giáo sư Tuấn Hoàng, sự phát triển của Công giáo ở Miền Nam Việt Nam sau cuộc di cư 1954 cũng nằm trong xu hướng phát triển chung của Công giáo ở Châu Á, Châu Phi, Nam Mỹ giai đoạn đó. Nhiều nhà nghiên cứu đã thảo luận về hiện tượng sau thế chiến II, khi thời đại thuộc địa bắt đầu chấm dứt, số lượng giáo dân Công giáo ở bên ngoài Châu Âu tăng lên rất nhanh. Trong bối cảnh chung đó, ở Miền Nam Việt Nam, số lượng giáo dân tăng lên do cuộc di cư 1954 giúp cho Công giáo ở Miền Nam phát triển nhanh chóng về số lượng tu sĩ, nhà thờ, trường học. Ông nhấn mạnh :

"Cuộc di cư giúp cho văn hóa - xã hội Miền Nam trở nên đa dạng, phong phú hơn. Tại vì có nhiều người giáo dân thì việc phục vụ tôn giáo mạnh hơn, rồi liên quan đến vấn đề giáo dục. Ví dụ các trường công giáo nhiều lên. Dĩ nhiên học sinh các trường này không chỉ là người công giáo mà của các tôn giáo khác nữa".

Trước 1954, phần đông giám mục Công giáo ở Việt Nam là người nước ngoài, nhưng sau đó, thời Việt Nam Cộng Hòa, nhờ cuộc di cư lớn của người Công giáo vào Nam, người Công giáo trong Nam mạnh lên và phần lớn giám mục là người Việt Nam. Theo Giáo sư Tuấn Hoàng, đó là một sự thay đổi rất lớn, đem lại niềm tự hào cho người Công giáo Miền Nam. Điều đó cũng giúp cho Công giáo Miền Nam tiếp tục xây dựng mối liên hệ, kết nối trực tiếp với Công giáo quốc tế. Điều này khác với miền Bắc khi đó là Công giáo hoàn toàn bị kiểm soát và mất sự liên lạc với quốc tế.

Lâu nay người ta thường nhìn cuộc di cư 1954 chỉ như cuộc di cư về con người, đặc biệt là di cư của người Công giáo. Tuy nhiên, thực tế, trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh phân cực thế giới làm hai khối Cộng sản - Tư bản, đó không chỉ là di cư về con người mà di cử cả thể chế chính trị - giáo dục, Giáo sư Tuấn Hoàng nói thêm.

Ông cũng giải thích thêm rằng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi nắm được miền Bắc thì xây dựng một xã hội không cần có luật sư. Miền Bắc đã được nếm trải cách xét xử của tòa án trong chế độ mới thông qua đấu tố trong cải cách ruộng đất. Phân khoa Luật thuộc Trường Đại học Luật khoa Paris đặt tại Hà Nội cũng di cư vào Nam. Và ông gọi đó là "instutiontal migration" (di cư thể chế). Ông giải thích :

"Việc di cư không chỉ là di cư người mà còn là di cư cơ sở, là institutional migration, tức là di cư thể chế. Vì ở ngoài Bắc, những giáo sư không phải là đảng viên cộng sản thì họ di cư vào Nam. Một số thân hữu của tôi từng ở Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn thì biết chi tiết hơn. Khi còn dạy ở ngoài bắc thì luật được dạy kiểu Pháp, còn khi vào Nam sau1954 thì dần dần cải tiến theo kiểu Mỹ. Ví dụ lúc bắt đầu chia đôi đất nước năm 1954 thì luật trong Nam vẫn dạy chương trình ba năm, nhưng sau đó thì chuyển sang bốn năm theo kiểu Mỹ. Đó là một ví dụ về việc thay đổi sau khi di cư vào Nam. Sự thay đổi đó là để phù hợp với thời đại sau thuộc địa, sau khi độc lập".

Cuộc di cư vĩ đại năm 1954 : chạy trốn cải cách ruộng đất và đi tìm tự do

Năm 2024 đánh dấu 70 năm cải cách ruộng đất (1953 - 1956) và cuộc di cư vĩ đại từ Bắc vào Nam năm 1954 - 1955. Theo Giáo sư Alex Thái Võ ở Trung tâm Việt Nam, Đại học Công nghệ Texas, trước đây, trong giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam, được một số tài liệu ghi lại, hai sự kiện này dường như chỉ được nhắc đến một cách sơ sài và được nhận định như là "tai nạn" chính trị của người thực hiện. Nó cũng không được coi là các sự kiện quan trọng, trong tiến trình lịch sử Việt Nam hiện đại.

dicu2

Một trang Tạp chí National Geographic số tháng 6 năm 1955 viết về chiến dịch Hành trình đến Tự do tại Việt Nam.

Cuộc triển lãm tư liệu lịch sử về cải cách ruộng đất và di cư 1954 do Viện Bảo tàng Di sản người Mỹ gốc Việt, Đại học Công nghệ Texas và Đại học Oregon vừa diễn ra hôm cuối tuần qua, được nói đã tạo ra những thay đổi lớn lao trong đời sống chính trị, xã hội, văn hóa Việt Nam hiện đại ; đồng thời cũng là sự kiện được nhiều chuyên gia, sử học đánh giá cao.

Cải cách ruộng đất và di cư

Trao đổi với RFA, Giáo sư Alex Thái Võ cho biết "cải cách ruộng đất" mở đầu năm 1953 kết thúc năm 1956 và "cuộc di cư của gần một triệu người miền Bắc vào Nam" trong 300 ngày từ 1954 sang đầu năm 1955 có quan hệ nhân quả trực tiếp. 

Điều này trái ngược với cách hiểu đơn giản lâu nay của giới sử học về hai sự kiện này. Nhiều nghiên cứu sử học cho rằng cuộc di cư năm 1954 của gần một triệu người miền Bắc vào Nam là do hoạt động tâm lý chiến của CIA thông qua thả truyền đơn xuống miền Bắc, những người Công giáo hợp tác với Pháp nên sợ bị Việt Minh trả thù, ông Ngô Đình Diệm, một người Công giáo, trở thành thủ tướng và sau đó là tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, cũng thúc đẩy cộng đồng Công giáo vào Nam, cộng đồng Công giáo sợ bị đàn áp tôn giáo, các vị tu sĩ Công giáo dụ dỗ giáo dân vào Nam. 

Tuy nhiên, theo Giáo sư Alex Thái Võ, có khoảng gần một triệu người miền Bắc di cư vào Nam. Trong số đó, có khoảng sáu trăm ngàn người Công giáo. Như vậy, người Công giáo chiếm khoảng hai phần ba. Các lý do liên quan đến Công giáo không giải thích được cho nguyên nhân di cư của khoảng ba trăm ngàn người không theo đạo Công giáo. 

Theo Giáo sư Alex Thái Võ, những cách giải thích nêu trên phần nhiều thiếu cơ sở hợp lý. Ông trao đổi với RFA bên lề cuộc Triển lãm hôm 17 và 18 tháng 8, 2024 như sau : 

"Năm 1954 - 1955 có gần một triệu người nông thôn ở Miền Bắc bỏ nơi chôn rau cắt rốn của mình ở thôn quê để vào Nam. Đối với người nông thôn thời đó thì đó là một quyết định rất khó khăn chứ không phải dễ dàng. 

Có một số học giả lập luận rằng đa phần khoảng 80 phần trăm người di cư là người Công giáo. Người Công giáo miền Bắc di cư vào Nam là do các vị linh mục, các vị Cha đã dụ dỗ họ vào Nam. Chính quyền Mỹ, Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cũng dụ dỗ họ vào Nam qua các chiến dịch thả truyền đơn của CIA, của ông Edward Lansdale. 

Theo tôi nghĩ cách giải thích đó quá đơn giản. Một con người đang sống nhiều đời ở nơi cha mẹ sinh ra mình như vậy không dễ gì chỉ vì cầm một cái truyền đơn mà bỏ cả quê hương để di cư đến nơi xa lạ. 

Có gần một triệu người phải bỏ nước ra đi. Tác động trực tiếp nhất, có ảnh hưởng mạnh nhất tới cuộc di cư đó là cải cách ruộng đất. 

Cuộc cải cách ruộng đất được bắt đầu từ 1953, sang 1954 và kéo dài đến 1956. Có nghĩa là khoảng thời gian người dân được di cư vào Nam 300 ngày sau khi Hiệp định Geneva được kí kết thì cải cách ruộng đất vẫn đang tiếp diễn. Khi đó, người dân chứng kiến hoặc nghe những câu chuyện đau thương, đấu tố, mất tài sản, từ đó họ sợ hãi mà bỏ Miền Bắc ra đi. Đó là lí do chính đưa đẩy gần một triệu người đi. Vì sao ? Vì đa phần người di cư không phải là những người giàu có ở đô thị. Những hình ảnh người di cư cho chúng ta thấy đa phần họ là nông dân, là người nghèo". 

Đồng tình với Giáo sư Alex Thái, Giáo sư Tường Vũ, Trưởng khoa Chính trị học, Đại học Oregon, bổ sung thêm rằng mục tiêu của cải cách ruộng đất giúp chính quyền Việt Minh lúc bấy giờ động viên thêm sức người, sức của từ nông thôn qua hình thức binh sĩ và lúa gạo cho cuộc kháng chiến vào giai đoạn cuối cùng. Mục tiêu nữa là lật đổ giai cấp địa chỉ ở nông thôn. Tuy nhiên, mức độ bạo lực tàn khốc của cải cách ruộng đất đã thúc đẩy dòng người di cư vào Nam và đó là điều những người cộng sản không mong muốn. Ông nói :

"Chính quyền Việt Minh cộng sản không muốn đẩy quá nhiều người dân miền Bắc chạy vào Nam vì như vậy sẽ mất mặt. Vì vậy họ đã cố gắng cản trở người Bắc di cư vào Nam. 

Vì báo chí lúc bấy giờ nói người dân vì ghét và sợ cộng sản nên mới bỏ miền Bắc mà đi. Vì vậy họ tìm cách giảm bớt cường độ của cuộc cải cách ruộng đất và đấu tố. Nhưng sau khi hết thời hạn di cư chính thức thì họ tăng cường cải cách ruộng đất mạnh hơn. Bởi vì họ muốn tăng cường kiểm soát nông thôn mạnh hơn. Nếu thực sự có cuộc bầu cư năm 1956 thì họ cần kiểm soát nông thôn chặt chẽ để giành thắng lợi trong cuộc bầu cử". 

Vấn đề "độc lập" và "tự do" 

Trao đổi với RFA, Giáo sư Tuấn Hoàng ở Đại học Peperdine đồng tình với phân tích của GS Alex Thái. Ông Tuấn Hoàng còn bổ sung thêm một góc nhìn khác là vấn đề nhận thức về "độc lập" và "tự do" ở Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ 20. 

"Để đơn giản hóa một chút lối nhìn của tôi, bây giờ mời quý vị nghĩ tới hai chữ tự do. Bây giờ nghĩ tới hai chữ tự do, nhiều người Việt Nam và người Mỹ thường nghĩ tới câu "không có gì quý hơn độc lập, tự do" của ông Hồ Chí Minh. Nhưng vấn đề này rất là phức tạp chứ không đơn giản. Vì ông Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam dùng từ "độc lập" để lôi kéo người dân chống lại thực dân Pháp. Họ đã thành công trong phần đó. 

Nhưng nghĩ rõ ràng hơn thì chúng ta thấy hai chữ tự do, đối với ông Hồ Chí Minh và những người cộng sản, thì họ chỉ nói vậy thôi. Họ không dùng tinh thần tự do như là một nguồn gốc, động lực kéo nước Việt Nam đi tới hiện đại hóa. 

Việt Nam Cộng Hòa (Việt Nam Cộng Hòa) có rất nhiều vấn đề. Không ai nói là Việt Nam Cộng Hòa không có vấn đề. Nó có rất nhiều vấn đề. càng ngày các sử gia nghiên cứu về Việt Nam Cộng Hòa thì càng thấy hai chữ Tự do rất quan trọng với Việt Nam Cộng Hòa. 

Tuy nhiên, đối với Việt Nam Cộng Hòa thì tự do lại là vấn đề quan trọng. Một ví dụ là họ đổi tên đường Cabinat thời Pháp thành đường Tự do. Sau 1975 thì chính quyền cộng sản đổi thành đường Đồng Khởi. Việc đặt tên cho thấy mối quan tâm khác nhau của mỗi chế độ". 

Về cải cách ruộng đất, Giáo sư Tuấn Hoàng nhấn mạnh cả hai chế độ đều thực hiện cải cách ruộng đất vì đó là nhu cầu thực sự của Việt Nam đương thời. Tuy nhiên, cách thực hiện của miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) thì hoàn toàn khác nhau. Về cải cách ruộng đất thì cách làm của người cộng sản là không có tự do. Còn cải cách ruộng đất của Miền Nam thì dựa trên tinh thần tự do. Ngoài ra, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận ở Việt Nam Cộng Hòa cũng phát triển cao hơn ngoài Bắc, mặc dù vẫn có kiểm duyệt. Việc kiểm duyệt ở thời kỳ đó không có gì lạ, vì Việt Nam khi đó là một đất nước đang phát triển và đang có chiến tranh, nhưng đặt trong sự so sánh với miền Bắc thì sự tự do của miền Nam cao hơn hẳn. Đó là điều rất rõ - vị giáo sư ở Đại học Peperdine nhận xét.

Nguồn : RFA, 22/08/2024

Published in Việt Nam
mardi, 16 juillet 2024 13:59

70 năm cuộc di cư 1954

70 năm cuộc di cư 1954 : hành trang mang theo đến vùng đất mới

Cuộc di cư năm 1954 từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam đến nay tròn 70 năm. Cuộc di cư có tên tiếng anh là Operation Passage to Freedom hay Chiến dch Con đường đến Tự do.

dicu1

Người Bắc di cư từ Hải Phòng năm 1954 - Courtesy by Naval History and Heritage Command

Triệu người di cư vào Nam

Sau chiến dch Điện Biên Phủ kết thúc vào tháng 5/1954, Hiđịnh Geneve được ký kết vào ngày 21/7/1954. Hiệđịnh tạm thời chia Việt Nam thành hai khu vực, lấy sông Bến Hải, vĩ tuyến 17 Bắc làm giới tuyến quân sự tạm thời. Một khu phi quân sự rộng 4,8 km ở mỗi bên của đường phân giới chia Việt Nam thành hai vùng tập kết quân sự : Việt Minh tập trung tại miền Bắc, còn quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung tại miền Nam.

Hiệđịnh cho phép dân cư giữa hai vùng di chuyển tự do qua lại trong vòng 300 ngày, từ ngày 15/8/1954 cho tới ngày 15/5/1955, ngày chiếc tàu chở dân di cư cuối cùng rời khỏi Đồ Sơn trước khi biên giới hai miền đóng cửa.

Nhà văn Nguyễn Viện, quê gốc ở tỉnh Hải Dương, kể với RFA rằng khi gia đình ông ra đi vào cuối năm 1954 ông mới được năm tuổi :

"Tôi rất nhớ là gia đình chúng tôi phải trốn đi trong đêm. Tôi lúc đó năm tuổi, để trong một cái thúng gánh đi từ quê lên Hải Phòng. Từ chỗ quê nhà tôi là cái làng Đồng Xá thuộc tỉnh Hải Dương bây giờ, mà lên Hải Phòng nó khoảng chừng 20km.

Chúng tôi ở Hải Phòng một tuần lễ thì bắt đầu xuống tàu há mồm. Cái ký ức mà tôi nhớ không bao giờ tôi quên được là trên con đường bước xuống tàu thì chúng tôi xếp hàng một đi và cái cơ quan tổ chức di cư đó họ xịt thuốc sát trùng lên người giống như là thuốc xịt muỗi bây giờ. Mình giống như một loại thú vật được sát trùng trước cho khi lên tàu.

Dĩ nhiên là mặc dù chúng tôi tình nguyện đi nhưng mà cái cảm giác mà mình bị xịt thuốc như vậy đó phải nói là nó là một cái điều gì nó xúc phạm con người, dân tộc con người gây gớm".

Sau gần một tuần lênh đênh trên biển, gia đình ông Nguyễn Viện được đưa về một khu tạm cư ở Bến Cát, Bình Dương rồi cùng với những người di cư từ miền Bắc khác lập thành làng xóm, bắt đầu cuộc sống mới ở đất Bình Dương :

"Chúng tôi được đổ xuống giữa một cái rừng cao su bạt ngàn và dưới những gốc cây cao su. Những cái lều bạt tạm được dựng lên để mà tiếđón những người di cư như chúng tôi, thì chúng gia đình chúng tôi cũng có một lều bạc trong một đêm mưa tầm tã".

Cho tới khoảng năm 60, sau khi Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam được thành lập, khu vực sinh sống của gia đình ông Viện trở thành khu vực oanh kích tự do. Bởi thế, gia đình ông cũng như tất cả những người trong làng buộc phải rời bỏ làng ra đi. Riêng ông dời đến Sài Gòn từ đó cho đến nay.

Trong ký ức của nhà văn Nguyễn Viện, ông và gia đình không gặp trở ngại gì khi bắt đầu cuộc sống mới trong xã hội miền Nam lúc bấy giờ. Bởi, theo ông :

"Nóchung là cái tình người Nam hay người Bắc nó hoàn toàn 

không phải là vấn đề. Nó chỉ là vấn đề khi nó trở thành vấn đề chính trị thôi chứ còn giữa con người với nhau thì nó hoàn toàn không vấn đề gì hết".

Thống kê cho thấy tổng cộng có gần một triệu người di cư từ Bắc vào Nam.

Trong số khoảng một triệu người di cư, có rất nhiều nhân vật nổi tiếng thuộc đủ các thành phần như chính trị gia, giới trí thức, văn nghệ sỹ… Họ mang theo các giá trị tinh hoa của miền Bắc trong lĩnh vực của mình, đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội miền Nam.

Những đóng góp

dicu2

Người di cư đến Sài Gòn sau khi rời khỏi miền Bắc năm 1954. Ảnh : National Archives

Giáo sư, tiến sỹ giáo dục Đào Thị Hợi, một trong hai người phụ nữ Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp tiến sỹ ngành giáo dục của Đại học Columbia, vào năm 1965. Bà kể với Đài Á Châu Tự do rằng bà và gia đình rời Hưng Yên đến Sài Gòn vào tháng 8/1954. Thời điểm đó, cũng có nhiều trí thức rời miền Bắc, mang theo tất cả sách quý hiếm ở Thư viện quốc gia vào Nam :

"Những tên tuổi lớn như là bác Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ... Các ông đó lúc bấy giờ là sinh viên của trường Văn Khoa, hay là Luật Khoa ở ngoài Bắc đấy. Họ giỏi lắm, họ mang được cái Thư viện quốc gia ở đường Tràng Thi.

Các anh các chị đó khi đi vào Nam mang được bao nhiêu là sách vở từ cái thư viện đó vào Nam, chứ không để. Mình biết là cái lỗi ca Cộng sản là nó đốt phá hết, như là Thời năm 75 đó !"

Ngoài ra, theo giáo sư Đào Thị Hợi, một loạt các giáo sư là người gốc Bắc đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, góp phần đưa Việt Nam trở thành cái tên danh giá trong lĩnh vực giáo dục trong khu vực :

"Cũng nhờ ngày xưa mình đã học với Tây cho nên mình tiếp xúc với Âu Châu được nhanh nhẹn hơn các nước khác.

i có một số người bạn Nam Hàn họ nói rằng người Việt Nam đi vào nền văn học của các nước khác dễ dàng hơn là bởi vì mình đã học với Pháp rồi, đã mở cửa ra nhận tất cả nền giáo dục, văn hóa của các nước khác".

Giáo sư Đào Thị Hợi chính là một thành viên sáng lậTổ chức Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á. Đây là một tổ chức liên chính phủ của 11 quốc gia Đông Nam Á, được thành lập vào ngày 30/11/1965 bởi Vương quốc Lào, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam Cộng hòa. Tổ chức này hiện vẫn còn hoạt động với mục tiêu thúc đẩy hợp tác khu vực về giáo dục, khoa học và văn hóa trong khu vực. Từ năm 1969 cho đến 1971, giáo sư Hợi làm Giám đốc học vụ tại Học viện Sinh ngữ Quân đội ở tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.

Theo nhà văn Nguyễn Viện, về khía cạnh văn học, nghệ thuật thì những nghệ sĩ từ miền Bắc vào Nam là những người đi tìm tự do và sáng tác của họ đa phần mang khuynh hướng chính trị, tức là cổ vũ cho sự tự do và đề cao sự tự do :

"Người ra đi từ miền Bắc mang theo một ý thức chính trị rõ rệt và sang miền Nam với một ý thức xây dựng một cái xã hội tự do. Bởi thế văn chương của họ là hướng tới cái sự tự do".

Theo nhà văn Đỗ Trường, người chuyên nghiên cứu văn hoá miền Nam, cuc di cư của các văn nghệ sĩ từ Bắc vào Nam năm 1954 đưa đến sự giao thoa, bổ sung cho nhau của đặc trưng văn học hai miền, làm cho Văn học miền Nam mới mẻ, phong phú hơn.

Thời kỳ 1954, theo nhà văn Đỗ Trường, hầu hết các tinh hoa văn học Việt Nam thời kỳ đó đều tập trung ở đất Bắc. Đặc biệt sự ra đời của Tự lực văn đoàn do anh em nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam sáng lập. Dường như đây là nhóm văn học đầu tiên tại Việt Nam (Hà Nội). Vì vậy, giai đoạn này Văn học miền Bắc có khác so với Văn học miền Nam (Nam Bộ). Bởi, ngoài tài năng quần tụ, thì tính đặc trưng văn học vùng, miền này hiện lên khá rõ nét trong các tác phẩm của nhà văn, nhà thơ. Nếu Văn học phương Nam giản dị, thì Văn học đất Bắc trau chuốt lắt léo, n dụ, đa tầng ngữ nghĩa, với nhiều hình tượng trong sự liên tưởng.

Nhà văn Đỗ Trường nhận xét văn hóa, ngôn ngữ vùng miền đã đem sự sinh động cho Văn học, cũng như các bộ môn nghệ thuật khác của miền Nam.

Nhạc sỹ Tuấn Khanh, người đã có nhiều năm nghiên cứu âm nhạc Việt Nam trước 1975, cho biết miền Bắc có cơ hội tiếp nhận văn hóa âm nhạc phương Tây, tác động đến việc phát triển tân nhạc từ cuối những năm 1930.

Ca từ khởi đầu trước khi tách riêng và trở thành nội dung chuyển tải tâm tình đa dạng và gần gũi, khởi đầu là phần nhiều đi với cách mô tả thiên nhiên tựa như thơ Đường Luật. Những bài hát đầu tiên của Đặng Thế Phong, Đoàn Chuẩn – Từ Linh… là một trong những ví dụ.

Nhưng từ 1954, các nhà sáng tác như Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Anh Bằng… bắt đầu chuẩn hóa nhạc mới theo nhiều phong cách khác nhau. Cùng với sự tham gia của các văn nghệ sĩ miền Nam, đến cuối thập niên 1960, những lối sáng tác đơn âm (monodic), tựa như ca ngâm giai điệu, đã chuyển qua bước sáng tác đa âm (polyphonic), nhập cuộc với trào lưu phát triển âm nhạc Anh – Mỹ.

Việc sáng tác và biểu diễn liên tục, kể cả nắm giữ công nghệ ghi âm ban đầu đã giúp cho cách hát phát âm giọng Bắc trở thành khuynh hướng chính trong việc trình bày ca nhạc mới của Việt Nam, có giá trị truyền thống đến hôm nay.

Cũng như văn chương, sự có mặt của văn nghệ sĩ miền Bắc vào năm từ 1954 trong âm nhạc là cả một pho sử thi. Chỉ duy nhất ở miền Nam, và có lẽ mãi về sau, âm nhạc có nhiều nhánh diễn đạt, không chỉ là yêu đương, mà là những câu chuyện kể của đời sống, giai cấp, ca ngợi tôn giáo, hay lồng ghép các giá trị vị nhân sinh (Du ca), vị tha và yêu thương (Phượng Hoàng), hiện sinh (Lê Uyên Phương), thân phận và lẽ sống (Trịnh Công Sơn)…

Theo ông Đỗ Trường, những người di cư đã đem cái trang nhã, cầu kỳ phương Bắc trộn vào cái bình dị, ấm áp của phương Nam, tạo ra hồn vía mới cho âm nhạc miền Nam. Những ca khúc trữ tình ấy, tuy nhẹ nhàng, gần gũi mang tính tự sự cá nhân, song rất sang trọng, đi sâu vào mọi giới thưởng ngoạn. Nó làm cho người nghe, tưởng như Tân nhạc miền Nam đã được thay da đổi thịt vậy. Việc đưa dân ca vào Tân nhạc, mà điển hình là nhạc sĩ Phạm Duy không chỉ đưa người nghe trở về với hồn vía dân ca truyền thống, mà còn làm phong phú nền Tân nhạc Việt.

Thành tựu to lớn đó không chỉ đào tạo sản sinh ra các thế hệ ca, nhạc sĩ tài năng, đa dạng với phong cách, nghệ thuật riêng biệt, độc đáo, mà còn cho hướng người nghe, nhất là giới trẻ đến với âm nhạc chân thực cùng giá trị thẩm mỹ.

Vẫn tồn tại dù có bị khai tử

Sau 1975, ông Đỗ Trường cho biết, không chỉ tác phẩm của các nhà văn, và các nhà xuất bản gốc Bắc, mà toàn bộ nền văn học, âm nhạc miền Nam bị khai tử. Toàn bộ sách, báo… nghĩa là tất cả những gì dính dáng đến chế độ cũ in ấn xuất bản, kể cả tình yêu, hay những sách vô thưởng vô phạt đều tịch thu, và hóa vàng…

Cũng như nhưng tác phẩm của mình, các nhà văn di cư này đều "vào rọ" cả. Có những bác bị cải tạo tù đày đến trên dưới chục năm như : Nguyên Vũ, hay Thảo Trường… Đặc biệt Doãn Quốc Sỹ bị bắt thả, bắt thả nhiều lần tổng cộng đến 14 năm tù đày.

"Tôi nghĩ, dường như có sự trả thù, hay gì đó, như nhà thơ Vũ Hoàng Chương. Một cụ già chuyên thi ca thơ phú tình yêu trong cái lạc loài của kiếp người, vậy cũng bị tù đày cho đến chết. Hay những tác phẩm của ông thơ tình Đinh Hùng cũng đốt bằng sạch cho tuyệt nọc".

Tuy nhiên, vẫn có một số sách báo được cất giấu, do chính những người buộc phải thi hành mang ra Bắc, như truyện của Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long hay Dương Nghiễm Mậu.

Nhà văn Đỗ Trường cho rằng giá trị, di sản mà các văn nghệ sĩ thuộc các thế hệ di cư để lại cho miền Nam nói riêng và Việt Nam có thể nói là vô giá và nó vẫn tồn tại dù có bị cố tình chôn lấp :

"Những tác phẩm văn học hội tụ cả hai giá trị nhân đạo, và giá trị hiện thực như vậy, dù sau 1975 người ta có cố tình hủy diệt, thì nó vẫn sống và còn sinh sôi nảy nở, không chỉ ở nơi đã sinh ra". 

Với nhạc sỹ Tuấn Khanh, vào lúc mà tất cả những cuốn sách cũ với những chủ đề nhạy cảm nhất, vẫn xuất hiện ở trên những hiệu sách đường phố ; cũng như những bài hát của văn hóa miền Nam VNCH vẫn vang lên khắp nơi như là một phần hiển nhiên không thể chối cãi trong đời sống Việt nói chung.

"Vì có lẽ dựa trên nền tảng giáo dục khai phóng và nhân bản, nên mọi sáng tạo đóng góp cho văn hóa người Việt trong xã hội miền Nam Việt Nam lúc đó, nói chung đều được trân trọng và được giữ gìn.

Câu chuyện đó bất cứ lúc nào nhìn lại cũng sẽ thấy rằng, may mà chúng ta đã có được một giai đoạn - dù không là hoàn hảo - nhưng đối chiếu đến hiện tại vẫn là một điều vô cùng tuyệt vời".

Nguồn : RFA, 16/07/2024

Published in Việt Nam