Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

16/03/2017

Công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

Vũ Ngọc Hoàng

Bài 4

Khoa học chính trị, lịch sử nhất định phải đổi mới tư duy dạy và học

Vũ Ngọc Hoàng, GDVN, 16/03/2017

Học các môn chính trị ấy là học về khoa học chính trị. Khoa học thì khách quan và bình đẳng, không ai và không có lý thuyết nào độc quyền chân lý.

GDVN : Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa X, XI, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương gửi đến báo Điện tử Giáo dục Việt Nam loạt bài viết của ông góp ý cho công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.

Văn phong cũng như nội dung bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Tiêu đề bài viết do báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đặt.

******************

Đối với chương trình môn học cụ thể, tôi muốn đề xuất một số ý kiến sau đây, tất nhiên là không thể đầy đủ và toàn diện. 

Học lịch sử không phải chỉ để hiểu rõ quá khứ, mà còn để nắm chắc tương lai

Trước nhất là môn lịch sử. Đây là môn học rất quan trọng, phong phú và hấp dẫn. Tại sao những năm gần đây học sinh ít thích học môn này ?

Nhiều em cảm thấy nó khô khan, nặng nề và không ít học sinh không biết học để làm gì, không thấy rõ học có lợi gì. 

Nguyên nhân của tình trạng này là do chương trình không tốt, cộng với năng lực yếu kém của người truyền thụ và còn có quan điểm không đúng trong nhìn nhận vai trò của môn học nữa. 

Để khắc phục tình hình trên, tôi đề nghị quan tâm 2 vấn đề sau. 

Thứ nhất : Học lịch sử không chỉ để hiểu biết về quá khứ, tự hào về truyền thống vẻ vang của Dân tộc trong công cuộc chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, dù việc ấy vẫn mãi mãi là cần thiết, nhưng chưa đủ, rất chưa đủ. 

giaoduc1

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng (giữa) và nhà văn Nguyên Ngọc (phải) tại lễ ra mắt Viện Phan Châu Trinh, ảnh : Báo Công an Nhân Dân.

Quan trọng hơn nữa là học sử để chuẩn bị cho một tương lai, kể cả tiếp tục giữ nước và nhất là phát triển mạnh mẽ và bền vững đất nước.

Tức là học quá khứ cho tương lai, vì tương lai. Tìm trong quá khứ câu trả lời cho hiện tại và tương lai. 

Lâu nay ta nói khá rõ về truyền thống giữ nước, nhưng chưa phải đã đủ, chưa khái quát cô đọng nhất và chưng cất kỹ lưỡng để có bài học đắt giá nhất được rút ra từ lịch sử. 

Cần tổng kết lại trong lịch sử dân tộc ta đã bao nhiêu lần chống xâm lược từ Phương Bắc và Phương Tây, nguyên nhân xảy ra các lần chiến tranh ấy, bao nhiêu lần ta thắng, mấy lần ta thua, vì sao ta thắng và vì sao ta thua, thông điệp cho hôm nay và mai sau là gì ? 

Đặc biệt hơn, cần nói rõ về thời kỳ xây dựng trong hòa bình. Phần này-phát triển đất nước trong hòa bình-chưa rõ và không đủ. 

Trong khi đó, thời kỳ hòa bình vẫn là chủ yếu, dài hơn gấp bội thời gian chiến tranh chống xâm lược. 

Thời kỳ nào nước ta hưng thịnh và thời kỳ nào suy vong, suy đồi, nguyên nhân vì sao ? Vì sao sau 4 ngàn năm rồi mà Việt Nam chưa là một quốc gia và dân tộc phát triển ? 

Rút ra cho được nguyên nhân chính yếu dẫn đến tụt hậu, không phát triển được. Từ đó mà chuyển đến cho hôm nay và mai sau thông điệp có giá trị cao đối với sự phát triển từ nay về sau của dân tộc và đất nước. 

Thứ hai : Giữ vững tính khách quan khoa học của môn này, không nên "chính trị hóa" vấn đề nọ, vấn đề kia. 

Ở nước Đức, khi chấm bài lịch sử, thầy giáo chủ yếu chỉ quan tâm cách tiếp cận và cách lập luận của học sinh chứ không đánh giá về quan điểm chính trị.

Khi thống nhất nước Đức, với sự thắng thế thuộc về Tây Đức, có những ý kiến cực đoan yêu cầu phá bỏ ngay các tượng của ông Các Mác trong tất cả các trường học. 

giaoduc2

Hội Khoa học Lịch sử tổ chức hội thảo : Môn Lịch sử trong giáo dục phổ thông vào tháng 11/2015 sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương tích hợp môn Lịch sử. Ảnh : Thu Hà / Báo Nhân Dân.

Nhà cầm quyền không vội quyết định mà để cho tập thể thầy giáo và học sinh thảo luận nên giữ hay nên bỏ, vì sao như vậy, lợi hại thế nào ?

Kết quả thảo luận đã giúp cho học sinh trưởng thành về nhiều mặt, có những nơi sinh viên yêu cầu không bỏ. Ta thử tham khảo và suy ngẫm cách giáo dục của họ.

Việc gì trước đây do yêu cầu tuyên truyền tức thời lúc đó hoặc xử lý thông tin không tốt mà đã dẫn đến cung cấp kiến thức không đúng sự thật lịch sử thì nay mạnh dạn nói lại càng sớm càng tốt cho học sinh. 

Một số nội dung trước đây chưa trình bày rõ, nay nên trình bày rõ cho học sinh, như vấn đề Chămpa-Lâm Ấp, Óc eo-Phù Nam, cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc năm 1979, chuyện mất đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa…kể cả những việc gì ta sai lầm trong lịch sử. 

Nói đến sai lầm ấy không có nghĩa là kết tội cha anh, mà muốn người Việt Nam ta hiện tại và tương lai sẽ tránh được những sai lầm tương tự.

Điều đấy cũng có nghĩa là sự hao tốn công sức, tiền của và máu xương của cha ông ta là học phí, là không vô nghĩa, đã góp phần cho một tương lai tốt đẹp của dân tộc này. 

Phần lớn học sinh sau này sẽ làm việc trên nhiều lĩnh vực khác nhau, chứ không phải là sử học. Việc giảng dạy lịch sử ở phổ thông chủ yếu là nhằm hình thành nhân cách, để sống và ứng xử. 

Cần phân biệt yêu cầu này với việc chuẩn bị cho các nhà sử học tương lai.

Một mặt, phải chuẩn bị nội dung và cách học cho đại trà. Mặt khác, cần có các hình thức câu lạc bộ phù hợp để bồi dưỡng cho các tài năng, nhằm chuẩn bị các nhà sử học cho đất nước. 

Lâu nay, trong chương trình học sử phổ thông, nhiều lúc bắt học sinh phải nhớ quá nhiều tư liệu. Ngày tháng, tên tuổi, địa danh, số lượng… Làm cho các em cảm thấy nặng nề, khô khan, chán học sử. 

Tốt hơn nên giúp cho học sinh tiếp cận được bản chất của lịch sử, các dòng chảy bên trong có tính quy luật của lịch sử ấy, và các tinh chất được chắc lọc, chưng cất từ thực tiễn lịch sử của dân tộc.

Giáo dục các môn khoa học chính trị, chứ không phải dạy chính trị

Về các môn "chính trị" cần đổi mới như thế nào ? Nhiều người vẫn gọi các môn ấy là các môn học chính trị.

Gọi như thế là căn cứ vào thực tế của việc dạy và học các môn này. Chứ đúng ra nó không phải là học chính trị, mà là học khoa học về các vấn đề đó. 

Cần phân biệt giữa việc học khoa học và học chính trị. Nó khác nhau, không phải là một. 

Học chính trị-ví dụ nghe phổ biến một nghị quyết của Trung ương hoặc của Quốc hội-cũng là việc rất cần, nhưng đó là việc khác. Hiện nay, nhiều học sinh-sinh viên không thích học, không muốn học các môn này.

Không ít em cảm thấy nặng nề, học như là một khổ dịch. Như thế chắc chắn không có chất lượng, không có hiệu quả, thậm chí có mặt có hại. 

Có thầy giáo khi học viên hỏi "thầy có thật sự tin những điều thầy nói… ấy không" thì thầy trả lời "về câu hỏi của em-đây là việc tế nhị, nhạy cảm". 

Một trí thức làm công tác quản lý trường đại học, khi được hỏi ý kiến về hiệu quả trong việc học các môn ấy thì nói rằng "học như thế cũng không có hại gì vì học sinh nó có chịu học đâu". 

Tình hình là thế đó. Nếu học kiểu như vậy cũng có nghĩa là ta đang tích cực làm cho lớp trẻ nó chán ông Mác và ông Lênin, mặc dù các ông ấy vẫn có những điều hấp dẫn và có ích.

Tất nhiên là không phải tất cả, không phải rất nhiều, không phải đã đầy đủ rồi, chỉ cần nghiên cứu các ông ấy thôi, không cần phải học của ai khác nữa. 

Để đổi mới căn bản việc dạy và học các môn này, tôi đề nghị lưu ý 3 vấn đề sau. 

Một là, học các môn chính trị ấy là học về khoa học chính trị. Khoa học thì khách quan và bình đẳng, không ai và không có lý thuyết nào độc quyền chân lý. 

Phải chấp nhận phản biện trong quá trình học và nghiên cứu các môn này, không quy chụp học sinh khi nó phản biện khoa học.

Cần phải thấy tinh thần phản biện và cách phản biện là biểu hiện của sự trưởng thành. Tạo ra một không khí cởi mở, một môi trường tự do học thuật. 

Hai là, học các môn ấy không chỉ của Mác, Lênin mà kể cả các trường phái khoa học khác, lịch sử ra đời và phát triển của khoa học ấy, để các lý thuyết bình đẳng với nhau, tự khẳng định mình và tồn tại bằng giá trị. 

Các môn Mác-Lênin là bộ phận hợp thành của khoa học nói chung về lĩnh vực ấy, chứ không phải tách ra, biệt phái, cô lập với lịch sử khoa học của nhân loại. 

Đó là những phần, những chương quan trọng trong chương trình nghiên cứu nói chung (chứ không riêng Mác-Lênin) về triết học, các lý thuyết kinh tế, khoa học chính trị. 

Thầy giáo là bạn đồng hành cùng các em đi tìm chân lý chứ không phải là áp đặt theo kiểu độc quyền những chân lý định sẵn. Cái nào là chân lý thì chính người học tự nguyện thừa nhận với một tư duy mở và độc lập. 

Thầy giáo giúp các em nhận biết các giá trị cốt lõi nhân văn và khoa học của môn học. Phân biệt giữa khoa học và tư biện. 

Có đồng chí hỏi tôi rằng nếu các giá trị ấy ít quá thì làm sao ? Ít nhiều thì nói sau, mà chắc gì đã ít, mà nhiều và ít thì có sao đâu, miễn là đúng khoa học.

Hãy bằng các sinh hoạt khoa học để thảo luận kỹ đâu là các giá trị khoa học và nhân văn ở trong đó. 

Phải thật khách quan, không phải cố bênh vực hay cố loại bỏ ông này hay ông kia. Đó không phải là thái độ khoa học.

Giá trị nhân văn và khoa học không phụ thuộc vào số lượng ít hay nhiều, mấy cái, mà phụ thuộc vào tầm cỡ, mức độ sâu sắc và ý nghĩa của vấn đề. 

Không có vĩ nhân nào đúng tất cả và mãi mãi, khi thời gian đi qua.

Chỉ cần một ít thôi, nhưng đó là những phát hiện vĩ đại, rất sâu sắc, có tầm vượt trước rất xa, tồn tại và có giá trị lâu dài trong thực tiễn và với lịch sử, thế là vĩ đại rồi, tốt quá rồi. 

Trong cuộc đời mình, Các Mác chưa hề có quyền lực, thậm chí ông đã nhiều lần bị quyền lực truy đuổi, và ông đã mất lâu rồi, cả trăm năm rồi, không còn sống để trực tiếp bảo vệ các quan điểm của mình.

Nhưng mãi tới nay, nhiều nước ở Mỹ và phương Tây, phương Đông, nhiều trường đại học và viện nghiên cứu vẫn nghiên cứu các tư tưởng của ông. Bản thân việc ấy cũng nói lên một điều rằng, trong đó, trong tư duy của ông, không thể hoàn toàn không có những giá trị gì.

Ngoại ngữ hay ngôn ngữ thứ hai ?

Có ý kiến cho rằng nên lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ 2 của quốc gia. Tôi lại không nghĩ như vậy. 

Người Việt Nam cần giỏi ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, để từ đó mà tiếp biến hiệu quả hơn với các nền văn hóa khác nhằm không ngừng hoàn thiện mình. Tôi ủng hộ cách suy nghĩ đó. 

Nhưng ngôn ngữ quốc gia thì chỉ nên để một thứ tiếng là tiếng Việt. Đây còn là chuyện sâu xa về sự trường tồn và thống nhất của toàn dân tộc trên đất nước Việt Nam. 

Nhớ lại thời kỳ một ngàn năm Bắc thuộc, chính tiếng Việt đã đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với việc giữ cho dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa. 

Mặt khác, thực tế của thế giới đã cho thấy, nhiều quốc gia giỏi ngoại ngữ hơn các nước khác nhưng vẫn không phát triển được, trong khi đó có những quốc gia không giỏi ngoại ngữ nhưng họ đã phát triển mạnh mẽ, thành cường quốc. 

Tình hình đó cho thấy, giỏi ngoại ngữ là một yếu tố quan trọng, nhưng không phải là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia.

Ngoài ra, dạy tích hợp ở lớp dưới và phân hóa ở lớp trên là một chủ trương đúng. Cần tích cực thực hiện theo hướng này. 

Hà Lan là một trong những nước làm mạnh, làm sớm và họ đã có những kinh nghiệm trong vấn đề này. Cần nói rõ lợi hại thế nào để tạo ra sự thống nhất và đồng thuận trong xã hội, không để do chưa nắm chắc được vấn đề mà có nhiều ý kiến thắc mắc là tại sao bỏ môn này và bỏ môn kia. 

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng

Nguồn : GDVN, 16/03/2017

**************************

Bài 3

Thầy phải là người bạn lớn, bình đẳng, đồng hành cùng học trò đi tìm chân lý

Vũ Ngọc Hoàng, GDVN, 15/03/2017

Đổi mới chương trình phải có cách tiếp cận khác, tiếp cận mới – tiếp cận việc xây dựng phẩm chất và phát triển năng lực. Nói gộp lại là nhân cách.

Sau khi bàn về triết lý và mục tiêu giáo dục, tiếp theo xin nói về đổi mới chương trình. Đó không phải là tất cả, nhưng là công việc lõi, quan trọng nhất của bất kỳ một cuộc cải cách giáo dục nào, nhất là đối với giáo dục phổ thông. 

Nước ta đang tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Trước đó cũng có ý kiến đề nghị dùng từ "cải cách", nó ngắn gọn hơn, rõ và dứt khoát hơn. Trong văn bản của Đảng và Nhà nước cũng đã từng có từ đó rồi. 

Nhưng cũng có ý kiến cho rằng : "việc gì mà phải cải cách, giáo dục của ta cơ bản vẫn đúng hướng và tốt đó thôi, thành tích nhiều, nói cải cách hóa ra lâu nay mình làm kém quá sao".

Thậm chí còn có người thì ngại nói cải cách là nó "nhạy cảm". 

Nước ta lâu nay nhiều lúc đến khổ với cái quan niệm "nhạy cảm" kiểu này. Không phải đáng ngại như thế đâu. 

Trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp đã sử dụng từ "cải cách" rồi, có gì đâu mà phải ngại "nhạy cảm". Và đối với nền giáo dục Việt Nam, từ những năm 60 đã có Ban Nghiên cứu cải cách giáo dục. 

Nhưng thôi, không nên mất quá nhiều thì giờ để tranh luận "cải cách" hay "đổi mới". Đổi mới căn bản và toàn diện là nhiều lắm rồi, là ghê rồi. Đừng sợ ít. Căn bản là "gốc rễ" mà, lại còn toàn diện nữa. 

Theo tôi hiểu, đổi mới căn bản và cải cách là một, về bản chất giống nhau, dù với hai cách gọi khác nhau. 

Thực chất của cải cách giáo dục là cải cách về chương trình-việc chính yếu nhất, tôi nghĩ vậy. 

Trước đây, ta quan niệm chương trình rất đơn giản, chủ yếu là những nội dung được sắp xếp trước sau, với một lịch trình về thời gian nhất định. Đó là quan niệm chương trình theo cách tiếp cận nội dung. 

Lần này trong đổi mới chương trình phải có cách tiếp cận khác, tiếp cận mới – tiếp cận việc xây dựng phẩm chất và phát triển năng lực. Nói gộp lại là nhân cách, hoặc diễn đạt khác là năng lực Người. 

Sau đây xin viết gọn là "năng lực" được hiểu theo nghĩa là năng lực Người, bao gồm cả năng lực và phẩm chất.

Việc xây dựng chương trình theo cách tiếp cận phát triển năng lực là thể hiện sự nhất quán với việc xây dựng một nền giáo dục mà mục tiêu chính yếu là phát triển năng lực. 

Mấy năm nay ta thường nói là phát triển năng lực người học. Nói vậy không sai, nhưng chưa đủ. Còn phát triển cả năng lực của người dạy nữa. 

Đó là kết quả của sự tương tác giữa thầy và trò với phương pháp sư phạm mới là tôn trọng tư duy độc lập của học sinh.

Thầy không phải nắm độc quyền chân lý, rồi cứ thế áp đặt theo kiểu bề trên chỉ xuống, bắt phải thuộc lòng và ghi nhớ đầy đủ để nói và viết theo, không được sai câu chữ.

Thầy phải là người bạn lớn, bình đẳng và cùng đồng hành với học sinh trong quá trình đi tìm chân lý. 

giaoduc3

Phụ huynh chọn mua sách tại cửa hàng của Tổng Công ty Phát hành sách Việt Nam. Ảnh : Báo Nhân Dân.

Với đặc điểm của thời đại và xuất phát từ tình hình nước ta hiện nay, chương trình cần lưu ý cả những vấn đề mới như :

Toàn cầu hóa, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, kinh tế tri thức, kinh tế thị trường hiện đại và vấn đề khởi nghiệp của từng con người và của một quốc gia ; hay vấn đề lớn hơn nữa là công cuộc đổi mới ở tầm văn hóa, tiếp cận cho được các giá trị văn hóa (trong) phát triển. 

Chương trình là một công cụ sư phạm quan trọng nhất để người thầy dùng nó, thông qua nó, mà tác động vào học sinh nhằm phát triển năng lực của người học. 

Công cụ (sư phạm) này khác với các công cụ lao động khác ở chỗ nó phải phù hợp, tùy thuộc vào đối tượng mà nó tác động, sao cho có thể đạt được hiệu quả cao nhất. 

Các công cụ khác cũng không phải không có yêu cầu này, nhưng ít hơn, không ở mức độ cao như chương trình giáo dục, vì chương trình giáo dục tác động vào đối tượng con người – một đối tượng thật tinh vi, thật hiện đại và rất nhạy cảm. 

Nếu công cụ tác động vào nó không phù hợp đối tượng thì chẳng những không có lợi gì, mà có khi còn hại lớn. Vì lẽ ấy mà bản thân tôi không nhất trí, không ủng hộ chủ trương cho nhập chương trình từ nước ngoài vào.

Nói như vậy không có nghĩa là không cần học hỏi cái hay của họ. Phải ra sức học hỏi thế giới, nhất là những nơi có nền giáo dục tiên tiến.

Nhưng học không đồng nghĩa với việc phải bỏ nhiều tiền ra để đi nhập khẩu chương trình của họ về dạy nguyên xi như vậy cho học sinh ta. 

Chương trình ấy họ làm ra để tác động vào đối tượng là học sinh nước họ - một đối tượng khác học sinh của ta, nhất là về văn hóa.

Một công cụ được làm ra để tác động vào đối tượng này thì ta lại dùng để tác động vào một đối tượng khác, mà phải tốn nhiều ngoại tệ để đi mua. 

Có lúc chúng ta đã tốn đến cả ngàn tỷ, mà phần nhiều là của ngân sách nhà nước.

Ta chỉ cần bỏ ra một ít tiền, mua sách tài liệu về đọc cho kỹ, xem thử tại sao họ làm như vậy, hiểu cho đúng bản chất và cơ sở khoa học, rồi ta tự làm ra chương trình của Việt Nam ta. 

Tại sao không thể ? Tại sao ta không đủ sức làm chương trình ? Hãy tự làm đi, để dành số tiền nhập chương trình ấy đầu tư cho việc làm chương trình. 

Đó cũng là cách đào tạo, để có một đội ngũ thầy cô giáo giỏi về làm chương trình, về khoa học giáo dục, cũng tức là tạo ra "thầy"- những cái "máy cái", vừa lợi mặt này vừa hiệu quả mặt kia.

Trước đây, năm 1956 nước ta đã có chủ trương nhập chương trình và sách giáo khoa của Liên-Xô và Trung Quốc về để dạy cho học sinh Việt Nam. 

Sau 4 năm thực hiện, năm 1960 thì thấy sai, năm 1961 phải có chủ trương cải cách mới về chương trình, trong đó có việc sửa sai vấn đề nhập chương trình.

Đối với phổ thông, tôi nhất trí theo cách, trước nhất phải có một chương trình tổng thể, tiếp theo sau đó là chương trình cụ thể cho từng cấp, từng môn học.

Cũng có thể không nhất thiết phải làm xong toàn bộ chương trình tổng thể rồi mới bắt tay làm chương trình cụ thể. 

Làm như thế có thể sẽ rất chậm và không có thông tin từ đề án cụ thể để bổ sung ngược lại cho đề án tổng thể. Tuy nhiên, đề án tổng thể phải đi trước một bước để hình thành cái khung, cái sườn.

Kết thúc phổ thông cơ sở cần giải quyết cơ bản xong phần trang bị kiến thức phổ thông và biết cách tự học, tự tìm tư liệu, hướng đến tư duy độc lập. Biết cách tự học, tự tìm tư liệu và tư duy độc lập là một trong những yêu cầu quan trọng nhất về năng lực của học sinh. 

Còn phổ thông trung học sẽ làm gì ? Sau khi hệ thống hóa để củng cố kiến thức phổ thông và cũng là để nâng cao năng lực (tổng hợp, hệ thống, tóm tắt, trình bày…) thì tập trung chủ yếu cho việc tiếp cận nghề nghiệp, như : 

Hướng dẫn cho học sinh có hiểu biết ban đầu về các loại nghề nghiệp phổ biến trong xã hội và các môn học liên quan đến ngành nghề ấy khi lên đại học, giúp các em có cơ sở định hướng nghề nghiệp trong tương lai để từ đó mà quyết định các môn học tự chọn theo hướng liên quan với nghề nghiệp mà các em dự định lựa chọn. 

Các môn học ở trung học phổ thông cần tiến gần với nghề nghiệp, hạn chế dần số môn bắt buộc và mở rộng dần số môn tự chọn. 

Sau một thời gian nhất định, nên chuyển tất cả các môn học sang tự chọn và thời gian học có thể ngắn hơn đối với học sinh giỏi, khi họ giải quyết xong khối lượng công việc cần hoàn thành của chương trình.

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng

Nguồn : GDVN, 15/03/2017

************************

Bài 2

Không làm rõ, nắm chắc triết lý, mục tiêu giáo dục, đổi mới sẽ mất phương hướng

Vũ Ngọc Hoàng, GDVN, 14/03/2017

Vấn đề "nhạy cảm" chính là những vấn đề mà cuộc sống đang cần, đang đòi hỏi phải sớm có câu trả lời. Xác định vấn đề "nhạy cảm" không phải là để tránh né nó.

Tiếp theo mạch bài trước, đánh giá lại 4 năm thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, trong bài viết hôm nay trước tiên xin trao đổi một số ý kiến liên quan đến triết lý và mục tiêu giáo dục. 

Đành rằng công việc đổi mới giáo dục cuối cùng thì phải rất cụ thể và thiết thực, chứ không phải là những lý thuyết chung chung trừu tượng, nói không sai nhưng không biết làm thế nào cho đúng. 

Tuy nhiên, một số vấn đề thuộc về triết lý và mục tiêu giáo dục mà nếu không làm rõ, không nắm chắc thì cuộc đổi mới dễ mất phương hướng. 

Thậm chí là mất công sức và tốn tiền bạc để thay đổi đủ thứ, rối cả lên, vừa đi xuôi vừa đi ngược, cuối cùng thì mục đích vẫn không đạt được, và cuộc đổi mới không thành công. Dân tộc này, đất nước này lại tiếp tục mất cơ hội. 

Phương pháp xác định triết lý, mục tiêu giáo dục

Hàng nghìn năm nay, các nhà triết học, văn hóa và giáo dục đã nhiều lần bàn, và nay vẫn tiếp tục bàn chứ không phải đã xong. 

Câu hỏi đầu tiên thường được nêu ra là : "Mục đích của giáo dục để làm gì ?". Giáo dục để hình thành "con người", sản phẩm của giáo dục là "con người" – điều đó thì hầu như ai cũng thống nhất. 

Nhưng cần tạo ra "con người như thế nào" thì từ xưa đến nay vẫn luôn có những ý kiến khác nhau. Do hoàn cảnh lịch sử cụ thể và do góc nhìn, cách tiếp cận khác nhau, nên đã có rất nhiều quan điểm không giống nhau. 

Và nhờ sự không giống nhau ấy mà ta có cách nhìn đa chiều, phong phú và sâu sắc thêm, liên tục hoàn thiện tư duy trên con đường đi tìm chân lý, trong một thế giới, một thời đại vận động không ngừng, liên tục biến đổi và tiến lên. 

Nói điều này cũng để thấy rằng, không phải nói một lần, với ý kiến của ai đó, thế là xong rồi, là chân lý mãi mãi rồi, cứ thế mà quán triệt, ghi nhớ và làm theo, không phải mất thì giờ bàn nữa. 

Đây là việc cần có cách nhìn mở, cần có phản biện và thảo luận thẳng thắn, thông tin nhiều chiều. 

Trong bất kỳ thời đại nào cũng vậy, ở bất kỳ quốc gia nào cũng vậy, đã là con người thì vẫn có, đều có những đặc tính nhất định giống nhau, ổn định bền vững, bởi đó là "con người", chứ không phải là con gì khác. 

Đồng thời, trong mỗi thời đại, con người còn có những đặc điểm riêng mang dấu ấn của thời đại ấy. Thời đại khác nhau thì nhất định sẽ có con người khác nhau. 

Đương nhiên rồi, nhưng không riêng thời đại đâu, mà cộng đồng dân tộc, môi trường tự nhiên và văn hóa, điều kiện xã hội khác nhau cũng hình thành nên con người khác nhau. 

Mặt khác, trong cấu tạo tự nhiên ở các vùng vỏ não của con người nói chung không ai giống ai.

Vậy nên, tư duy cực đoan muốn bắt con người nhất định phải thế này hoặc thế kia, phải giống nhau đồng loạt, phải theo một ý muốn từ bề trên nào đó tạo ra, đều là sai lầm, đều làm mất động lực tiềm ẩn và lớn lao nhất, đều là kìm hãm sự phát triển của con người. 

Có nhà nghiên cứu cho rằng không có học sinh kém mà chỉ có học sinh giỏi việc này và không giỏi việc khác. Nhiệm vụ của người thầy là phát hiện cho được ở em nào đang tiềm ẩn năng lực có thể giỏi thứ gì để giúp cho nó phát triển tốt nhất theo hướng ấy. 

Từng học sinh cần phải được phát triển một cách tự nhiên, "tự do", không bị gò ép theo tư duy chủ quan của người khác. 

Ngược lại, nếu cho rằng, con người cứ phát triển một cách tự phát, tùy hứng, không cần có những giá trị chung (làm chuẩn) về nhân cách thì cũng sẽ là sai lầm "chết người", vì chính sự tự phát ấy sẽ phá vỡ nền tảng văn hóa, cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội. 

Mỗi con người là một thế giới riêng, không ai giống ai ; và mặt khác, họ đều là thành viên của một cộng đồng cùng loại. 

Triệt tiêu hoặc làm lu mờ vai trò của cá nhân sẽ làm mất động lực phát triển. Quên tư cách thành viên của cộng đồng sẽ làm hư hỏng hoặc rạn nứt nền tảng văn hóa. 

Từ những cá nhân được hoàn toàn giải phóng, được hoàn toàn tự do, phát triển tối đa theo các thế mạnh của mình, cộng lại sẽ có một cộng đồng dân tộc với sức mạnh của cấp số nhân. 

Mặt khác, như chúng ta đã biết, con người khi mới sinh ra là một thực thể tự nhiên, sau đó nhờ cộng đồng, sống và gắn bó với cộng đồng, mà họ trở thành Người. 

Bài học kinh nghiệm từ phương Tây, Nhật Bản

Xã hội phương Đông, với hàng nghìn năm chế độ phong kiến, con người cá nhân bị kìm hãm, không được giải phóng, đó là nguyên nhân quan trọng hàng đầu làm đất nước tụt hậu. 

Trước đó, phương Tây đã có thời kỳ chìm trong chế độ thần quyền, có nhiều mặt phát triển kém phương Đông, ai nói khác giáo hội có thể bị đưa lên dàn hỏa thiêu. 

Nhưng sau đó, phương Tây đã biết thế tục hóa, "phục hưng" và "khai sáng", giải phóng tự do cá nhân, họ phát triển vượt lên phía trước, bỏ phương Đông lại phía sau, cách xa họ cả một nền văn minh.

Trong giai đoạn sau đó của lịch sử, một số nước ở phương Đông đã ý thức được điều đó và họ đã quyết tâm triển khai những cuộc cải cách lớn theo hướng tích cực và chủ động tiếp thu có chọn lọc những yếu tố hợp lý từ phương Tây. 

Những nước phương Đông ấy cũng đã phát triển vượt lên. Một trường hợp đáng nghiên cứu tham khảo là nước Nhật. 

Vào giữa thế kỷ 19, Nhật Hoàng và các nhà lãnh đạo thông minh của nước Nhật nhận thức sâu sắc được tình hình và nguyên nhân tụt hậu so với phương Tây, đã đi đến một quyết định lịch sử mạnh mẽ là tiến hành một cuộc đại cải cách để phát triển nước Nhật. 

Công cuộc ấy đã bắt đầu bằng việc cho dịch, in, phát hành các tác phẩm nổi tiếng của phương Tây bàn về tự do và cử đoàn chuyên gia gồm nhiều người tài giỏi của nước Nhật đi nghiên cứu học tập kinh nghiệm phát triển của Châu Âu, nhất là kinh nghiệm của nước Đức.

Qua những điều vừa trình bày, tôi mong muốn được chuyển đến bạn đọc để tham khảo một ý kiến rằng, trong công cuộc đổi mới căn bản nền giáo dục hiện nay, việc quan trọng hàng đầu là giải phóng con người khỏi các tư duy lạc hậu, kìm hãm tự do cá nhân, để thật sự trở thành người tự do, có thể phát triển tối đa những năng lực tiềm ẩn, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại.

Năng lực Người, nền tảng của triết lý giáo dục

Đặc tính quan trọng hàng đầu cần có ở con người là gì ? Đó là tính trung thực, lòng nhân ái và năng lực (tư duy và hành động). 

Văn hóa là những giá trị thuộc về con người. Không trung thực sẽ không có tự trọng và không biết xấu hổ. Khi con người biết xấu hổ là lúc văn hóa bắt đầu. Nhờ biết xấu hổ mà con người đã dùng lá nho để che thân. Từ đó, văn minh bắt đầu. 

giaoduc4

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ trong phiên trả lời chất vấn của Quốc hội ngày 16/11/2016, trong đó có Đại biểu Quốc hội nêu câu hỏi về triết lý giáo dục của Việt Nam, ảnh : Báo Chính phủ.

Trong một gia đình, một tập thể, một cộng đồng mà bao gồm nhiều con người sống không trung thực thì thật đáng sợ. Trong một môi trường trung thực và minh bạch sẽ không có chỗ ẩn nấp của các thói xấu và các thủ đoạn. 

Lòng nhân ái cũng là nền tảng của văn hóa cộng đồng. Văn hóa là sống. Sự sống của con người. Cách sống và cuộc sống.

Con người ta sống với nhau trước tiên là bằng lòng nhân ái. Khi lòng nhân ái không còn thì đó là môi trường phát triển của cái ác, con người sẽ không còn là con người, sẽ không phải là bạn của nhau. 

Năng lực tư duy và năng lực hành động là cái cần thiết để con người nhận thức và cải tạo thế giới. Năng lực và sự sáng tạo là bạn đồng hành. Năng lực là để sáng tạo. Và sự sáng tạo làm cho năng lực phát triển hơn lên. 

Năng lực là cái tự nó. Không thể ban phát, không thể vay mượn, không thể áp đặt. Khi nói đến năng lực Người, theo nghĩa của chữ Người viết hoa, là bao hàm cả phẩm chất, trong đó có tính trung thực và lòng nhân ái. 

Như phần đầu đã nói, sản phẩm của giáo dục là con người. Nói cô đọng và cụ thể hơn, đó là năng lực Người. 

Cần tạo ra những con người thật sự có năng lực của chính mình, để họ tự quyết định mọi thứ, chứ không phải là tạo ra những con người chỉ biết thừa hành như một công cụ của người khác, do người khác áp đặt tư duy. 

Đổi mới giáo dục cần giải quyết cho được những vấn đề "nhạy cảm" một cách khoa học, thực chứng

Để năng lực Người có thể phát triển một cách tự nhiên, không bị biến dạng, thì người học và người dạy đều phải là những con người tự do. Tự do thật sự. Tự do với chính mình. Tự do trước người khác. Tự do trước quyền lực và mọi sự áp đặt. 

Trong tự do, trước nhất là tự do tư tưởng và tự do ngôn luận để thể hiện chính kiến của mình. Không có tự do thật sự thì con người chẳng những không phát triển được năng lực, mà cũng không thể xây dựng được tính trung thực. 

Khoa học tâm lý đã từng cho biết, nói dối trong rất nhiều trường hợp cũng là một "cơ chế tự vệ" khi con người không có quyền tự do. 

Khi không có tự do, con người sẽ không thể phát triển đầy đủ năng lực tư duy độc lập. Khi không có tư duy độc lập thì con người cũng thiếu sức đề kháng về văn hóa, trở thành thụ động, dễ bị các thói hư tật xấu xâm nhập và hủy hoại. 

Chính điều này đã cho thấy vai trò to lớn của tự chủ đại học và tự do học thuật trong công cuộc đổi mới giáo dục. 

Đối với những quốc gia có một nền giáo dục đại học phát triển, thì tự do học thuật là chuyện rất bình thường, đương nhiên, như vốn có của giáo dục đại học theo đúng nghĩa. 

Ở Việt Nam ta, chuyện tự do học thuật đến nay vẫn chưa quen, thậm chí còn không ít ý kiến khác nhau, kể cả cho rằng có cần thiết hay không cần thiết. 

Chưa quen thì phải làm quen ! Đây là việc rất cần thiết, nếu muốn dân tộc ta phát triển.

Cũng có ý kiến ngại đụng đến những vấn đề "nhạy cảm" trong chính trị, nếu như mở rộng tự do học thuật. 

Đó là cách tư duy sai lầm. Giống như ngại ánh sáng. Trong khi ánh sáng mới chính là nguồn sống và sự phát triển của tư duy khoa học. 

Cái gì đã đúng, đã có cơ sở khoa học, thì trong tự do học thuật nó càng được khẳng định, càng có sức sống. Cái gì chưa đủ cơ sở khoa học thì trong tự do học thuật nó sẽ sớm được phát hiện, được bổ sung, điều chỉnh để phù hợp hơn, tránh được những sai lầm. 

Những vấn đề "nhạy cảm" chính là những vấn đề mà cuộc sống đang cần, đang đòi hỏi phải sớm có câu trả lời. Xác định vấn đề "nhạy cảm" không phải là để tránh né nó, mà ngược lại là để "xông vào", hiểu nó đến cùng, và có lời giải để đáp ứng cho yêu cầu của cuộc sống.

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng

Nguồn : GDVN, 14/03/2017

*************************

Bài 1

Đổi mới giáo dục và món nợ với cha ông"

Vũ Ngọc Hoàng, GDVN, 13/03/2017

Nếu không có cách làm tốt hoặc né tránh bản chất của vấn đề thì sẽ không thay đổi được. Làm một hồi, vất vả và tốn kém, nhưng cuối cùng thì vẫn như cũ.

Đối với nước ta hiện nay, phát triển là mục tiêu quan trọng nhất. Mà không chỉ hiện nay, đây là câu chuyện vẫn còn nợ của mấy ngàn năm lịch sử. 

Món nợ với cha ông

Ông cha ta rất anh hùng trong đấu tranh giữ nước. Với một hoàn cảnh lịch sử hết sức khó khăn như vậy, phải đương đầu với các thế lực xâm lăng mạnh hơn ta rất nhiều lần, nhưng cha ông đã đủ bản lĩnh và mưu trí, giữ vững nền độc lập cho dân tộc và cơ bản toàn vẹn lãnh thổ non sông. 

Thật sự đáng tự hào về truyền thống ấy.

Nhưng mặt khác, cho đến nay, qua mấy ngàn năm lịch sử, với thời gian hòa bình xây dựng vẫn nhiều hơn gấp bội so với thời gian chiến tranh, người Việt Nam ta vốn cần cù lao động chăm chỉ và hiếu học, có nhiều người học giỏi và thông minh, nhưng đến nay vẫn tụt hậu, chưa thành một dân tộc và quốc gia phát triển. 

Không phát triển thì độc lập dân tộc đã giành được bằng rất nhiều công sức và máu xương sẽ không giữ được và Chủ nghĩa xã hội cũng không bao giờ có thể đạt tới trên thực tế. 

Đối với sự phát triển của một quốc gia, thì trước tiên và quan trọng nhất là sự phát triển của con người - từng con người, những con người, và cả một dân tộc. 

Khi có một cộng đồng phát triển thì đất nước tất yếu cũng sẽ phát triển, vì đất nước là sản phẩm của con người, con người sẽ tạo ra đất nước như thế này hoặc thế kia. 

Để dân tộc và đất nước có thể phát triển bền vững, việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà là việc quan trọng số một, không gì bằng.

Khi nói đổi mới giáo dục là quan trọng nhất, chắc sẽ có ý kiến chưa đồng tình. 

Có người sẽ nói kinh tế còn quan trọng hơn, kinh tế là trung tâm, vật chất quyết định ý thức, phải "có thực mới vực được đạo", hoặc chính trị quan trọng hơn nữa, đó là "then chốt", hoặc văn hóa mới là quan trọng nhất, vì đó là "nền tảng". 

Ý kiến nào cũng có những lý lẽ hùng hồn.

Đều đáng lắng nghe cả.

Lắng nghe và suy ngẫm. 

Tuy nhiên, đổi mới giáo dục mới là quan trọng nhất.

Bởi lẽ, chính công việc ấy, chứ không phải cái gì khác, nếu làm tốt thì sau một thời gian, không phải dài lắm, nó có thể tạo ra một dân tộc Việt Nam "mới" ở tầm cao hơn hẳn hôm nay, kể cả phẩm chất và năng lực. 

Còn mọi việc về xây dựng một nền kinh tế phát triển cao, một nền văn hóa giàu tính nhân văn, một chế độ xã hội tốt đẹp, một cách quản trị quốc gia thông minh nhất, một hệ thống chính trị trong sạch, không tham nhũng…cũng đều quan trọng cả, chẳng có cái nào là không quan trọng.

Nhưng tất cả những việc quan trọng ấy đều do những con người (với đẳng cấp cao hơn) giải quyết, đều là sản phẩm của con người, của một dân tộc ở tầm cao mới ấy.

Những bất cập trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết 29/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

Việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà đã chính thức có chủ trương cách đây ba năm với một nghị quyết của Trung ương khóa XI - Nghị quyết 29. 

Nghị quyết ấy được nhiều người, kể cả các chuyên gia trong nước và chuyên gia nước ngoài (như nhóm các nhà khoa học Đức…) đánh giá cao, cho rằng nó có nhiều nội dung rất tiến bộ, phù hợp thời đại. 

Theo tôi, nội dung khoa học của Nghị quyết tuy chưa phải đã đạt yêu cầu tốt nhất đối với tất cả mọi vấn đề, khi thời gian đi qua, sẽ có những nội dung phải thay đổi, nhưng riêng linh hồn của nó-giá trị cốt lõi của Nghị quyết ấy thì sẽ sống lâu dài với thời gian, như một dấu mốc tiến bộ trong tư duy.

Nhưng không phải ra Nghị quyết là xong. Quan trọng hơn là thực hiện Nghị quyết ấy như thế nào. 

Rất tiếc là, cho đến nay, việc triển khai thực hiện Nghị quyết có nhiều việc chưa đạt yêu cầu. 

Việc tổ chức nghiên cứu và thảo luận sâu thêm để nhận thức thật rõ yêu cầu chính yếu của công cuộc đổi mới, trên cơ sở đó mà tiếp tục đề ra những giải pháp cụ thể và tổ chức thực hiện một cách tích cực, có bài bản, chúng ta chưa quan tâm đúng mức và thực hiện chưa đạt yêu cầu. 

Cho đến nay, bốn năm rồi, vẫn chưa có một đề án tổng thể về chuyên môn, trong khi đó đã thực hiện một số việc cụ thể. 

Cứ cho rằng khẩn trương làm một số việc cụ thể ấy là cần thiết và tích cực đi, nhưng rất tiếc là đối với các công việc đã triển khai thì có việc đi xuôi, có việc đi ngược, hoặc nửa vời, hoặc hình thức, không thực chất và không vững chắc. 

Vừa đi xuôi vừa đi ngược thì cũng có nghĩa là có biểu hiện chệch choạc, chưa nhất quán, nắm không chắc vấn đề (xin sẽ trình bày rõ hơn trong các vấn đề cụ thể sau). 

Đổi mới nền giáo dục là công việc hết sức hệ trọng và cần thiết hiện nay, kể cả cấp bách nữa, đồng thời cũng là công việc khó bậc nhất. Nếu không đủ tâm huyết thì sẽ không làm được. 

Nói chung nó chỉ đem lại lợi ích cho người học, cho phụ huynh và cho xã hội, chứ không trực tiếp tạo ra thu nhập đối với những người làm công việc quản trị (thậm chí nhiều việc còn bị giảm thu nhập so với kiểu quản lý hiện nay). 

Vì thế, nó không có "động lực" vật chất cho những người trực tiếp tổ chức thực hiện Nghị quyết. Đòi hỏi phải rất thiện tâm đối với công việc. 

Nó là việc khó, đòi hỏi phải sâu và có kiến thức tổng hợp, nên rất cần được thảo luận kỹ, thảo luận một cách công khai và phải có một "bộ lọc" tốt, biết cách lắng nghe và lựa chọn phương án tốt nhất. 

Nếu không có cách làm tốt hoặc né tránh bản chất của vấn đề thì sẽ không thay đổi được. Làm một hồi, vất vả và tốn kém, nhưng cuối cùng thì vẫn như cũ. Lại một lần nữa đánh mất cơ hội phát triển của dân tộc.

Các nhà lãnh đạo và quản lý cấp trung ương thì bận quá, không giành thời gian thỏa đáng cho công cuộc đổi mới giáo dục này, dù rằng đây là việc lớn và quan trọng nhất như tôi hiểu, trong khi đó thì nhiều cuộc khởi công và khánh thành công trình này, công trình kia, dự án này, dự án khác cũng được nhiều đồng chí quan tâm đến dự. 

Trong Nghị quyết có nói đến việc phải có một Ủy ban Quốc gia về đổi mới giáo dục. Đó là việc rất cần. Cần một ủy ban tâm huyết với giáo dục và làm việc thật nghiêm túc.

Vì rằng, sẽ phải giải quyết nhiều việc có tính chất liên ngành mà một Bộ không giải quyết nổi, ngay cả đối với Chính phủ cũng có việc sẽ bị vượt thẩm quyền mà phải xin ý kiến Quốc hội, có việc còn liên quan đến bên Đảng nữa.

Ủy ban ấy đã được thành lập mấy năm rồi, nhưng nhìn chung hầu như không có hoạt động gì. Có họp vài lần theo kiểu hành chính, nêu tên một số công việc, vậy thôi. 

Nếu không hoạt động tích cực và làm việc theo kiểu hành chính như vậy thì cũng chẳng cần cái Ủy ban ấy. 

Các nhóm chuyên gia thì nhìn chung, trong một thời gian dài, không hoạt động, mặc dù công việc này rất cần họ hoạt động thường xuyên với cường độ cao trong một thời gian nhất định. 

Hơn hai mươi năm trước, Hàn Quốc đã tiến hành cải cách giáo dục, lúc ấy họ lập ra một ủy ban do Tổng thống làm chủ tịch và huy động 800 nhà khoa học trực tiếp tham gia. 

Ngày nay có công nghệ thông tin để giúp cho việc thảo luận, ta không nhất thiết phải huy động nhiều như thế, nhưng cũng không thể là ít, càng không thể không có, đây là việc lớn và khó. 

Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan tham mưu chính cũng còn tỏ ra rất lúng túng. 

Bản thân ngành giáo dục chưa thấy có tổng công trình sư về khoa học giáo dục, mỗi người một vài lĩnh vực, một số vấn đề, mới nhìn theo góc độ cụ thể nào đó thì thấy đúng, nhưng khi khớp nối vào trong tổng thể thì không ít ý kiến mâu thuẫn nhau.

Trong khi đó, các chuyên gia cũng không được tổ chức lại để thảo luận, mỗi người nói một khía cạnh, nhiều ý kiến khác nhau không được trao đổi đến cùng, trong đó không ít ý kiến theo kiểu kinh nghiệm của giáo dục chưa đổi mới.

Những việc quan trọng chưa làm được để thực hiện Nghị quyết 29

Xin điểm lại một số việc quan trọng để thấy rõ hơn tình hình. 

Trước nhất, điểm lại việc đổi mới chương trình. Chương trình tổng thể và chương trình cho từng cấp, từng môn học. Trong đó có việc đổi mới về mục tiêu, chuyển mạnh từ nền giáo dục chủ yếu là truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục xây dựng nhân cách, phát triển năng lực. 

giaoduc5

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng (bên trái) trò chuyện với nhà báo Đào Ngọc Tước, Phó Tổng biên tập Báo điện tử Giáo dục Việt Nam tại nhà riêng, ảnh Hồng Thủy.

Ban đầu có chỉ đạo thực hiện khá tích cực, được một thời gian sau đó thì "đắp chiếu" nằm yên.

Người thì nói không có kinh phí, người khác lại cho biết là Bộ Tài chính đã có dự kiến bố trí ngân sách nhưng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì chờ đợi vốn vay. 

Gần đây, sau khi có ý kiến tích cực từ phía Quốc hội yêu cầu phải triển khai theo kế hoạch đã dự kiến thì công việc mới khởi động trở lại.

Được biết chương trình tổng thể mới gần xong dự thảo ban đầu để đưa ra thảo luận, còn chương trình môn học thì còn rất nhiều vấn đề, hầu như chưa đi được bước nào đáng kể. 

Việc tự chủ đại học có bàn một ít, rồi cũng dừng ở đó, gần đây Chính phủ có khởi động lại. Tự do học thuật hầu như chưa đụng đến, còn né tránh, có phần ngại đụng đến những vấn đề nhạy cảm. 

Vấn đề liên thông và phân luồng là một chủ trương quan trọng vẫn chưa có giải pháp gì mới. Hệ thống giáo dục mở và thực học hầu như chưa có tiến triển gì, thậm chí có việc còn đi ngược, cắt khúc hệ thống ra, trở ngại hơn đối với liên thông và phân luồng. 

Chính sách thúc đẩy khu vực ngoài công lập, nhất là đối với loại trường phi lợi nhuận, chưa có cải tiến gì, vẫn theo cái cách làm cho nó không thể ra đời được, hoặc nếu đã ra đời thì trước sau gì cũng "chết".

Đổi mới sư phạm nhìn chung chưa chuyển động, mà cũng phải thôi, vì chương trình mới chưa có.

Mặc dù cũng có thể ghi nhận đây đó, cơ sở này cơ sở kia, đã có một số chuyển động ban đầu về đổi mới cách dạy, cách học, nhưng nhìn chung còn rất ít và chủ yếu là tự phát. 

Chính sách và cách phân bổ tài chính đối với giáo dục chưa có gì tiến bộ đáng nói. 

Một số trường đại học đã có những cố gắng rất đáng khích lệ và rất cần tạo điều kiện, kể cả trợ giúp. Họ đã tự làm một cách tâm huyết và vất vả, trong điều kiện chỉ đạo từ trên không thật tích cực và không rõ ràng.

Đấy, tình hình theo chỗ tôi nắm được là như vậy. Việc làm được rất "khiêm tốn", ít ỏi, vẫn đang còn trong lùng bùng, có đi xuôi và có đi ngược, chưa rõ lối. 

Nếu tôi nói như vậy là không đúng thực tế thì đáng mừng ! Nhưng tiếc rằng, tôi cũng đã theo dõi, cố gắng tìm kiếm, nhưng vẫn chưa thấy được những kết quả nhiều hơn, mặc dù luôn mong muốn như vậy.

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng

Nguồn : GDVN, 13/03/2017

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Vũ Ngọc Hoàng
Read 705 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)