Việt Nam ‘giám sát’ mạnh mẽ công dân trong ứng phó với Covid-19 (VOA, 21/04/2020)
Việt Nam được một viện nghiên cứu hàng đầu của Mỹ đánh giá là đã làm tốt trong việc khống chế sự lây lan của đại dịch virus corona nhờ vào "văn hoá giám sát" được thực hiện một cách mạnh mẽ và có sự đồng thuận của phần lớn người dân.
Một người lái xe máy qua một poster kêu gọi người dân bảo vệ sức khoẻ trước virus corona trên một đường phố ở Hà Nội hôm 14/4. CSIS nói người dân Việt Nam đồng thuận với sự giám sát của chính phủ nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh.
Quốc gia Đông Nam Á này nằm trong số những nước có tỷ lệ lây nhiễm thấp nhất thế giới và, theo nhận định của Tổ chức Y tế Thế giới, là một trong những quốc gia đứng đầu trong nỗ lực kiểm soát lây nhiễm nCoV.
Theo đánh giá của giám đốc Chương trình Đông Nam Á của Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), Amy Searight, Việt Nam - cùng với Singapore - đã sớm hành động để ứng phó với sự bùng phát dịch ngay từ đầu. Mặc dù Singapore đang phải chống đỡ với một làn sóng mới các ca lây nhiễm thì Việt Nam, với dân số hơn 96 triệu, đã không ghi nhận ca nhiễm mới nào trong gần 1 tuần qua, với 268 trường hợp dương tính mà không có ca tử vong nào tính đến ngày 21/4.
Thành viên tư vấn cao cấp của viện nghiên cứu có trụ sở ở Washington DC cho rằng, trong khi Singapore sử dụng các công cụ công nghệ cao để truy tìm virus thì Việt Nam dựa vào việc huy động nguồn lực nhân dân và đóng cửa xã hội cũng như giám sát trên diện rộng công dân của mình.
Ngay từ những ngày đầu khi dịch mới bùng phát, Việt Nam đã đóng tất cả các doanh nghiệp không thiết yếu, trường học và thực hiện cách ly trên diện rộng. Một làng ở tỉnh Vĩnh Phúc là khu vực đầu tiên bị cách ly toàn bộ trong 21 ngày và hàng chục nghìn người đã được đưa đi cách ly tập trung, phần lớn tại các doanh trại quân đội.
Một yếu tố quan trọng trong việc giúp Việt Nam khống chế dịch tốt, được bà Searight nhắc tới trong bài bình luận của mình đăng tải trên trang web của CSIS hôm 20/4, là sự "theo dõi và giám sát chặt chẽ công dân" của mình. Theo nhà nghiên cứu của CSIS, hoạt động này được hỗ trợ bởi một mạng lưới rộng lớn những người cung cấp tin tức và việc này giúp xác định danh tính cũng như cách ly những người bị nghi nhiễm virus và những người đã tiếp xúc với họ. Bà Searight cho rằng "văn hoá giám sát" của Việt Nam mang tính hiệu quả cao trong việc giúp cơ quan chức năng theo dõi và giao tiếp với người dân. Đồng thời, theo bà, hệ thống này được phần lớn công chúng ở Việt Nam chấp nhận hoặc ít nhất là thích ứng với "mức độ xâm nhập" này của chính phủ, mà ở các nước phương Tây có thể vấp phải sự kháng cự của người dân.
Việt Nam bắt buộc khai báo y tế đối với tất cả người dân cũng như người nước ngoài ở Việt Nam, khi nhập cảnh cũng như khi đi đến bệnh viện hoặc tới nhà hàng hay thậm chí đến các cơ sở làm đẹp hoặc massage. Người dân Việt Nam đang thực hiện cách ly xã hội toàn quốc trong 3 tuần liên tiếp theo chỉ thị của thủ tướng chính phủ.
Để việc giám sát đạt hiệu quả hơn, một ứng dụng di động nhằm truy dấu các trường hợp F1, F2 khi xuất hiện các ca dương tính với Covid-19 bằng định vị Bluetooth đã được Bộ Thông tin - Truyền thông công bố hôm 18/4. Thông qua ứng dụng, được cho là "bảo mật, ẩn danh và minh bạch", cơ quan y tế có thẩm quyền sẽ biết được những người nhiễm và người nghi nhiễm do tiếp xúc gần với người nhiễm Covid-19.
Giám đốc khu vực Tây Thái Bình Dương của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) Takeshi Kasai nói với truyền thông trong nước hôm 21/4 rằng người dân Việt Nam sự hợp tác cao với chính phủ và có ý thức kỷ luật trong việc "tuân thủ các quy tắc xã hội để giảm lây nhiễm".
Báo chí Nhà nước cần làm gì để có thể thực sự phục vụ nhân dân’ ? (RFA, 21/04/2020)
Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo Việt Nam Hồ Quang Lợi, khi trả lời báo chí hôm 21/4/2020, nhân kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Hội Nhà báo Việt Nam, cho rằng trong bối cảnh mới, báo chí càng phải khẳng định vai trò quan trọng dẫn dắt, định hướng dư luận bằng thông tin chính xác, khách quan, trung thực...
Một sạp bán báo tại Việt Nam. RFA - Ảnh minh họa
Ông Hồ Quang Lợi còn nhấn mạnh, làm báo để phục vụ đất nước, nhân dân.
Vậy báo chí Nhà nước cần làm gì để có thể ‘phục vụ nhân dân’ trong thời kỳ mới như lời ông Hồ Quang Lợi ?
Chị Hằng, hiện sinh sống tại Việt Nam, nói với Đài Á Châu Tự Do hôm 21/4/2020 :
"Tôi thấy báo chí Việt Nam làm gì có phục vụ nhân dân ? Tôi chẳng bao giờ muốn đọc. Báo chí cần phải nói thẳng và nói thật, không giấu diếm. Báo chí phải đứng về phía người dân để viết, chứ không viết theo sự chỉ đạo của đảng cộng sản. Ngoài ra, người viết bài cần có nghiệp vụ, người viết báo cần có cái tâm và chính nghĩa. Nếu báo chí Việt Nam thay đổi được, thì tôi nghĩ sẽ thu hút nhiều người dân đọc báo hơn".
Còn Chị Phan Thị Mỹ Xuyên, ở Hà Tĩnh, khi nói với Đài Á Châu Tự Do hôm 21/4/2020, thì cho rằng, báo chí cần phải trong sáng, nói đúng sự thật bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của người dân. Nhưng ở Việt Nam hiện nay báo chí còn hùa theo những người tham nhũng, hãm hại dân, đăng tin sai sự thật, dẫn đến việc nhiều gia đình có thể bị cảnh oan sai trong nhiều năm vẫn không được giải quyết.
Mặc dù quy hoạch phát triển và quản lý báo chí Việt Nam đến năm 2025, sẽ theo chiều hướng giảm số lượng. Nhưng theo Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện Việt Nam vẫn còn hơn 800 cơ quan báo chí, 67 đài phát thanh truyền hình với đội ngũ nhà báo lên tới khoảng 40 ngàn người. Tất cả các cơ quan báo chí này đều phải chịu sự kiểm soát thông tin của nhà nước mà cụ thể là theo đường hướng của Ban Tuyên giáo Trung ương.
Từ Nha Trang, khi trả lời Đài Á Châu Tự Do hôm 21/4/2020, Nhà báo Võ Văn Tạo nói :
"Để báo chí phục vụ nhân dân, theo tôi nghĩ trước tiên phải phục vụ một cách thiết thực. Chứ hiện nay, hệ thống tuyên truyền của nhà nước Việt Nam cứ nói báo chí phục vụ nhân dân, nhưng quan điểm của tôi cũng như đa số người dân, báo chí ít phục vụ nhân dân lắm, phục vụ ‘các cụ’ thôi. Khi làm báo trước đây, chúng tôi thường nói lóng, tin bài đó thuộc dạng ‘kính cụ’, tức là tin bài đó được lòng lãnh đạo, dân chả cần xem... ví dụ như tin ‘hôm nay Tổng bí thư Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tiếp đồng chí gì đó’ Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư Lào…".
Theo Nhà báo Võ Văn Tạo, người dân đâu cần những tin bài lấy lòng lãnh đạo, cái họ cần là những gì thực tế như việc : ‘bao giờ hết giãn cách xã hội và những bước như thế nào để chuẩn bị’...
Một sạp bán báo ở Việt Nam RFA - Ảnh minh họa
Báo chí tại Việt Nam phục vụ nhiệm vụ chính trị, không có báo chí tư nhân, định hướng dư luận xã hội… thì không có gì mới, lâu nay vẫn là những cái cơ bản mà nhà nước Việt Nam áp dụng với báo chí. Nhưng nếu so với cách đây khoảng 3 hay 4 thập kỷ, thì việc kiểm soát báo chí có thay đổi. Không chỉ bị kiểm soát trực tiếp từ Ban Tuyên giáo Trung ương đến Ban Tuyên giáo địa phương và các Sở Thông tin - Truyền thông ở các tỉnh thành. Các tờ báo còn bị kiểm duyệt thông qua việc bố trí nhân sự trong các cơ quan báo chí như bí thư chi bộ, đảng bộ của các nơi này.
Để tìm thêm về vấn đề này, Đài Á Châu Tự Do hôm 21/4/2020, liên lạc Nhà nghiên cứu xã hội học, Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương, và được bà đưa ra nhận định :
"Nhìn chung thì tôi nghĩ những ai làm về báo chí đều biết phải đánh đúng nhu cầu của người dân, những cái người dân đang quan tâm thì mình đánh đúng nhu cầu đó. Thứ hai là cái mà bây giờ người ta hay dùng là ‘hot’, chạy theo những cái ‘hot’ trên thị trường... thì người ta sẽ quan tâm hơn. Còn nói về thông tin không đúng sự thật thì bây giờ nó là một vấn đền rất lớn, vì ngay cả báo lớn nhưng có khi cũng đưa những thông tin không đúng lắm, còn những tờ báo vừa hay người ta còn gọi là lá cải, thì đôi khi người ta còn lợi dụng cả những tin đấy để gây sự chú ý, hoặc là thậm chí tạo ra một scandal, và scandal đó lại càng tăng tranh cãi và tò mò của người đọc, thì có khi họ lại sử dụng nó như một công cụ để tăng người đọc".
Vậy báo chí Nhà nước cần làm gì để có thể thật sự ‘phục vụ nhân dân’ trong thời kỳ mới như lời ông Lợi ?
Nhà báo độc lập Nguyễn Ngọc Già, nguyên Phó trưởng ban Kế hoạch - Dự án và Phó trưởng ban Tư Liệu của Đài truyền hình HTV, khi trao đổi với Đài Á Châu Tự Do hôm 21/4/2020 từ Sài Gòn, liên quan vấn đề này cho biết ý kiến của mình :
"Báo chí là một sản phẩm của thị trường thì không thể nói phục vụ nhân dân mà phải nói bán ra thị trường, như vậy phải căn cứ vào nền kinh tế thị trường. Người ta hay gọi báo chí là một món ăn tinh thần, như vậy để thị trường quyết định. Nếu đáp ứng đúng nhu cầu thị trường thì người ta sẽ chấp nhận và mua (xem) sản phẩm đó, và tờ báo sẽ sống được. Tóm lại, thứ nhất là phải quy về cái căn bản nhất là nền kinh tế thị trường, như vậy mới có thể vực nền báo chí đang rệu rã, dối trá hiện nay tại Việt Nam.
Thứ hai, theo Nhà báo Nguyễn Ngọc Già, báo chí phải làm việc theo luật, phải bỏ hết những tin bài không liên quan luật báo chí, tức là những kiểu mà người cộng sản Việt Nam hay dùng, đó là những chỉ thị, nghị quyết... thậm chí mệnh lệnh miệng để điều khiển báo chí. Theo ông, việc đó là sai lầm. Ông nói tiếp :
"Thứ ba, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, là một cái thiếu hụt trầm trọng suốt hàng chục năm qua. Như vậy, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải trả lại quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, đồng thời phải gắn chặt tính trách nhiệm đi đôi với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí... mới giải quyết được tình trạng báo chí như hiện nay".
Cũng xoay quanh vấn đề quan trọng nhất là kinh tế thị trường trong lĩnh vực báo chí. Nhà báo Nguyễn Ngọc Già cho rằng, tất cả báo chí Việt Nam phải tự thu xếp, tự nuôi sống bản thân, chứ không thể nào còn nhận ngân sách từ nhà nước cấp. Ví như những trang báo lớn, quan trọng của nhà cầm quyền như báo Nhân dân, Sài gòn Giải phóng... thì hầu như không bán được, mà phải buộc các cơ quan, tổ chức mua những tờ báo của họ, để họ có kinh phí mà họ sống.
Đồng quan điểm, nhà báo Võ Văn Tạo cũng cho rằng, báo chí muốn phục vụ nhân dân thì phải có tự do báo chí, không bao cấp, thì báo chí mới có trách nhiệm, chứ còn nhà nước, đảng bao cấp thì báo chí cũng chỉ là công cụ tuyên truyền cho đảng, chứ không phải báo chí đúng nghĩa.
Vào ngày 21/4, tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới công bố phúc trình về Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới năm 2020, theo đó Việt Nam bị xếp hạng 175 trên 180 quốc gia được đánh giá.
Xuất nhập khẩu Việt Nam trong thời dịch Covid-19 (RFA, 17/03/2020)
Tình hình dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp và đã lan rộng tới nhiều quốc gia trên thế giới khiến lĩnh vực xuất nhập khẩu của Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn.
Giới chuyên gia nói gì về những thách thức đó ?
Công nhân tại xưởng may mặc. Reuters
Sự lệ thuộc vào xuất nhập khẩu của nền kinh tế Việt Nam
Chuyên gia kinh tế-tài chính Nguyễn Trí Hiếu nhắc lại nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào xuất nhập khẩu. Vì lẽ đó, ông Hiếu nhận định nền kinh tế Việt Nam đang hứng chịu những tác động tiêu cực khi dịch Covid-19 lây lan toàn thế giới. Ông trình bày :
"Khi nền kinh tế khủng hoản như hiện nay, thì không những tại Trung Quốc, mà những thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Châu Âu mà đi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế vì dịch bệnh này, thì dĩ nhiên đầu ra của Việt Nam đang bị tác động mạnh. Thành ra có một hiện tượng theo tôi nhìn là hiện tượng mất cân đối. Trong tháng 2, đầu vào của Việt Nam bị tác động mạnh bởi dịch bệnh, nhưng đầu ra vẫn tương đối ổn định. Giờ thì đầu vào của Việt Nam tốt đẹp khả quan hơn khi tình hình dịch bệnh của Trung Quốc đã được kiểm soát và nhiều hoạt động kinh doanh của Trung Quốc đã phục hồi, thì đầu ra của Việt Nam bị mất sự ổn định khi mà thị trường xuất khẩu của Việt Nam như Mỹ và Châu Âu bị ảnh hưởng".
Cũng có cùng nhận định, ông Diệp Thành Kiệt, chuyên gia May mặc & Da giày, cho biết nguồn cung từ Trung Quốc đã tương đối quay trở lại, mặc dù hiện vẫn chỉ đáp ứng cho ngành sản xuất da giày khỏang 50% so với trước đây. Tuy nhiên, theo ông vấn đề của các doanh nghiệp hiện tại là thị trường tiêu thụ. Ông giải thích :
"Như CEO của Adidas có thông báo là trong quý một của 2020 này, riêng Adidas có thể mất 1 tỷ EUR. Do đó cái mà mọi người đang lo nhất là thị trường tiêu thụ ; nguồn cung giờ chỉ là vấn đề thứ yếu, mặc dù bị ảnh hưởng. Hiện nay phần lớn cái mà các nhà sản xuất lo là đơn hàng không có. Khi thị trường sụp đổ thì việc đầu tiên là bán hàng không được ; nếu bán hàng không được thì sẽ bị đóng cửa. Bây giờ có dù các nguồn nguyên liệu của Trung Quốc có phục hồi đi chăng nữa thì cũng vất đi".
Doanh nghiệp cần tích cực chủ động chấn chỉnh, phân tán rủi ro
Công nhân nhà máy giày tại Hà Nội. Reuters
Khi đề ra các giải pháp căn cơ cho ngành xuất nhập khẩu của Việt Nam với thị trường các nước tiên tiến đang chịu tác động tiêu cực, chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh, trưởng bộ môn Quản trị Tài chính Việt Nam, cho biết chính phủ Việt Nam phải chuẩn bị các điều kiện và phương pháp giúp cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn này. Ông đưa ra những đề xuất :
"Phía Chính phủ Việt Nam cũng phải giảm các chi phí về quản lý hành chính, các chi phí về đăng ký, chi phí về xuất nhập khẩu, các chi phí liên quan dến chứng nhận xuất xứ hoặc các chi phí có liên quan đến kiểm dịch hoặc các chi phí về vận chuyển để từ đó giúp cho các doanh nghiệp có thể giảm được chi phí thấp nhất để đáp ứng nhu cầu trong điều kiện dịch bệnh như thế này".
Tuy nhiên, cũng theo ông Thịnh, các doanh nghiệp phải tích cực chủ động chấn chỉnh lại tổ chức sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm thiểu các chi phí không cần thiết để hạ giá thành, từ đó có thể đáp ứng được nhu cầu chi phí trong thời kỳ dịch bệnh. Đồng thời, nhà nước phải tạo điều kiện cho các thương vụ ; lãnh sự quán Việt Nam phải kết hợp với Bộ Công thương và các doanh nghiệp xem xét thị trường các quốc gia để hướng dẫn cho các doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và không để phụ thuộc vào thị trường nào.
Đẩy mạnh phát triển tiêu thụ nội địa và tập trung vào người lao động
Ông Nguyễn Trí Hiếu cho biết Việt Nam đang có kế hoạch phân tán rủi ro và đa dạng thị trường nhập khẩu, không chỉ tập trung ở Trung Quốc, đồng thời vấn đề đa dạng hóa thị trường xuất khẩu cũng được đề cập đến. Song song đó, thị trường nội địa cũng phải được tăng cường giúp giảm thiểu lệ thuộc quá nhiều vào các thị trường nước ngoài. Ông có ý kiến :
"Thị trường đầu ra cũng vậy, việc dựa chủ yếu vào thị trường của Mỹ và thị trừờng Châu Âu, thì đó là rủi ro cho Việt Nam ; cái rủi ro đó hiện tại đang trở thành tác động cho nền kinh tế Việt Nam. Vấn đề phân bố rủi ro, đang dạng hóa xuất khẩu của Việt Nam là điều bắt buộc. Bên cạnh đó thì có lẽ thị trường nội bộ của Việt nam mình cần phải tăng được mức cầu. Thành ra để nền kinh tế Việt Nam có thể phục hồi lại thì việc tăng được nhu cầu nội địa là điều rất quan trọng".
Cùng quan điểm, ông Đinh Trọng Thịnh nhận định một trong những điều quan trọng hiện này là các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm phương hướng để đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hóa trong nước. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tích cực chủ động đưa hàng hóa của mình vào các hệ thống phân phối trong nội địa để từ đó có thể gia tăng sản lượng tiêu thụ. Đồng thời, các nhà quản lý phải là người thường xuyên theo dõi và phải có các chính sách mềm dẻo, linh hoạt để giúp cho các doanh nghiệp có thể vượt qua thời buổi khó khăn này, để từ đó có thể tồn tại được.
Còn theo quan điểm của ông Diệp Thành Kiệt, chính phủ Việt Nam nên có chính sách tập trung giải quyết đời sống cơ bản cho người lao động, vì nguồn thu nhập và tích lũy của họ có giới hạn. Ông nói :
"Đối với các doanh nghiệp trong nước, ví dụ cung ứng lương thực, thực phẩm, hoặc những dịch vụ thiết yếu cho đời sống hàng ngày trong nước, thì những doanh nghiệp đó vẫn hoạt động hàng ngày được. Dĩ nhiên thì hoạt động của họ cũng bị hạn chế lại, bởi vì người tiêu dùng là những người lao động làm trong nhà máy mà không có thu nhập thì sức mua của họ cũng sẽ giảm và bị ảnh hưởng. Vì vậy cũng có các ảnh hưởng gián tiếp, nhưng ảnh hưởng trực tiếp là những người làm trong nhà máy xuất khẩu".
Chính phủ Hà Nội tỏ ra cương quyết trong các biện pháp phòng chống dịch và hỗ trợ cho doanh nghiệp vào lúc này. Tuy nhiên trong tình thế hiện nay, không phải mọi kế hoạch đều có thể thực hiện theo ý muốn chủ quan.
******************
Trữ lượng tại nhiều mỏ dầu chủ lực của Việt Nam đang bị suy giảm (RFA, 17/03/2020)
Trữ lượng dầu khí khai thác được từ những mỏ truyền thống chủ lực của Việt Nam hiện nay đang bị suy giảm sau 20-30 năm khai thác.
Hình minh họa Courtesy of pvn.vn
Báo trong nước loan tin ngày 17/3, trích thông tin từ Tập đoàn dầu khí Việt Nam PVN.
Cụ thể, các mỏ dầu được PVN cho là truyền thống chủ lực bao gồm Bạch Hổ, Sư Tử, Rạng Đông, và Lan Tây. Đây là những mỏ dầu được nói đóng góp sản lượng quan trọng, cung cấp gần 600 triệu tấn dầu khí quy đổi trong thời gian qua.
Trước khó khăn gia tăng trữ lượng dầu khí đang suy giảm, PVN cho biết sẽ đầu tư thêm các giải pháp công nghệ để tận thu hồi dầu tại các mỏ vừa nêu.
Ngoài ra, PVN cũng sẽ đa dạng hóa nguồn đầu tư trong nước cũng như tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài đẩy mạnh triển khai công tác tìm kiếm, thăm dò ở các vùng truyền thống và khu vực nước sâu, thậm chí xa bờ ngay khi có thời cơ thuận lợi.
Tuy nhiên, PVN đang gặp khó khăn do cơ chế chính sách cho ngành dầu khí chưa thay đổi kịp thời. Cụ thể, có nhiều quy định trong các luật về hoạt động dầu khí chưa phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, biến động của kinh tế, chính trị, dầu khí trên thế giới và trong khu vực.
PVN cũng đang trong tình trạng thiếu vốn đầu tư trầm trọng, nhiều dự án phát triển quan trọng đang chậm tiến độ. Nguyên nhân được nói là do quá trình thăm dò và chi phí thăm dò cần được đầu tư nhiều nhưng trong những năm qua vẫn luôn ở mức thấp kỷ lục.
Thêm vào đó, tình hình Biển Đông không ổn định với hành động quyết đoán, khiêu khích từ phía Trung Quốc cũng khiến PVN gặp nhiều khó khăn trong việc hoạch định một kế hoạch dài hạn, hay tìm kiếm các đối tác chiến lược cùng thăm dò, khai thác dầu khí.
****************
Cựu thứ trưởng quốc phòng bị truy tố vì gây thiệt hại gần nghìn tỉ đồng (VOA, 17/03/2020)
Viện Kiểm sát Quân sự Trung ương của Việt Nam vừa hoàn tất cáo trạng truy tố cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Văn Hiến vì "thiếu trách nhiệm" dẫn đến ngân sách nhà nước bị thiệt hại xấp xỉ 940 tỉ đồng, theo báo chí trong nước hôm 17/3.
Cựu Thứ trưởng quốc phòng Việt Nam Nguyễn Văn Hiến. (Screenshot of Báo Giao Thông)
Cùng bị truy tố với ông Hiến là 7 bị can khác, gồm Bùi Như Thiềm, Bùi Văn Nga, Đoàn Mạnh Thảo, Trần Trọng Tuấn, Đinh Ngọc Hệ (tức Út "trọc"), Phạm Văn Diệt và Vũ Thị Hoan, bị quy là đã "vi phạm quy định về quản lý đất đai" và "lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Cáo trạng nói 8 người kể trên đưa đất quốc phòng vào kinh doanh tại 3 vị trí "đất vàng" ở quận 1 trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, nhưng họ không tuân thủ các quy định của Bộ Quốc phòng, chính phủ và Luật Đất đai năm 2003. Vụ việc xảy ra bắt đầu từ năm 2006.
Cáo trạng được báo chí Việt Nam trích dẫn viết rằng ông Nguyễn Văn Hiến đã "không kiểm tra" năng lực và việc thực hiện dự án kinh doanh của hai công ty đối tác, do đó, phía đối tác đem thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, chuyển nhượng quyền sở hữu đất cho bên thứ ba.
Những giao dịch của nhóm 8 người này dẫn đến hậu quả là Quân chủng Hải quân "mất quyền quản lý, sử dụng" 3 khu đất trong thời gian 49 năm, "gây thất thoát" cho ngân sách nhà nước số tiền gần một nghìn tỉ đồng.
Theo khoản 3 điều 360 Bộ luật hình sự năm 2015 về tội "thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng", cựu Thứ trưởng Nguyễn Văn Hiến đối mặt với hình phạt tù từ 7 năm đến 12 năm.