Việt Nam thiệt hại 1,4 tỷ đô la vì mất điện
AFP, VOA, 11/08/2023
Tình trạng thiếu điện nghiêm trọng ở Việt Nam do nắng nóng gay gắt và hạn hán chưa từng có vào tháng 5 và tháng 6 đã gây thiệt hại đến 1,4 tỷ đô la, theo Ngân hàng Thế giới.
Đèn đường ở Hà Nội được tắt để tiết kiệm năng lượng vào ngày 8/6/2023. Ngân hàng Thế giới ước tính tình trạng thiếu điện đã gây thiệt hại đến 1,4 tỷ đô la cho Việt Nam.
Miền Bắc Việt Nam đã bị mất điện liên tục và đột ngột, khiến cho hoạt động của rất nhiều nhà máy bị ảnh hưởng nặng nề. Nhiều doanh nghiệp cho biết họ hiếm khi nhận được thông báo, hoặc thậm chí không có bất kỳ thông báo trước nào.
Việt Nam hiện đang trở thành một phần quan trọng trong chuỗi cung ứng của một số công ty sản xuất hàng đầu trên thế giới, trong đó có Samsung và nhà cung cấp cho Apple là Foxconn, tập đoàn có nhà máy cách Hà Nội không xa.
Ngân hàng Thế giới trích dẫn một cuộc khảo sát ngành công nghiệp nhỏ và cho biết trong bản cập nhật kinh tế tháng 8 rằng với mức thâm hụt cung cầu cao nhất ước tính là 1,8 GW, các doanh nghiệp ở phía bắc đã báo cáo khoản lỗ lên tới 10% doanh thu.
"Ước tính sơ bộ về chi phí kinh tế cho sự cố mất điện từ tháng 5 đến tháng 6 là khoảng 1,4 tỷ đô la Mỹ (tương đương 0,3% GDP)", Ngân hàng Thế giới cho biết trong báo cáo công bố hôm 10/8.
Việt Nam đã phải vật lộn với một loạt đợt nắng nóng bắt đầu từ đầu tháng 5 khi nhiệt độ đạt mức cao kỷ lục, trong khi các con sông và hồ chứa tại các nhà máy thủy điện cạn kiệt.
"Cần phải có hành động kịp thời để giảm thiểu rủi ro trong tương lai đối với an ninh năng lượng và thiệt hại kinh tế", Ngân hàng Thế giới đưa ra khuyến nghị trong báo cáo.
Việt Nam vốn phụ thuộc vào thủy điện để đáp ứng gần một nửa nhu cầu năng lượng của quốc gia, trong khi nhu cầu điện đang tăng trung bình hơn 8% mỗi năm.
Chính phủ Việt Nam đã đặt mục tiêu giảm 2% mức tiêu thụ năng lượng mỗi năm cho đến năm 2025, cho thấy vấn đề khó khăn về năng lượng có thể vẫn sẽ tiếp diễn.
Việt Nam cũng đưa ra một cam kết đầy tham vọng là từ bỏ năng lượng đốt than vào năm 2050 như một phần trong nỗ lực chống biến đổi khí hậu.
Nguồn : VOA, 11/08/2023
************************
Đợt khủng hoảng điện ở Việt Nam trong hai tháng 5, 6 gây thiệt hại 1,4 tỷ USD
RFA, 11/08/2023
Đợt thiếu điện nghiêm trọng suốt hai tháng năm và sáu vừa qua tại Việt Nam do nắng nóng và hạn hán chưa từng có gây thiệt hại 1,4 tỷ USD.
World bank cho biết mức thiếu hụt điện so với nhu cầu sử dụng điện ở mức đỉnh điểm của các nhà máy tại phía Bắc lên đến 1,8GW. AFP
Ngân hàng Thế giới (World Bank) công bố số liệu vừa nêu trong báo cáo ra ngày 10/8. Thiệt hại 1,4 tỷ USD tương đương 0,3% GDP của Việt Nam.
Theo WB, đợt thiếu điện tác động tệ hại đến nhiều nhà máy ở miền Bắc Việt Nam ; trong số này chỉ có một số được thông báo ít ỏi hay không có cảnh báo gì trước về việc cắt điện. Tại khu vực này có nhiều nhà máy lớn thuộc chuỗi cung ứng toàn cầu như Samsung, Foxconn… và những doanh nghiệp bị tác động báo cáo doanh thu thiệt hại đến 10%.
WB cho biết mức thiếu hụt điện so với nhu cầu sử dụng điện ở mức đỉnh điểm của các nhà máy tại phía Bắc lên đến 1,8GW.
Thủy điện hiện cung ứng đến phân nửa nhu cầu điện tại Việt Nam ; trong khi đó nhu cầu tăng hằng năm hơn 8%. Thế nhưng nắng nóng, khô hạn kỷ lục kể từ đầu tháng năm làm nhiều sông ngòi, hồ chứa của các nhà máy thủy điện thiếu nước để chạy máy.
Chính phủ Hà Nội đặt mục tiêu được cho là tham vọng đến năm 2050 không còn nhiệt điện chạy than ; và giảm nhu cầu tiêu thụ năng lượng mỗi năm xuống 2% cho đến năm 2025.
WB thúc giục Việt Nam phải có hành động ngay để giảm thiểu những nguy cơ về an ninh năng lượng và thiệt hại kinh tế trong tương lai liên quan đến tình trạng năng lượng điện.
Nguồn : RFA, 11/08/2023
Phần 1
Chưa có bất kỳ phân tích thấu đáo nào về quản trị - điều hành EVN và lối quản trị - điều hành ấy tác động đến hoạt động của lĩnh vực điện năng cũng như kinh tế thế nào.
Đến giờ, "minh bạch" về hoạt động của EVN vẫn chỉ là đề nghị chưa có hồi âm, điều duy nhất thiên hạ có thể biết là EVN dọa rằng, nếu không kịp thời tăng giá bán điện, khoản lỗ của năm nay (khoảng 93.000 tỉ đồng) sẽ gấp ba lần năm ngoái (khoảng 31.000 tỉ đồng).
Chính phủ Nam Hàn vừa tổ chức thêm một hội nghị khẩn cấp nữa về kinh tế và dân sinh. Ở hội nghị khẩn cấp vừa diễn ra hôm 15/2/2023, ông Yoon Suk-yeol, Tổng thống Nam Hàn đã yêu cầu từ nay đến giữa năm, các cơ quan hữu trách của chính phủ phải giữ nguyên, không để những loại phí do chính phủ kiểm soát (đường bộ, đường sắt, viễn thông) gia tăng (1).
Giống như nhiều quốc gia khác, cả chính phủ lẫn dân chúng Nam Hàn đang loay hoay đối phó với lạm phát. Hồi đầu năm nay, giá điện tại Nam Hàn đã tăng thêm 9,5% (tăng thêm khoảng 0,01 Mỹ kim/mỗi kWh) so với năm ngoái. Với giá điện mới, người ta ước đoán, một gia đình bốn người sẽ phải trả thêm khoảng 3,2 Mỹ kim cho việc dùng điện. Lẽ ra giá ga cũng phải tăng nhưng chính phủ Nam Hàn quyết định bù lỗ để kềm giá ga cho tới sang năm vì lo ngại những thành phần yếu thế trong xã hội không kham nổi gánh nặng khi cả giá điện lẫn giá ga (loại năng lượng không thể thiếu trong mùa Đông vì ai cũng cần sưởi ấm) cùng tăng. Để lạm phát không tạo thêm quá nhiều khó khăn cho những thành phần yếu thế, song song với việc cho phép tăng giá điện, chính phủ Nam Hàn loan báo sẽ nâng mức trợ cấp chi phí về năng lượng cho những thành phần yếu thế lên 54 Mỹ kim (từ 100 Mỹ kim thành 154 Mỹ kim) và tùy gia cảnh mà nâng mức giảm tiền ga thêm 5 Mỹ kim đến 10 Mỹ kim/tháng.
Bởi giá điện tăng sẽ ảnh hưởng đến sản xuất, tác động bất lợi đến kinh tế, dân sinh, chính phủ Nam Hàn cũng đã cam kết cho các doanh nghiệp vay vốn để cải thiện hiệu suất sử suất năng lượng. Những đại doanh nghiệp có mức tiêu thụ năng lượng lớn sẽ được hỗ trợ thay thế thiết bị có hiệu suất tiết kiệm năng lượng cao để cùng chính phủ thực hiện một dự án có quy mô quốc gia về tiết kiệm năng lượng (2).
Trong hội nghị khẩn cấp vừa mới được tổ chức ở Seoul, ông Yoon Suk-yeol tiếp tục lập lại yêu cầu mà ông đã từng đề cập nhiều lần: Phải giảm tối đa gánh nặng giá cả cho dân chúng. Phải kềm giữ phí trong những lĩnh vực thiết yếu như giao thông, viễn thông... là để ổn định dân sinh. Ông Yoon kêu gọi doanh giới cùng tham gia với chính phủ trong việc ổn định giá cả, san sẽ gánh nặng của dân chúng...
***
Ở Việt Nam, ngoài việc cho tăng giá điện (từ 220 đồng/kWh đến 558 đồng/kWh) vào 3/2/2023, chính quyền không làm gì thêm trừ việcbày tỏ sự lo ngại vì giá điện tăng có thể gây khó khăn cho việc kiểm soát sự ổn định của kinh tế tế vĩ mô và cân đối các yếu tố lớn khác của nền kinh tế. Quan sát cách hành xử của cả quốc hội lẫn chính phủ, có thể thấy hai hệ thống này giống như khách qua đường nên chỉ yêu cầutính toán thận trọng !
Cho đến giờ, ngoài việc thường xuyên báo công (cố gắng kềm giữ giá bán điện dù chi phí đầu vào như than, dầu tăng cao, do đó đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của nền kinh tế như ổn định vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững) kèm theo báo lỗ (riêng năm ngoái lỗ 31.360 tỉ đồng), ấn tượng duy nhất mà Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tạo được nơi công chúng là nỗ lực không mệt mỏi trong việc đề nghị tăng giá điện.
Bất chấp khuyến cáo của các chuyên gia trong và ngoài Việt Nam, kế hoạch phát triển nguồn điện do EVN soạn thảo, chính phủ phê duyệt vẫn khăng khăng nhắm tới việc phát triển hệ thống nhà máy đốt than để phát điện. Ngoài chuyện môi trường sống bị hủy diệt, hệ thống nhà máy đốt than phát điện này là nguyên nhân khiến EVN lỗ nặng bởi giá than thăng thiên.
Cho dù EVN liên tục thua lỗ nhưng lương thưởng của các viên chức làm việc cho EVN luôn cao ngất ngưởng. Cách nay khoảng hai năm, một số cơ quan truyền thông chính thức tiết lộ, EVN đề nghị trả cho các viên chức lãnh đạo tập đoàn này khoản lương chừng 64 triệu đồng/người/tháng. Theo dự kiến, tổng số tiền EVN trả cho 14 cá nhân lãnh đạo tập đoàn khoảng 10,7 tỉ/năm (3)!
Hàng chục năm nay, chẳng riêng dân chúng, một số cơ quan truyền thông chính thức cũng bàn đi, tán lại chuyện lãnh đạo EVN được trả lương rất cao nhưng EVN năm nào cũng lỗ rất lớn và những khoản thua lỗ theo định kỳ đó đã đẩy giá điện lên cao, kích thích vật giá gia tăng, chất gánh nặng lên vai tất cả các giới nhưng các viên chức hữu trách không bận tâm, có người còn bảo đó là kinh tế thị trường !
Bộ Công thương Việt Nam từng yêu cầu EVN nhanh chóng hoàn tất báo cáo quyết toán chi phí sản xuất - kinh doanh điện 2022, đồng thời thuê kiểm toán độc lập thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính 2022 của EVN để đoàn kiểm tra liên bộ (Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam…) kiểm tra công bố công khai chi phí sản xuất, kinh doanh điện năm 2022 (4) nhưng dù giá bán điện đã tăng vẫn chưa ai thấy báo cáo ấy tròn méo ra sao.
Đang đối diện với tình trạng thiếu đơn đặt hàng, thiếu vốn, mãi lực sụt giảm, lãi suất tăng và đủ thứ rủi ro khó lường khác, giờ lại thêm giá bán điện tăng nhưng doanh giới Việt Nam không còn cách nào khác ngoài chuyện chấp nhận. Nhấn mạnh năm nay cả thách thức và khó khăn sẽ lớn hơn nhiều, một số đại diện doanh giới đề nghị chính quyền và EVN tính toán mức tăng hợp lý, minh bạch thông tin (5).
Chưa có bất kỳ phân tích thấu đáo nào về quản trị - điều hành EVN và lối quản trị - điều hành ấy tác động đến hoạt động của lĩnh vực điện năng cũng như kinh tế thế nào. Đến giờ, "minh bạch" về hoạt động của EVN vẫn chỉ là đề nghị chưa có hồi âm, điều duy nhất thiên hạ có thể biết là EVN dọa rằng, nếu không kịp thời tăng giá bán điện, khoản lỗ của năm nay (khoảng 93.000 tỉ đồng) sẽ gấp ba lần năm ngoái (khoảng 31.000 tỉ đồng). Một số chuyên gia tán thêm, đại loại, nếu doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh điện lỗ nặng thì không chỉ doanh nghiệp suy yếu mà và mức độ hấp dẫn về hiệu suất đầu tư cũng giảm, khả năng thu hút đầu tư vào ngành điện sẽ khó hơn. Điều này có đúng không ?
Trân Văn
Chú thích
(1) http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=57682
(2) https://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=57138
(5) https://diendandoanhnghiep.vn/tang-gia-dien-tranh-tao-ganh-nang-len-doanh-nghiep-239067.html
*************************
Phần 2
Nếu chịu khó theo dõi hoạt động của lĩnh vực năng lượng tại Việt Nam ắt sẽ nhận ra, trong vài thập niên gần đây, với sự hỗ trợ của chính quyền Việt Nam, điện là một lọai "con tin" được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) sử dụng để khống chế kinh tế - xã hội Việt Nam.
Việt Nam có thể thiếu điện không ? Dường như là không.
Bên cạnh việc báo công kèm theo báo lỗ, vẽ ra viễn cảnh suy sụp của hệ thống cung cấp năng lượng nếu không chấp nhận trả thêm tiền điện để EVN có thể tái đầu tư và thu hút đầu tư phát triển nguồn điện, EVN còn dùng thêm chiêu thiếu điện để đòi đủ thứ : Chẳng hạn đòi xây dựng hàng loạt nhà máy đốt than nhằm cung cấp thêm điện, bất chấp các hậu quả tai hại cho môi sinh, môi trường khiến dân chúng bất bình, thậm chí nổi loạn như vụ nổi loạn tại huyện Tân Phong, tỉnh Bình Thuận hồi tháng 4/2015 (1), bất kể chuyện làm như thế sẽ khiến an ninh năng lượng quốc gia phụ thuộc vào công nghệ Trung Quốc, vào than nhập cảng...
Ngoài dùng điện làm "con tin" để ép tăng giá điện, EVN còn liên tục dọa thiếu điện nên sắp hoặc sẽ phải cắt điện luân phiên, gây căng thẳng cho nhiều giới (đầu tư ngoại quốc, doanh nghiệp, tiêu dùng). Hậu quả của kiểu hù dọa này tai hại tới mức hồi cuối 2018, Thủ tướng Việt Nam khi đó phải dọa lại :Anh nào nói cắt điện, tôi cách chức anh đó (3) ! Sau đó, tuy điện không bị cắt theo hình thức luân phiên nhưng thỉnh thoảng, lãnh đạo EVN và Bộ Công thương vẫn thản nhiên đưa ra cảnh báo thiếu điện, dọa sẽ cắt điện luân phiên (4). Chưa thấy Thủ tướng nào (cả tiền nhiệm lẫn đương nhiệm) cách chức "anh" nào ở EVN, ở Bộ Công thương, đã là "đồng chí" thì đâu dễ xuống tay với nhau !
***
Việt Nam có thể thiếu điện không ? Dường như là không. Ngoài nguồn điện từ các nhà máy sử dụng than, dầu, khí đốt, sức nước phát điện, trong khoảng mười năm gần đây, Việt Nam có thêm rất nhiều nhà máy phát điện từ việc khai thác ánh sáng mặt trời, gió... (cùng với thủy điện, địa nhiệt – khai thác sự phân rã phóng xạ của khoáng chất, tái chế rác, hydrogen... được gọi chung là năng lượng tái tạo hay điện xanh, hoặc điện sạch khác với điện bẩn – khai thác nguyên liệu hóa thạch để phát điện). Tính đến hết năm ngoái, điện sạch chiếm 26,4% tổng công suất điện ở Việt Nam. Nếu tính riêng nguồn điện từ mặt trời và gió thì tỉ lệ này là 12,8%.
Do lợi thế về đặc điểm địa lý, triển vọng phát triển điện sạch, đặc biệt là sản xuất điện từ ánh sáng mặt trời, gió tại Việt Nam rất lớn, giới đầu tư (bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp ngoại quốc) đã nhanh chóng rót tiền vào các dự án năng lượng tái tạo. Tổng vốn đầu tư vào những dự án này được ước đoán đã lên đến hàng tỉ Mỹ kim. Tuy nhiên xu hướng này đã chựng lại vì chính sách. Đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo không dễ nhận được ưu đãi về giá bán điện từ chính phủ do Bộ Công Thương – bộ trước giờ vẫn đỡ cà đầu lẫn đuôi cho EVN – tham mưu. Không được bán điện theo giá ưu đãi thì phải bán điện cho EVN theo giá do EVN ấn định.
Trong khi nhiều doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất điện bằng năng lượng tái tạo điêu đứng vì giá mua điện do EVN ấn định quá thấp thì mới đây, Bộ Công thương ban hành thêm "khung giá mua điện" cho các nhà máy sản xuất điện từ năng lượng tái tạo sau khi thời gian mua điện theo giá ưu đãi đã hết. "Khung giá mua điện" mới ban hành thấp hơn từ 20% đến 30% theo giá mua ưu đãi trước đó. "Cửa" cho các dự án phát điện từ năng lượng tái tạo vốn đã hẹp giờ được dự báo là còn hẹp hơn (5).
***
Hàng tỉ Mỹ kim đã đầu tư vào những dự án phát điện từ năng lượng tái tạo đồng nghĩa với việc có thể tiết kiệm hàng tỉ Mỹ kim cho công quỹ (EVN là tập đoàn nhà nước nên bản chất vốn đầu tư vào các dự án của EVN là công quỹ), thế thì tại sao tư nhân hay ngoại quốc đầu tư phát triển nguồn điện từ năng lượng tái tạo lại gian nan, thậm chí trong hai năm vừa qua lại gặp nhiều rủi ro và thường xuyên bị nguy cơ phá sản đe dọa như vậy ? Còn một điểm khác quan trọng hơn cần lưu ý, trong bối cảnh như hiện nay và sắp tới, không chỉ có giới đầu tư vào những dự án phát điện từ năng lượng tái tạo bị đe dọa mà kinh tế - xã hội Việt Nam cũng bị đe dọa bởi đang cố tình đi ngược chiều với những Hội nghị Thượng đỉnh về khí hậu toàn cầu (COP).
Bởi giá phải trả cho việc tự do thải CO2 càng ngày càng đắt, giảm thải CO2 để kềm giữ nhiệt độ toàn cầu, qua đó giảm thiểu thiệt hại nhân mạng và tài sản do thời tiết cực đoan khiến thiên tai khốc liệt hơn đã trở thành nỗ lực chung của nhân loại. Tuy nhiên giá phải trả cho việc áp dụng các biện pháp giảm thải CO2 không rẻ chút nào nên không phải quốc gia nào cũng muốn thực thi. Song, nếu không tiến hành đồng bộ, nỗ lực giảm thải CO2 sẽ không đạt mục tiêu mong muốn (giữ để nhiệt độ toàn cầu chỉ tăng thêm 1,5 độ C vào cuối thế kỷ này). Đó là lý do thông qua các COP, cộng đồng quốc tế vừa thuyết phục các quốc gia thải nhiều CO2, vừa hỗ trợ và áp đặt một số chế tài nhằm thúc ép giảm thải.
Chẳng hạn tháng 7/2021, Liên Hiệp Châu Âu (EU) – khu vực đi đầu trong cuộc vận động giảm thải CO2 – thông qua "Fit for 55 package" - gói chính sách để đến2030 đạt được mụctiêu là giảm tối thiểu ‘55%’ lượng CO2gâyra hiệu ứng nhà kính so với năm 1990 (6). Theo đó, EU sẽ áp "Carbon Border Tax" (thuế carbon) lên hàng hóa của những quốc gia có mức thải CO2 cao hơn mức thải CO2 của các quốc gia thành viên EU nhằm bảo đảm sự công bằng trong cạnh tranh giữa hàng hóa của những quốc gia nỗ lực thực thi việc giảm thải CO2 (phải chi nhiều hơn, giá thành cao hơn) với những quốc gia lờ đi, không áp dụng các biện pháp giảm thải CO2 (chi phí thấp hơn, giá thành rẻ hơn).
Khi EU - một trong những thị trường quan trọng nhất đối với nhiều quốc gia trên thế giới – dùng thuế carbon như hàng rào thương mại thì dù muốn bảo vệ môi trường hay không nhiều chính phủ vẫn buộc phải tính đến chuyện giảm thải CO2 để sản xuất trong nước không đình đốn, tỉ lệ thất nghiệp không tăng, duy trì được nguồn thu từ xuất cảng... Dẫu không nằm trong nhóm dẫn đầu về phát thải CO2 nhưng Nam Hàn đã thử tính toán tác động của thuế carbon nếu không nỗ lực điều chỉnh mức độ thải CO2 của các ngành công nghiệp Nam Hàn (thép, nhôm, điện, xi măng, phân hóa học...). Viện Chính sách kinh tế đối ngoại Nam Hàn (KIIEP) ước đoán, nếu EU áp mức thuế 30 euro/tấn CO2 thì các doanh nghiệp Nam Hàn phải trả thêm khoản tiền tương đương 1 tỷ Mỹ kim/năm.
Muốn thoát thuế carbon khi xuất cảng hàng hóa sang EU vào năm 2026, các doanh nghiệp Nam Hàn phải cải tiến công nghệ để giảm thải CO2, chuyển sang sử dụng các dạng năng lượng mới như điện gió, năng lượng mặt trời, năng lượng hydro... Cho dù chuyển đổi phương thức cung cấp năng lượng trong vòng năm năm là hết sức khó khăn nhưng Nam Hàn không thể quay lưng lại với những thị trường như EU nên năm ngoái, Nam Hàn ban hành "Luật căn bản về trung hòa carbon và tăng trưởng xanh nhằm đối phó với biến đổi khí hậu". Nam Hàn hi vọng việc chính phủ trực tiếp thúc đẩy chuyển đổi phương thức cung cấp năng lượng, xây dựng các cơ sở năng lượng tái tạo, sẽ giúp doanh nghiệp Nam Hàn có thể thuyết phục EU nới tay khi thuế carbon đến hạn phải thu (7).
Chuyện Việt Nam bất chấp các cam kết với cộng đồng quốc tế vào năm 2021 tại COP thứ 26 (giảm mức thải CO2 để đến 2050 đạt mức "phát thải ròng bằng 0" - nghĩa là giảm thải CO2 đến mức tối đa và trồng rừng, ứng dụng công nghệ thu hồi carbon... để cân bằng với lượng CO2 đã thải ra môi trường) [8], vẫn tiếp tục thúc đẩy các kế hoạch sử dụng than để phát điện cho đến 2030 cũng như thu hẹp kích thước của các kế hoạch phát triển năng lượng tái tạo đã khiến cộng đồng quốc tế chưng hửng, thất vọng tràn trề (9). Đã và sẽ còn điên vì... điện không đơn thuần chỉ do giá điện ! EVN có thể chỉ vì lợi ích của riêng EVN nhưng chẳng lẽ chính quyền Việt Nam cũng chỉ vì lợi ích của EVN, không biết làm gì với EVN và không cần bận tâm đến những rủi ro đe dọa cả quốc gia ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 21/02/2023
Chú thích
(1) https://tuoitre.vn/dan-chan-xe-tren-ql1-phan-doi-nha-may-dien-gay-o-nhiem-733994.htm
(2) https://thanhnien.vn/trung-quoc-do-von-vao-nhiet-dien-than-viet-nam-185767260.htm
(3) https://plo.vn/neu-de-mat-dien-se-bi-cach-chuc-post511613.html
(4) https://kinhtedothi.vn/nguy-co-thieu-dien-hien-huu-va-giai-phap-can-co.html
(7)http://world.kbs.co.kr/service/contents_view.htm?lang=v&menu_cate=business&id=&board_seq=407008
Kể từ khi từ bỏ các dự án điện hạt nhân, Việt Nam quay trở lại sử dụng ngày càng nhiều than để sản xuất điện, và điều này đang đặt ra nhiều vấn đề về ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Nhưng đối với các chuyên gia như Giáo sư Phạm Duy Hiển, cựu Viện trưởng Viện Nguyên Tử Đà Lạt, có nhiều phương cách khác để bảo đảm nguồn cung cấp điện mà không cần sử dụng nhiều than, đặc biệt là phải nâng cao hiệu quả sử dụng để tránh phung phí một nguồn điện rất lớn.
Nhà máy nhiệt điện Hải Phòng 1 do Tập đoàn điện khí Đông Phương (DEC) của Trung Quốc và Tập đoàn Marubeni (MC) của Nhật Bản thầu xây dựng (DR)
Trong khi chờ công nghiệp sản xuất các năng lượng tái tạo phát triển nhiều hơn nữa để giá thành giảm bớt, Giáo sư Phạm Duy Hiển đề nghị nên nghiên cứu khả năng phát triển điện hạt nhân trong một tương lai không xa, chứ không nên từ bỏ hẳn loại năng lượng này.
RFI : Thưa Giáo sư Phạm Duy Hiển, trước hết xin giáo sư cho biết là than hiện nay chiếm tỷ trọng khoảng bao nhiêu trong tổng sản lượng điện ở Việt Nam ?
Phạm Duy Hiển : Ngay từ trước khi quyết định thay điện hạt nhân, Việt Nam đã có Quy Hoạch Điện 7, được sửa lại lần thứ hai. Quy hoạch cho đến năm 2030 cho thấy là điện than chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Ví dụ như năm 2015-2016 chỉ mới chiếm 34%, đến 2020 lên đến 49%, 2025 lên 55% và 2030 sẽ vẫn ở mức 54%. Các phần khác như thủy điện hay điện chạy bằng dầu, khí thì không tăng, thậm chí giảm đi, bởi vì điện than tăng lên. Còn năng lượng tái tạo và thủy điện nhỏ thì cũng có tăng, nhưng ít thôi, năm 2015 chiếm 4% và dự kiến đến 2030 chỉ lên đến 10%.
Như vậy là trong những năm tới, Việt Nam sẽ phải dựa vào sự phát triển các nhà máy điện chạy bằng than, nhưng loại than mà Việt Nam lâu nay dùng là than từ Hòn Gai, tạo ra nhiều tro, chất lượng không tốt, thậm chí lưu huỳnh cũng cao.
Nhưng ngay cả dùng loại than ấy thì theo quy hoạch, đến năm 2020 ta phải sử dụng 39 triệu tấn than từ trong nước. Nhưng than trong nước không đủ, nên phải nhập than từ nước ngoài. Lượng than nhập từ nước ngoài đang tăng lên : năm 2020 là 25 triệu tấn, nhưng đến năm 2030, dự kiến sẽ nhập đến 85 triệu tấn. Nhập một lượng lớn như vậy thì khó mà bảo đảm được an ninh năng lượng. Chưa kể đến những vấn đề bến bãi, hậu cần… Vấn đề lớn nhất hiện nay, mà dư luận và các chuyên gia bàn tàn nhiều, đó là vấn đề môi trường.
RFI : Vậy thì thưa Giáo sư, cụ thể, than sử dụng trong các nhà máy nhiệt điện gây những tác hại nào đối với môi trường, cũng như góp phần như thế nào vào hiện tượng biến đổi khí hậu ?
Phạm Duy Hiển : Than phát ra những bụi và những khí độc, đáng kể nhất là SO2, NO2, CO và khí thải mà cả thế giới quan tâm đó là CO2, tức là khí gây hiệu ứng nhà kính. Khi ta tăng số nhà máy nhiệt điện than, môi trường của chúng ta sẽ gặp nhiều vấn đề.
Về bụi thì có thể dùng các hệ thống tĩnh điện để khử, nhưng xử lý khí thì phức tạp hơn, tốn kém hơn, và nói chung hệ thống phải thật tốt, nếu không thì khi xảy ra trường hợp nào đó thì nhà máy vẫn thải ra những khí này. Nhất là có nhiều nhà máy điện than nằm ở vùng đồng bằng Nam Bộ. Gió mùa Tây Nam ảnh hưởng rất mạnh, nên cả vùng Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị ô nhiễm không khí từ các nhà máy điện than.
Ở đồng bằng Bắc Bộ cũng vậy. Các nhà máy điện than cũng nằm gần biển, để cung cấp điện cho dễ, cho nên gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam ở vùng đồng bằng Bắc Bộ sẽ ảnh hưởng hết vùng này.
Cuối cùng, về vấn đề biến đổi khí hậu, chúng ta cũng sẽ đóng góp vào một lượng rất lớn, bởi vì mỗi một năm đến năm 2030, sử dụng đến hơn 120 triệu tấn than để chạy nhà máy điện, thì như thế sẽ phát ra một lượng CO2 khá là lớn. Chúng ta đã tham gia hội nghị COP 20 ở Paris, mà bây giờ lại tăng điện than như thế, nói chung là có vấn đề. Như vậy là chúng ta đi ngược chiều với thế giới trong chuyện điện than này.
RFI : Theo Giáo sư, ở Việt Nam có nguồn năng lượng nào khác có thể được khai thác như điện mặt trời, điện gió ?
Phạm Duy Hiển : Tiềm năng về điện tái tạo rất lớn, nhưng khai thác còn rất khó, với vấn đề lớn nhất hiện nay là giá cả. Với giá hiện nay, thì năng lượng mặt trời, năng lượng gió chưa thể cạnh tranh được. Nhưng tình hình chung trên thế giới là người ta cứ nói rằng nó sẽ phát triển nhanh đến mức khiến giá thành hạ xuống. Chúng ta cũng có thể hy vọng chuyện đó. Nhưng như tôi nói lúc nãy, mặc dù có cố gắng, nhưng dự kiến đến năm 2030 tỷ trọng năng lượng tái tạo và thủy điện nhỏ sẽ chỉ chiếm tối đa 10%.
Riêng tôi thì tôi thấy có một nguồn điện mà chúng ta chưa thấy hết và chưa khai thác được, đó là nguồn điện năng bị phung phí rất nhiều. Nếu sớm nhận ra là chúng ta đang phung phí điện năng, tức là chúng ta tạo ra một nguồn điện sạch nhất, rẻ nhất và an toàn nhất. Ta dùng điện để tạo ra sản phẩm xã hội hay nói theo nhà kinh tế là dùng điện để tạo ra GDP.
Ở Việt Nam muốn tạo ra một đôla GDP, thì phải dùng đến 1,2 Kwh điện. Trung Quốc chỉ tốn 1 Kwh. Các nước như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan chỉ tốn 0,6 Kwh, tức là một nửa của ta. Trong khi đó, Philippines và một số nước khác chỉ tốn 0,4 Kwh, chỉ bằng 1/3 của ta. Những nước tiên tiến như Singapore và Úc chỉ dùng 0,2 Kwh để tạo ra một đôla GDP.
Như vậy là chúng ta tiêu thụ một lượng điện cao ngất ngưởng so với các nước Châu Á-Thái Bình Dương. Đây không phải là lãng phí, mà là phung phí. Chúng ta thường hay nói một điều gần như là mặc định : tăng trưởng kinh tế nhiều thì phải dùng nhiều điện. Thế nhưng, mặc định đó rất là sai. Tôi thấy người ta không cố tìm thêm, không chịu nhìn vào các số liệu thống kê của Liên Hiệp Quốc, của Ngân Hàng Thế Giới, để thấy mình có lượng điện tiêu thụ cao như thế nào so với các nước xung quanh và tăng cũng nhanh so với các nước xung quanh. Nhiều nước đang giảm lượng điện tiêu thụ cho một đôla, còn ta thì cứ tăng !
RFI : Theo Giáo sư thì những nguyên nhân nào khiến việc sử dụng năng lượng ở Việt Nam không đạt hiệu quả như các nước khác ?
Phạm Duy Hiển : Chúng tôi có nghiên cứu bài toán này và thấy rằng đồng hành với việc tiêu thụ điện không có hiệu quả như vậy là do mấy yếu tố trong nền kinh tế của chúng ta.
Thứ nhất, cơ cấu nền kinh tế của ta là nghiêng về khối công nghiệp hơn là khối thương mại và dịch vụ. Khối công nghiệp sử dụng gấp 10 lần điện năng so với khối dịch vụ, nhưng tạo ra giá trị gia tăng trong GDP tương đương nhau, vào khoảng 46%.
Yếu tố thứ hai là giá điện ở Việt Nam hiện nay thuộc loại rẻ nhất trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Giá rẻ thì cũng có lợi cho người dân, nhưng các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước lợi dụng giá rẻ đó để đầu tư vào những công trình tốn rất nhiều điện, nhưng hiệu quả rất ít.
Lý do thứ ba là năng suất lao động của chúng ta còn thấp, nên cũng tiêu thụ nhiều điện.
Thứ tư là chúng ta chưa có một thiết chế kinh tế tốt, chưa có thị trường cạnh tranh lành mạnh. Các tập đoàn Nhà nước nắm độc quyền, rồi thì Nhà nước thực chất là trợ giá trong vấn đề sử dụng điện của các tập đoàn. Chúng ta xét duyệt các công trình không cẩn thận cho nên tạo ra nhiều công trình đầu tư hiệu quả sử dụng rất ít, thậm chí gần đây người ta phát hiện rất nhiều công trình đầu ty lớn, nhưng "đắp chiếu", tức là xây xong mà không biết sử dụng làm gì, mà xây dựng tức là đã tốn rất nhiều xi măng, thép, điện !
Cho nên, nếu mà chúng ta sớm nhận ra đúng sự phung phí điện năng này thì chúng ta thì chúng ta có thể tạo ra một nguồn điện có thể nói rất là rẻ, rất là dồi dào, rất là sạch và an toàn.
Một hướng nữa, đó là chúng ta đã tạm dừng điện hạt nhân, mà có nhiều lý do được đưa ra, trong đó lý do chính là do nó đắt quá, trong khi nợ công nhiều, bây giờ không thể xây dựng những nhà máy, với những lò 1000 Mw mà chi phí ban đầu lên tới 8 hoặc 9 tỷ đôla.
Nhưng thế giới hiện nay nói chung cũng không thể bỏ điện hạt nhân được. Nếu chúng ta tạm dừng thì được, nhưng bỏ hoàn toàn phương án ấy thì cũng không đúng. Nhất là điện hạt nhân lâu nay có những vấn đề như thế, thì người ta đã rút kinh nghiệm và đang có những phương hướng để giải quyết cho điện hạn nhân an toàn hơn rất nhiều.
Thực tế là có thế hệ nhà máy điện hạt nhân thứ tư, là thế hệ mà người ta tin tưởng là sẽ rất an toàn. Nhiên liệu cháy trong đó dường như là không tạo ra bã thải. Những công nghệ như thế là họ đang phát triển, nhưng loại lò tiêu biểu và tương đối an toàn về nội tại là loại lò công suất ít và lắp theo module. Hiện nay Mỹ và nhiều nước đang phát triển đang có những dự án như thế.
Tôi nghĩ là sau 2025 đến 2030 thì bắt đầu có thể thương mại hóa (các nhà máy đó). Do đó, theo tôi, trước mắt thì dừng điện hạt nhân, nhưng có lẽ đến năm 2025 có thể khởi động lại dự án điện hạt nhân, để sau năm 2030 có thể đưa điện hạt nhân trở lại. Lúc đó sẽ đưa điện hạt nhân trở lại với một tư thế khác : điện hạt nhân sẽ có an toàn nội tại, người dân không còn phải lo xảy ra những sự cố như Fukushima.
Thứ hai là đội ngũ của chúng ta hiện đang được chuẩn bị xây dựng lại và nâng cấp lên, sau độ 10, 20 năm nữa sẽ mạnh hơn rất nhiều và có thể làm chủ được công nghệ, cho nên có thể tạo ra sự phát triển bền vững về điện năng, góp phần làm giảm đi hậu quả của việc tiêu thụ than quá nhiều.
Nguồn : RFI tiếng Việt, 20/02/2017