Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

06/08/2019

Kiện Trung Quốc – Việt Nam quá rụt rè

Dương Danh Huy

11 câu hỏi quanh khả năng Việt Nam kiện Trung Quốc về Bãi Tư Chính

Dương Danh Huy, viet-studies, 06/08/2019

"Tránh sao khỏi tai họa về sau"

Từ tháng 5/2019 đến tháng 8/2019, với một sự leo thang lấn lướt kép, Trung Quốc vừa điều tàu cảnh sát biển Hải Cảnh 35111 uy hiếp các tàu tiếp tế giàn khoan hoạt động tại mỏ Lan Đỏ trong Lô 06-01, vừa điều tàu Hải Dương Địa Chất 8, với một đội tàu hộ tống hùng hậu đến khảo sát các Lô 130, 131, 132, 133, 154, 155, 156 và 157 trên một diện tích 31.000 km² trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) không cho phép đơn phương khảo sát tài nguyên hay nghiên cứu khoa học biển trong EEZ của nước khác.

tuchinh0

Trung Quốc khảo sát và uy hiếp bên trong EEZ 200 hải lý của Việt Nam - Bản đồ Phan Van Song

Việc báo chí nhấn mạnh tên "Bãi Tư Chính" đã không thể hiện hết mức độ của sự xâm lấn mới này. Thật ra, Mỏ Lan Đỏ nằm trong bồn Nam Côn Sơn, gần bờ hơn Bãi Tư Chính, cạnh mỏ Lan Tây, vốn là nguồn cung cấp 30% khí đốt của Việt Nam từ năm 2003. Và thật ra sáu trong tám lô bị đội Hải Dương Địa Chất 8 vi phạm, 130, 131, 132, 154, 155 và 156, đều nằm phía bắc bãi Tư Chính, với lô 130 chỉ cách đất liền Việt Nam khoảng 80 hải lý và đảo Phú Quý khoảng 37 hải lý.

Năm 2017 và 2018 Trung Quốc đã gây áp lực khiến Việt Nam phải ngưng Repsol hoạt động trong các lô 07- 03 và 136-03 gần đó, và năm 2012, để trả đũa việc Việt Nam ban hành luật biển, Trung Quốc đã rao thầu cho 160.000 km² trong EEZ của Việt Nam, trong đó có các lô 130, 131, 132, 133, 154, 155, 156 và 157, mà họ gọi là RJ03 và RJ27. Dĩ nhiên động thái mới của Trung Quốc là những bước trong một quá trình có chủ đích và sẽ không phải là những bước cuối cùng.

Tu-Chinh-2

Các lô 05-2, 05-3, 06-1, 07-3, 136-3, công ty dầu khí từng và đang bị đe dọa - Bản đồ MM Marine

Ngày xưa, Trần Hưng Đạo thấy "sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình ; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng ; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau", làm ông "thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa ; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù ; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm".

Ngày nay, Việt Nam lại đứng trước tình trạng "hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau" và Bắc Kinh lại uốn tấc lưỡi bảo Việt Nam phải "ứng xử cho đúng", "tôn trọng chủ quyền Trung Quốc" và "đừng làm phức tạp tình hình". Chúng ta không sánh được với người hùng anh xưa, nhưng may mắn được sống trong một thế giới có những biện pháp hòa bình để bảo vệ quyền lợi của đất nước. Nếu bỏ phí cả những biện pháp đó thì "chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc... há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa ?"

Cơ chế giải quyết tranh chấp UNCLOS

ài viết này sẽ cố gắng, qua các câu hỏi và trả lời, cung cấp thông tin về một trong những biện pháp văn minh nhất, bình đẳng nhất, với nó chí nhân có thể thay cường bạo như Nguyễn Trãi đã viết. Đó là kiện Trung Quốc.

1. Kiện Trung Quốc về điều gì ?

Việt Nam cần kiện Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

2. Nếu Trung Quốc không chấp nhận ra tòa ?

UNCLOS, trong Phần XV và các Phụ lục liên quan, quy định về một cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc cho các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc. Cơ chế này cho phép các thành viên kiện nhau về các tranh chấp liên quan đến việc diễn giải và áp dụng Công Ước, trong đó có tranh chấp về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Với cơ chế này, dù Trung Quốc không chấp nhận ra tòa cũng không ngăn cản được vụ kiện. Trung Quốc cố ý không giải quyết tranh chấp một cách công bằng, và mục đích của cơ chế này chính là để cho các thành viên UNCLOS có thể thoát khỏi những sự cố ý tồi tệ như thế.

Tuy cơ chế này cần hội tụ đủ một số điều kiện và có một số hạn chế, thí dụ như trong Điều 297 và 298, việc vụ kiện Phi-Trung 2013-2016 được thụ lý cho thấy khả năng là nếu Việt Nam kiện thì tòa cũng sẽ thụ lý.

3. Sao không kiện Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa ?

Bản chất của tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa là tranh chấp chủ quyền, không phải là diễn giải và áp dụng UNCLOS. Cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của UNCLOS không bao gồm những tranh chấp mà bản chất là tranh chấp chủ quyền. Tòa án Công lý Quốc tế cũng không có thẩm quyền để xử tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa cho đến khi mọi bên trong tranh chấp đã chấp nhận thẩm quyền của Tòa bằng một trong những hình thức trong Điều 36 và 37 của Quy chế của Tòa, và hiện nay điều kiện đó chưa được đáp ứng.

4. Tòa nào sẽ xử ?

Điều 287 của UNCLOS cho phép các bên trong tranh chấp tuyên bố chọn phương tiện phân xử, thí dụ như Tòa án Công lý Quốc tế hay Tòa Trọng tài Quốc tế về Luật Biển (ITLOS), nhưng phương cách mặc định là một Hội đồng Trọng tài lâm- cấp thời (ad hoc) được thiết lập theo Phụ lục VII của UNCLOS. Hội đồng bao gồm năm trọng tài : mỗi bên được chọn một và các bên cùng nhau chọn số còn lại. Nếu không đủ năm trọng tài vì các bên không đồng ý với nhau, hay có bên không chọn, thì Chủ tịch Tòa Trọng tài Quốc tế về Luật Biển sẽ chọn. Chính một Hội đồng Trọng tài như thế đã phân xử vụ kiện Phi-Trung chứ không phải Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) như thường bị hiểu lầm : Philippines chọn một trọng tài, nhưng Trung Quốc không tham gia, và Chủ tịch ITLOS Shunji Yanai chọn bốn trọng tài còn lại.

5. Hội đồng Trọng tài không phải là Tòa án Công lý Quốc tế, phán quyết của họ có ý nghĩa gì không ?

Phán quyết của Hội đồng Trọng tài hoàn toàn có tính ràng buộc giữa các quốc gia trong vụ kiện, đối với các quốc gia này thì không khác gì Tòa án Công lý Quốc tế đã xử. Thí dụ, phán quyết 2016 có tính ràng buộc giữa Philippines và Trung Quốc, dù Trung Quốc không công nhận. Tuy nhiên, phán quyết đó không có tính ràng buộc giữa các quốc gia đó và các bên thứ ba.

6. Phán quyết 2016 đã bác bỏ Đường Chữ U rồi, kiện nữa làm gì ?

Phán quyết đó chỉ có tính ràng buộc giữa Philippines và Trung Quốc. Nếu Việt Nam muốn có một phán quyết có tính ràng buộc giữa mình và Trung Quốc, Việt Nam phải kiện Trung Quốc.

Lợi ích và khả năng thắng

7. Kiện có ích gì khi Trung Quốc sẽ không tuân thủ ?

Chắc chắn Trung Quốc sẽ không tự nguyện tuân thủ phán quyết, cũng như họ đã không tuân thủ phán quyết 2016 về vụ kiện Phi-Trung. Nhưng một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai, sẽ vô cùng hữu ích trong việc tranh thủ sự ủng hộ của thế giới. Các nước khác, đặc biệt là Mỹ, có thể ủng hộ Việt Nam một cách danh chính ngôn thuận, không thể bị cho là thiên vị một bên trong tranh chấp. Trung Quốc sẽ không thể ngụy biện rằng họ đang giải quyết và quản lý tranh chấp với các nước nhỏ một cách tốt đẹp, các nước ngoài khu vực không nên xen vào. Các nước khác có thể lên tiếng bảo vệ các công ty dầu khí của họ khi các công ty này làm việc với Việt Nam, Trung Quốc không thể yêu cầu họ rút ra khỏi "vùng tranh chấp". Nếu trong tương lai Việt Nam phải đưa tranh chấp ra Liên Hiệp Quốc, vì chắc chắn là Trung Quốc sẽ leo thang lấn lướt, nếu có một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai trong tay, Việt Nam sẽ được nhiều phiếu ủng hộ hơn.

Ngoài ra, phán quyết của Hội đồng Trọng tài UNCLOS sẽ xứng đáng với chính nghĩa của Việt Nam hơn là cử người phát ngôn Bộ Ngoại giao, thậm chí cử ngoại trưởng, ra lặn ngụp trong cù nhầy với các tương nhiệm Trung Quốc, trong khi Bắc Kinh càng ngày càng lấn tới.

8. Lập luận của Việt Nam sẽ là gì ?

Lập luận của Việt Nam có thể là :

(1) Các lô 05, 06, 07, 130, 131, 132, 133, 154, 155, 156, 157 và một phần của bãi Tư Chính nằm trong EEZ thuộc lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam.

(2) Phần còn lại của bãi Tư Chính nằm trong thềm lục địa thuộc lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam.

(3) Các khu vực này nằm dưới mặt nước, do đó không nước nào có thể tuyên bố chủ quyền đối với chúng.

(4) Các khu vực này không thể nằm trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của bất cứ đảo nào đang bị tranh chấp (tức là các đảo thuộc quần đảo Trường Sa).

(5) Trung Quốc không thể có quyền lịch sử đối với vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Việt Nam.

(6) Vì vậy các khu vực này hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.

(7) Trung Quốc đã vi phạm các quyền này của Việt Nam và phải ngưng vi phạm.

9. Khả năng Việt Nam thắng là bao nhiêu ?

Để thắng, Việt Nam phải vượt qua ba thử thách : Hội đồng Trọng tài có thẩm quyền hay không (vấn đề jurisdiction), vụ kiện có thể được chấp nhận hay không (vấn đề admissibility), và các lập luận của Việt Nam có đúng hay không (vấn đề merit). Ba thử thách này dựa trên cùng các nguyên tắc trong vụ kiện Trung-Phi. Tuy Hội đồng Trọng tài mới không bị phán quyết 2016 bắt buộc phải xử Việt Nam thắng, khả năng là Việt Nam cũng sẽ thắng.

Thử thách thứ nhất tương đương với trong vụ kiện Trung-Phi, và khả năng là Hội đồng Trọng tài mới cũng sẽ kết luận rằng họ có thẩm quyền. Các luật gia ủng hộ Trung Quốc có thể cho rằng cả hai nước đều đòi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa như một đơn vị bao gồm các thực thể và các vùng nước, do đó tranh chấp là tranh chấp chủ quyền và nằm ngoài thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài. Nhưng yêu sách của bất cứ nước nào cũng phải dựa trên nguyên tắc đất thống trị biển, và thêm vào đó các vùng biển trong vụ kiện nằm quá xa quần đảo để bất cứ nước nào có thể đòi chủ quyền với chúng như một đơn vị với quần đảo, cho nên lập luận đó sẽ bị bác bỏ.

Trong thử thách thứ nhì, Việt Nam có một điểm mà Philippines không có, đó là bản "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" ngày 11/10/2011, trong đó có câu "Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị". Các luật gia ủng hộ Trung Quốc có thể khai thác câu này, diễn giải rằng nó đã loại cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của UNCLOS. Tuy nhiên, lập luận của Hội đồng Trọng tài của vụ kiện Phi-Trung trong phán quyết về thẩm quyền, đoạn 222-225, tuy là về DOC, cho thấy khả năng là diễn giải đó cũng sẽ bị Hội đồng Trọng tài mới bác bỏ.

Thử thách thứ ba có hai phần : bác bỏ yêu sách "quyền lịch sử đối với EEZ và thềm lục địa", và chứng minh "không có EEZ có thể thuộc Trường Sa phủ trùm lên các khu vực trong vụ kiện". Hội đồng Trọng tài 2016 đã bác bỏ yêu sách "quyền lịch sử đối với EEZ và thềm lục địa" một cách vững chắc, và khả năng là Hội đồng Trọng tài mới sẽ công nhận lập luận đó. Điểm "không đảo nào trong quần đảo Trường Sa có EEZ" là điểm có thể bị tranh cãi nhiều nhất, và khó có thể chắc chắn 100% rằng Hội đồng Trọng tài mới cũng sẽ công nhận điểm đó. May mắn cho Việt Nam, giả sử như Hội đồng Trọng tài mới không công nhận điểm đó đi nữa, ba đảo lớn nhất, Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc đều nằm xa các khu vực trong vụ kiện. Giả sử các đảo này được cho là có EEZ đi nữa, EEZ tối đa của chúng chỉ trùm phủ lên một diện tích nhỏ của các khu vực trong vụ kiện. Nếu các luật gia ủng hộ Trung Quốc đưa ra lập luận kiểu quần đảo Trường Sa và vùng nước lân cận là một đơn vị chủ quyền thì cũng vô ích, vì nếu đã là "vùng nước lân cận" thì không thể lan ra đến các khu vực trong vụ kiện. Do đó, khả năng Việt Nam thắng kiện còn lớn hơn khả năng Philippines thắng khi họ đưa Trung Quốc ra tòa.

Rụt rè và lỡ cơ hội

10. Nếu Trung Quốc rút ra khỏi UNCLOS thì sao ?

Đây là một câu hỏi quan trọng cho Việt Nam. Nếu Trung Quốc rút ra khỏi UNCLOS trước khi Việt Nam nộp đơn kiện, Hội đồng Trọng tài sẽ không còn thẩm quyền để xử, Việt Nam sẽ không còn cơ chế để đưa Trung Quốc ra Tòa. Năm 2006 Trung Quốc đã vận dụng Điều 298 cho phép họ tuyên bố rút ra khỏi một phần của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của UNCLOS, phần liên quan đến phân định ranh giới biển. Với tuyên bố đó Trung Quốc đã đi trước một bước và làm cho Việt Nam mất đi cửa ngõ rộng nhất để kiện những bước kế tới của họ : đuổi BP năm 2007, đuổi ExxonMobil năm 2008, phản đối đệ trình của Việt Nam về thềm lục địa năm 2009, và hàng loạt những hành động lấn lướt khác. Nếu Việt Nam để cho Trung Quốc đi bước trước lần nữa, Việt Nam sẽ mất đi cửa ngõ duy nhất còn lại để kiện họ. Có thể Trung Quốc sẽ đi bước này trước khi họ bắt đầu một giai đoạn mới để tước đoạt từ Việt Nam.

11. Vậy tại sao Việt Nam không kiện ?

Đây cũng là câu hỏi quan trọng cho Việt Nam. Có thể là Việt Nam quá rụt rè, không làm điều tối ưu, không tận dụng các phương tiện hòa bình để tự vệ, không có một chiến lược tổng thể và lâu dài, có thể sẽ lỡ cơ hội. Có điều đáng lưu ý là khi Philippines còn bị lấn lướt ít hơn Việt Nam thì họ đã khởi kiện Trung Quốc rồi (năm 2013), và khi đó họ không thể biết nhiều về thắng-thua như ta biết hiện nay. Điều thứ nhì là khi họ kiện thì Bắc Kinh đã nổi giận nhưng không trả đũa. Điều thứ ba là mặc dù Tổng thống Duterte có chính sách thân-sợ-thua Trung Quốc, gác phán quyết sang một bên, họ có sự lựa chọn gác hay không - Việt Nam không có sự lựa chọn đó. Điều thứ tư đáng lưu ý là khi tàu Trung Quốc đâm chìm một tàu cá Philippines thì người dân Philippines phản ứng mạnh mẽ, và Trung Quốc chỉ lấp liếm đó là tai nạn, tàu của họ định cứu các ngư dân Philippines bị nạn, nhưng do bị tám tàu cá Philippines bao vây nên phải bỏ đi - khác hẳn khi tàu Trung Quốc đâm chìm rất nhiều tàu cá Việt Nam và không mảy may đếm xỉa đến các phản ứng ngoại giao của chính phủ Việt Nam.

Dương Danh Huy

Nguồn : viet-studies, 06/08/2019

Tác giả cảm ơn Thái Văn Cầu, Nguyễn Lương Hải Khôi, Phan Văn Song, Dự Văn Toán và Lê Vĩnh Trương đã góp ý

******************

Việt Nam kiện Trung Quốc cái gì ở Biển Đông ?

Trương Nhân Tuấn, 07/08/2019

Trên BBC có đăng bài viết của tác giả Dương Danh Huy tựa đề "Biển Đông : Quá rụt rè trong việc kiện Trung Quốc, Việt Nam đang mất lợi thế'. Tác giả cho rằng Việt Nam cần phải kiện Trung Quốc trước một "Hội đồng Trọng tài lâm-cấp thời (ad hoc) được thiết lập theo Phụ lục VII của UNCLOS". Mọi người có thể tìm đọc bài viết để biết thêm các chi tiết (Việt Nam kiện Trung Quốc về cái gì, ở tòa án nào v.v…).

Theo tôi, bài viết có một số luận điểm cần được thảo luận.

Trong bài tác giả tự đặt câu hỏi : "Phán quyết 2016 đã bác bỏ Đường Chữ U rồi, kiện nữa làm gì ?"

Tác giả tự trả lời : "Phán quyết đó (PCA 11/07/2016) chỉ có tính ràng buộc giữa Philippines và Trung Quốc. Nếu Việt Nam muốn có một phán quyết có tính ràng buộc giữa mình và Trung Quốc, Việt Nam phải kiện Trung Quốc".

Theo ý của tác giả thì giữa Việt Nam và Trung Quốc đường 9 đoạn chữ U vẫn còn hiệu lực. Việt Nam cần phải kiện để bác bỏ nó.

Điều này vừa không đúng vừa "nguy hiểm".

Nếu ta có theo dõi diễn biến vụ Phi đơn phương kiện Trung Quốc ra tòa Trọng tài thường trực (CPA) ngày 22/01/2013, cũng như có tham khảo nội dung phán quyết của Tòa ngày 11/07/2016, ta thấy nội dung phán quyết hầu hết nhắm vào các việc "giải thích và áp dụng" Luật biển (UNCLOS 1982) trong phạm vi Biển Đông.

Ta có thể liệt kê các phán lệ : 1/ "Quyền lịch sử" của Trung Quốc thể hiện qua đường 9 đoạn thì "không phù hợp" với Công ước (đoạn 261-272, 278 Phán quyết CPA 11/07/2016). 2/ Yêu sách của Trung Quốc (và Phi) về đường cơ sở quần đảo Trường Sa bị bác bỏ (đoạn 573, 574). 3/ Các cấu trúc địa lý ở Trường sa không có cái nào phù hợp với định nghĩa "đảo" theo điều 121 (3) để yêu sách vùng kinh tế độc quyền hay thềm lục địa (đoạn 626).

Trên nguyên tắc, Công pháp quốc tế (Droit International Public) được thành hình trên các kết ước được sự đồng thuận của các quốc gia. Còn Thông luật quốc tế (Droit International Coutumier) đặt căn bản trên những tập quán đã được các quốc gia nhìn nhận lâu đời cũng như những "phán lệ" thể hiện qua các "án lệ" của tòa án quốc tế.

Vụ phân xử Phi kiện Trung Quốc ngày 22/01/2013 do Tòa Trọng tài Thường trực ở La Haye phụ trách. Phiên tòa được thành theo Phụ lục VII của UNCLOS (thuộc Liên Hiệp Quốc) và Tòa tuyên bố "có thẩm quyền" để phân xử. Những lời "giải thích" và "diễn giải cách áp dụng" Luật của Tòa án quốc tế thuộc Liên Hiệp Quốc về một bộ Luật quốc tế (Công ước quốc tế về luật Biển 1982 - UNCLOS), hiển nhiên là "Luật".

Mặt khác, ngày 05/12/2014, Việt Nam đã đệ trình một bản Tuyên bố lên PCA công nhận Toà Trọng tài có thẩm quyền để xét xử đồng thời yêu cầu Tòa tuyên bố đường chín đoạn của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý.

Tức là, trong chừng mực, Việt Nam có tham gia vào phiên tòa ở nội dung đường 9 đoạn. Và khi Việt Nam nhìn nhận thẩm quyền của Tòa, tức là Việt Nam nhìn nhận nội dung phán quyết.

Tác giả cho rằng phán quyết không có hiệu lực ràng buộc đối với Việt Nam hiển nhiên là không đúng.

Nguy hiểm là khi phát biểu như vậy tất cả những hành vi quấy nhiễu của Trung Quốc ở bãi Tư chính bắt nguồn từ những "tranh chấp".

Những tranh chấp này có thể đến từ sự "chồng lấn" từ việc "phân định biển" : 1/ vùng kinh tế độc quyền của Việt Nam với "danh nghĩa lịch sử" và "biển lịch sử" của Trung Quốc thể hiện qua bản đồ 9 đoạn. 2/ vùng EEZ của Việt Nam với EEZ các đảo Trường Sa mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền.

Việt Nam có thể bị "việt vị" do Trung Quốc bảo lưu ở điều 298. Tòa không có thẩm quyền phân xử một tranh chấp đến từ việc "phân định biển" hay có nguồn gốc từ tranh chấp chủ quyền.

Điểm 1 trong bài viết, tác giả cho rằng "1/ Việt Nam cần kiện Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam".

Khi cho rằng phán quyết của Tòa CPA 2016 không thể áp dụng cho Việt Nam. Vậy thì Trung Quốc đã "vi phạm" điều gì ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ?

Muốn chứng minh (Trung Quốc vi phạm) thì Việt Nam phải yêu cầu Tòa giải thích lại những điều mà Tòa CPA đã giải thích qua phán quyết 11/07/2016 : 1/ yêu sách "danh nghĩa lịch sử", "vùng nước lịch sử" của Trung Quốc thể hiện qua bản đồ 9 đoạn thì không phù hợp với UNCLOS. 2/ Các cấu trúc địa lý ở TS không có cái nào là "đảo" theo định nghĩa của điều 121 (3).

Việt Nam không phải là Phi để có những yêu cầu "nguy hiểm" như vậy. Đối với Phi, Trung Quốc không có bằng chứng. Nhưng với Việt Nam, Trung Quốc có thể trình ra một lô bằng chứng (công hàm 1958, bản đồ, sách giáo khoa…) cho thấy Việt Nam đã nhiều lần nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Pháp đình của Tòa lúc đó sẽ trở thành diễn đàn để Trung Quốc "tố khổ" Việt Nam.

Trở lại vấn đề, nếu Việt Nam muốn kiện Trung Quốc trước một "hội đồng trọng tài" theo ý của tác giả, điều cần thiết là phải đặt hồ sơ trên nền tảng của phán quyết CPA 2016. Trong đó phải làm rõ là hành vi "Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam" nằm trong phạm vi "giải thích và áp dụng UNCLOS".

Nếu không làm được việc này Việt Nam đối diện với nguy cơ Tòa "không có thẩm quyền xét xử".

Tác giả cũng đưa ra những lập luận :

Dẫn :

1/Các lô 05, 06, 07, 130, 131, 132, 133, 154, 155, 156, 157 và một phần của bãi Tư Chính nằm trong EEZ tính từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam.

2/Phần còn lại của bãi Tư Chính nằm trong thềm lục địa tính từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam.

3/Các khu vực này nằm dưới mặt nước, do đó không nước nào có thể tuyên bố chủ quyền đối với chúng. Bất cứ nước nào, tối đa cũng chỉ có các loại quyền chủ quyền và quyền tài phán (khác với chủ quyền) dựa trên nguyên tắc đất thống trị biển và UNCLOS.

4/Các khu vực này không thể nằm trong EEZ hay thềm lục địa của bất cứ đảo nào đang bị tranh chấp (tức là các đảo thuộc quần đảo Trường Sa). (Lý do là theo Điều 121(3) UNCLOS không đảo nào được hưởng quy chế vùng EEZ hay thềm lục địa, như Hội đồng Trọng tài 2016 đã khẳng định).

5/Trung Quốc không thể có quyền lịch sử đối với vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Việt Nam. (Lưu ý Hội đồng Trọng tài 2016 đã khẳng định rằngTrung Quốc vừa không hề có quyền lịch sử đối với vùng biển và đáy biển bên ngoài lãnh hải 12 hải lý, vừa không thể bắt cá hai tay, một mặt thì đòi tự do tiền-UNCLOS trong việc họ khai thác bên trong EEZ của các nước khác, một mặt thì không chấp nhận tự do tự do tiền-UNCLOS của các nước khác khai thác bên trong EEZ của họ. Việc phê chuẩn UNCLOS có nghĩa phải bỏ cả hai sự tự do này).

6/Vì vậy các khu vực này hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. (Lưu ý đây là những quyền có hạn chế được UNCLOS quy định, khác với chủ quyền mà không nước nào có thể có).

7/Trung Quốc đã vi phạm các quyền này của Việt Nam và phải ngưng vi phạm.

Hết dẫn.

Phản biện theo lập luận của tác giả : phán quyết CPA 2016 không có hiệu lực ràng buộc với Việt Nam.

Điểm 1 và 2 các lô (bãi Tư chính) nằm trên thềm lục địa của Việt Nam nhưng cũng nằm trên thềm lục địa (pháp lý 200 hải lý) của đảo Trường Sa lớn (mà trên bản đồ tác giả quên vẽ). Tòa có thể không có thẩm quyền phân xử vì : 1/ tranh chấp đến từ việc phân định biển. 2/ tranh chấp bắt nguồn từ tranh chấp chủ quyền. Cả hai khoản này Trung Quốc bảo lưu ở điều 298.

Điểm 3, bãi Tư chính nằm dưới mặt nước, nó có thể thuộc về thềm lục địa (địa lý) tính từ bờ biển Việt Nam nhưng nó cũng có thể thuộc về thềm lục địa (pháp lý) của đảo Trường sa lớn.

Điểm 4, 5, 6 và 7 tác giả đã loại trừ Phán quyết CPA 2016 (phán quyết không có hiệu lực với Việt Nam và Trung Quốc) thì không thể vịn vào nội dung án lệ để cho rằng các đảo thuộc Trường Sa không phải là "đảo" theo định nghĩa điều 121 (3) cũng như quyền lịch sử của Trung Quốc theo bản đồ 9 đoạn bị Tòa bác bỏ. Tác giả vì vậy không thể khẳng định vùng Tư chính "hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam". Tác giả lại càng không thể cho rằng phía Trung Quốc "vi phạm các quyền" của Việt Nam.

Tóm lại, ý kiến của tôi là, (như đã từng viết đi viết lại nhiều lần) Việt Nam vận động sao cho phán quyết 11/07/2016 của tòa CPA có hiệu lực áp dụng chớ không phải đi kiện để (hy vọng) có thêm một phán quyết với nội dung tương tự.

Vấn đề là vận động thế nào ?

Trương Nhân Tuấn

Nguồn : nhantuan.truong, 07/08/2019

Quay lại trang chủ
Read 485 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)