Tình hình ở Biển Đông đã ‘lý tưởng tương thông’ - trong biến cách của ‘Mười sáu chữ vàng’ - đến mức có thể xảy ra việc Trung Quốc cho hạ đặt giàn khoan ngay tại Bãi Tư Chính, hoặc sát khu vực một lô dầu màu mỡ nào đó mà Việt Nam đang khai thác.
Trung Quốc đã triển khai giàn khoan dầu Hải Dương 982 tại Biển Đông. Ảnh: Weibo.
Cỗ máy xay nghiền sắp vận hành
Từ cuối tháng 9 năm 2019, Trung Quốc đã điều giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 vào Biển Đông - động thái nhái lại hình ảnh của giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào năm 2014 như một cái tát vào mặt Bộ Chính trị Việt Nam. Cùng với Hải Dương 982 là sự hiện diện của tàu cẩu Lam Kình - một trong những tàu cẩu lớn nhất của Trung Quốc - ở Biển Đông.
Đến đầu tháng 10 năm 2019, chính Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phải lần đầu tiên xác nhận Trung Quốc đã điều đến 28 tàu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, tuy vẫn không quên thông báo thành tích bộ này đã ‘kịch liệt phản đối Trung Quốc’ đến… 40 lần.
Như vậy, Trung Quốc đã tổ chức khá đầy đủ những cơ phận trong cỗ máy xay nghiền sẵn sàng vận hành của nó : tàu cẩu, giàn khoan và các tàu bảo vệ.
Những cơ phận trên là sự tiếp nối cho một ‘tối hậu thư’ từ Trung Quốc : vào ngày 18/9, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc là Cảnh Sảng đã tung ra một tuyên bố chưa từng có : khẳng định Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền của Trung Quốc và yêu cầu Việt Nam phải ngừng mọi hoạt động khai thác dầu khí ở nơi này.
Đầu tháng 10 năm 2019, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phải lần đầu tiên xác nhận Trung Quốc đã điều đến 28 tàu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Dấu hỏi lớn tiếp liền : nếu Trung Quốc tiến thêm một bước là hạ đặt giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 trong khu vực Bãi Tư Chính, hoặc nằm ngoài khu vực này nhưng sát với một lô dầu khí màu mỡ nào đó mà Việt Nam đang khai thác, liệu các lực lượng được xem là ‘chức năng’ và ‘có trách nhiệm’ của Việt Nam có dám phản ứng ? Nếu phản ứng thì sẽ là gì ?
Chư hầu mới của Bắc Kinh ?
Cần nhắc lại, tới nay đã tròn ba tháng kể từ ngày Trung Quốc điều tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho tàu này xâm phạm Bãi Tư Chính như vào chốn vô chủ quyền, nhưng lực lượng cảnh sát biển và hải quân Việt Nam vẫn chưa một lần dám nổ súng cảnh cáo. Trong khi đó, toàn bộ chóp bu Việt Nam từ Nguyễn Phú Trọng trở xuống vẫn kiên định ‘câm như hến’ mà không một lần dám nêu tên Trung Quốc, càng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giới ‘văn dốt, võ dát’ này dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Cơ hội gần nhất và rõ nhất để tố cáo Trung Quốc đã bị chính thể ‘để cho đảng và nhà nước lo’ làm cho trôi tuột là tại phiên họp của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York vào cuối tháng 9 năm 2019. Khi đó và với một Nguyễn Phú Trọng ‘không không thấy’, chỉ có Phạm Bình Minh - Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam - thậm chí còn chẳng dám hé môi về cái tên Trung Quốc.
Cho đến lúc này, hầu như đã rõ về ý đồ từ gây hấn đến gây chiến của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính. Bắc Kinh không chỉ muốn đóng vai kẻ cướp xông vào nhà người khác để đòi chia tài sản dầu khí theo một tỷ lệ nào đó, chẳng hạn 60 - 40, mà còn muốn chặn đường tiếp cận Mỹ của Nguyễn Phú Trọng hoặc một quan chức nào đó đi Mỹ thay cho Trọng.
Nếu phải quỳ mọp chấp nhận phải chia chác nguồn tài nguyên thiên nhiên cuối cùng là dầu khí cho kẻ cướp, đảng cầm quyền ở Việt Nam sẽ mất trắng nhiều tỷ đô la - tiền dùng để nuôi đảng và trả núi nợ nước ngoài ngập đầu đến hơn 100 tỷ USD - chỉ tính riêng cho khối chính phủ.
Song tình cảnh của giới chóp bu Việt Nam hiện thời không còn là tiến thoái lưỡng nan trong thế đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ, mà đã lâm vào nguy khốn : cho dù Bộ Chính trị Việt Nam có cắn răng ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí’ theo tối hậu thư của Ngoại trưởng Trung Quốc là Vương Nghị, chẳng có gì bảo đảm là Trung Quốc sẽ rút các tàu thăm dò và giàn khoan khỏi Biển Đông. Động tác tiếp liền, như một tối hậu thư khác của Trung Quốc, là đòi hỏi Nguyễn Phú Trọng - đích thân quan chức này - phải ‘chầu thiên triều’ trước khi đi Mỹ, hoặc phải tự kết liễu kế hoạch đi Mỹ.
Nếu chịu phủ phục trước cả hai yêu cầu trên của Trung Quốc, Việt Nam về thực chất sẽ trở thành một thứ chư hầu không cần tuyên bố của Bắc Kinh.
Chết đến đít vẫn kiêu căng hợm hĩnh
Kịch bản ngày càng lộ rõ là Việt Nam khó có thể tránh thoát nguy cơ một cuộc tấn công quân sự, dù có thể chỉ ở cấp độ lữ đoàn, từ phía Trung Quốc. Chiến dịch tấn công này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ diễn ra trên biển và rất gần gũi về mặt kinh tuyến và vĩ tuyến với những mỏ dầu mà Việt Nam đang dự định khai thác nhưng nằm trong "đường lưỡi bò" mới được Trung Quốc vẽ bổ sung.
Bước đầu, Trung Quốc có thể tấn công các tàu hải cảnh của Việt Nam đang bảo vệ Bãi Tư Chính. Sau đó, cuộc chiến sẽ leo thang với sự đụng độ giữa các tàu chiến của hai bên.
Tuy nhiên xét về năng lực hải quân thì cho dù có điều động toàn bộ số tàu chiến và hải cảnh ra Biển Đông, phía Việt Nam cũng chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng lượng tàu chiến và hải cảnh của Trung Quốc, chưa kể hàng chục ngàn tàu "thương mại dân sự", tức tàu cá được bọc sắt, mà Bắc Kinh tung ra như một đòn chiến thuật biển vào những lúc không cần có mặt tàu chiến. Hải quân Việt Nam sẽ khó lòng cầm cự được lâu nếu nổ ra chiến tranh ở Biển Đông.
Còn nếu xét về ý chí "hải quân bám bờ" trong suốt thời gian nhiều năm qua thì chẳng có hy vọng gì về việc Hải quân Việt Nam dám can đảm chống cự tàu Trung Quốc khi bị tấn công, thậm chí cảnh "bỏ của chạy lấy người" còn có thể lan tỏa rộng – đúng theo phương cách "chống giặc bằng cờ" mà giới chóp bu Việt Nam đang đốc thúc phát 1 triệu lá cờ đỏ sao vàng cho ngư dân để "bám biển".
5 năm sau cái năm 2014 vừa khốn khó vừa phải chịu nhục, chóp bu Việt Nam vẫn ngập ngụa nguyên trạng trong cảnh nguy khốn thực sự cùng tương lai mất dầu khí và lãnh thổ.
Trong khi đó, bài toán ‘đối tác chiến lược’ với Hoa Kỳ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông - vẫn cứ ì ra đó bởi những quan chức Việt Nam chết đến đít vẫn còn kiêu căng hợm hĩnh ‘Mỹ cần Việt Nam hơn Việt Nam cần Mỹ’, cùng lúc đẩy số phận Nguyễn Phú Trọng và đảng cộng sản của ông ta từ ‘những người khốn khổ’ thành ‘những kẻ khốn cùng’.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 09/10/2019
Phân tích, dự báo tình hình Biển Đông : có muộn quá hay không ?
Mặc Lâm, VOA, 08/10/2019
Người quan tâm tới cục diện chính trị của Việt Nam có lẽ không thể bỏ qua những tin tức về các kỳ Hội nghị Trung ương vì tại Hội nghị này mọi chủ trương chính sách sẽ được mở ra, thảo luận và được báo chí loan tải cho mục tiêu phải đạt được của Đảng trong các vấn đề mà đất nước phải đối diện.
Nhóm nhân sĩ mang Tuyên bố Biển Đông đến Quốc hội đứng trước tòa nhà Bộ Ngoại giao Việt Nam ở Hà Nội hôm 8/8/2019. (Ảnh chụp video đăng trên Facebook Nguyen)
Trên nguyên tắc là như vậy nhưng qua nhiều Hội nghị Trung ương chưa bao giờ người dân nghe tin Hội nghị bàn bạc tới vấn đề Biển Đông mặc dù năm nào Trung Quốc cũng không nhiều thì ít có những hành vi quậy phá, gây hấn thậm chí tấn công vào vùng biển mà Việt Nam có đặc quyền kinh tế. Mọi biến động ấy không được Hội nghị Trung ương nhắc tới tuy người dân vẫn quan tâm theo dõi có khi còn sâu sát hơn các cơ quan trách nhiệm của nhà nước.
Lần này thì khác. Chính Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã lên tiếng trong bài diễn văn khai mạc sáng ngày 7 tháng 10 mở đầu cho Hội Nghị Trung ương 11, ngoài những chỉ đạo xem xét về kinh tế, xã hội cũng như quản lý nhà nước, ông Trọng còn nhấn mạnh "phân tích, dự báo có căn cứ, cơ sở khoa học, tình hình thế giới và trong nước, nhất là tình hình Biển Đông ; chỉ rõ các khả năng có thể xảy ra trong thời gian tới, lường trước những thời cơ, thuận lợi cần nắm bắt, những khó khăn, thách thức cần phải nỗ lực vượt qua".
Nếu theo dõi tình hình Bãi Tư Chính, nơi Trung Quốc nhúng tay vào từ đầu tháng 7, Trung Quốc đã điều tàu khảo sát Hải Dương 8 đến vùng nước rõ ràng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam, để tiến hành các khảo sát trái phép. Cho tới hôm nay, ngày khai mạc Hội nghị Trung ương 11, Trung Quốc đã đem vào Bãi Tư Chính nhiều đợt thăm dò như khu vực này thuộc chủ quyền của Trung Quốc trong đường chín đoạn của họ. Nhiều nhà quan sát quốc tế cho rằng sở dĩ Trung Quốc ngang nhiên tiến hành việc đưa tàu vào vùng biển Việt Nam cho tới ngày hôm nay, toàn bộ đảng viên cao cấp nhất Việt Nam dự Hội nghị Trung ương 11, để xem thái độ của những người Cộng sản Việt Nam, hay chính xác hơn là của ông Nguyễn Phú Trọng như thế nào trước khi có những bước khác trong mục tiêu thôn tính Biển Đông.
Và câu trả lời của Ông cho thấy Biển Đông sẽ được phân tích và dự báo một cách nghiêm túc không còn bị âm thầm bỏ qua như những lần trước.
Trước hành vi bị xâm lấn chủ quyền lãnh thổ thì bất cứ một quốc gia nào cũng phải có phản ứng. Mạnh thì tập hợp quân đội, kêu gọi quần chúng chuẩn bị chiến tranh, yếu thì lên án, kêu gọi quốc tế giúp sức hay ít ra cũng nhờ đến Liên Hiệp Quốc can thiệp… chỉ có Việt Nam là hành xử theo cung cách rất đặc biệt của mình : đợi đến ba tháng sau mới phân tích hành vi của kẻ xâm lược và dự báo xem chúng sẽ tiếp tục làm gì thì thật là ngoại hạng.
Tuy nhiên, trên mạng xã hội lẫn các trang báo chính thống thì động thái này của Tổng bí thư, Chủ tịch nước là một bước ngoặc đáng kể, nó cho thấy phương án đối phó với Trung Quốc tuy nhẹ nhàng, mềm mỏng nhưng kiên trì và phù hợp với thế yếu của mình trước một đối phương hung hăng và đầy tham vọng bành trướng. Dư luận không quên chuyến đi Mỹ của ông Trọng sắp tới và phát biều của ông chính là thông điệp gửi cho Trung Quốc về mức chịu đựng của Việt Nam đã quá giới hạn mặc dù thông điệp này được thu nhỏ tới mức tối đa, chỉ trong khuôn khổ dự báo và phân tích.
Dư luận còn chú ý tới một hình ảnh được xem là dấu chỉ của sự thay đổi tư duy của Hội Nghị Trung ương, đó là chiếc bục mà ông Trọng đứng phát biểu không có lẳng hoa như thường lệ. Mạng xã hội bàn tán hình ảnh này với sự phấn khích không cần che dấu nhưng không ai quan tâm tới sự liên quan giữa một cụm hoa với những phát biều có tính trấn an cả nước trước một việc hệ trọng là Bãi Tư Chính sắp mất vào tay Trung Quốc.
Trước Hội nghị Trung ương một ngày, sáng 6/10/2019, tại Hà Nội, Liên hiệp Khoa học Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Viện nghiên cứu chính sách pháp luật và phát triển tổ chức Tọa đàm về chủ đề bảo vệ Biển Đông. Buồi tọa đàm mang tên : "Vùng biển Tư chính và Luật pháp Quốc tế".
Buồi tọa đàm quy tụ hầu như gần hết các khuôn mặt đấu tranh cho chủ quyền biển đảo trong nhiều năm qua, theo BBC trong số các diễn giả, chuyên gia và khách mời tham dự, có các vị như Vũ Ngọc Hoàng, Thang Văn Phúc, Chu Hảo, Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Nguyễn Khắc Mai, Trần Thị Băng Thanh, Đặng Văn Sinh, Hoàng Quốc Hải, Phạm Huy Thông, Nguyễn Xuân Hãn, Nguyễn Đình Cung, Nguyễn Trung, Nguyễn Nguyên Bình, Nguyễn Đình Cống, Hoàng Việt, Trần Ngọc Vương, Đinh Hoàng Thắng, Vũ Hùng, Nguyễn Vi Khải, Nguyễn Văn Cương, Trần Thanh Vân, Nguyễn Quang Dy, Nguyễn Xuân Diện, Hoàng Ngọc Giao, Lê Mã Lương, Đào Tiến Thi, Phạm Viết Đào.
Nhiều phát biểu quan trọng được mang đến buổi tọa đàm và người theo dõi nhận ra một điều cuộc tọa đàm tuy được Ban Tuyên giáo bật đèn xanh nhưng do thời gian quá cấp bách nên cử tọa chưa phác họa được những liên quan sống còn giữa luật pháp quôc tế và biều hiện vi phạm của Trung Quốc sẽ bị luật pháp ấy xử lý như thế nào nếu Việt Nam tập hợp được tất cả các yếu tố vi phạm đặc quyền kinh tế của Việt Nam bị Trung Quốc vi phạm một cách thô bạo.
Hội thảo có lẽ thành công trong vai trò phân tích và dự báo như sự mong muốn của Tổng bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Về phân tích, nhiều phát biểu chỉ rõ hành động của Trung Quốc không nằm ngoài ý đồ biến vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam thành nơi tranh chấp để từ đó tiến hành cuộc chiến tranh có thể họ gọi là "bảo vệ chủ quyền bất khả tư nghị". Về dự báo, không thể bỏ qua ý kiến của tướng Lê Mã Lương, một danh tướng đúng nghĩa của Việt Nam khi nói rằng "mất Bãi Tư Chính thì Việt Nam xem như mất tất cả các đảo bao gồm Trường Sa nơi Việt Nam đang đóng quân và xác định chủ quyền của mình".
Dù sao thì việc lên tiếng của người đứng đầu cả nước về một vấn đề quan trọng nhất hiện nay cũng cho thấy mức độ lo sợ của Bộ Chính trị trước viễn ảnh mất trắng vào tay Trung Quốc đã gần kề. Chỉ có điều lên tiếng là một lẽ phần còn lại quan trọng nhất là cách đối phó với mối nguy ấy bằng cách nào mới là điều người dân mong đợi.
Cũng giống như cách hành xử rất thận trọng đôi khi bị xem là chậm chạp của Bộ Chính trị dân chúng Việt Nam xem ra rất an tâm với những gì mà người đứng đầu đất nước biểu hiện, chằng hạn không có hoa trên bục phát biểu là một thay đổi ấn tượng, và ấn tượng này là tiền đề cho nhiều người tin rằng sẽ có một thay đồi lớn mặc dù niềm tin tương tự như vậy từng nhiều lần bị hụt hẫng.
Mặc Lâm
Nguồn : VOA, 08/10/2019
******************
Theo các chuyên gia, trước những hành vi xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, điều Việt Nam cần làm là khởi kiện hoặc đưa Trung Quốc ra Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc.
Tàu của lực lượng chấp pháp Việt Nam (trái) đấu tranh ngăn cản tàu Hải cảnh 37111 của Trung Quốc trên vùng biển Tư Chính - Phúc Tần, cuối tháng 9/2019. Hải cảnh 37111 là tàu bảo vệ cho tàu Hải Dương Địa chất 8 khảo sát trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ đầu tháng 7/2019 đến nay - Ảnh : Ngư dân cung cấp
Sáng 6/10, Viện Nghiên cứu chính sách luật pháp và phát triển (PLD) thuộc Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tổ chức tọa đàm khoa học "Vùng biển bãi Tư Chính và luật pháp quốc tế". Theo các chuyên gia tại tọa đàm, trước những hành vi xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, điều Việt Nam cần làm là khởi kiện hoặc đưa Trung Quốc ra Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc.
Phát biểu tại tọa đàm, thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược (Bộ Công an), nhấn mạnh tình huống hiện nay (nhóm tàu Hải Dương Địa chất 8 xâm phạm ở khu vực bãi Tư Chính) nguy hiểm hơn việc Trung Quốc năm 2014 đưa giàn khoan Haiyang Shiyou-981 xâm phạm chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông. Bởi vì khu vực bãi Tư Chính, hay rộng hơn là vùng biển nam Biển Đông, vốn hoàn toàn nằm trong vùng 200 hải lý đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, tính từ đất liền.
Trung Quốc có nhiều luận điệu về vấn đề Biển Đông. Trong đó, luận điệu quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc, là "2 lần sai", theo thiếu tướng Lê Văn Cương. Cái sai thứ nhất, là theo Công ước Liên Hiệp Quốc về luật Biển (UNCLOS) 1982, quần đảo Trường Sa không được hưởng quy chế quốc gia quần đảo, nên không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý. Và cái sai thứ hai, đương nhiên, là quần đảo Trường Sa không thuộc về Trung Quốc. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý để khẳng định chủ quyền với quần đảo này.
Hai tàu hải cảnh 5901, 46303 của Trung Quốc dàn đội hình ngăn chặn các tàu chấp pháp Việt Nam vào đẩy đuổi, ngăn chặn tàu Hải Dương Địa chất 8 khảo sát trái phép trên vùng biển Tư Chính - Phúc Tần của Việt Nam, tháng 9/2019 - Ảnh : Ngư dân cung cấp
Nhiều năm qua, Trung Quốc có rất nhiều luận điệu ngang ngược để đòi độc chiếm Biển Đông. Trong đó, theo một số nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế, thì yêu sách "Tứ Sa" là nguy hiểm hơn cả, bởi phạm vi của nó còn rộng lớn hơn nhiều so với yêu sách đường 9 đoạn - vốn đã chiếm tới 80% Biển Đông. Minh chứng là vùng hoạt động của tàu Hải Dương Địa chất 8 hiện không nằm trong phạm vi đường 9 đoạn, nhưng nó lại nằm trong yêu sách "Tứ Sa". Đến thời điểm này, cả Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị và người phát ngôn Bộ Ngoại giao của nước này Cảnh Sảng đều đã khẳng định yêu sách "Tứ Sa", thể hiện rõ dã tâm biến Biển Đông thành "ao nhà".
Theo yêu sách này, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với 4 nhóm cấu trúc ở Biển Đông mà họ gọi là "Tứ Sa", trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trung Quốc yêu sách các cấu trúc này là một thực thể pháp lý đơn nhất, đủ điều kiện để có đường cơ sở thẳng bao quanh. Từ đó, Bắc Kinh có thể thiết lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng của quần đảo, chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, tính từ đất liền.
Cùng với đó, Trung Quốc cũng yêu sách cả chủ quyền với các thực thể ngầm, như bãi Tư Chính của Việt Nam. Yêu sách của Trung Quốc là trong khu vực này, Việt Nam không có quyền khai thác, quản lý và bảo vệ tài nguyên mà phải "gác tranh chấp cùng khai thác" với Trung Quốc.
Với luận điệu như vậy, Trung Quốc có dã tâm biến vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trở thành vùng chồng lấn, tranh chấp và lao vào đòi quyền "cùng khai thác" ; trong khi theo UNCLOS 1982, đó là đặc quyền, độc quyền của Việt Nam. UNCLOS 1982 quy định ngay cả nếu Việt Nam không tiến hành khảo sát, thăm dò, khai thác tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, thì cũng không một quốc gia nào khác có thể tiến hành các hoạt động này mà không có sự cho phép rõ ràng của Việt Nam. Yêu sách này giẫm đạp lên luật pháp quốc tế.
Theo luật sư Hoàng Ngọc Giao, Viện trưởng PLD, UNCLOS 1982 đã quy định chỉ có quốc gia quần đảo mới có quyền thiết lập đường cơ sở quần đảo bao quanh và từ đó thiết lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Quy định của UNCLOS cũng như khái niệm quốc gia quần đảo đã loại trừ khả năng Trung Quốc có thể áp dụng quy chế quần đảo với "Tứ Sa" ; chưa kể đến cái gọi là "Tứ Sa" đó không phải chủ quyền của Trung Quốc.
Phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2006 cũng đã khẳng định Trung Quốc không phải quốc gia quần đảo nên không có quyền thiết lập đường cơ sở thẳng bao quanh quần đảo Trường Sa để mà đưa ra yêu sách.
Tàu Hải Dương Địa chất 8 (trái) khảo sát trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, dưới sự bảo vệ của tàu Hải cảnh 3501
Tuy nhiên, vấn đề là dã tâm của Trung Quốc với Biển Đông sẽ không dừng lại. Theo ông Trương Triều Dương, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Philippines, làm chủ Biển Đông sẽ là điều Trung Quốc "cố sống, cố chết" làm, vì đó là con đường duy nhất để Trung Quốc trở thành cường quốc trên biển, cơ sở quan trọng cho tham vọng cường quốc đứng đầu thế giới.
Luật sư Hoàng Ngọc Giao,Viện trưởng Viện Nghiên cứu chính sách luật pháp và phát triển
Ngoài việc Biển Đông là con đường hàng hải lớn nhất nhì thế giới, là bãi đánh cá lớn nhất thế giới, bể chứa dầu mỏ, thì Đại sứ Trương Triều Dương cho rằng đáy Biển Đông có một trữ lượng đất hiếm cực kỳ lớn mà nếu Trung Quốc chiếm được, đồng nghĩa với việc sẽ nắm giữ toàn bộ trữ lượng đất hiếm trên thế giới. Điều này đồng nghĩa với việc nắm được "cổ họng" của tất cả các nước, đặc biệt là các quốc gia phát triển. Thêm vào đó, các rãnh sâu ở khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cũng là nơi lý tưởng để tàu ngầm hoạt động.
Những phân tích trên đây cho thấy Việt Nam cần có những hành động tiếp theo, và theo nhiều chuyên gia, đó là con đường khởi kiện.
Theo Luật sư Hoàng Ngọc Giao, Trung Quốc đã vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc, và điều Việt Nam có thể làm là đưa Trung Quốc ra Hội đồng bảo an (Hội đồng Bảo an) Liên Hiệp Quốc. "Hiến chương Liên Hiệp Quốc nói rất rõ mà đây là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, là các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế để chống lại quyền bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia. Hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông từ trước đến nay, và đặc biệt sự việc hiện nay ở bãi Tư Chính, là hành vi vừa đe dọa dùng vũ lực, vừa dùng vũ lực bằng việc các tàu hải cảnh, dân binh... vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Phản ứng của quốc tế cũng nhìn nhận đây là hành vi đe dọa hòa bình, thách thức an ninh khu vực và vi phạm nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Trung Quốc cũng không chỉ xâm phạm vùng biển Việt Nam, mà còn cả vùng biển của Malaysia và Philippines", Luật sư Giao nói.
Chưa kể, theo Luật sư Giao, hành động tôn tạo các đảo, bãi đá ngầm mà Trung Quốc xâm chiếm trái phép cũng gây thiệt hại rất lớn cho tài nguyên môi trường biển, vì đây cũng là lý do có thể kiện Trung Quốc ra tòa.
"VN cần tận dụng cơ chế của Hội đồng Bảo an, theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc từ điều 33.1 - 33.4 và điều 35, Hội đồng Bảo an có thẩm quyền theo đề nghị của các quốc gia xem xét những tình huống đe dọa hòa bình, an ninh khu vực, quốc tế. Đây là một cơ chế chúng ta cần tận dụng. Cần đưa câu chuyện về hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ở Biển Đông ra trước Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc", ông Giao khuyến nghị và cho rằng cơ hội đang đến bởi Việt Nam là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020 - 2021.
Mặc dù một số chuyên gia am hiểu Hiến chương Liên Hiệp Quốc cho rằng Trung Quốc là Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an và có quyền Veto (quyền phủ quyết), nhưng theo Luật sư Giao, Việt Nam không nhất thiết phải hướng tới một nghị quyết của Hội đồng Bảo an về vấn đề Biển Đông (mà Trung Quốc có quyền phủ quyết), chỉ cần đưa được vấn đề này ra chương trình nghị sự của Hội đồng Bảo an.
"Theo điều 27.2 của Hiến chương thì những vấn đề thuộc về thủ tục không cần áp dụng cơ chế Veto, cho nên chỉ cần 9/15 thành viên đồng ý là có thể đưa vào chương trình nghị sự của Hội đồng. Theo tôi, đây là biện pháp cấp bách nhất hiện nay trước tình hình bãi Tư Chính. Làm được điều này, vấn đề Biển Đông sẽ được quốc tế hóa, người ta phải thảo luận thực sự, phải nêu đích danh Trung Quốc, nêu hành vi của Trung Quốc, để Trung Quốc không còn dùng truyền thông, tiền bạc lu loa lên đó là khu vực tranh chấp", ông Giao khuyến nghị.
Ông Giao còn cho rằng đây cũng là một biện pháp ngoại giao, vì theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc và cơ chế của Tòa án công lý quốc tế (ICJ), thì 2 cơ quan của Liên Hiệp Quốc có quyền trưng cầu ý kiến pháp lý (legal opinion) của ICJ là Hội đồng Bảo an và Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, trong khi các nước thành viên không được lấy ý kiến trực tiếp.
"Có thể đề nghị Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc yêu cầu tham vấn pháp lý đối với ICJ về áp dụng và giải thích UNCLOS tại Biển Đông. Nếu có được một câu trả lời của ICJ thì nó có giá trị pháp lý mang tính toàn cầu, còn hơn cả Tòa trọng tài quốc tế (PCA), chỉ có ý nghĩa giữa 2 nước (bên khởi kiện và bên bị kiện)", ông Giao nhận xét.
Thạc sĩ Hoàng Việt, giảng viên Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, dẫn thông tin về việc tàu Hải Dương Địa chất 8 và khoảng 25 tàu hộ tống vẫn đang hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và cho rằng sự xâm phạm của Trung Quốc là rất mạnh mẽ.
"Trung Quốc đưa nhiều luận điệu khác nhau về pháp lý, nhưng những hoạt động trên thực tế của họ ở Biển Đông còn ghê gớm hơn nhiều. Chúng ta đấu tranh bảo vệ biển đảo bằng biện pháp hòa bình, nhưng hòa bình không có nghĩa là không làm gì cả. Phát biểu của Phó thủ tướng (Phó thủ tướng Phạm Bình Minh - PV) tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (hôm 28/9 vừa qua) cũng cho thấy giải pháp pháp lý là cần thiết", ông Việt nói.
Phân tích việc PCA và ICJ đều có bất lợi về thẩm quyền (không thể quyết định mà không có sự đồng thuận của quốc gia liên quan, trong khi Trung Quốc luôn cự tuyệt đưa ra bất cứ một bên thứ ba nào), ông Việt cho rằng Việt Nam nên làm như Philippines.
Trả lời câu hỏi kiện Trung Quốc có hiệu quả không, nhất là với tiền lệ Trung Quốc đã hoàn toàn phớt lờ phán quyết của tòa trong vụ kiện với Philippines, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia Nguyễn Quý Bính, người cũng nguyên là trọng tài viên của Tòa trọng tài quốc tế (PCA) tại The Hague (Hà Lan), cho rằng : "Đúng là luật pháp quốc tế không có cơ chế bảo đảm thực thi các phán quyết của cơ quan tài phán như pháp luật quốc tế, việc thực thi, do vậy phụ thuộc vào thiện chí của các bên liên quan. Tuy nhiên, phải xác định rõ ràng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình hiện nay đó là việc tồn tại tranh chấp liên quan yêu sách bất hợp pháp của Trung Quốc. Việc sử dụng biện pháp pháp lý chính là để giải quyết nguyên nhân này. Từ góc độ này, tôi cho rằng việc sử dụng biện pháp pháp lý là hiệu quả, vì phán quyết là cuối cùng và có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp, nên về mặt pháp lý sẽ chấm dứt sự tồn tại yêu sách bất hợp pháp. Tất cả các biện pháp khác đều không có được tác dụng như vậy".
Ông Bính khẳng định thêm : Một phán quyết có giá trị ràng buộc với Trung Quốc sẽ là cơ sở vững chắc để Việt Nam huy động sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Thực tế là trong vụ kiện trọng tài Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc, các quốc gia đều khẳng định phán quyết có giá trị ràng buộc với cả 2 bên ; việc phán quyết một phần chưa được thực thi là bởi chính sách và tính toán chính trị của Philippines. Thời gian qua cũng cho thấy Trung Quốc có những kiềm chế nhất định, không có những hành vi thô bạo trái phán quyết, dù tìm mọi cách để bác bỏ giá trị và nội dung của phán quyết.
Vũ Hân
Nguồn : Thanh Niên, 07/10/2019
Buổi tọa đàm ngoài sự tham dự của các chuyên gia về luật pháp quốc tế, về biển đảo, còn có nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương Vũ Quốc Hùng ; các chuyên gia kinh tế như bà Phạm Chi Lan, ông Lê Đăng Doanh, ông Nguyễn Đình Cung... ; Anh hùng Lực lượng vũ trang Lê Mã Lương, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Philippines Trương Triều Dương... thể hiện sự lo ngại của giới trí thức trong nước trước những diễn biến leo thang trên Biển Đông suốt 3 tháng vừa qua.
******************
Bãi Tư Chính : Nhiều trí thức muốn Việt Nam kiện Trung Quốc
Nguyễn Đức, BBC, 07/10/2019
Một buổi thảo luận về Bãi Tư Chính vừa diễn ra tại Hà Nội ngày 6/10, với sự tham dự của nhiều vị nhân sĩ có tiếng.
Tọa đàm khoa học "Vùng biển Bãi Tư Chính và Luật pháp quốc tế"
Tọa đàm khoa học "Vùng biển Bãi Tư Chính và Luật pháp quốc tế" do Viện nghiên cứu chính sách pháp luật và phát triển (Viện PLD) thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tổ chức.
Cuộc gặp có sự tham gia của nhiều nhân sĩ trí thức như Giáo sư Nguyễn Đình Cống, cựu đại sứ Nguyễn Trung, Giáo sư Chu Hảo, Giáo sư Trần Ngọc Vương.
Ngoài ra còn có ông Vũ Quốc Hùng, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, nguyên phó chủ nhiệm thường trực Ủy ban Kiểm tra trung ương, ông Vũ Ngọc Hoàng, nguyên phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, chuyên gia Phạm Chi Lan, Kiến trúc sư Trần Thanh Vân, cựu Đại sứ Nguyễn Trường Giang…
'Giữ được Bãi Tư Chính là giữ được các đảo khác'
Giáo sư Chu Hảo, người mới bị Đảng khai trừ, chia sẻ : "Lần thách thức này là chuyện trước mắt mất nước hay không mất nước. Kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế lúc này là đúng thời điểm, đúng lúc rất quan trọng".
"Muốn có thế trận lòng dân thì Đảng, chính phủ phải minh bạch thông tin. Đài Tiếng nói, đài truyền hình phải cập nhật liên tục diễn tiến tàu Trung Quốc đang xâm phạm Bãi Tư chính".
Giáo sư Chu Hảo nhấn mạnh hiện tại chính quyền Việt Nam có 3 nút thắt.
Nút thắt thứ nhất là cần kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế.
Nút thắt thứ hai là nâng cấp quan hệ với Mỹ lên thành quan hệ chiến lược, đặc biệt là vấn đề an ninh quốc phòng.
Ông Chu Hảo nói : "Vài người bạn ở Bộ Ngoại giao Mỹ có nói với tôi rằng phản ứng của Việt Nam hiện nay chậm chạp bị động rụt rè, việc này làm cho phía Mỹ nản lòng".
"Họ nói rằng Mỹ đang căn cứ luật pháp quốc tế để bảo vệ quyền lợi của Mỹ ở Biển Đông chứ không phải vì quyền lợi của Việt Nam".
Thiếu tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Mã Lương phát biểu
Thiếu tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Mã Lương, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam nêu nhiều ý kiến :
"Dự buổi hội thảo này có các anh ở Bộ ngoại giao, Ban đối ngoại Trung ương, tôi muốn hỏi các anh chính phủ có kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế hay không. Đây là câu chuyện của toàn dân Việt Nam. Giữ được Bãi Tư Chính là giữ được các đảo khác của Việt Nam, nếu chúng ta để mất thì Việt Nam sẽ không còn đảo nào".
Thiếu tướng Lê Văn Cương phát biểu tại cuộc gặp
Tại tọa đàm khoa học này, Thiếu tướng Lê Văn Cương - nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Bộ Công an - phát biểu thông tin rất đáng chú ý về yêu cầu của Trung Quốc trong một cuộc làm việc với lãnh đạo cấp cao Việt Nam.
Theo tướng Cương : Sau khi Tòa trọng tài quốc tế tuyên Trung Quốc thua kiện Philippines (phán quyết PCA năm 2016), Trung Quốc cử cán bộ sang làm việc với lãnh đạo cao cấp Việt Nam thực hiện "5 không".
Thứ nhất, không được ủng hộ phán quyết tòa trọng tài ;
Thứ 2, không được đưa ra Asean bàn thảo liên quan đến vấn đề Biển Đông ;
Thứ 3, trong đa phương quốc tế Việt Nam không đưa phán quyết này ra ;
Thứ 4, trong đàm phán Việt Trung- Trung Việt không được đưa vấn đề này ;
Thứ 5, các đồng chí không được kiện Trung Quốc.
Tướng Cương nói : "Tuy nhiên theo tôi biết, không có đồng chí lãnh đạo Việt Nam nói không kiện ! Hiện nay vẫn chuẩn bị đầy đủ, nhưng theo tôi ngửi mùi cấp trên lúc này chưa thích hợp để kiện !".
'Kiện Trung Quốc là giải pháp hòa bình'
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo trung ương, nêu ý kiến :
"Kiện Trung Quốc là giải pháp hòa bình, kiện là giải pháp ngăn chặn chiến tranh. Sử dụng luật pháp và dư luận quốc tế khi có mâu thuẫn giữa các bên là biện pháp cần thiết và đúng đắn trong thế giới văn minh và hội nhập".
"Vì sao ta lại sợ kiện, trong khi chính nghĩa thuộc về ta. Sợ kiện hay sợ Trung Quốc ? Đặt câu hỏi như vậy là vì tôi nghe có ý kiến cho rằng, nếu ta kiện Trung Quốc thì họ làm căng hơn nữa, trong khi ta phải sống bên cạnh họ lâu dài, nếu để họ thù vặt thì rất khó ở".
"Mà họ cũng dọa ta như thế. Dọa để ta đừng kiện. Họ không muốn ta quốc tế hóa vấn đề mà chỉ để riêng họ và ta với nhau để dễ bề ức hiếp. Đó là cách đấm người ta mà muốn bịt miệng không cho la".
"Tôi nghĩ không thể đồng ý với cái lí lẽ cho rằng vì sợ họ ép ta (hơn nữa) nên thà rằng cứ để cho họ ép dần dần như thế mà không cần phải kiện. Họ sẽ chèn ép ta ngày càng nhiều thêm là quy luật tất yếu, vì mục đích của họ là độc chiếm Biển Đông".
Mới hôm 3/10, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khẳng định về chủ quyền ở Bãi Tư Chính :
"Đây hoàn toàn không phải là khu vực tranh chấp hay có chồng lấn vì Trung Quốc không có bất kỳ cơ sở pháp lý quốc tế nào để đưa ra yêu sách đối với khu vực này".
Bộ Ngoại giao Việt Nam xác nhận nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đang tiếp tục mở rộng hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Bà Thu Hằng nói khi đó : "Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay vi phạm, rút toàn bộ nhóm tàu nói trên ra khỏi vùng biển Việt Nam và không để tái diễn hành động vi phạm tương tự".
Nguyễn Đức tường thuật từ Hà Nội
********************
Vụ Bãi Tư Chính : Nhân sĩ trí thức kêu gọi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế
RFA, 07/10/2019
Các nhân sĩ, trí thức tham gia một buổi tọa đàm về căng thẳng Biển Đông cho rằng đã đến lúc chính quyền Việt Nam phải kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế sau hơn 3 tháng Trung Quốc đưa hàng loạt tàu vào vùng biển của Việt Nam, bất chấp những phản đối về mặt ngoại giao của Việt Nam.
Những người tham gia Tọa đàm khoa học Vùng biển Bãi Tư Chính và Luật Pháp Quốc tế ở Hà Nội hôm 6/10/2019 Photo : RFA
Tọa đàm "Vùng biển Bãi Tư Chính và luật pháp quốc tế" do Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật & Phát triển phối hợp với Viện Quản trị Doanh nghiệp tổ chức ngày 6/10/2019 tại Hà Nội, sau một lần bị trì hoãn theo yêu cầu của chính quyền.
Buổi tọa đàm được ghi nhận có sự hiện diện của các cựu quan chức, kinh tế gia, giáo sư như Nguyễn Trung, Vũ Ngọc Hoàng, Lê Văn Cương, Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Nguyễn Trường Giang, Chu Hảo, Hoàng Quốc Hải, Trần Ngọc Vương, Hoàng Ngọc Giao, Lê Mã Lương, Nguyễn Khắc Mai, Trương Triều Dương.
Tại sự kiện này, Thạc sĩ Hoàng Việt, thành viên của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông, đã có bài tham luận "Tại sao Việt Nam nên khởi kiện vụ Bãi Tư Chính".
Trả lời RFA hôm 7/10, ông Hoàng Việt nói :
"Hai thông điệp quan trọng mà tọa đàm muốn đưa ra. Đầu tiên là chính quyền Việt Nam cần khởi kiện Trung Quốc, vì điều đó thể hiện thái độ cương quyết để bảo vệ lợi ích được hưởng theo công ước quốc tế. Bên cạnh đó, nêu rõ tính chính nghĩa khi bảo vệ vùng biển, đồng thời kêu gọi cộng đồng quốc tế để họ dễ dàng nhận diện ai làm đúng, ai làm sai trong việc này".
Ông Hoàng Việt nói về thông điệp thứ hai :
"Phần đông cử tọa đều thống nhất rằng Việt Nam cần thay đổi chính sách đối ngoại, trong đó có đề nghị thẳng thắn là phát triển quan hệ hơn nữa với Hoa Kỳ, thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc".
Về việc Bộ Ngoại giao Việt Nam thận trọng đưa ra các phát ngôn gần đây về Bãi Tư Chính mà không đả động gì đến việc kiện Trung Quốc, ông Hoàng Việt cho rằng các nhà ngoại giao Việt Nam "cũng có vấn đề của họ".
Trước đó, Bộ trưởng Ngoại giao, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh hôm 28/9 đã đưa vấn đề căng thẳng ở Bãi Tư Chính giữa Trung Quốc và Việt Nam ra Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (UNGA) nhưng tránh nói tên Trung Quốc.
Trong bài phát biểu dài khoảng 15 phút trước UNGA, Bộ trưởng Phạm Bình Minh nói :
"Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng quan ngại về những diễn biến phức tạp gần đây ở Biển Đông bao gồm những vụ xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán ở vùng biển của Việt Nam đã được xác định bởi UNCLOS (Công ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc 1982). Các nước liên quan nên kiềm chế, tránh các hành động đơn phương có thể làm phức tạp hoặc làm tăng thêm căng thẳng trên biển, và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình theo luật quốc tế, bao gồm UNCLOS".
Phát biểu của Bộ trưởng Phạm Bình Minh về vấn đề Biển Đông đã được trông đợi từ trước đó vì suốt 3 tháng nay Việt Nam đang phải đương đầu với việc Trung Quốc điều tàu khảo sát Hải Dương 8 cùng tàu hải cảnh và dân binh vào Bãi Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, bất chấp những phản đối từ phía Việt Nam và quốc tế.
******************
Lập Quyền Dân, RFA, 07/10/2019
Trung Quốc như con hổ đói, càng nhân nhượng nó càng hung hãn muốn nuốt trọn 'con mồi. Vì vậy ý nghĩa nổi bật của ngày sinh hoạt khoa học hôm 6/10 là sự khẳng định đối với tính tất yếu của việc phải khởi kiện Trung Quốc. Luận điểm "khởi kiện" dựa vào niềm tin sắt đá, ý chí mãnh liệt đối với "trật tự dựa trên luật pháp quốc tế"…
Tọa đàm khoa học Vùng biển Bãi Tư Chính và Luật pháp quốc tế ở Hà Nội hôm 6/10/2019 - Courtesy of FB Viet Dao Pham
--------------------------
Vâng, trên đây là cái "hồn cốt" được đúc kết lại sau một ngày dài thảo luận giữa các ý kiến đa chiều tại cuộc Tọa đàm khoa học về "Bãi biển Tư Chính và Luật pháp quốc tế" ngày 6/10/2019 do Viện Chính sách, Pháp luật và Phát triển (PLD) thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học – Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đồng tổ chức. Thật ra thì đấy là cả một ngày đầy đặn cho một cuộc Hội thảo khoa học hẳn hoi, xét về tính chất đề tài, quy mô, thời gian và thành phần tham gia tranh biện. Nhưng hình như Viện PLD đã phải hạ thấp thứ bậc, từ "Hội thảo" đánh xuống "Tọa đàm" để lách khâu xin phép. Luật pháp Việt Nam quy định, nếu muốn Hội thảo phải có Giấy phép của nhà nước, Tọa đàm thì có thể "sân siu".
Có nơi nào như nơi này không, bàn luận về khoa học cũng phải trốn tránh, thậm chí buộc phải trí trá ? Nếu không, với thể chế "toàn trị" và "công an hoá" mọi lĩnh vực và triệt để trên mọi phương diện, các sinh hoạt xã hội đều phải có giấy phép từ đâu đó. Kể cả những sáng kiến chỉ để xiển dương lòng yêu nước, thức tỉnh trách nhiệm công dân, đều bị ngăn cấm hoặc vô hiệu hóa ! Thì đấy, Tọa đàm này đáng ra được tổ chức vào ngày 26/9 (đã phát Giấy mời như thế), nhưng phải đúng một tuần lễ sau, mới được tiến hành. Lý do… ? Có lẽ không một quốc gia độc lập và tự chủ nào trên trái đất này có thể hiểu nổi, bởi vì "từ đâu đó" (phải hiểu là An ninh nội bộ) không cho phép "nói xấu Trung Quốc" trước ngày quốc khánh 1/10 ! Nhưng hóa ra thế lại hay, cuộc Tọa đàm, chính vì bị ngăn chặn (nghe cứ như là "chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản" thời Chiến tranh lạnh) mà sức lan tỏa của nó đã hiển hiện trước khi được tiến hành.
Ý nghĩa nổi bật đầu tiên là sự khẳng định tính tất yếu của việc khởi kiện Trung Quốc. "Khởi kiện" chứ không phải "khỏi kiện" ! Khác biệt chỉ giữa chữ "ơ" và chưa "o" thôi nhưng đó là cả hai thế giới quan đối nghịch nhau như lửa với nước ! Luận điểm "khởi kiện" dựa vào niềm tin sắt đá, ý chí mãnh liệt đối với "trật tự dựa trên luật pháp quốc tế (luật pháp quốc tế)". Trên thế giới hiện có hàng trăm cuộc tranh chấp về biển đảo giữa các nước, nếu thiếu vắng luật pháp quốc tế thì biết bao cuộc chiến tranh đã và sẽ nổ ra ? Điều Trung Quốc lo ngại hiện nay cũng là luật pháp quốc tế. Họ hiểu rằng, nếu dùng "sức mạnh cứng" để chế ngự và cướp biển đảo của Việt Nam (như trường hợp Hoàng Sa), thì chẳng có luật pháp quốc tế nào thừa nhận, ngoại trừ luật lệ trong "Trại súc vật" của Orwell. Khốn nỗi, Bắc Kinh lại muốn quàng vào người bộ quần áo "văn minh Trung Hoa" mà thế giới dân chủ đang muốn được rũ bỏ.
Trong khi đó, luận điểm "khỏi kiện" lại là hỏa mù vừa được tung ra nhưng mức độ bào mòn và tàn phá lòng yêu nước thì còn cao hơn cả khói bụi ô nhiễm từ mấy tháng nay phủ kín trên bầu trời Hà Nội và Sài Gòn. Đây là luận điểm đầu hàng vô điều kiện của những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống thời nay. Bọn người này lập luận, chuyện trên Biển Đông hiện nay là chuyện "tranh bá đồ vương" giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Họ tranh nhau làm chủ Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương để làm "sen đầm" trong thiên hạ. "Thượng sách nhất" lúc này là "án binh bất động, là "mọi chuyện có đảng và nhà nước lo", chúng ta chỉ cần "nâng cao cảnh giác" đừng để "lực lượng thù địch lợi dụng, gây tổn hại đến tình hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc". Chúng ta hãy lo "giữ lấy đại cục !" (dù không biết đấy là cục gì ?)
Giáo sư Chu Hảo phát biểu tại Tọa đàm - Courtesy of Viet Dao Pham
Chính trong xu hướng giãn dần để tách ra khỏi thế bị Tàu kìm kẹp, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung tâm Minh triết đã tung ra sáng kiến bất ngờ. Nhân sĩ bước vào tuổi cửu tuần này kiến nghị thành lập một Tòa án của lương tri để tố cáo, lên án tội ác của Trung Quốc đối với Việt Nam. Đây là tòa án của lương tâm, nhân danh lương tri để lên án Trung quốc về những hành vi tội ác, trái với quy ước pháp lý thông thường, trái với đạo lý của xã hội văn minh. Ông dự định đặt tên là "Tòa Án Lương Tri và Công Lý Biển Đông". Ông hình dung, một nhóm trí thức và luật sư phối hợp với nhau tổ chức thành các phiên tòa, với hình thức sẽ bắt đầu bằng một phiên tòa chính quy, rồi sẽ có phiên thứ nhất, thứ hai, thứ ba…Tùy yêu cầu và điều kiện cụ thể có thể tổ chức trong nước hay bên ngoài Việt Nam. Có thể nói rằng để đối phó với "tam chủng chiến pháp" của Trung quốc, tới đây, xã hội dân sự cần gia tăng sự nỗ lực cùng với yêu cầu nhà cầm quyền có nhận thức đúng đắn để không có những hành vi cản mũi kỳ đà, làm hạn chế sức mình, vô hình trung tiếp tay cho ngoại bang, phản lại nhân dân yêu nước.
Trong Tọa đàm đã có nhiều tiếng nói xây dựng góp ý cho chính quyền. Xưa nay, ít Viện NGO nào dám có ý trực diện đối với đảng và chính phủ. IDS trước đây môt vài lần chỉ mới "mó dá… ngựa", lập tức bị dẹp tiệm dưới danh nghĩa "tự giải thể". Nhưng chủ nhật qua, nhiều ý kiến chất vấn việc Bộ Ngoại giao phản ứng quá chậm chạp trước mỗi hành động xâm lấn của Trung Quốc, thậm chí có những phê phán khá gay gắt đối cả với "tam trụ". Đây là hiện tượng lạ, nếu như ai đó biết rằng, trong khán phòng Tọa đàm không dưới cả chục nhân viên an ninh và lãnh đạo của họ đang trà trộn trong hàng ngũ các đại biểu. Có thể cử tọa đã đánh bật được nỗi sợ hãi ra khỏi đầu. Một điều ngạc nhiên khác là có cả ý kiến gửi lên lãnh đạo đảng và nhà nước đòi thả các tù nhân lương tâm, chỉ vì "tội" duy nhất mà ngay các bản cáo trạng cũng không dám ghi rõ. Tội duy nhất đó là chống bành trướng và bảo vệ chủ quyền quốc gia !
Các ý kiến tại Tọa đàm còn mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác liên quan đến các vấn đề nội trị và quan hệ Việt – Trung. Đòi bỏ "chính sách ba không" phi lý, đòi "giãn Trung" để "tách và thoát Trung", đòi bỏ khẩu hiệu "bốn tốt" và "mười sáu chữ vàng", vì đấy là những sáo ngữ đại bịp…
Bản kiến nghị cá nhân của Đại sứ Nguyễn Trung (từng là Trợ lý đắc lực cho Thủ tướng "xé rào" Võ Văn Kiệt) gồm 4 điểm. Kiến nghị đầu tiên của ông bao gồm :
i) Kiện ngay tại Tòa Trọng tài Thường trực (PCA/La Haye) việc Trung Quốc hơn ba tháng nay có những hành động kèm theo những hoạt động vũ trang liên tục ở quy mô lớn mang tính xâm lược vùng biển bãi Tư Chính nằm trong EEZ thuộc lãnh hải của Việt Nam.
ii) Vận động Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (UNGA) có quyết nghị về chủ đề này.
iii) Yêu cầu Liên Hiệp Quốc ra lời kêu gọi các quốc gia không được dùng vũ lực trong xử lý tranh chấp tại Biển Đông...
Trong kiến nghị thứ hai, ông yêu cầu chính quyền chủ động và thường xuyên thông tin cho đại chúng kịp thời nắm vững những diễn biến nguy hiểm và phức tạp trên Biển Đông. Kiến nghị thứ ba yêu cầu đảng và nhà nước tiến hành ngay cải cách trong thể chế chính trị để thực hiện những quyền tự do dân chủ của nhân dân. Trong kiến nghị cuối cùng, ông yêu cầu trả lại tự do cho những người bất đồng chính kiến đang bị giam giữ hoặc tù tội.
Một trăn trở khác, tạm cho là ý nghĩa cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, đó là tầm nhìn về tương lai, mà nổi lên là nhu cầu bày tỏ tình cảm yêu nước của người dân. Liệu có tiếp tục bị bưng bít, cấm cản, thậm chí đàn áp, bắt bớ hay không ? Khi theo dõi các động tĩnh cả hai phía (Trung Quốc và Việt Nam) trong sự kiện Trung Quốc xâm lược vùng biển Tư Chính, có vị "đương kim" là công chức nhà nước hẳn hoi đã phải thốt lên rằng bản thân đang "tan nát cõi lòng" ; có những thanh niên yêu nước, là những nhà báo độc lập, đang bức xúc cao độ, chỉ vì muốn ghi lại và truyền đi những hình ảnh sống động, nhằm nhanh chóng chuyển tải các thông điệp của buổi tọa đàm đến với công chúng, thế mà bị bắt cóc, bị câu lưu tại trụ sở công an và bị tịch thu mọi phương tiện hành nghề (i phone, máy ảnh, máy quay phim...).
"Kiềm chế bức xúc" vốn là yêu cầu của một Tọa đàm khoa học, nhưng trong cuộc Tọa đàm hôm ấy vẫn bật lên những phát biểu đậm vị chua xót và nhức nhối. Có ý kiến đề cập đến sự toa rập của những tên thái thú trong chính quyền với bọn xâm lược Trung Quốc. Chính bọn này đã gây ra bao nghịch lý và phân rã trong xã hội Việt Nam hiện nay. Nhà văn Hoàng Quốc Hải, tác giả của bộ tiểu thuyết "Bão táp triều trần", đã thẳng thừng cảnh báo : Nhà nước phải có thái độ tôn trọng quốc dân, không được phép khinh dân bằng sự im lặng trước các hành động ngang ngược của Trung Quốc, không được phép đàn áp những người yêu nước nhưng khác chính kiến ! Người dân phải được tham gia bàn việc nước ! Bộ máy nhà nước tồn tại là do dân nuôi, nếu coi dân như cỏ rác, khi quốc gia lâm nguy, dân sẽ bỏ mặc như đã bỏ mặc nhà Hồ hồi đầu thế kỉ 15 ! Hơn 600 năm sau, hy vọng lịch sử sẽ không lặp lại đối với dân tộc này. Mong lắm thay !
Lập Quyền Dân
Nguồn : RFA, 07/10/2019
Một số cựu quan chức Việt đang hùng hồn phát biểu trên các diễn đàn về việc Việt Nam đang đấu tranh với Trung Quốc trên Biển Đông sau khi ông Nguyễn Phú Trọng chính thức nói về vấn đề này. Chẳng hạn như phát biểu của ông Võ Tiến Trung, Thượng tướng, cựu Giám đốc Học viện Quốc phòng. Ông quan quốc phòng về hưu này cũng như nhiều ông khác vẫn mơ màng về cục diện quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc, về việc quốc tế sẽ giúp cho Việt Nam thế nào… bla bla.
Báo chí mà đi phỏng vấn mấy ông này thì phóng viên thà tự viết bài còn hơn. Mấy ông này có biết gì đâu mà phát biểu.
Nói về vấn đề Biển Đông, tôi xin nói ngay, thứ nhất, không có bất cứ nước nào có thể giải quyết vấn đề này ngoài Mỹ. Hay nói cách khác bất cứ nước nào muốn đòi lãnh thổ bị chiếm đóng từ Trung Quốc thì phải dựa vào Mỹ. Ông Võ Tiến Trung phát biểu "kiên quyết đấu tranh bằng những giải pháp hòa bình buộc Trung Quốc phải rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam" nghe phát mệt. Ông nói như nói với trẻ con. Ông Trung còn nói "Chúng ta phải dựa vào sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của chính nghĩa, sức mạnh từ dư luận quốc tế cho cuộc đấu tranh này". Haiza người dân Việt Nam bây giờ đâu phải học sinh lớp một hả ông Trung. Vẫn cái kiểu tư duy "thắng 2 đế quốc to" nghe bệnh thật chứ. Tôi xin ông Võ Tiến Trung ngừng trả lời phỏng vấn báo chí đi nếu không biết gì về vấn đề chiến lược.
Vị trí của Bãi Tư Chính trên bản đồ Việt Nam
Tôi nói tiếp chuyện thứ hai, đó là muốn nhờ Mỹ giúp đòi lãnh thổ thì phải như thế nào ? Trước đây có mấy bạn cứ hay hỏi tôi chuyện này và nay tôi nói một lúc luôn.
Tôi xin nói ngay, chỉ có đồng minh của Mỹ thì Mỹ mới giúp đòi lãnh thổ, còn nếu không thì Mỹ chỉ đưa tàu chiến đi qua đi lại cho vui vậy thôi.
Vậy thì Việt Nam có thể trở thành đồng minh của Mỹ hay không ?
Đây là vấn đề lớn.
Chính sách chống Cộng xuyên suốt của Mỹ chưa bao giờ thay đổi một cách căn bản, vì vậy chỉ có những nước "phi xã hội chủ nghĩa", "phi Marx-Lenin" mới có thể thành đồng minh với Mỹ. Mà ngay cả 2 cái phi như vậy rồi, nhưng nếu là một chính thể độc tài thì cũng bị Mỹ xem lại.
Có một vài ý kiến nhận định rằng Mỹ không quan tâm đến thể chế chính trị của Việt Nam khi giúp Việt Nam là vừa đúng vừa sai.
Đúng là họ không quan tâm khi chỉ là quan hệ ở cấp độ kinh tế, văn hóa, an ninh… còn tới mức liên minh quân sự là phải "phi xã hội chủ nghĩa", "phi cộng sản" thì Mỹ mới chấp nhận.
Nói cách khác, muốn làm ăn buôn bán loanh quanh qua lại với Mỹ thì như hiện nay là đủ rồi nhưng muốn Mỹ giải quyết giùm mối hận Biển Đông thì phải thành đồng minh của Mỹ, mà muốn thành đồng minh của Mỹ thì phải thay đổi thể chế, phải đa đảng, còn muốn giữ đảng thì không thể.
Như vậy thành ra bài toán chống Trung Quốc trở thành bài toán thân Mỹ và tự do dân chủ. Nếu không có 2 cái đó thì không nói đến chống Trung Quốc.
Một vấn đề đặt ra là như vậy thì Việt Nam có nhờ Mỹ đòi lãnh thổ ở Biển Đông hay không và nhờ đòi như thế nào, chấp nhận thay đổi tới mức nào, trở thành đồng minh của Mỹ không hay chỉ là "đối tác chiến lược" mà thôi.
Đó là vấn đề cần làm sáng tỏ chứ không phải là chuyện ông Trọng vì sao chưa phát biểu chống Trung Quốc hay phát biểu yếu quá.
Trần Đình Thu
Nguồn : https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=2647368615318795&id=100001370467846
Vụ việc ở vùng biển bãi Tư Chính là "cực kỳ nguy hiểm" không chỉ với chủ quyền biển đảo mà còn cho an ninh quốc phòng của Việt Nam, "kể cả trên đất liền", một nhà nghiên cứu chính sách và pháp luật nói với BBC News Tiếng Việt ngay sau một Tọa đàm Khoa học ở Hà Nội hôm Chủ nhật, 06/10/2019 về vùng biển này và luật pháp quốc tế.
Thiếu tướng Lê Mã Lương, nguyên Viện trưởng Việt Nghiên cứu Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng Việt Nam, phát biểu tại Tọa đàm (các hình do Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện cung cấp)
"Không phải như những lần trước, năm 2016 hay trước nữa, là họ vào rồi họ ra như phép thử, mà lần này nó thể hiện một loạt hành động nhất quán và bây giờ vẫn đang hoạt động", Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Ngọc Giao, từ Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta), đơn vị đồng tổ chức, tóm lược với BBC kết quả và nội dung chính của Hội thảo.
"Đang có những hành động sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trên các vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và chủ quyền của Việt Nam. Cho nên cái đầu tiên phải nhận diện rõ đây là nguy cơ rất lớn đối với Việt Nam", nguyên Phó vụ trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam nói.
"Thế nhưng cùng với nguy cơ đó, cũng có ý kiến cho rằng và cũng nhiều người đồng tình là trong nguy cơ này cũng lại có một cơ hội để Việt Nam có thể vượt qua nguy cơ này và phát triển được.
"Đó là phải xác định rõ bạn - thù, đó là việc Việt Nam phải liên minh với Hoa Kỳ và các nước phương Tây, ở đây cũng đã nhắc đến chính sách 'Ba không', thì cần phải hóa giải chính sách ba không này bởi một điều khoản rất quan trọng của Hiến chương Liên hiệp quốc - đó là quyền tự vệ chính đáng.
Các đại biểu tham dự cuộc Tọa đàm khoa học
"Tôi không thể duy trì chính sách "Ba không" nếu như chính sách ba không đó không giúp cho tôi bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển và trong trường hợp nếu tôi bị xâm lăng, thì Liên Hiệp quốc cho phép tôi có được quyền tự vệ chính đáng.
"Và để làm sao đó tránh được cuộc chiến tranh, nếu như Trung Quốc gây chiến, thì Việt Nam phải mạnh lên, mạnh dạn hơn trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là phải tỏ rõ lập trường của mình trong quan hệ với Hoa Kỳ, cũng như các nước văn minh, các nước phát triển trong khu vực như là Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ và xa hơn nữa là các nước EU.
"Đấy chính là một trong những giải pháp để mà Việt Nam trong nguy cơ đó, có thể hóa giải được hành vi xâm lăng, bành trướng của Trung Quốc ở bãi Tư Chính, đấy là một nhận định, ý kiến theo tôi rất quan trọng, nhận diện được vấn đề và tìm gia một giải pháp.
"Và cái thứ hai, vấn đề cũng rất lớn, đó là khẳng định rằng đây chính là thời cơ chính muồi, đây chính là thời cơ quan trọng nhất, ở thời điểm quan trọng nhất để khởi kiện Trung Quốc ra cơ quan tài phán quốc tế".
Thiếu tướng, Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Bộ Công an Việt Nam, phát biểu tại Tọa đàm khoa học
'Khẳng định thành công'
Nhà nghiên cứu nói thêm về kết luận và nội dung chính rút ra từ hội thảo :
"Và về phía Việt Nam, mọi người khẳng định rằng : thứ nhất chính nghĩa, thứ hai bằng chứng, chứng cứ lịch sử pháp lý về chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa khu vực bãi Tư Chính là có thể nói và khẳng định là không có vấn đề.
"Khẳng định là chắc chắn và việc khởi kiện cũng mang lại thành công cho Việt Nam", ông Hoàng Ngọc Giao nói về cuộc Hội thảo từ quan điểm cá nhân từ Hà Nội.
Cuộc Tọa đàm khoa học hôm Chủ nhật trước đó đã được Ban tổ chức chủ động rời thời gian lại để chuẩn bị tốt hơn và phù hợp hơn với thời gian của khách mời, ông Giao cho biết.
Được biết, trong số các diễn giả, chuyên gia và khác mời tham dự, có các vị như Vũ Ngọc Hoàng, Thang Văn Phúc, Chu Hảo, Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Nguyễn Khắc Mai, Trần Thị Băng Thanh, Đặng Văn Sinh, Hoàng Quốc Hải, Phạm Huy Thông, Nguyễn Xuân Hãn, Nguyễn Đình Cung, Nguyễn Trung, Nguyễn Nguyên Bình, Nguyễn Đình Cống, Hoàng Việt, Trần Ngọc Vương, Đinh Hoàng Thắng, Vũ Hùng, Nguyễn Vi Khải, Nguyễn Văn Cương, Trần Thanh Vân, Nguyễn Quang Dy, Nguyễn Xuân Diện, Hoàng Ngọc Giao, Lê Mã Lương, Đào Tiến Thi, Phạm Viết Đào.
Căng thẳng và đối đầu giữa Việt Nam và Trung Quốc vùng biển bãi Tư Chính đã nóng lên trong suốt các tháng Hè và kéo dài chưa dứt qua mùa Thu năm 2019.
Về phía Trung Quốc, tháng trước, nước này nói Việt Nam phải chấm dứt các hoạt động khoan tìm dầu khí đơn phương tại Bãi Tư Chính, nơi mà Trung Quốc gọi là Vạn An Than, và có tên tiếng Anh là Vanguard Bank.
Các hoạt động tại vị trí ở ngoài khơi Vũng Tàu này, Bắc Kinh tuyên bố hôm thứ Tư, 18/9/2019, là "vi phạm chủ quyền của Trung Quốc ở Nam Hải (cách Trung Quốc gọi Biển Đông)".
Các đại biểu trao đổi bên lề Tọa đàm hôm Chủ nhật 06/10/2019
Trong cuộc họp báo định kỳ, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Cảnh Sảng lên tiếng bác bỏ các cáo buộc của Việt Nam theo đó nói các tàu nghiên cứu Trung Quốc đã xâm phạm quyền tài phán của Hà Nội ở Biển Đông.
"Việt Nam đã đơn phương tiến hành các hoạt động khai thác dầu khí từ tháng Năm tới nay, và việc này vi phạm nghiêm trọng các quyền và lợi ích của Trung Quốc, đồng thời vi phạm các thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam", ông Cảnh Sảng nói.
"Theo Điều 5 Tuyên bố về Ứng xử của Các Bên ở Nam Hải (DOC) và Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Việt Nam phải ngay lập tức chấm dứt các hoạt động đơn phương và phải khôi phục hòa bình trong khu vực".
"Trung Quốc sẵn sàng giải quyết các vấn đề liên quan thông qua các tham vấn hữu nghị với Việt Nam", ông Cảnh Sảng nói thêm.
Đầu tháng này, trong một diễn biến liên quan, Việt Nam qua kênh ngoại giao nói sẽ nâng cao nhận thức về tình hình Biển Đông trong cuộc đối thoại an ninh hàng năm với Ấn Độ trong tháng Mười, HinduStan Times trích lời Đại sứ Việt Nam, ông Phạm Sanh Châu, cho hay.
Căng thẳng giữa Hà Nội và Trung Quốc ngày càng gia tăng vì sự xâm nhập liên tục của các tàu Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông, và Việt Nam dường như đang cố gắng củng cố sự hỗ trợ của Ấn Độ trong vùng biển này.
Trả lời phỏng vấn của thời báo Ấn Độ, Đại sứ Việt Nam tại nước Nam Á này cho biết kể từ tháng 7/2019, các tàu Trung Quốc đã bốn lần xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Vụ xâm nhập mới nhất của 28 tàu Trung Quốc bắt đầu vào ngày 30 tháng 9 và vẫn đang tiếp tục mặc dù Việt Nam đã 40 lần lên tiếng phản đối qua các nẻo ngoại giao, kể từ lần xâm nhập đầu tiên ba tháng trước.
"Chúng tôi nói với họ rằng họ không nên vi phạm vùng biển của Việt Nam và nên rút tất cả các tàu về càng sớm càng tốt", nhà ngoại giao Việt Nam được báo Ấn Độ dẫn lời nói hôm 2/9.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 07/10/2019
********************
Giới nghiên cứu : ‘Nguy cơ lớn’ ở Tư Chính, Tổng bí thư-Chủ tịch nước Trọng vẫn dịu giọng
VOA, 07/10/2019
Giới nghiên cứu và các nhà ngoại giao kỳ cựu cảnh báo rằng trong tương lai Việt Nam sẽ "không có biển" nếu để mất bãi Tư Chính vào tay Trung Quốc, đồng thời đề xuất Việt Nam "khởi kiện" Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Tọa đàm về bãi Tư Chính, diễn ra ở Hà Nội hôm 6/10/2019
Hai quan điểm nêu trên được đưa ra hôm 6/10 tại cuộc tọa đàm do Viện Nghiên cứu chính sách luật pháp và phát triển tổ chức ở Hà Nội.
Tham gia tọa đàm là nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia, cựu quan chức, trong đó có tiến sĩ Hoàng Ngọc Giao, giáo sư Chu Hảo, thạc sĩ Hoàng Việt, thiếu tướng Lê Văn Cương, các cựu đại sứ Nguyễn Trường Giang, Nguyễn Trung, Trương Triều Dương, và một số học giả khác.
Ông Hoàng Việt thuộc Quỹ nghiên cứu Biển Đông tóm tắt cho biết VOA rằng những người tham gia tọa đàm có nhận định chung là tình hình bãi Tư Chính trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hiện "hết sức nghiêm trọng".
Các động thái ngày càng leo thang của Trung Quốc ở khu vực này trên Biển Đông đang "đặt Việt Nam vào thế rất nguy hiểm", những người tham gia tọa đàm khẳng định, theo lời tường thuật của thạc sĩ Hoàng Việt.
Theo cập nhật hồi trưa ngày 7/10, giờ Việt Nam, trên trang Facebook mang tên Dự án Đại sự ký Biển Đông, tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc Haiyang Dizhi 8 (Hải dương Địa chất 8) mới thực hiện đường khảo sát thứ 5, đi sâu thêm 4,7 hải lý vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam và cách bờ biển Việt Nam chỉ còn khoảng 89,1 hải lý (165 km).
Dự án phi lợi nhuận, phi chính trị - của một nhóm các nhà nghiên cứu tự nguyện thực hiện - cho biết thêm là phạm vi và tính chất hoạt động tàu khảo sát kể trên và các tàu hộ tống "đã thay đổi và có tính thách thức nhiều hơn" so với đợt thứ 4 hồi ngày 28/9.
"Khu vực khảo sát của Haiyang Dizhi 8 đã không chỉ còn quanh quẩn trong một phạm vi gần khu vực các bãi ngầm Tư Chính cho tới Phúc Tần, mà đã kéo dài lên tận phía bắc giữa Quy Nhơn và Quảng Ngãi, trải dài hơn 220 hải lý", trang Dự án Đại sự ký Biển Đông (1) nói hôm 7/10.
Thạc sĩ Hoàng Việt, cũng là thành viên Ban Nghiên cứu Luật Biển và Hải đảo thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam, cho VOA biết những người tham gia tọa đàm hôm 6/10 đưa ra cảnh báo như sau :
"Nếu để mất khu vực biển này vào sự kiểm soát của Trung Quốc cũng đồng nghĩa là trong tương lai Việt Nam sẽ không có biển. Như vậy, đó là nguy cơn rất lớn đối với đất nước và dân tộc Việt Nam".
Tại tọa đàm, ông Trương Triều Dương, cựu Đại sứ Việt Nam tại Philippines, cho rằng "dã tâm của Trung Quốc với Biển Đông sẽ không dừng lại", theo một bài báo của Thanh Niên.
Vị cựu đại sứ tiên liệu rằng "làm chủ Biển Đông sẽ là điều Trung Quốc ‘cố sống, cố chết’ làm", vẫn theo tin của Thanh Niên. Củng cố cho nhận định của mình, ông Dương nêu ra lý do: "Vì đó là con đường duy nhất để Trung Quốc trở thành cường quốc trên biển, cơ sở quan trọng cho tham vọng cường quốc đứng đầu thế giới".
Để chống lại và chặn đứng các hành động của Trung Quốc, giới nghiên cứu, các cựu quan chức tham gia tọa đàm đề xuất rằng Việt Nam cần đưa vấn đề ra một số diễn đàn quốc tế lớn.
Thạc sĩ Hoàng Việt tường thuật thêm với VOA :
"Tất cả những người tham gia tọa đàm đều đồng ý với nhau một ý kiến là Việt Nam cần phải mạnh mẽ hơn, cụ thể thông qua các hành động. Thứ nhất là khởi kiện Trung Quốc ra một tòa án quốc tế nào đó mà có thể kiện được. Và thứ hai, Việt Nam phải đổi mới về chính sách đối ngoại, trong đó là xích lại với phía Mỹ nhiều hơn để làm đối trọng với Trung Quốc trong khu vực Biển Đông".
Trong một video về cuộc tọa đàm, do nhà văn Phạm Viết Đào ghi lại và đăng lên YouTube, giáo sư Chu Hảo phát biểu :
"Chắc chắn phải đi đến hành động quyết liệt là phải kiện Trung Quốc. Kiện Trung Quốc bây giờ, theo quan điểm của tôi, là đúng thời điểm và là thời điểm quan trọng nhất. Đây là lúc lãnh đạo nhà nước và toàn dân phải lấy quyết định quan trọng nhất vào thời điểm quan trọng nhất".
Một ngày sau buổi tọa đàm, hôm 7/10, trong diễn văn khai mạc một hội nghị của Đảng cộng sản, Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng được giới quan sát cho là vẫn dịu giọng về vấn đề Biển Đông khi ông đề cập đến vấn đề này chỉ đúng một lần.
Bản tin của Tuổi Trẻ, VietnamNet, và một số trang tin khác cho hay tại phiên khai mạc Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành trung ương khóa 12, ông Nguyễn Phú Trọng đề nghị hội nghị "phân tích, dự báo có căn cứ, cơ sở khoa học, tình hình thế giới và trong nước, nhất là tình hình Biển Đông ; chỉ rõ các khả năng có thể xảy ra trong thời gian tới, lường trước những thời cơ, thuận lợi cần nắm bắt, những khó khăn, thách thức cần phải nỗ lực vượt qua".
Không có tin tức gì thêm cho thấy nhà lãnh đạo cao nhất Việt Nam có phát biểu nào cụ thể hơn về Biển Đông nói chung hay diễn biến ở bãi Tư Chính nói riêng.
Khi được VOA hỏi cuộc tọa đàm hôm 6/10 có phải là một động thái được nhà nước hậu thuẫn nhằm thăm dò dư luận trong nước và quốc tế, hay đó là một hoạt động chuyên môn đơn thuần, thạc sĩ Hoàng Việt khẳng định cuộc tọa đàm hoàn toàn là "tiếng nói của xã hội dân sự" :
"Việc xin phép, thành lập, tổ chức hội thảo hoàn toàn là tư nhân, không có cái gì của nhà nước trong này. Nhà nước không có liên quan gì trong này. Thậm chí nhà nước còn không muốn cho tọa đàm được mạnh mẽ hơn, lan tỏa nhiều".
Ông Việt cho biết thêm rằng trên thực tế Viện Nghiên cứu chính sách luật pháp và phát triển phải vượt qua nhiều khó khăn mới có thể tổ chức được cuộc tọa đàm. Lẽ ra sự kiện này đã diễn ra hôm 22/9 song bị hoãn lại, phải đến hôm 6/10 mới được thực hiện, vị thạc sĩ cho hay.
Trong khi đó, chỉ 1 ngày trước, tại cuộc tọa đàm về bãi Tư Chính do Viện Nghiên cứu chính sách luật pháp và phát triển tổ chức, các chuyên gia nói rằng hành vi xâm phạm của Trung Quốc ở khu vực này đặt ra "nguy cơ Việt Nam không có biển". Đồng thời, các chuyên gia đề nghị "Việt Nam cần khởi kiện hoặc đưa Trung Quốc ra Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc".
VOA sẽ sớm có bài cập nhật về hai diễn biến nêu trên, mời các bạn đón đọc.
VOA tiếng Việt
(1) Dự án Đại sự ký Biển Đông (PDF)
********************
An ninh tạm giữ các phóng viên độc lập đưa tin hội thảo Biển Đông (RFA, 06/10/2019)
3 phóng viên của truyền hình CHTV (Chấn Hưng TV) - ột kênh truyền thông độc lập ở Việt Nam - đã bị an ninh tạm giữ nhiều giờ đồng hồ, bị thẩm vấn và tịch thu toàn bộ máy quay, điện thoại, sau khi đi đưa tin một tọa đàm về tình hình Biển Đông vào sáng ngày 6/10 ở Hà Nội.
Tọa đàm khoa học Vùng Biển Bãi Tư Chính và Luật pháp quốc tế ở Hà Nội hôm 6/10/2019 - Courtesy of FB Le Dung Vova
Vào tối ngày 6/10, sau khi được thả, ông Lê Dũng, một trong 3 phóng viên bị an ninh tạm giữ nói qua điện thoại với Đài ACTD :
"Hơn chục người mặc thường phục đi trên hai xe bảy chỗ đã ập đến bắt giữ anh em chúng tôi đưa về trụ sở công an ở số 3 Nguyễn Gia Thiều… Họ tịch thu tất cả điện thoại, máy quay và các tài liệu ghi chép về hội thảo của chúng tôi".
Ông Lê Dũng cho biết những an ninh mặc thường phục đã bắt giữ các phóng viên khi họ đi ăn trưa sau hội thảo. Họ bị an ninh thẩm vấn về những gì đã diễn ra trong hội thảo, ai là những người tham dự. An ninh chỉ thả những người này về vào khoảng 6 giờ chiều và hẹn họ phải quay lại làm việc vào sáng ngày hôm sau.
Ông Lê Dũng cho biết nguyên nhân an ninh bắt giữ tịch thu máy móc của các phóng viên CHTV là vì "họ lo sợ chúng tôi là truyền hình độc lập đưa tin về hội thảo này. Họ lo sợ vì hội thảo có rất nhiều nhân sĩ trí thức tham dự và bức xúc rất lớn".
Theo ông Lê Dũng, trong suốt buổi tọa đàm, khoảng chục an ninh đã có mặt theo dõi và quay phim buổi tọa đàm.
Tọa đàm "Vùng biển bãi Tư Chính và Luật pháp Quốc tế" được Viện nghiên cứu chính sách pháp luật và phát triển (Viện PLD), trực thuộc Liên Hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, quy tụ nhiều học giả là các chuyên gia về Biển Đông, tướng quân đội, và các cựu đại sứ, ông Lê Dũng cho biết.
Phát biểu của cựu Đại sứ Nguyễn Trường Giang : Dân tộc ta đứng trước thời điểm lịch sử quan trọng bảo vệ chủ quyền biển
Tọa đàm này đã được dự định tổ chức vào ngày 22/9 nhưng sau đó bị hoãn lại đến sau ngày 1/10 với lý do được công bố chính thức là : "Theo chỉ đạo của cơ quan chức năng, để có thời gian chuẩn bị và tọa đàm tốt hơn, Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam có yêu cầu Viện nghiên cứu chính sách Pháp luật và Phát triển lùi thời gian tọa đàm trên sau ngày 5/10/2019".
Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 6/10 có bài viết về buổi tọa đàm, trích lời đại sứ Nguyễn Trường Giang nói rằng dân tộc Việt Nam "đang đứng trước một thời điểm lịch sử rất quan trọng, chúng ta đang phải đối mặt với một thách thức rất nghiêm trọng trong việc bảo vệ chủ quyền biển của Việt Nam".
Buổi tọa đàm diễn ra vào giữa lúc quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh đang có nhưng căng thẳng sau khi Trung Quốc điều các tàu hải cảnh, dân binh và tàu khảo sát vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gần bãi Tư Chính, từ khoảng giữa tháng 6 và đầu tháng 7 đến nay. Bộ Ngoại giao Việt Nam từ tháng 7 đến nay đã 4 lần lên tiếng chính thức yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ tàu khỏi vùng biển Việt Nam.
Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ Nguyễn Sanh Châu mới đây cho trang tin Hindustan Times biết từ ngày 30/9, Trung Quốc đã điều đến 28 tàu vào vùng biển Việt Nam bất chấp việc Việt Nam đã hơn 40 lần gửi phản đối.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng hồi tháng trước lên tiếng khẳng định vùng biển Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đòi chủ quyền toàn bộ và yêu cầu Việt Nam phải ngưng toàn bộ hoạt động khai thác dầu khí tại đây.
Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh hôm 28/9, trong phát biểu trước Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã đề cập đến căng thẳng Biển Đông thời gian qua nhưng tránh nói tới tên Trung Quốc. Ông cũng nói tới việc giải quyết khác biệt một cách hòa bình qua đàm phán, hòa giải, và thậm chí cơ chế tòa quốc tế.
- Từ những sự kiện thực tế,
- Quốc dân Việt Nam muốn biết vì sao ?
Đó là nội dung bài viết này.
Ông Phạm Bình Minh đọc diễn văn tại Liên Hiệp Quốc, New York, 28 tháng Chín.
I. Từ những sự kiện thực tế
Những sự kiện thực tế đó là, trong nhiều năm qua, nhà cầm quyền Trung Quốc đã nhiều lần ra những quyết định pháp lý, hành chánh và bằng hành động quân sự bạo lực xâm chiếm nhiều vùng lãnh thổ và lãnh hải, biển đảo của Việt Nam, vi phạm trắng trợn chủ quyền lãnh thổ lãnh hải biển đảo Việt Nam và vi phạm công ước quốc tế cũng như các hiệp định song phương về biên giới lãnh thổ và lãnh hải giữa hai nước Việt - Trung đã ổn cố và được tôn trọng từ hàng thế kỷ qua.
Thực tế là Trung Quốc đã dùng bạo lực tấn công, chiếm đoạt một phần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974, lúc đó thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam trong bối cảnh đất nước chia đôi, cuộc chiến tranh Quốc-Cộng Nam và Bắc Việt Nam ; và năm 1988 tấn công, chiếm đoạt đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam sau khi Việt Nam thống nhất dưới chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đặc biệt nghiêm trọng và gần nhất là vụ Trung Quốc ngang nhiên đưa tàu khảo sát và các tàu hộ tống vào khu vực Bãi Tư Chính thuộc thềm lục địa và khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam, lưu lại ở đây trong nhiều tháng qua, vào ra như vùng "ao nhà" của họ ; tiến hành thăm dò dầu khí bất hợp pháp trong vùng biển thuộc thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đồng thời, người phát ngôn của Bộ ngoại giao Trung Quốc hôm 18-9-2019 còn ngang nhiên tuyên bố chủ quyền sai trái tại vùng này và đòi Việt Nam phải tôn trọng ; cũng như trước đó đơn phương tuyên bố chủ quyền "9 đoạn" chiếm hầu hết Biển Đông, theo kiểu quân cướp nước "vừa ăn cướp vừa la làng".
Hành động xâm phạm chủ quyền lãnh hải, hải đảo của Việt Nam mới nhất này, nhưng vẫn chưa phải là hành động cuối cùng, Trung Quốc đã ỷ mạnh hiếp yếu, vi phạm trắng trợn quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, vi phạm luật pháp quốc tế Công ước Liên Hiệp Quốc 1982 về Luật Biển, mà Trung Quốc đã ký và cam kết thi hành. Đồng thời Trung Quốc cũng vi phạm các quy định của Tuyên bố chung về ứng xử của các bên đang có tranh chấp trong biển Đông (DOC) mà Trung Quốc đã cùng ASEAN ký kết năm 2002. Theo đó, DOC quy định tạm thời các bên phải tự kiềm chế, duy trì nguyên trạng, không làm phức tạp thêm tình hình, không được sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp.
II. Quốc dân Việt Nam muốn biết vì sao ?
Đứng trước các sự kiện thực tế trên, quốc dân Việt Nam (những công dân của Tổ quốc Việt Nam) trong cũng như ngoài nước muốn biết :
1. Vì sao trong bài phát biểu hôm 28/9 tại phiên họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Phó Thủ tường kiêm Bộ Trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã không chỉ đích danh Trung Quốc, như người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam dưới quyền ông trong những tháng qua đã nhiều lần cáo buộc đích danh Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam ?
Vì tại phiên họp này, ông Minh chỉ nói "Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng quan ngại về những diễn biến phức tạp gần đây ở Biển Đông bao gồm những vụ xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền tài phán ở vùng biển Việt Nam" và rằng "các nước liên quan nên kiềm chế, tránh các hành động đơn phương có thể làm phức tạp hoặc làm tăng thêm căng thẳng trên biển".
Quốc dân Việt Nam quan tâm đều cảm thấy thất vọng trước cách hành xử này của nhà đương quyền Việt Nam thể hiện qua bài phát biểu của người đứng đầu ngành ngoại giao Việt Nam, trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc ; là đã đánh mất một cơ hội cáo buộc Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền biển đảo của mình để tìm kiếm sự ủng hộ quốc tế trong tranh chấp Biển Đông.Trong khi Việt Nam đã và đang đi tìm kiếm sự hậu thuẫn quốc tế để có thế lực đương đầu, ngăn chặn tham vọng xâm lấn lãnh thổ, lãnh hải biển đảo Việt Nam của Trung Quốc, luôn ỷ thế mạnh "bắt nạt Việt Nam" và các nước nhỏ yếu khác trong vùng.
2. Vì sao, cũng trong bài phát biểu dài 16 phút, Phó Thủ tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh có đề cập đến chủ trương chính sách giải quyết tranh chấp lãnh thổ lãnh hải biển đảo một cách hòa bình theo tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc và căn cứ trên luật pháp quốc tế như Công ước Liên Hiệp Quốc 1982 về Luật Biển ; lại không vận dụng ngay vào việc giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam khi cả hai nước Việt –Trung đều là hội viên Liên Hiệp Quốc ?
Nói cách khác, tại sao Việt Nam không "quốc tế hóa việc tranh chấp" trên Biển Đông với Trung Quốc" như nhận định của Giáo sư Carl Thayer của Đại học New South Wales. ?
Ông Phạm Bình Minh nói "Chúng tôi kêu gọi các bên liên quan ở Biển Đông tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982) – ‘Hiến chương của Biển và Đại dương".
Thế tại sao giờ này Việt Nam vẫn rụt rè như "gà phải cáo", hay "vừa tố cáo vừa run", vẫn không dám đưa vụ tranh chấp biển đảo với Trung Quốc ra trước Liên Hiệp Quốc hay trước các tòa án quốc tế có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế ?
3. Vì sao đến giờ này Quốc hội Việt Nam mệnh danh là cơ quan quyền lực tối cao của nhân dân, đẻ ra chính phủ, nhất là Ông Tổng Trọng người lãnh đạo tối cao Đảng, Quốc Hội và chính phủ thì vẫn im hơi lặng tiếng, không dám lên tiếng ; lại chỉ để cho người phát ngôn Bộ ngoại giao Lê Thị Thu Hằng gần đây mới lên tiếng tố cáo đích danh Trung Quốc vi phạm trắng trợn chủ quyền biển đảo của Việt Nam ; còn người đứng đầu Bộ ngoại giao Phạm Bình Mình thì trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc lại tránh né không dám gọi đích danh "Ông Trung Quốc" vì sợ"phạm húy" chăng ?
Trong bài viết trước "Đến non nước này Quốc hội Việt Nam cần và phải lên tiếng" chúng tôi có đề nghị đôi điều Quốc hội cần làm ngay, thiết nghĩa không cần nhắc lại ở đây.
III. Thay lời kết
Với trách nhiệm bảo vệ đất nước, quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước đòi hỏi Đảng, Quốc hội, chính phủ đương quyền phải :
- Một là thực hiện khẩn cấp mọi đối sách chính trị, ngoại giao, pháp lý, quân sự kiên quyết, để tranh thủ sự hậu thuẩn mạnh mẽ của quốc tế, tạo thế lực chặn đứng các hành động xâm lăng trắng trợn ngày càng gia tăng của nhà cầm quyền Trung Quốc.
- Hai là, nhà cầm quyền Việt Nam cần cấp thời đưa những vi phạm chủ quyền lãnh thổ lãnh hải Việt Nam của Trung Quốc ra trước Liên Hiệp Quốc. Vì cả Trung Quốc và Việt Nam đều là hội viên Liên Hiệp Quốc.Đồng thời, đưa vụ việc tranh chấp chủ quyền ra trước các cơ quan tài phán quốc tế có thẩm quyền, để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình theo tinh thần Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, căn cứ trên Công ước Liên Hiệp Quốc 1982 về Luật Biển, và bản Tuyên bố chung về ứng xử của các bên đang có tranh chấp trong biển Đông (DOC) năm 2002.
- Ba là, nhà cầm quyền Việt Nam cần phải thay đổi đường lối cai trị, mở rộng tự do, dân chủ, thả hết các tù nhân chính trị, tôn giáo, bất đồng chính kiến đang bị cầm tù và chấm dứt đàn áp, bắt bớ giam cầm những người đấu tranh ôn hòa cho mục tiêu dân chủ hóa đất nước, để đoàn kết toàn dân, huy động toàn lực quốc gia vào công cuộc chống ngoại xâm, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 05/10/2019
Hình ảnh Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Mình đứng cô đơn trong nghị trường đọc bài diễn văn tại phiên thảo luận chung cấp cao khóa 74 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc phản ánh hiện trạng tình thế của Việt Nam trước dư luận quốc tế một cách sinh động. Nó cho thấy Việt Nam dù muốn làm gì, nói gì cũng không thuyết phục được bất cứ nước nào chịu nghe lời minh chứng trước việc Trung Quốc không dừng bước trong âm mưu thôn tính biển Đông qua đường chín đoạn mà nước này áp đặt.
Hải Dương 981 ở Biển Đông hồi 2014.
Trước sự lấn lướt, uy hiếp của Trung Quốc tại bãi Tư Chính thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam giới quan sát chính trị quốc tế nêu ra trong những ngày gần đây cho thấy đã đến lúc Hà Nội cần nhìn lại chính sách đối ngoại mà họ từng theo đuổi trong nhiều năm qua nhằm thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh của đất nước hiện nay trước nguy cơ xâm lược của Trung Quốc ngày một rõ ràng và không cần che dấu.
Trong một bài báo trên tờ Diploma Tiến sĩ Rajeswari Pillai Rajagopalan, Học giả và Chủ tịch Sáng kiến Chính sách Hạt nhân và Không gian thuộc Quỹ Observer Research Foundation (ORF) ở New Delhi, Ấn Độ cho rằng mặc dù Việt Nam và Trung Quốc đang lao vào một cuộc đối đầu dữ dội tại Biển Đông nhưng sự việc lại không thu hút được sự quan tâm đầy đủ của thế giới. Theo trích dẫn của VOA, sau khi nêu hàng hoạt các phản ứng của Việt Nam sau vụ nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng EEZ của Việt Nam, Tiến sĩ Rajeswari viết : "Trong tình hình này, chính phủ Việt Nam tìm cách tác động đến các nước Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nga, Úc và nhiều nước khác trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Đáp lại lời kêu gọi này là gì ? Một sự im lặng và những lời phát biểu "sáo rỗng".
Câu hỏi đặt ra : Tại sao quốc tế quay lưng với Việt Nam về vấn đề Biển Đông trong khi vẫn làm ăn, mua bán giao hảo và thậm chí còn giúp đỡ Việt Nam trong các dự án xã hội ?
Bởi vì giao thương và giao chiến là hai việc hoàn toàn khác nhau. Việt Nam và Trung Quốc có giao tranh cách nào đi nữa thì các nước thuộc khối tư bản sẽ không bao giờ tham gia vì ý thức hệ đã phân chia hai khối từ những năm đầu của thập kỷ 50 của thế kỷ trước, khi cộng sản và tự do chia cắt rạch ròi với nhau gây nên nhiều cuộc chiến tranh quốc cộng mà chiến tranh Việt Nam là một bài học lịch sử còn tươi vết máu của cả hai miền Việt Nam và các nước khác như Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan, Nam Hàn, Philippines, và nhất là Mỹ.
Bởi vì Việt Nam vẫn là nước kiên trì theo chủ nghĩa cộng sản trong số 5 nước cuối cùng còn sót lại trên thế giới bao gồm Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Lào, Cuba và Việt Nam. Câu chuyện tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là Bãi Tư Chính đang xảy ra giữa hai đất nước có cùng ý thức hệ, cùng lý tưởng và cùng chung mục đích chính trị sẽ không được bất cứ nước nào trong thế giới tự do có thể tham gia vào việc hòa giải, can thiệp hay bênh vực một cách tích cực.
Bởi vì thái độ của Việt Nam không nhất quán và luôn luôn gây cho quốc tế những dấu hỏi về tính đi dây trong quan hệ ngoại giao. Việt Nam cho rằng các nước lớn có quyền lợi tại Việt Nam phải bảo vệ quyền lợi của họ bằng cách ủng hộ lập trường của Việt Nam nhưng Hà Nội quên rằng Trung Quốc mới chính là nguồn lợi vô tận đối với nhiều nước hiện nay.
Bởi vì ngay chính Hoa Kỳ cũng không hoàn toàn thoải mái khi quan hệ ngoại giao trở lại với Việt Nam sau nhiều chục năm đứt đoạn. Một mặt Hà Nội tay bắt mặt mừng với Mỹ nhưng sau lưng lại cho phép báo chí của Đảng tiếp tục hạ nhục Mỹ bằng các bài viết nhắc lại cuộc chiến tranh thần thánh chống mỹ gần 50 năm về trước.
Bởi vì mục tiêu là nhắm tới sự góp sức của Mỹ nhưng Hà Nội công khai cho phép bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam tiếp xúc với đại diện của Tổng thống Murado của Venezuela khi nước này trên bờ vực sụp đổ vì sự phong tỏa của Mỹ và nhiều nước phương Tây. Việc làm phi chính trị này chắc chắn sẽ được các chính khách Mỹ ghi vào sổ tay của họ để cảnh báo chính quyền Washington nếu có ý định tiến thêm một bước với Việt Nam.
Bởi vì các nước EU cũng như Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, Philippines, Hàn Quốc chia sẻ lý tưởng tự do dân chủ với Mỹ trong khi Việt Nam cho rằng mỗi nước có cách nhìn dân chủ nhân quyền khác nhau và vì vậy Việt Nam từng nhiều lần bị quốc tế chỉ trích về vấn đề này, một vấn đề cốt lõi mà Việt Nam không bao giờ tuân thủ.
Bởi vì Việt Nam theo sự chỉ đạo rất khôn khéo của Trung Quốc không chấp nhận đứng chung với nước này mà chống lại nước khác nên mọi lời kêu gọi thế giới lên tiếng trước hành vi xâm lấn của Trung Quốc đều vô ích. Không nước nào chấp nhận làm công việc hồ đồ giúp cho kẻ đã từ chối nhận mình làm bạn.
Bởi vì Trung Quốc cật lực ngăn cản Việt Nam liên minh với Mỹ hay bất cứ nước nào trong thế giới tự do vì Bắc Kinh biết rằng khi chấp nhận giải pháp liên minh Việt Nam sẽ bị buộc phải từ bỏ thể chế Cộng sản vì thế giới tự do và cộng sản không thể liên minh.
Bởi vì Việt Nam biết chắc rằng ngay cả chấp nhận liên minh với Hoa Kỳ thì Quốc hội Mỹ sẽ ràng buộc Hà Nội vào nhiều yêu cầu mà nước Mỹ vẫn theo đuổi trong đó có vấn đề nhân quyền, một cục xương khó gặm cho chính thể Việt Nam. Bởi vì nước Mỹ không thể hy sinh xương máu của công dân nước mình để liên minh, bảo vệ cho một đất nước xem nhân quyền là kẻ thù của chế độ.
Tất cả những "bởi vì" ấy đang cản trở Việt Nam tiến gần với thế giới để bảo vệ mình. Trung Quốc biêt rõ điều ấy và thản nhiên tiếp tục đưa tàu vào khu vực Bãi Tư Chính để cảnh cáo Việt Nam rằng họ sẽ có thể cho Việt Nam một bài học thứ hai vì Hà Nội chơi ván cờ cộng sản lại nhìn chừng sang phía kẻ thù là thế lực thù địch.
Mặc Lâm
Nguồn : VOA, 04/10/2019
1. Đặt vấn đề
Truyền thống văn hóa ứng xử của người Việt vốn coi trọng người già, người có tuổi. Ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước năm nay đã 75 tuổi. Giữ gìn phép ứng xử của cha ông và cũng là nguyên tắc ứng xử của cá nhân, tôi lúc nào cũng kính trọng ông ấy trong tư cách một người lớn tuổi hơn mình.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Ngoài ra, tuy rất ghét kiểu tư duy "nước đôi", "ba phải" gió chiều nào theo chiều ấy của người Việt nhưng phải nói thật lòng, thời điểm ông Trọng không may có vấn đề về sức khỏe khi đi công tác ở Kiên Giang trước đây, tôi thấy ông ấy cần được cảm thông trong cái nghĩa "đồng bào", "máu mủ, ruột rà" hơn là thể hiện sự hớn hở có phần hơi cực đoan của không ít người (đương nhiên tôi cũng rất hiểu những nguồn cơn sâu xa đưa đến sự hớn hở này). Đã rất nhiều lần tôi tự hỏi và tưởng tượng cảnh một ông già đầu tóc bạc trắng, mỗi ngày không biết có ăn nổi một chén cơm không mà phải gồng gánh nguyên cái "cơ đồ của dân tộc" trên vai ? Đặc biệt là trong bối cảnh các đồng chí và cấp dưới của ông ấy cứ hở ra là tìm mọi cách để "ăn không từ một thứ gì của dân". Còn thằng "bạn vàng" và "đồng chí bốn tốt" thì chẳng từ bất cứ thủ đoạn nham hiểm nào để gây áp lực nhằm biến biển Đông thành ao nhà của nó…Trong khi đó, đại bộ phận dân chúng thì gần như đang cạn kiệt mất niềm tin. Thế nên, tôi nghĩ với một núi công việc phải xử lý thì cho dù có là Thánh hay trong miệng lúc nào cũng có "miếng sâm Hàn Quốc" cũng phải "choáng" (huống hồ ông ấy chỉ là người trần mắt thịt và nhân sâm Hàn Quốc vốn cũng không phải thuốc Tiên).
Tuy vậy, xét trong tư cách một công dân, với tinh thần "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tôi nghĩ, mình có đầy đủ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm phải bày tỏ thái độ và chính kiến của bản thân về những chủ trương quyết sách của ông ấy trong vấn đề xây dựng và phát triển đất nước. Ngoài ra, ông Trọng và các đồng chí của ông ấy là những Đảng viên (theo như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh họ là "công bộc", "đầy tớ của dân") thì nhất định phải luôn luôn nếu cao tinh thần tự phê bình và cầu thị lắng nghe những lời phê bình từ phía nhân dân trong đó có tôi – những "ông chủ", "bà chủ"... Quan trọng hơn, trong tư cách người đứng đầu và đang nắm trong tay "quyền lực tuyệt đối" (cả bên Đảng lẫn chính quyền Nhà nước) ông Trọng phải là người chịu trách nhiệm trước tiên về những chủ trương, quyết sách của mình và cấp dưới (cả trước đó, bây giờ và cả mai sau…).
Tôi phải sòng phẳng và rạch ròi ra như vậy tất cả không ngoài mục đích góp phần cụ thể hóa cái "tinh thần của một Nhà nước pháp quyền" cùng sự bình đẳng và thượng tôn pháp luật của mọi cá nhân trong đời sống xã hội mà ông Trọng và "Đảng ta" đã nhiều lần phát biểu. Quan trọng hơn cũng là để tránh mọi sự hiểu lầm nhất là những quy kết tùy tiện, vô căn cứ từ đội ngũ những người làm công tác bảo vệ Đảng đối với những cá nhân có quan điểm và tiếng nói khác bằng những từ ngữ và luận điệu quen thuộc như : "bọn phản động", "thế lực thù địch", "bôi nhọ", "nói xấu Đảng", "nói xấu lãnh đạo"…
2. Sự kiện Bãi Tư Chính : sự cầu thị nên được ghi nhận
Thời gian qua, đã có rất nhiều bài viết và lời bàn của các chuyên gia cũng như những nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước liên quan đến việc xử lý khủng hoảng ở Bãi Tư Chính hiện nay và việc quy hoạch cũng như triển khai dự án đường cao tốc Bắc – Nam. Không phải bênh vực hay "lạc quan tếu", nhưng đến thời điểm này, quan sát những gì đang xảy ra, tôi cho rằng, về cơ bản cách xử lý hai vấn đề này của ông Trọng và "Đảng ta" là "không đến nỗi nào". Cơ sở để tôi đưa ra nhận định trên là :
Thứ nhất, việc xâm nhập, quấy rối, gây khủng hoảng ở Bãi Tư Chính của Việt Nam thời gian qua vốn nằm trong kế sách lâu dài của Trung Quốc nhằm từng bước thôn tính để biến toàn bộ biển Đông thành ao nhà. Điều này thì ai cũng biết. Ngoài ra, xưa nay Trung Quốc vốn nổi tiếng về những mưu mô chước quỷ trong đó phải kể đến trò "giương Đông, kích Tây", nói một đằng làm một nẻo. Thế nên, sự việc ở Bãi Tư Chính cũng không loại trừ đây còn là kịch bản để chính quyền Tập Cận Bình gây áp lực cho Việt Nam cả về chính trị (ông Trọng phải chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng và sắp tới sẽ có chuyến sang thăm chính thức Huê Kỳ áp lực về chính trị - "bẫy ý thức hệ") lẫn kinh tế (mặc cả và ra điều khoản để được giao thầu trong dự án cao tốc Bắc – Nam vì các nhà thầu trong nước vốn không đủ năng lực cả về kỹ thuật lẫn tài chính).
Thứ hai, những bất ổn về tình hình chính trị ở Hồng Kông đang lan truyền trên các phương tiện truyền thông và không gian mạng đương nhiên ông Trọng và các đồng chí của mình không thể không biết, không lo. Người Hồng Kông vốn có gốc gác từ Trung Hoa đại lục nhưng họ vẫn quyết liệt và sẵn sàng đương đầu với chính quyền Tập Cận Bình. Vậy nên, phải chuẩn bị tất cả các phương án trên tinh thần cảnh giác và phòng xa nhằm đối phó với hiệu ứng đám đông trong nước (với cảm hứng của nhà hoạt động trẻ Hoàng Chí Phong) là điều bức thiết không thể xao lãng và xem nhẹ - chắc chắn ông Trọng đã/phải chỉ đạo như vậy.
Cuối cùng, tổng hợp những dữ kiện trên, ông Trọng lâu nay với tư tưởng bằng mọi giá phải giữ chế độ, giữ sự ổn định về chính trị vì vậy, một mặt tránh xảy ra va chạm, đụng độ với Trung Quốc ở Bãi Tư Chính (không rơi vào bẫy khiêu khích của Trung Quốc) đồng thời có những bước đi tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế (dù trong ngôn ngữ ngoại giao vẫn còn khá rụt rè làm không ít người bực bội) theo tôi là "phù hợp" với hoàn cảnh hay chính xác hơn là sự yếm thế của Việt Nam hiện nay so với Trung Quốc. Ngoài ra, việc Bộ giao thông vận tải ngay lập tức ra quyết nghị không chọn nhà thầu "quốc tế" cho dự án cao tốc Bắc – Nam (vì trước đó không lâu gần như ai cũng thấy các nhà thầu Trung Quốc gần như chiếm ưu thế rất lớn về mặt hồ sơ) cũng là một nước cờ rất kịp thời và khôn ngoan, ("nhất tiễn song điêu") của "Đảng ta". Một là, qua đó ngầm gửi "thông điệp" Việt Nam sẽ không nhân nhượng và thỏa hiệp với những đòi hỏi vô lý của Trung Quốc liên quan đến Bãi Tư Chính. Hai là, tạm thời xoa dịu dân chúng đặc biệt là tầng lớp nhân sĩ, trí thức trong nước vì lo ngại những ảnh hưởng từ sự khủng hoảng ở Hồng Kông trên mạng xã hội.
Tóm lại, với cách xử lý trên, đương nhiên với quan điểm cá nhân, tôi vẫn không tin có một sự "thoát Trung" thực sự của "Đảng ta" trong thời gian tới nhưng dù sao qua đây, ít nhiều cũng cho thấy có một sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực hơn. Vậy nên, xâu chuỗi lại việc tạm dừng thông qua Luật về ba đặc khu kinh tế trước đó, tôi cho rằng rất nên ghi nhận sự cầu thị và lắng nghe này của ông Trọng và "Đảng ta" (dẫu biết rằng sự cầu thị ấy vẫn chủ yếu dựa trên nguyên tắc bảo vệ chế độ, vì sự nguyên vẹn của "Đảng ta" chứ không hẳn là vì quốc gia, dân tộc là trên hết).
3. Chuẩn bị cho Đại hội Đảng : "thế lực thù địch" "điên cuồng chống phá" hay là câu hỏi "Đảng ta có xấu" không ?
Có một sự thật mà ai cũng thấy là đại bộ phận dân chúng đang ngày một mất niềm tin vào sự lãnh đạo của "Đảng ta" hiện nay. Về vấn đề này, từ lâu tôi vẫn nghĩ, hơn ai hết ông Trọng và các "đồng chí" của mình chắc chắn đã nhận ra hai nguyên nhân có tính cốt tử dưới đây :
Một, là sự lệ thuộc quá nhiều hay nói khác đi là bị rơi vào cái bẫy về "ý thức hệ" của Trung Quốc trong khi đó đường hướng xây dựng và phát triển đất nước lại dựa vào chủ thuyết Mác-Lênin vốn đã không còn phù hợp trong bối cảnh và thời đại hôm nay.
Hai, là "quốc nạn tham nhũng" do sự cấu kết, "đi đêm" của các quan chức lãnh đạo (từ Trung ương đến địa phương) với các "đại gia" – ông chủ các Tập đoàn kinh tế hay các doanh nghiệp - nhằm chia nhau các dự án béo bỡ, từ đó làm lũng đoạn nền kinh tế và làm băng hoại suy đồi đạo đức văn hóa, xã hội…
Tuy vậy, phản ứng lại với sự mất niềm tin này của dân chúng và cho dù đã thấy hết, biết hết nhưng vì sỉ diện và hơn hết là để duy trì sự lãnh đạo tuyệt đối của "Đảng ta" ông Trọng và các đồng chí của mình thời gian qua nhìn chung chỉ tìm mọi cách vá víu nhằm xoa dịu sự bất bình và mất niềm tin của dân chúng trong nhất thời mà thôi. Đáng nói hơn nữa, những giải pháp mà họ đưa ra không những vừa cải lương mà còn rất duy ý chí (như : thực hiện phê bình và tự phê bình trong Đảng, phát động phong trào học tập va làm theo đạo đức Hồ Chí Minh, ban hành các quy định về "nêu gương đối với người đứng đầu" hay thảo luận để ra luật về "chống xu nịnh")… Những cách làm này nghiêm túc mà nói không thể xem là những giải pháp khoa học và căn cơ để quản lý con người và xã hội. Đặc biệt, nó hoàn toàn mâu thuẫn với cái mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền nên cuối cùng chỉ gây thêm lãng phí về thời gian, tiền bạc, công sức nhưng không mang lại kết quả gì đáng kể.
Bên cạnh đó, như một một thói quen và quán tính đã ăn sâu vào máu từ thời đất còn chiến tranh, để bảo vệ uy tín và "sự tài tình sáng suốt" của mình thì việc lên án và đổ lỗi cho các "thế lực thù địch" "điên cuồng chống phá" cũng là một "giải pháp" rất thường xuyên được đội ngũ tuyên truyền của "Đảng ta" mang ra sử dụng.
Có một "luận điệu" mà đội ngũ tuyên truyền của Đảng ta thường sử dụng để đáp trả những người có quan điểm khác với mình là vu cho người khác tội "phản động" hay "nói xấu Đảng", "nói xấu lãnh đạo"… Ở giác độ văn hóa, đây là sự thiếu trung thực, hay nói nôm na là "chơi không đẹp" ; vì anh đã sai, đã gây ra lỗi lầm, làm cho quốc gia dân tộc điêu đứng, gây khủng hoảng và mất niềm tin trong dân chúng nhưng lại không chân thành thừa nhận lại còn bao biện, ngụy biện đổ hết mọi tội lỗi lên đầu người khác.
Một suy luận mang tính logic rất thông thường mà ai cũng biết là mấy mươi năm qua "Đảng ta" nắm quyền điều hành tuyệt đối đất nước nhưng đến hôm nay đất nước vẫn không thể hóa rồng, vẫn không thể sánh vai được với các cường quốc năm Châu như mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đã vậy, bây giờ ông Trọng còn phải quyết liệt đưa "vào lò" những "đồng chí" của mình với câu nói nổi tiếng : "chống tham nhũng là ta đánh tự đánh ta" ! Chỉ bấy nhiêu thôi cũng cho thấy những quy chụp, cáo buộc ai đó "nói xấu Đảng", "nói xấu lãnh đạo"... là rất thiếu thuyết phục. Hay nói khác đi, lẽ ra trước khi kết tội cho người ta cái tội trên, "Đảng phải" phải dũng cảm và trung thực tự hỏi lại xem mình "có xấu" hay không ?
Không phải nói đâu xa, trước khi bị bắt (vì nhận hối hộ hàng trăm, hàng triệu USD và sắp tới rất có thể bị khai trừ ra khỏi Đảng) không phải cả hai ông Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn đều là những lãnh đạo cốt cán với phẩm chất đạo đức cách mạng sáng ngời đó sao ? Cá nhân ông Nguyễn Bắc Son còn được Nhà nước trao tặng "Huân chương Độc lập hạng nhì", còn ông Trương Minh Tuấn thì tự tay viết sách để tuyên truyền về "phòng chống tự diễn biến, tự chuyển hóa về tư tưởng trong cán bộ đảng viên"…
Nhưng ông Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn mới chỉ là hai trường hợp điển hình cho thấy Đảng ta "có xấu" nếu không muốn nói là "rất xấu" (ngoài ra phải kể đến những Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Trần Việt Tân, Bùi Xuân Thành, Nguyễn Văn Hiến, Phan Thị Mỹ Thanh, Nguyễn Xuân Anh, Vũ Huy Hoàng, Tất Thành Cang, Vũ Văn Ninh, sắp tới đây rất có thể sẽ thêm ông trùm đất Sài Gòn Lê Thanh Hải...).
Từ đây, có thể nói, muốn gầy dựng lại niềm tin với người dân, trước hết ông Trọng và "Đảng ta" phải dũng cảm nhìn vào sự thật (về những "cái xấu" không thể chối cãi) này thay vì duy trì thói quen vừa giáo điều, bảo thủ vừa "cả vú lắp miệng em". Đổ hết cho các "thế lực thù địch" là một "giải pháp" tuy rất dễ nói, dễ làm nhưng thật ra là rất nguy hiểm. Trước hết, "giải pháp’ này vô tình là tấm bình phong cho những kẻ cơ hội chính trị núp bóng, "ẩn mình" chờ thời cơ để dễ bề tiến thân trước mỗi lần Đại hội, bầu bán… Không những vậy, nhiều kẻ sau khi phạm phải những sai lầm cũng tiếp tục mang ra để bao biện, ngụy biện mong một sự nương tay, giảm nhẹ hình phạt.
Chuẩn bị cho Đại hội Đảng sắp tới, thay vì chú trọng vào việc lựa chọn để tìm ra những cá nhân ưu tú nhất đặc biệt là luôn đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên hết bằng một quy trình công khai, minh bạch để người dân giám sát thì "Đảng ta" chỉ chú trọng đến những cá nhân có phẩm chất đạo đức theo quan điểm của mình với một quy trình quen thuộc : âm thầm quy hoạch nhân sự trong vòng bí mật. Đã vậy, trong khi tuyên truyền chuẩn bị cho Đại hội còn tung ra những "đòn gió" rằng, "trước mỗi kỳ Đại hội các thế lực thù địch thường tăng cường chống phá để gây sự chia rẽ và mất đoàn kết nội bộ". Trong khi đó ai cũng biết, mọi vấn đề thưa kiện (công khai hoặc bằng thư nặc danh) hay những cuộc đấu tố nhau bằng các chiêu trò truyền thông và trên không gian mạng… trước hết cũng từ nội bộ những người trong cuộc - những "đồng chí với nhau" mà ra…
4. Nghị quyết "cờ mờ 4.0" : vẫn là bệnh hoang tưởng và "kiêu ngạo cộng sản" ?
Bài viết của tôi vốn ban đầu không có mục này nhưng trong khi hoàn thành thì được biết "ngày 27/9, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 của Bộ Chính trị" [1] nên tôi thấy cần phải bổ sung thêm vài dòng trong sự buồn cười xen lẫn ngậm ngùi và thất vọng.
Có thể nói, sang năm 2020, một ban bệ nhân sự mới của Đảng chắc chắn sẽ được hình thành và ra mắt trước nhân dân trước hết là để thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 2021 - 2026. Tuy nhiên, như đã nói ở trên tất cả những cá nhân này cho đến giờ dân chúng vẫn chẳng ai biết danh tính và nhân dạng họ ra sao, "đã làm được gì cho đất nước" hay chưa ? Chỉ biết rằng, tất cả họ đã được "Đảng ta" "lựa chọn rất kỹ lưỡng" với "quy trình rất chặt chẽ’…và hiện đang được "bồi dưỡng kiến thức" [2] tại Học viện Chính trị Quốc gia. Về lý thuyết, đây có thể xem là những cá nhân "ưu tú", vượt trội nhất nếu so với 95 triệu dân còn lại của đất nước. Và chính họ chứ không phải ai khác sẽ đảm trách việc lèo lái con thuyền Việt Nam tiếp tục "đi lên" chủ nghĩa xã hội mà "Đảng ta" đã chọn. "Sống theo chỉ thị, làm theo Nghị quyết", chắc chắn rồi đây "toàn Đảng, toàn dân và tàn quân ta" sẽ triển khai và quán triệt để "đưa" cái "Nghị quyết cơ mờ 4.0" này "vào cuộc sống".
Từ đây, trong tư cách những cá nhân ưu tú nhất được lụa chọn, tôi muốn biết có bao nhiêu người trong số "184 cá nhân đã được quy hoạch cho Trung ương khóa mới" [3] có suy nghĩ gì và ai trong số họ đã tham mưu cho ông Trọng và "Đảng ta" ban hành cái Nghị quyết trên ? Xin hỏi cái Nghị quyết này có phải là vấn đề cấp bách, bức thiết nhất nhằm xây dựng và phát triển đất nước, xã hội Việt Nam trong thời gian tới hay không ? Hay trên thực tế nó là bằng chứng cho thấy chứng hoang tưởng và bệnh kiêu ngạo cộng sản của "Đảng ta" thật sự đã vô phương cứu chữa ?
Một nền giáo dục bầy hầy, một nền văn hóa suy đồi và xuống cấp đến tận đáy. Trong khi đó "rừng vàng" thì đang bị tàn phá tan hoang bởi các nhóm lợi ích nấp dưới danh nghĩa khai thác du lịch sinh thái và tâm linh, còn "biển bạc" thì bị thằng "bạn vàng" suốt ngày hăm dọa để thôn tính. Dân chúng giờ đây về cơ bản, tài sản chỉ còn lại ruộng vườn, đất đai nhưng với chế định "đất đai thuộc sở hưu toàn dân" nên cũng đã và đang bị các "đại gia bất động sản" dùng mọi thủ đoạn để thâu tóm gây ra không biết bao nhiêu nỗi tang thương… Đây chỉ là một trong những vấn đề bức thiết trước mắt mà ai cũng nhìn thấy. Còn về tương lai thì theo các chuyên gia, dưới sự tác động của "biến đổi khí hậu" toàn cầu rồi đây cả vùng Đồng bằng Sông Cửu Long – cái xương sống về kinh tế nông nghiệp của cả nước – sẽ bị nhấn chìm trong tương lai không xa. Tất cả những khó khăn và trở ngại này lẽ ra rất cần một sự quyết liệt trong nhận thức và hành động để từng bước khắc phục và thay đổi một cách căn cơ và hiệu quả nhất thì phớt lờ bỏ qua, lại đi chú tâm vào vấn đề mà thế giới chẳng mấy ai đặt nặng và nói nhiều như mình. [4]
5. Thay lời kết
"Quy hoạch nhân sự", "quy hoạch con người" tự thân cách nghĩ và khái niệm này vốn đã đi ngược hay nói chính xác hơn là vi phạm nguyên tắc lựa chọn, sàng lọc của tự nhiên và xã hội. Không những vậy sự quy hoạch ấy chỉ do một nhóm người quyết định trong vòng bí mật càng cho thấy một sự chủ quan và duy ý chí hơn nữa. Thực tế đã chứng minh, một ông Thủ tướng (trước đây cũng được bí mật quy hoạch và lựa chọn với quy trình tương tự) nhưng hết lần này đến lần khác, đến đâu cũng lấy cái "công thức" : "địa phương A, B, C phải là như thế nọ, thế kia của cả vùng, cả nước…" ra nói trong sự mơ hồ, mụ mị không sao tưởng tượng được [5]. Ngoài ra, thì còn không biết bao nhiêu kẻ khác đã bị phế truất cũng như chuẩn bị "đưa vào lò". Thực tế đã chứng minh rất rõ ràng như vậy thì thử hỏi cơ sở nào để đảm bảo và hứa hẹn những cá nhân vừa được bí mật quy hoạch (với cùng một quy trình trước đó) hôm nay sẽ đảm đương tốt trọng trách dẫn dắt quốc gia dân tộc trong tương lai ? Hay ít nhất là không rơi vào những "vết xe đổ" năm xưa ?
Xây dựng niềm tin với dân chúng đã khó, giữ vững niềm tin ấy càng khó hơn huống hồ là đã mất sạch niềm tin và giờ phải gầy dựng lại nhưng vẫn cố chấp không chịu thay đổi cách nghĩ, cách làm ; không những vậy khi xảy ra sự cố, những sai lầm còn "cả vú lấp miệng em" hoặc "đánh bùn sang ao" thì chẳng khác gì đang tự biến mình thành trò hề bởi dân chúng hiện nay đã không còn ngờ nghệch như xưa.
Tôi sẽ vẫn luôn cảm thông và kính trọng ông Trọng trong tư cách một người đáng tuổi cha chú mình nhưng chắc chắn tôi sẽ không bao giờ quên những chủ trương quyết sách sai lầm của ông ấy trong tư cách người đã và đang nắm quyền lực tuyệt đối ở Việt Nam, có ảnh hưởng và chi phối toàn bộ đời sống của 95 triệu người Việt. Và tôi tin chắc, trong tương lai lịch sử cũng sẽ "phán xét" công bằng mọi vấn đề mà ông ấy đồng chí của mình đã gây ra cho quốc gia dân tộc hôm nay.
Cần Thơ, 02/10/2019
Quách Hạo Nhiên
Nguồn : viet-studies, 02/10/2019
Nguồn tham khảo :
[1] "Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành nghị quyết về Cách mạng 4.0"
[2] "Bồi dưỡng kiến thức cho 95 cán bộ cấp chiến lược"
[3] "Bộ Chính trị đã phê duyệt 184 nhân sự quy hoạch Ban chấp hành Trung ương khóa XIII"
[4] "Ảo ảnh "bốn chấm không"
[5] "Thủ tướng muốn mỗi khác du lịch đến Lạng Sơn mua 1 con vit quay mang về"
Hành vi của Trung Quốc cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 cùng với một đội tàu hải cảnh hộ tống xâm lấn vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở khu vực Bãi Tư Chính gần quần đảo Trường Sa (Biển Đông) từ tháng 07/2019, đã bị nhiều nước tố cáo, đi đầu là Hoa Kỳ, kế đến là châu Âu.
Trả lời phỏng vấn của Ban Việt Ngữ RFI, giáo sư Ngô Vĩnh Long thuộc Đại học Maine (Hoa Kỳ) đã cho rằng chính quyền Việt Nam cần tranh thủ phản ứng bất bình hiện nay của nhiều nước trên thế giới trước hành vi coi thường luật lệ quốc tế của Trung Quốc đối với Việt Nam, để kiện ngay Trung Quốc ra trước các cơ quan quốc tế, chứ nếu còn chần chờ thì có nguy cơ bị Trung Quốc quật lại, cho rằng Việt Nam đã đồng ý nhượng bộ.
Vị trí bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam
RFI : Nhận định chung của giáo sư về các phản ứng quốc tế đối với hành động xâm lấn của Trung Quốc là như thế nào ?
Ngô Vĩnh Long : Phản ứng quốc tế đối với hành động xâm lấn, từ đầu tháng 7, của Trung Quốc ở bãi Tư Chính và các nơi khác trên thềm lục địa và trong vùng đặc quyền kinh tế của (EEZ) của Việt Nam là vừa phải.
Hầu hết các nước đã lên tiếng đều cho đây là việc đe dọa an ninh cho toàn khu vực chứ không chỉ đối với Việt Nam.
RFI : Giáo sư giải thích sao về phản ứng mạnh mẽ khác thường của Mỹ ?
Ngô Vĩnh Long : Đúng là Mỹ lần nầy có phản ứng mạnh mẽ khác thường. Ví dụ như vào ngày 18/8/2019, đại tướng David Goldfein, tham mưu trưởng Không Quân Mỹ, đã phát biểu trong cuộc họp báo tại Hà Nội rằng Mỹ tôn trọng các quyết định và hành động của Hà Nội liên quan đến việc tàu Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cũng như "kịch liệt phản đối các hoạt động thách thức chủ quyền của Việt Nam."
Một lý do chính (giải thích thái độ của Mỹ) là trong khi các nước trong khối ASEAN còn đang e dè trước đe dọa của Trung Quốc thì Mỹ, nếu muốn duy trì địa vị siêu cường của mình trên biển, cần có sự hợp tác tích cực của Việt Nam.
Việt Nam là nước có bờ biển dài nhất trong khu vực và, do đó, có quyền lợi lớn nhất trong khu vực. Nếu Mỹ lơ là Việt Nam thì Mỹ khó có thể vận động các nước trong khu vực bảo vệ an ninh và quyền lợi chung. Việc Việt Nam tuyên bố ngày 22/8/2019 tham gia tập trận hải quân với Mỹ và ASEAN, lần đầu tiên, là một dấu hiệu tích cực.
RFI : Về các phản ứng như của Ấn Độ, Úc, Nhật Bản, Liên Hiệp Châu Âu và của nhóm E3 (Anh, Pháp, Đức), giáo sư thấy có gì nổi bật ?
Ngô Vĩnh Long : Điểm nổi bật trong phản ứng của hầu hết các nước vừa nêu ở trên là không những họ đã chính thức phản đối sự xâm phạm của Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, mà còn cảnh cáo Trung Quốc về việc bất chấp luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, để đe dọa tự do hàng hải, hàng không, thương mại trên Biển Đông mà họ cho đó là một phần của cộng đồng toàn cầu.
Đây là lần đầu tiên có nhiều nước như trên, gần như cùng một lúc, mà đồng tình và đồng thanh như thế.
RFI : Riêng các nước ASEAN có vẻ gần như là im hơi lặng tiếng trước hành động của Trung Quốc đối với Việt Nam. Giáo sư nghĩ sao về phản ứng của ASEAN ?
Ngô Vĩnh Long : Thông cáo chung của cuộc họp các ngoại trưởng ASEAN lần thứ 52 cuối tháng 8 vừa qua ở Bangkok lần đầu tiên có tỏ quan ngại về "những sự cố nguy hại trên khu vực" (serious incidents in the area) Biển Đông vừa qua.
Như thế là mạnh dạn lắm rồi, vì có một số nước ASEAN, trong đó có Phillippines và Malaysia, bị Trung Quốc chi phối vì lợi ích kinh tế và thương mại.
RFI : Về đối sách của Việt Nam, giáo sư nhận định như thế nào về những phản ứng của Việt Nam, đăc biệt trong vấn đề vận động dư luận quốc tế ủng hộ Việt Nam ?
Ngô Vĩnh Long : Có thể chính phủ Việt Nam có vận động ngầm mà không thông tin cho dân chúng và báo chí biết. Việc tàu Hải Dương Địa Chất 8 và một số tàu hải cảnh của Trung Quốc đã đến bãi Tư Chính từ ngày 3 tháng 7, nhưng chính phủ Việt Nam không đưa tin tức gì về việc nầy hết làm cho người ta thấy là dường như Việt Nam đã e ngại trong việc vận động công khai.
Gần hai tuần sau, vì có một số thông tin từ các nguồn bên ngoài, người phát ngôn của bộ Ngoại Giao Việt Nam mới lên tiếng nhưng đến nay vẫn chưa có những thông tin cụ thể đã được đưa ra.
Có thể phía Việt Nam đã đưa tin riêng cho một vài chính phủ trên thế giới để vận động họ. Có thể người phát ngôn bộ Ngoại Giao Mỹ đã có thông tin từ phía chính phủ Việt Nam khi lên tiếng ngày 22/8/2019 là Mỹ - tôi xin dịch nguyên văn - "ủng hộ Việt Nam chống lại cố gắng của Trung Quốc đang đe dọa các nước muốn khai thác tài nguyên tại Biển Đông."
Nhưng cũng có thể Mỹ đã có thông tin riêng và bắt buộc phải lên tiếng lúc đó vì quyền lợi của chính họ, đặc biệt là muốn Việt Nam tập trận chung với Mỹ và các nước ASEAN trên biển như đã đề cập lúc nãy.
RFI : Theo giáo sư thì cần phải ứng phó như thế nào đối với Trung Quốc ? Cách làm của Việt Nam cho đến bây giờ có thỏa đáng chưa ? Nếu chưa thì cần phải thúc đẩy những điểm nào ?
Ngô Vĩnh Long : Nếu cứ nhượng bộ thì Trung Quốc sẽ càng lấn như đã chứng minh đối với Việt Nam và đối với Philippines gần đây. Philippines dầu sao cũng đã thắng Trung Quốc trên bình diện luật pháp quốc tế với phán quyết của PCA. Đây là thắng lợi không phải riêng cho Philippines, mà còn cho khu vực và thế giới.
Việc Duterte cố tình gác lại phán quyết PCA để làm ăn kinh tế với Trung Quốc là chuyện riêng của ông ấy. Nhưng luật pháp quốc tế là cho quốc tế. Việt Nam nên dựa vào phán quyết của PCA để tranh đấu với Trung Quốc và vận động sự ủng hộ của thế giới. Cùng lúc chính phủ Việt Nam nên vận động hậu thuẫn của nhân dân trong nước.
Ngoài ra, Việt Nam nên đem Trung Quốc ra trước các cơ quan quốc tế trong khi Trung Quốc còn đang tiếp tục xâm lấn. Nếu không làm gì thì, trước mắt của cộng đồng thế giới, Trung Quốc có thể chứng minh là Việt Nam đã nhượng bộ rồi cho nên họ có giúp đỡ thì cũng chẳng đi đến đâu.
Thật ra Việt Nam cần đem Trung Quốc ra kiện vì, theo UNCLOS, đã xâm phạm quyền chủ quyền (sovereign rights) của Việt Nam khi cho tầu đi vào EEZ của Việt Nam để nghiên cứu và đo đạc. Chính phủ Việt Nam phải cần dựa vào luật pháp và sự ủng hộ của nhân dân trong nước và trên thế giới để bảo vệ an ninh và quyền lợi chung trước sự bành trướng trắng trợn của Trung Quốc.
Và tôi xin nhấn mạnh lại một lần nữa là phải làm ngay bây giờ.
RFI : Xin cảm ơn giáo sư Ngô Vĩnh Long.
Trọng Nghĩa thực hiện
Nguồn : RFI, 30/09/2019
Đảng cộng sản Việt Nam trước ba lựa chọn xử lý căng thẳng Bãi Tư Chính với Trung Quốc
Carl Thayer, RFA, 30/09/2019
Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam sẽ có kỳ họp thứ 11 từ ngày 7 đến 13 tháng 10 tới. Theo điều lệ đảng, Ban chấp hành Trung ương phải họp 2 lần mỗi năm. Kỳ họp thứ hai của năm thường được tổ chức vào tháng 10, và vì vậy thời điểm của cuộc họp lần này là hoàn toàn bình thường.
Hình minh họa. Một hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam vào ngày 1/10/2012 - AFP
Dù thời điểm của cuộc họp là bình thường, lãnh đạo Việt Nam lại phải đối mặt với một thách thức lớn liên quan tới sự lãnh đạo của họ trong vấn đề chủ quyền của Việt Nam. Vào đầu tháng 7, Trung Quốc đã điều tàu khảo sát Hải Dương 8 đến vùng nước rõ ràng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam, để tiến hành các khảo sát trái phép.
Tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc được hộ tống bởi môt số các tàu hải cảnh cùng dân binh và tàu cá. Tàu hải cảnh của Trung Quốc ngăn chặn các tàu cảnh sát biển của Việt Nam bằng cách đi qua đầu tàu ở tốc độ cao và sử dụng vòi rồng từ phía xa để cảnh báo các tàu cảnh sát biển của Việt Nam thay vì đối đầu trực tiếp như hồi năm 2014, khi Trung Quốc cho triển khai giàn khoan dầu khí HD 981 vào vùng biển của Việt Nam.
Hải Dương 8 thực hiện chuyến khảo sát ở vùng nước có các lô dầu khí được Công ty Dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNOOC) xác lập vào năm 2012. Trong suốt 7 năm qua, không có bất cứ công ty dầu khí nước ngoài nào nhận lời mời khai thác các lô này của CNOOC.
Hình minh họa. Đường đi của tàu Hải Dương 8 ở vùng nước của Việt Nam vào tháng 7 vừa qua - Courtesy of Twitter Ryan Martinson
Vào ngày 12 tháng 5, giàn khoan của công ty Nhật Bản có tên Hakuryu-5, do công ty liên doanh giữa Việt Nam và Rosneft của Nga thuê, bắt đầu khoan dầu ở lô 06-01 thuộc bồn trũng Nam Côn Sơn. Sau đó, Trung Quốc đã điều một trong số những tàu hải cảnh của mình đến quấy nhiễu hoạt động trợ giúp hậu cần cho Rosneft ở lô này.
Vào giữa tháng 8, Hải Dương 8 tạm rút khỏi khu vực và về đá Chữ Thập trước khi quay lại và tiến gần hơn về phía bờ biển của Việt Nam. Ngày 23/9, Hải Dương 8 một lần nữa lại rời khỏi khu vực và đi về đá Chữ Thập.
Vào đầu tháng 9, Trung Quốc triển khai tàu cần cẩu lớn nhất thế giới là Lam Kình của công ty CNOOC đến cách khu vực bờ biển tỉnh Quảng Ngãi khoảng 90 km.
Việc rút đi của tàu Hải Dương 8 hiện tại không hoàn toàn vì lý do thương mại. Trung Quốc đã nói rõ trong bản thảo bộ quy tắc về ứng xử giữa ASEAN và Trung Quốc (COC) do nước này đệ trình để thảo luận, là Bắc Kinh chống lại việc để bất cứ công ty nước ngoài nào hoạt động ở Biển Đông. Giới chức Trung Quốc đã yêu cầu, cả chính thức lẫn không chính thức, với phía Việt Nam phải ngưng các hoạt động khai thác của Rosneft.
Ngoài ra, Trung Quốc dường như cũng đang cố gắng gây ảnh hưởng lên kỳ họp Hội nghị ban chấp hàng Trung ương Đảng 11 sắp tới.
Hình minh họa. Hình chụp hôm 1/6/2014 từ tàu cảnh sát biển của Việt Nam : tàu hải cảnh của Trung Quốc đang đuổi tàu cảnh sát biển của Việt Nam khỏi khu vực giàn khoan HD 981 AFP
Cũng phải nhắc lại là vào năm 2014, việc Trung Quốc cho triển khai giàn khoan HD 981 đã làm dấy lên làn sóng biểu tình chống Trung Quốc lan rộng ở Việt Nam. Một nhóm những đảng viên và quan chức nhà nước, quốc phòng về hưu đã ký một bức thư ngỏ kêu gọi Việt Nam phải thoát Trung. Ngoài ra, lúc đó đã có sức ép cần phải triệu tập một cuộc họp Ban chấp hành Trung ương để lên án Trung quốc và tiến gần hơn về phía Mỹ.
Khi giới chức Trung Quốc biết được điều này, họ đã tuyên bố là HD 981 đã hoàn tất nhiệm vụ và sẽ rút giàn khoan do bão. Hành động của Trung Quốc đã làm giảm tác động lên sức ép từ những ủy viên Ban chấp hành Trung ương, những người muốn có hành động kiên quyết với Trung Quốc. Đã không có một cuộc họp đặc biệt nào được triệu tập.
Cuộc họp Ban chấp hành Trung ương 11 rơi đúng vào lúc có những tin đồn ngoại giao là Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng có thể sẽ gặp Tổng thống Donald Trump ở Nhà Trắng vào tháng 10. Cũng phải cần nhắc lại là khi ông Trọng gặp Tổng thống Trump ở Hà Nội vào tháng 2 vừa qua nhân Thượng đỉnh Mỹ - Bắc Hàn, Tổng thống Mỹ đã đích thân mời đối tác Việt Nam sang thăm và thảo luận việc "gia tăng quan hệ đối tác toàn diện".
Không khí xung quanh chuyến thăm của Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng lúc này là khá phức tạp. Một mặt, Tổng thống Trump và đại diện thương mại của ông đã chỉ trích Việt Nam vì những thặng dư thương mại giữa Việt Nam với Mỹ, một phần là do việc dán nhãn lại và tái xuất các hàng hóa làm từ Trung Quốc.
Hình minh họa. Tổng thống Mỹ Donald Trump bắt tay Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng ở Hà Nội hôm 27/2/2019 AFP
Mặt khác, Bộ Ngoại giao Mỹ đã lên tiếng chỉ trích hành động bắt nạt và đe dọa của Trung Quốc đối với các chương trình khai thác dầu khí lâu dài của Việt Nam. Bản thân Việt Nam cũng đã kiên quyết công khai kêu gọi sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế. Thêm nữa là chiến lược Ấn Độ Thái Bình Dương của Mỹ đã xác định Việt Nam là một đối tác chiến lược tiềm năng. Tóm lại, Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng có thể tìm được những người nghe thông cảm nếu ông đến Washington.
Lịch trình của hội nghị Ban chấp hành Trung ương 11 không còn nghi ngờ gì nữa sẽ cân nhắc đề nghị của Bộ Chính trị về cách xử lý tình trạng bế tắc hiện nay ở vùng nước gần Bãi Tư Chính, và nhìn chung là các chính sách trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc tại thời điểm hiện tại.
Cho đến lúc này, Việt Nam đã đáp lại những đe dọa từ phía Trung Quốc theo cách hết sức nhẹ nhàng. Việt Nam đã gửi một loạt các phản đối qua đường ngoại giao và qua các kênh khác, yêu cầu Trung Quốc rút tàu khỏi vùng biển của Việt Nam. Tàu cảnh sát biển của Việt Nam đã áp dụng chính sách theo dõi tàu Hải Dương 8, các tàu hải cảnh và dân binh theo cách không gây hấn. Việt Nam cũng giữ không để truyền thông quốc tế đưa tin như hồi năm 2014 khi các phóng viên nước ngoài được phép lên các tàu cảnh sát biển. Việt Nam cũng khá kín kẽ trong việc đưa tin trên phương tiện truyền thông trong nước để đề phòng các cuộc biểu tình chống Trung Quốc có thể chuyển thành bạo lực.
Nhiều nguồn tin ở Hà Nội cho biết lãnh đạo Việt Nam, những người chịu trách nhiệm về an ninh quốc gia, vẫn chưa đạt được một đồng thuận về những vấn đề bức bối này. Nhìn chung, Ban chấp hành Trung ương sẽ phải đối mặt với 3 lựa chọn lớn : (1) tiếp tục lặn ngụp trong "vừa hợp tác, vừa đấu tranh" với Trung Quốc, (2) lùi lại để giảm sức ép liên tục từ Trung quốc, như trường hợp trước đó với Repsol hồi tháng 7 năm 2017 và tháng 3 năm 2018, và (3) đối đầu với sức ép từ Trung Quốc bằng cách gia tăng hợp tác an ninh và quốc phòng với Mỹ, bằng cách đồng ý nâng quan hệ hai nước lên thành đối tác chiến lược trong thời gian tới.
Carl Thayer
Nguồn : RFA, 30/09/2019
______________
*Carl Thayer là giáo sư thuộc trường Đại học New South Wales, Canberra, Australia. Ông là người đóng góp cho RFA các bài phân tích về ảnh hưởng của Trung Quốc tới Việt Nam.
********************
Chuyến thăm Mỹ sắp tới của ông Trọng và vấn đề căng thẳng với Trung Quốc tại Biển Đông
RFA, 30/09/2019
Tác giả David Hutt vừa có một bài xã luận đăng tải trên tờ The Diplomat hôm 27 tháng 9 liên quan đến vai trò của ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong thời gian tới, tùy thuộc vào sức khỏe của ông ấy ra sao ?
Ngày 23/10/18, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã được Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu và chính thức trở thành Chủ tịch nước Việt Nam.
Ông Nguyễn Phú Trọng khỏe hay yếu ?
Trong bài viết có nhan đề ‘Is Vietnam’s Trong still going strong ?’ (tạm dịch ‘Tổng Trọng của Việt Nam sẽ tiếp tục mạnh mẽ ?’), tác giả David Hutt đề cập đến tình trạng sức khỏe của ông Trọng mà dư luận trong và ngoài nước đang đặc biệt chú ý, trong bối cảnh Hội nghị Trung ương 11 dự kiến diễn ra trong tháng 10 này.
Ông David Hutt nhắc lại mặc dù truyền thông Nhà nước loan báo sức khỏe của Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, 75 tuổi được hồi phục sau cơn bạo bệnh xảy ra hồi tháng 4 vừa qua ; tuy nhiên vẫn có những hoài nghi rằng sức khỏe của ông Trọng đang bị suy yếu qua các lần xuất hiện của ông trong những sự kiện gần đây. Một viện dẫn như hồi đầu tháng 8, ông Trọng tiếp đón Chủ tịch nước Lào Bounnhang Volachith. Ông chỉ gặp gỡ chóng vánh Chủ tịch Lào và sau đó dành vỏn vẹn 25 phút tiếp xúc với Thủ tướng Malaysia -Mahathir Mohamad trong chuyến viếng thăm 3 ngày của Thủ tướng Malaysia đến Việt Nam vào cuối tháng 8. Ông Trọng cũng đã chưa hề có chuyến đi công du nước ngoài nào kể từ tháng 5 đến nay.
Một trong những sự kiện mà dư luận đặc biệt quan tâm là chuyến thăm Hoa Kỳ của ông Trọng dự kiến sẽ diễn ra trong tháng 10, theo lời mời của Tổng thống Donald Trump. Chuyến đi này được giới quan sát chính trị thế giới theo dõi vì căng thẳng leo thang tại bãi Tư Chính ở Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều diễn biến phức tạp, mà theo đánh giá của tác giả David Hutt là "thái độ của Bắc Kinh càng trở nên công kích và hiếu chiến hơn kể từ lần xảy ra xung đột tệ hại nhất ở Biển Đông hồi năm 2014", đồng thời cũng trong bối cảnh Tổng thống Trump yêu cầu Hà Nội cần phải có biện pháp để giảm thâm hụt thương mại giữa hai nước.
Tác giả David Hutt nhấn mạnh trong bài xã luận của ông rằng không ít ý kiến cho rằng có thể Mỹ và Việt Nam sẽ nâng tầm lên cấp quan hệ "đối tác chiến lược" qua chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng trong tháng 10 ; thế nhưng cho đến thời điểm này (cuối tháng 9, sắp bước sang đầu tháng 10) cả hai phía Việt Nam lẫn Hoa Kỳ vẫn kín tiếng về chuyến thăm đang được trông đợi này.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp về lợi ích chiến lược và chiến lược quốc tế từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á vào tối ngày 30 tháng 9 nhận định với RFA rằng dù sức khỏe của ông Tổng Trọng thế nào đi nữa thì chuyến thăm Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Trump sẽ diễn ra và có thể là sau Hội nghị Trung ương 11.
Theo lập luận của Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp thì chuyến thăm này sẽ dự kiến trước thời điểm Hoa Kỳ tập trung cho các hoạt động vận động bầu cử trong những ngày cuối năm 2019.
Trong khi đó, tác gỉa David Hutt nêu lên rằng cả Mỹ và Việt Nam chưa bên nào xác nhận về chuyến thăm Hoa Kỳ sắp tới của ông Trọng. Đây có thể là do phía Việt Nam chưa chắc chắn về sức khỏe của ông Trọng. Ngoài ra, còn có những đồn đoán rằng, nếu sức khỏe không cho phép thì người thay ông Trọng sang Mỹ có thể là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc - người đã từng vài lần gặp gỡ và làm việc trực tiếp với Thổng thống Trump, đồng thời là người được cho là năng động và ngoại giao linh hoạt hơn so với ông Trọng.
Mặc dù vậy, tác giả David Hutt nhận định nếu như ông Nguyễn Phú Trọng đích thân công du đến Mỹ thì sẽ gửi một thông điệp rõ ràng cho Bắc Kinh rằng mối quan hệ Việt-Mỹ là hệ trọng.
Còn Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp thì lại nhấn mạnh rằng dù ông Trọng hay một nhân vật khác thay mặt ông Trọng đến thăm Hoa Kỳ thì mối quan hệ Việt-Mỹ vẫn dựa trên nền tảng là đối tác, đồng thời là "một người bạn". Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp phân tích :
"Nền tảng để coi đối tác và bạn là Việt Nam là một nước nhỏ đang bị nước lớn là Trung Quốc bắt nạt và nền tảng quan trọng nhất giữa Việt Nam và Mỹ là cùng thượng tôn pháp luật quốc tế, tức là đảm bảo hòa bình, đảm bảo an ninh, chống lại các vi phạm về vi phạm luật pháp quốc tế và chống lại sự thay đổi hay các mưu toan thay đổi trật tự quốc tế dựa trên các luật lệ đang có."
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cũng khẳng định không nhất thiết phải quan trọng mối quan hệ Việt-Mỹ dưới hình thức nào, mà điều cần thiết là phải nhận biết Việt Nam có được những lợi ích gì trong chính sách của Hoa Kỳ ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương :
"Những cái cụ thể thì các bên đã nói với nhau rồi. Đặc biệt bây giờ Mỹ có một chính sách rất quan trọng và rất rõ ràng là đặt Biển Đông trong khuôn khổ của Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (gọi là Indo-Pacific). Trong chính sách này có các điểm quan trọng nhất ; bao gồm Mỹ cùng các nước trong khu vực Indo-Pacific, đặc biệt là 4 nước trụ cột (Mỹ, Nhật, Ấn Độ và Australia) phải cố gắng làm sao đảm bảo được hòa bình, an ninh và tự do hàng hải ở trong khu vực này, đặc biệt tại Biển Đông. Thứ hai nữa, nước Mỹ trong chiến lược đó tiến đến công nhận các chủ quyền theo luật pháp quốc tế của các nước ở trong khu vực đấy. Thế thì công nhận đó đối với Việt Nam là như Mỹ đã nói dựa theo luật pháp quốc tế về biển, trong đó có ‘Công ước về Luật biển’ thì Trung Quốc không có chủ quyền gì ở Biển Đông hết, chỉ có những nước như Việt Nam hiện nay có thềm lục địa kéo dài 350 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được xác định rất rõ theo đúng nền tảng về ‘Công ước về Luật biển’. Mỹ trong khi không đứng về phía bên nào trong vấn đề tranh chấp về mặt chủ quyền cả thì Mỹ vẫn công nhận chủ quyền của Việt Nam theo Luật biển."
Khi Tổng Trọng không còn khỏe mạnh
Trong tình huống mà tác giả David Hutt đặt ra ông Tổng Trọng không đủ khỏe mạnh để công du thăm Mỹ sắp tới đây thì đó cũng là một vấn đề quan trọng cho thấy dấu hiệu rằng ông Trọng không còn đủ sức khỏe để tiếp tục vị trí lãnh đạo của mình nữa và câu hỏi đặt ra là ai sẽ thay thế ông Trọng sau Đại hội Đảng XIII vào năm 2021 ? Tác giả David Hutt nhắc đến 3 nhân vật "tam trụ" còn lại bao gồm Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
Nhận định về ứng cử viên sáng giá nào có thể thay thế ông Trọng, trong tình huống ông Trọng không còn tiếp tục tại vị được nữa, Nhà quan sát tình hình Việt Nam-Tiến sĩ Phạm Chí Dũng từng khẳng định "Truyền nhân được nhìn thấy rõ ràng nhất của ông Trọng là ông Trần Quốc Vượng."
Theo quan điểm của ông Nguyễn Khắc Giang, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Victoria Wellington, New Zealand, khi đề cập đến ông Trần Quốc Vượng, qua email gửi đến RFA nhận định rằng :
"Chiếu theo Quy định 90 thì ông Trần Quốc Vượng hoàn toàn đủ tiêu chuẩn làm tổng bí thư, nhưng các thành viên cộm cán khác của Bộ Chính trị cũng đáp ứng được yêu cầu. Sự ủng hộ của Tổng bí thư Trọng sẽ là lợi thế lớn nếu ông Vượng muốn giữ chức tổng bí thư nhiệm kỳ tới, nhưng ông Vượng cũng có những hạn chế về kinh nghiệm quản trị và tuổi tác. Tiếng nói của ông Trọng có trọng lượng lớn, nhưng là không đủ để lấn át toàn bộ tiếng nói của Bộ Chính trị và đặc biệt là Ban chấp hành Trung ương."
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp thì lại có quan điểm trái ngược :
"Ông Vượng quá tuổi rồi, không được tính vào đây nữa. Mặc dù ông ấy là ‘Thường trực Ban bí thư’ nhưng nếu như nhìn kỹ lại thì từ trước đến nay rất ít người làm ‘Thường trực Ban bí thư’ lại lên ‘Tổng bí thư’. Ít lắm ! Trong lịch sử hơn 80 của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ có một người từ ‘Bộ Chính trị’ hay ‘Thường trực Ban bí thư’ lên ‘Tổng bí thư’ là ông Lê Khả Phiêu. Chứ còn những người khác có lên được đâu. Kể cả ông Trọng khi làm ‘Thường trực Ban bí thư’ nhưng khóa đấy ông không lên được. Với lại, ông Vượng thì một là quá tuổi và hai là quá trình công tác thì chưa qua nhiều chỗ, chưa làm ở nhiều chỗ khác nhau : chưa bao giờ làm bí thư tỉnh ủy hay thành ủy ; chưa làm gì ở bên chính quyền cả mà chỉ mới làm ở hệ thống tư pháp là ở Viện Kiểm sát thôi và làm bên công tác Đảng. Thế thôi."
Còn tiến sĩ Phạm Chí Dũng lại cho rằng mặc dù nhiều chính khách mong muốn ông Trọng sẽ rút lui khỏi chính trường không vì lý do tuổi tác thì cũng vì lý do sức khỏe ; tuy nhiên vẫn còn một ẩn số rất lớn, không loại trừ rằng ông Tổng Trọng tiếp tục tự cho mình là "trường hợp đặc biệt".
Trong khi đó, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp lập luận rằng có khả năng lớn là ông Trọng sẽ thôi chức vì tuổi cao, cũng như sức khỏe không được tốt. Và dù cho Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hay Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân khóa sau được chọn làm ‘Tổng bí thư’ thì đều "có thể cán đán được công việc vì cả hai người đều trẻ hơn, năng động hơn và làm được nhiều việc hơn ông Trọng".
Tác giả David Hutt đặt lời kết trong bài ghi nhận của mình rằng nếu như tình huống xấu nhất mà ông Trọng không tiếp tục tại vị trong vai trò Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Việt Nam, thì Đảng cộng sản Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc lựa chọn một người để nắm quyền hành lãnh đạo tối cao và sẽ có một sự chạy đua ở chính trường Việt Nam để thay thế vai trò không còn năng động của Tổng Trọng trong vòng 15 tháng nữa.
Nguồn : RFA, 30/09/2019
Nếu ai đó cho rằng nhóm tàu này khi đã rút ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế là nó đã không còn vi phạm các quyền hợp pháp của Việt Nam, là mắc bẫy pháp lý.
Tàu Hải Dương địa chất 08 (Ảnh : Getty)
Mấy ngày nay, dư luận đang xôn xao, bàn tán về việc tàu khảo sát địa chất Trung Quốc số hiệu Hải Dương 08 lại rút ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế phía Nam Việt Nam và di chuyển về khu vực đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Câu hỏi được đặt ra là động thái trên của Trung Quốc diễn ra trong thời điểm này có ý nghĩa gì và có phải đây là một cuộc "rút lui" hay không ? Nó mang tính chiến lược hay chỉ là chiến thuật ?
Thực chất đây là bước lùi hay bước tiến trong tính toán của Trung Quốc khi họ triển khai các hoạt động nhằm độc chiếm Biển Đông bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, hiểm độc ?
Trước tình hình này, là đối tượng bị Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên Biển Đông, chúng ta nên ứng xử như thế nào để phá được những kế sách nguy hiểm này ?
Chúng tôi xin được trao đổi với bạn đọc Báo điện tử Giáo dục Việt Nam về những câu hỏi được đặt ra nói trên nhằm góp phần tìm ra được những câu trả lời thích hợp nhất trước những diễn biến phức tạp của cuộc chiến bảo vệ các quyền hợp pháp của chúng ta trong Biển Đông.
Thôn tính phi truyền thống
Nhiều nhà nghiên cứu, học giả, chính trị gia, chuyên gia quân sự… đã sử dụng thuật ngữ "xâm lược mềm" để ám chỉ một loại hành động thôn tính phi truyền thống mà nội hàm của nó là kẻ thôn tính không sử dụng đến những vũ khí sát thương, không sử dụng đến lực lượng vũ trang như đã từng thấy trong các cuộc "xâm lược cứng".
Vũ khí của cuộc "xâm lược mềm" mà kẻ thôn tính sử dụng là những biện pháp kinh tế, khoa học kỹ thuật, truyền thông, ngoại giao, pháp lý…
Mặc dù không có tiếng súng, tiếng bom đạn, không thấy cảnh khói lửa binh đao, cuộc "xâm lược mềm" là một cuộc chiến tranh kiểu mới hết sức nguy hiểm, đáng sợ.
Bởi vì, kẻ thôn tính có thể đạt được mục tiêu buộc đối phương phải khuất phục, phải lệ thuộc hoàn toàn về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, phải mặc nhiên thừa nhận những yêu sách phi lý về lãnh thổ, biển, đảo.
Điều đó đồng nghĩa với việc đã để mất chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia vào tay kẻ thôn tính...mà nhiều trường hợp kẻ bị thôn tính lại khó thể nhận ra những thứ "vũ khí mềm"nguy hiểm đó…
Từ đầu tháng 7/2019 đến nay, Trung Quốc đã liên tiếp huy động nhóm tàu Hải Dương địa chất 08 tiến hành hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý phía Đông Nam Việt Nam.
Động thái này là sự nối tiếp các hoạt động tương tự ở khu vực các bãi cạn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, Malaysia.
Trung Quốc đang triển khai các "mũi tiến công mềm" nhằm chọc thủng "nồi cơm" của những quốc gia ven Biển Đông, nhất là Việt Nam quốc gia mà Trung Quốc cho rằng có khả năng cản trở bước tiến của họ nhằm thôn tính Biển Đông.
Khi triển khai bất kỳ động thái nào trong Biển Đông , Trung Quốc thường tính toán nhằm vào nhiều mục đích khác nhau : mục đích ngắn hạn, mang tính chiến thuật ; mục đích lâu dài, mang tính chiến lược.
Tuy nhiên, khác với những động thái trước đây, lần này, hoạt động bất hợp pháp của nhóm tàu thăm dò Hải Dương địa chất 08 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Đông Nam Việt Nam, Trung Quốc nhằm vào những mục đích sau đây :
- Về pháp lý : tìm cách tạo ra vào tình huống "sự đã rồi" với sự hiện diện thường xuyên của các phương tiện thăm dò khai thác tài nguyên dầu khí tại khu vực này để buộc Việt Nam, quốc gia luôn luôn chủ trương giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tránh đối đầu, xung đột, buộc phải chấp nhận chủ trương "cùng khai thác" với Trung Quốc.
Âm mưu này đồng nghĩa với việc ép Việt Nam chấp nhận đây là "khu vực tranh chấp", hoàn toàn có lợi cho Trung Quốc.
- Về kinh tế : Trung Quốc đang gây sức ép để buộc mọi hoạt động kinh tế hợp pháp của Việt Nam ở khu vực này bị đình đốn.
Các công ty của nước ngoài đang khai thác dầu khí ở đây sẽ phải rút lui để tránh những rủi ro do có thể xảy ra xung đột, chiến tranh. Rõ ràng, có thể thấy được mục đích kinh tế của Trung Quốc trong bối cảnh này.
Họ muốn "xí phần" khai thác dầu khí, tài nguyên khoáng sản…bằng cách tạo nên môi trường bất ổn, làm suy giảm tốc độ phát triển kinh tế của các quốc gia trong khu vực để họ dễ bề thao túng, điều khiển…
Có thể nói, với những động thái nói trên, Trung Quốc đang tính toán áp dụng binh pháp Tôn Tử "hỗn thủy mạc ngư", hay nói như người Việt Nam ta, là đục nước béo cò.
Và chừng nào Trung Quốc "chưa bắt được cá", chưa "đạt được mục đích" thì chừng đó Trung Quốc vẫn tiếp tục quấy phá, tiếp tục duy trì "mũi tấn công mềm" nguy hiểm này.
Cho đến nay, việc con tàu khảo sát Hải Dương địa chất 08 di chuyển quanh quẩn, lúc vào xâm phạm, lúc lại rút khỏi khu vực bãi cạn Tư Chính phải chăng thực chất là Trung Quốc đang vận dụng mưu chước "Tiếu lý tàng đao" (Cười nụ giấu dao, lập mưu kín kẽ không để đối phương biết) ?
Không những không rút mà còn tiến mạnh hơn
Xin được lưu ý thêm rằng, xét trên phương diện pháp lý quốc tế, việc nhóm tàu Hải Dương địa chất 08 mấy lần "rút khỏi" khu vực biển bãi cạn Tư Chính để quay về đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, thực chất chỉ là sự "nâng cấp" vi phạm.
Đó là từ vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán ở vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, lên vi phạm chủ quyền ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà thôi.
Nếu ai đó cho rằng nhóm tàu này khi đã rút ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế là nó đã không còn vi phạm các quyền hợp pháp của Việt Nam, cho nên không cần làm "nóng" sự việc lên, không cần phải lên tiếng phản đối…là một sai lầm nguy hiểm, nếu không muốn nói là thiếu trách nhiệm trước sự sống còn của quốc gia, dân tộc…
Bởi vì, điều đó đồng nghĩa với việc mặc nhiên thừa nhận Trung Quốc có chủ quyền ở quần đảo Trường Sa, chí ít là đối với các thực thể địa lý mà Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm từ năm 1988.
Với "mũi tấn công mềm" này, Trung Quốc đã vi phạm không chỉ các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia ven Biển Đông, mà còn của các quốc gia liên quan khác ngoài khu vực được Luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 đã quy định rõ ràng, đang có hiệu lực.
Với động thái này, nếu không kịp thời lên án mạnh mẽ và ngăn chặn kịp thời thì sẽ tạo ra tiền lệ xấu về cách ứng xử dựa vào sức mạnh, bất chấp công lý và đạo lý trong quan hệ quốc tế ở thời đại văn minh, tiến bộ hiện nay ; gây bất ổn về chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng, có tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng kinh tế quốc gia, khu vực và quốc tế hiện đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và đình trệ.
Điều nghiêm trọng hơn, nếu không kiểm soát được sẽ đẩy nhân loại vào những cuộc xung đột, chiến tranh hủy diệt, tàn khốc.
Tiến sĩ Trần Công Trục
Nguồn : GDVN, 29/09/2019