EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu) đã chính thức bị Liên minh Châu Âu (EU) hoãn vô thời hạn vào tháng Giêng năm 2019 do chính thể độc đảng độc trị ở Việt Nam đã tuyệt đối không làm gì, nếu không muốn nói là làm ngược lại, để cải thiện tình trạng đàn áp nhân quyền trầm trọng tại dải đất hình chữ S quằn quại này.
Một biểu ngữ có nội dung "không trao đổi mậu dịch tự do với những chế độ thiếu tự do".
Những chóp bu nào của Việt Nam ‘mất ăn’ với kết quả hoãn EVFTA ?
Quan chức đầu tiên phải kể đến là Nguyễn Phú Trọng.
Lưu truyền sử xanh ?
Là người ‘mê hiệp định’, vào năm 2015 thậm chí Trọng đã chấp nhận luôn cả định chế công đoàn độc lập để đánh đổi Hiệp định kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP) khi ông ta được Tổng thống Mỹ Barak Obama mời đến Washington, cho dù công đoàn độc lập luôn bị chính quyền Việt Nam quy chụp như ‘một thủ đoạn của diễn biến hòa bình’ và đánh đồng với Công đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan lật đổ chế độ cộng sản vào những năm 80 của thế kỷ XX.
2015 cũng là khoảng thời gian mà cuộc chạy đua quyết liệt và không kém tiểu xảo lẫn thủ đoạn giữa hai họ Nguyễn - Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng - diễn ra đầy kịch tính. Ai mang về được TPP sẽ ghi điểm trước Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương và đương nhiên sẽ nhận được tỷ lệ phiếu bầu cao hơn.
Nhưng do TPP bị Mỹ rút ra vào đầu năm 2016 và khiến kinh tế Việt Nam, dù có tham gia vào CPTPP (hiệp định thay thế cho TPP), cũng chỉ có tiếng không có miếng, Nguyễn Phú Trọng lại theo đuổi một mục tiêu mới : EVFTA.
Luôn khoe thành tích Việt Nam đã ký kết và triển khai các FTA (hiệp định thương mại song phương) với nhiều nước, Nguyễn Phú Trọng hẳn mong mỏi EVFTA sẽ giúp cho chế độ của ông ta cứu vãn tình trạng cạn kiệt ngoại tệ, bội chi ngân sách và suy sụp chân đứng kinh tế để có thể kéo dài tuổi thọ được năm nào hay năm đó. Với Trọng, duy trì được sự sống của đảng và cũng là cái ghế của ông ta, dù chỉ là lây lất, là nhiệm vụ tối thượng.
Sau khi ngồi ngay vào ghế của ‘cố chủ tịch nước Trần Đại Quang’ và chính thức trở thành ‘Tổng chủ’ với quyền uy gần như tuyệt đối, chẳng có gì bảo đảm là Nguyễn Phú Trọng sẽ không nối gót Tập Cận Bình ở Trung Quốc - sửa hiến pháp, ‘tư tưởng Tập Cận Bình’, bỏ giới hạn hai nhiệm kỳ chủ tịch nước và về thực chất là ‘hoàng đế suốt đời’. Chỉ còn gần hai năm nữa là đại hội 13 của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ tiếp biến, một khoảng thời gian không nhiều để Nguyễn Phú Trọng chuẩn bị tư thế ‘cán bộ cấp chiến lược’ và có thể được ghi tên ‘lưu truyền sử xanh’, nếu ông ta thực sự quyết tâm thu xếp câu chuyện công - tư ấy. EVFTA nếu thành công sẽ một đòn bẩy Ácsimét để đưa tên Trọng vào lịch sử, như cách mà chí ít thì giới văn nhân cận thần của ông ta cũng nghĩ thế.
Nhưng còn một quan chức không kém thèm khát các hiệp định thương mại với nước ngoài, dù lòng mong mỏi này có vẻ hào nhoáng hơn Nguyễn Phú Trọng. Đó là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Nghiêng nghiêng ngoẹo ngoẹo
Với Phúc, Tổng sản lượng quốc gia GDP là tiêu chí quan trọng nhất, không chỉ phản ánh ‘nội lực’ của nền kinh tế mà ông ta điều hành, mà còn chứng minh cho thành tích của chính phủ ‘kiến tạo và hành động’ của ông ta. Trong rất nhiều cuộc thăm viếng các địa phương ở Việt Nam, Phúc cứ luôn nghiêng nghiêng ngoẹo ngoẹo tô điểm cho GDP. Thậm chí ông ta còn bộc lộ ý đồ chỉ đạo Tổng cục Thống kê tìm cách, hoặc thay đổi cách thống kê làm sao để gộp cả phần ‘kinh tế ngầm’ nhằm làm tăng GDP và làm đẹp những con số trong các báo cáo của chính phủ.
Các FTA và đặc biệt là EVFTA có một phần ‘cống hiến’ lớn cho GDP. Chỉ cần ký được EVFTA, kinh tế Việt Nam sẽ có hy vọng ít nhất duy trì được số xuất siêu khoảng 30 tỷ USD hàng năm vào thị trường Châu Âu, chưa kể triển vọng gia tăng giá trị xuất khẩu mà Thủ tướng Phúc đặc biệt cần để bổ sung vào báo cáo ngoại thương toàn số đẹp của ông ta.
Vào năm ngoái, Nguyễn Xuân Phúc đã đích thân thực hiện một chuyến công du đến 3 nước Châu Âu để ‘quốc tế vận’ cho EVFTA. Tại đó, ông ta hùng hồn nói về ‘Việt Nam là một nước dân chủ’, bất chấp thực tồn đàn áp nhân quyền khốc liệt của chế độ ông ta đối với người dân và giới bất đồng chính kiến - nguồn cơn sâu xa và trực tiếp nhất mà đã khiến Liên minh Châu Âu (EU) vào tháng Giêng năm 2019 phải quyết định hoãn vô thời hạn việc phê chuẩn EVFTA.
Giờ đây, Nguyễn Xuân Phúc có lẽ đang hối tiếc những tuyên bố của ông ta trước quốc tế về ‘Việt Nam dân chủ’ và chỉ trích một cách hằn học của ông ta đối với ‘thế lực thù địch trong nước’. Những lời nói hớ đó không chỉ bị quốc tế coi thường bản lĩnh chính trị và cả nhân cách một thủ tướng Việt Nam, mà còn khiến Phúc không còn nhiều cơ hội chường mặt ra thế giới để ‘lập thành tích chào mừng đại hội đảng lần thứ 13’.
Đại hội 13 sắp mang lại một cơ hội đầy thách thức cho Nguyễn Xuân Phúc. Một đại hội mà cứ với cái đà Nguyễn Phú Trọng hoặc đang có những dấu hiệu mệt mỏi của tuổi già, hoặc không còn đủ sức ngồi cả hai ghế mà do đó sẽ phải ‘nhường’ bớt một ghế (có thể là ghế tổng bí thư) cho người khác, cái tên Nguyễn Xuân Phúc sẽ trở nên khó cạnh tranh trong cuộc chạy đua ngày càng tăng tốc và bứt tốc để thay thế cho một Nguyễn Phú Trọng già cỗi về tuổi tác và có thể cả về tâm hồn.
Thiệt thòi hơn Phúc, những chóp bu được xem là ứng cử viên khác cho chức tổng bí thư - Thường trực Ban bí thư Trần Quốc Vượng, Trưởng ban Tổ chức trung ương Phạm Minh Chính - đều chỉ thuần túy làm phần hành bên đảng mà không có cơ hội nắm được khối hiệp định thương mại và cường điệu thành tích loại này. Còn Còn Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân điệu đàng lại bị xem là yếu ‘bản lĩnh chính trị’ nhất, chỉ biết ‘gật’ với bất kỳ hiệp định thương mại nào mà phía chính phủ chuyển qua quốc hội, và trong thực tế chỉ biết chờ ngóng ‘buồn ngủ gặp chiếu manh’.
Trong bối cảnh thật tế nhị và sôi sục trên, không thể xem là ngẫu nhiên với một cuộc thăm viếng của Thủ tướng Phúc đến Tổng cục 2 vào đầu năm 2019, được tiếp bằng thảm đỏ và hàng tiêu binh danh dự. Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên Phúc hiện ra một cách chính thức tại cơ quan tình báo quân đội còn lại và duy nhất ở Việt Nam (sau khi Tổng cục Tình báo của Bộ Công an bị giải tán vào đầu năm 2018 chủ yếu bởi ‘thành tích Vũ Nhôm’). Sự hiện diện đầy ẩn ý và không thiếu hàm ý chính trị ấy ít nhất cũng phát đi thông điệp rằng ông Phúc không chỉ là lãnh đạo thuần túy điều hành kinh tế - xã hội mà còn có thể lấn sân qua những hoạt động mang tính đặc thù và thuộc loại ‘hàng hiếm’ hơn.
Chỉ có điều nếu không giành giật được EVFTA, trong khi Trọng khó bề tìm ra tiền để nuôi đảng thì Phúc cũng chẳng giành đoạt được thành tích đáng kể nào để chứng minh rằng ông ta hoàn toàn xứng đáng với chức vụ tân tổng bí thư tại đại hội 13, nếu quả còn xảy ra đại hội này.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 29/01/2019
**********************
Các chuyên gia : ‘EVFTA vẫn cực kỳ quan trọng với Việt Nam’ (VOA, 29/01/2019)
Sau khi một số thành viên Nghị viện Châu Âu hồi tuần trước thông báo việc hoãn phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA), một số nhà quan sát trong nước cho rằng không có hiệp định này cũng không "gây thay đổi gì nhiều" đối với tốc độ phát triển và độ mở của kinh tế Việt Nam.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A phát biểu tại buổi điều trần của INTA và EVFTA ở Brussels, 10/10/2018
Tuy nhiên, hai nhà kinh tế giàu kinh nghiệm phản bác các nhận định kể trên. Chuyên gia Phạm Chi Lan và tiến sĩ Nguyễn Quang A nói với VOA hôm 28/1 rằng Việt Nam vẫn rất cần EVFTA vì "các lợi ích được hưởng rất lớn" và những lợi ích đó "không chỉ là về mặt kinh tế".
Cuối tuần qua, một số nhà quan sát Việt Nam không muốn nêu danh tính bày tỏ quan điểm với VOA rằng đất nước này đã có độ mở cửa của nền kinh tế "quá lớn rồi, không còn dư địa nhiều để mở nữa", vì vậy, khi hiệp định thương mại với EU bị hoãn, dẫn đến việc Việt Nam chậm "nới thêm độ mở", điều đó cũng không phải là "quá dở".
Việt Nam được đánh giá "là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn trên thế giới" với tổng kim ngạch thương mại tương đương 200% [tổng sản phẩm quốc nội] GDP, theo lời phát biểu của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng tại một diễn đàn về hợp tác kinh tế Châu Á ở thành phố Bình Dương hồi cuối tháng 11/2018.
Tuy nhiên, bà Phạm Chi Lan, nữ chuyên gia kinh tế 77 tuổi, đưa ra ý kiến với VOA rằng tầm quan trọng của EVFTA không chỉ giới hạn ở vấn đề độ mở kinh tế của Việt Nam. Ngược lại, bà nói rằng cần chú ý đến việc hiệp định sẽ giúp mở cửa các nước đối tác ở Châu Âu cho Việt Nam, nhờ đó Việt Nam sẽ có những điều kiện thuận lợi hơn để "thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường của họ, cũng như nhập khẩu các thiết bị, các công nghệ cần thiết cho sự cải thiện kinh tế của Việt Nam".
Bên cạnh mối lợi về mua công nghệ từ các nước EU, bà Lan lưu ý đến việc Việt Nam muốn cử người giao lưu, học hỏi từ EU để phục vụ mục tiêu phát triển dài hạn, một khía cạnh khác về lợi ích từ EVFTA. Bà nói thêm :
"Việt Nam muốn trao đổi con người nhiều hơn để những người trẻ Việt Nam có điều kiện học hành và tiếp nhận những công nghệ, kỹ năng quản trị các mặt tốt hơn từ các nước này. Nên tôi cho rằng lợi ích Việt Nam được hưởng từ các nước này cũng rất lớn với Việt Nam. Hoàn toàn không có chuyện là có hay không có [EVFTA] cũng không ảnh hưởng đến nến kinh tế Việt Nam".
Ghi nhận Việt Nam là một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới nếu đo bằng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên GDP, nhưng tiến sĩ Nguyễn Quang A nói với VOA rằng điều đó không có nghĩa rằng EVFTA không còn cần thiết với Việt Nam. Ông nêu ra những lý do Việt Nam vẫn "rất cần" hiệp định :
"EVFTA sẽ làm cho xuất khẩu của Việt Nam hiệu quả hơn, rồi tạo công ăn việc làm, quan hệ giữa Việt Nam và EU sẽ tốt lên, và một điểm rất quan trọng là với hiệp định này, Việt Nam có thể tạo thế quân bình hay là cân bằng giữa các khối lớn với nhau trên thế giới, như Mỹ, EU, TQ, Nhật Bản, Hàn Quốc…"
Một nhận định khác được một số nhà quan sát đưa ra trong cuối tuần qua là trước khi có hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), đã được Việt Nam phê chuẩn hổi tháng 11/2018, và hiệp định EVFTA mới bị hoãn, kinh tế Việt Nam vẫn đã tăng trưởng xấp xỉ 7%/năm, trong 4 năm gần đây, do đó, giờ đây việc hoãn EVFTA "có thể không gây ra thay đổi gì nhiều về tăng trường kinh của Việt Nam".
Đáp lại ý kiến này, tiến sĩ Nguyễn Quang A xem nó là một loại "ngụy biện nguy hiểm". Ông cảnh báo rằng sẽ "rất khó" để Việt Nam tiếp tục đạt mức tăng trưởng như trong quá khứ do thế giới trong tương lai biến động "khôn lường" và Việt Nam phải "đa dạng hóa" mối quan hệ kinh tế. Ông giải thích :
"Không nên nghĩ rằng năm ngoái được 7% thì sang năm cũng được 7%. Nếu mà nền kinh tế Trung Quốc chậm lại, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam và ảnh hưởng đến cả thế giới. Muốn duy trì tăng trưởng cao, tôi nghĩ Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và EU là rất quan trọng".
Việt Nam cần phải đạt được tỉ lệ tăng trưởng khoảng 7% trong liên tục ba thập niên tới mới có thể trở thành nền kinh tế trung bình của thế giới với GDP là 1.000 tỷ đô la, theo ông Quang A.
Cũng nói về mục tiêu tương lai của Việt Nam, bà Phạm Chi Lan nhắc đến "khát vọng 2035", do chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới công bố hồi năm 2016, theo đó mục tiêu được đặt ra là sau hai thập niên nữa, Việt Nam trở thành nước có "thu nhập trung bình cao".
Để Việt Nam đạt được khát vọng đó, nữ chuyên gia kinh tế có chung quan điểm với tiến sĩ Quang A rằng EVFTA là một thành tố "vô cùng quan trọng", cùng với các hiệp định thương mại tự do với các đối tác khác.
Trong bối cảnh EVFTA mới bị hoãn lại, mà theo lời một số nghị sĩ Châu Âu thông báo qua các trang web của EU là do "trở ngại về nhân quyền" ở Việt Nam, bà Lan đưa ra lời tư vấn rằng Việt Nam nên nghiêm túc xem xét các khuyến nghị của EU ngõ hầu thúc đẩy việc phê chuẩn hiệp định.
Bà nhấn mạnh rằng Việt Nam không nên xem những vấn đề về quyền của người lao động và nhân quyền do EU đặt ra là sức ép của ngoại quốc, ngược lại, họ nên coi đó là những nhu cầu tự thân, vì lợi ích của chính đất nước. Bà nói với VOA :
"Trước hết, đây là [những vấn đề] phù hợp với lợi ích lâu dài của toàn thể người dân Việt Nam. Vì mình mà cải cách, và nó cũng mang lại những lợi ích cơ bản cho người dân của mình. Nếu đặt vấn đề như vậy, sẽ thấy những yêu cầu cải cách là yêu cầu tự thân của Việt Nam. Và Việt Nam dù có sức ép hay đòi hỏi từ bên ngoài hay không thì cũng tự mình phải cố gắng để mà làm".
Từ vị trí còn là một nhà hoạt động vì tiến bộ, tiến sĩ Quang A, người từng điều trần trước ủy ban chuyên trách thương mại quốc tế của EU về EVFTA, cho rằng Việt Nam cần phải cải thiện nhân quyền.
Ông nói trong ngắn hạn, điều đó không ảnh hưởng đến "ghế của các lãnh đạo", trái lại, nếu cải thiện nhân quyền giúp thúc đẩy phát triển kinh tế, tính chính đáng của chính quyền Việt Nam càng được củng cố và sẽ có lợi cho họ.
Về dài hạn, tiến sĩ Quang A dự báo rằng nếu Việt Nam thực hiện các cam kết về các quyền lập hội, lập công đoàn độc lập, v.v… nêu trong các hiệp định EVFTA và CPTPP, việc "giữ ghế" của giới lãnh đạo Việt Nam có thể bị "thách thức" theo hướng có lợi cho toàn dân. Ông nói :
"Lúc đó họ [giới cầm quyền] phải tự thay đổi để cạnh tranh với những thế lực chính trị khác. Nếu đi theo con đường như thế là con đường đẹp nhất cho dân tộc, cho đất nước. Còn họ cứ cố gắng chỉ đặt quyền lợi, quyền lực của họ lên trên hết, và tìm mọi cách để trấn áp, để đàn áp thì sẽ mất cả".
Thời gian qua, chính phủ Việt Nam đã ra sức vận động và đặt nhiều hy vọng vào việc EVFTA sẽ được Hội đồng Châu Âu phê chuẩn vào tháng 2 và Nghị viện Châu Âu phê chuẩn vào tháng 3 để có thể có hiệu lực vào giữa năm 2019.
Nhưng trong tuần thứ tư của tháng 1, hai nghị sĩ EU đã đăng lên mạng đoạn video trong đó họ nói có "những lý do kỹ thuật" để hoãn thông qua EVFTA, đồng thời cũng đặt ra câu hỏi đầy ẩn ý rằng "Liệu điều đó có xảy ra không nếu [Việt Nam] có nhiều nỗ lực hơn trong việc cải thiện nhân quyền ?"
Trang web của Nghị viện Châu Âu hồi tháng 2/2018 dẫn kết quả một nghiên cứu đánh giá tác động của EVFTA, cho thấy Việt Nam là quốc gia hưởng lợi lớn nhất trong các nước ASEAN với mức tăng 35% về xuất khẩu, 15% về GDP và 13% về lương bổng cho người lao động, so với kịch bản không có EVFTA.
Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, tổng trị giá trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và Liên hiệp Châu Âu (EU28) trong năm 2017 đạt 50,46 tỷ đô la, trong đó tổng lượng hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU đạt 38,27 tỷ đô la, chiếm gần 18% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.