Trung Quốc hôm 18/2 đã điều tàu hải cảnh đi vào khu vực các lô dầu khí của Việt Nam ở vùng biển Bãi Tư Chính, theo ghi nhận của SeaLight Project, một tổ chức chuyên theo dõi tình hình Biển Đông có trụ sở ở Hoa Kỳ.
Ngày 18/2/2024, tàu Hải cảnh Trung Quốc 5402 tuần tra xâm nhập các mỏ dầu khí của Việt Nam gần Bãi Tư Chính. Tàu Kiểm ngư 261 đi theo giám sát tàu Hải cảnh Trung Quốc. Raymond Powell / SeaLight Project
Động thái này diễn ra chỉ một tháng sau khi lực lượng hải cảnh của Trung Quốc điều tàu lớn nhất của họ, với lượng giãn nước 12.000 tấn, tiến vào cùng biển xung quanh bãi đá ngầm này.
Dài 63km và rộng 11km, Bãi Tư Chính cách bờ biển tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu 160 hải lý, tức là nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Những động thái gần đây của Trung Quốc biến khu vực này trở thành tâm điểm của sự đối đầu giữa nước này với Việt Nam trên khu vực Biển Đông.
Việt Nam là nước duy nhất có sự hiện diện ở khu vực bãi ngầm Tư Chính thông qua hệ thống năm nhà giàn, được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1989 đến năm 1995, trong số đó, ba nhà giàn vẫn được vận hành ở thời điểm hiện tại.
Ngoài xây nhà giàn để khẳng định chủ quyền, Việt Nam cũng bắt đầu các hoạt động thăm dò dầu khí ở đây từ khá sớm, với việc dầu mỏ được tìm thấy lần đầu tiên ở Bãi Tư Chính vào năm 1994.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã liên tiếp tìm cách cản trở các hoạt động khai thắc và thăm dò dầu khí của Việt Nam ở khu vực này. Khiến cho quốc gia Đông Nam Á phải huỷ các hợp đồng thăm dò với các công ty nước ngoài, và chịu thiệt hại về tài chính.
Đơn cử như trong năm 2020, Việt Nam đã phải huỷ các hợp đồng thăm dò với hai công ty nước ngoài là Repsol và Noble, dẫn đến việc hai công ty này đệ đơn kiện đòi bồi thường.
Mục đích của Trung Quốc, theo các chuyên gia nghiên cứu tình hình Biển Đông, là ngăn không cho Việt Nam mở rộng phạm vi thăm dò và khai thác dầu khí ở khu vực Bãi Tư Chính, và cho đến nay, chiến lược này tỏ ra khá hiệu quả.
Trao đổi với đài Á Châu Tự do, ông Ray Powell, Giám đốc Trung tâm SeaLight Gordian Knot for National Security Innovation, của trường Đại học Standford, cho biết nhận định :
"Tôi cho rằng Trung Quốc đã khá thành công, một phần là vì họ đã thành công trong việc ngăn cản các công ty thương mại hợp tác với phía Việt Nam, đơn cử như trường hợp của công ty Repsol của Tây Ban Nha một vài năm trước.
Bằng việc khiến cho các hoạt động thăm dò mới trở nên quá tốn kém và rủi ro, Trung Quốc đã thành công ngăn chặn Việt Nam mở rộng hoạt động".
Từ trước đến nay, Việt Nam vẫn phụ thuộc vào các công ty nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, điển hình là các công ty của Nga. Liên doanh dầu khí Việt - Nga Vietsovpetro cũng là công ty duy nhất đang thực hiện khai thác ở Bãi Tư Chính.
Với việc quan hệ Nga - Trung Quốc trở nên khăng khít hơn kể từ khi Nga xâm lược Ukraine và hứng chịu các đòn cấm vận từ Phương tây, thì có lo ngại cho rằng Trung Quốc sẽ thuyết phục Nga từ bỏ hợp tác với Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn của đài RFA, giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia nghiên cứu quan hệ quốc tế ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, cho biết đến cả Nga cũng sẽ khó có thể giúp Việt Nam :
"Trước khi Nga xâm lược Ukraine, tập đoàn dầu khi Gasprom là cổ đông lớn nhất của mỏ Natuna, thuộc Indonesia. Họ muốn xây đường ống kết nối Natuna với Bãi Tư Chính, rồi dẫn lên bờ ở Việt Nam để phát triển. Nhưng dự án đó đã bị huỷ bỏ.
Nếu tiến hành thì dự án đó sẽ khiến Trung Quốc phản ứng, còn Nga thì quá yếu để kháng cự.
Tôi cho rằng Nga sẽ phải nằm im thở khẽ để tránh khiêu khích Trung Quốc, bởi vì họ cần sự ủng hộ của Trung Quốc trong cuộc chiến với Ukraine.
Và đây sẽ là một dạng bình thường mới".
Bằng việc ép các công ty nước ngoài từ bỏ hợp tác với Việt Nam, Trung Quốc hy vọng sẽ buộc Việt Nam phải hợp tác với chính Trung Quốc nếu muốn tiếp tục thăm dò và khai thác dầu khí ở Bãi Tư Chính, và các khu vực khác trên Biển Đông.
Và điều đó có nghĩa là công nhận các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với khu vực này.
Hẳn nhiên, đây là viễn cảnh rất khó chấp nhận đối với Việt Nam, tuy nhiên, cái giá của việc từ chối hợp tác với Trung Quốc, cũng không phải nhỏ. Theo ông Ray Powell :
"Chúng ta có thể nhìn vào trường hợp của Philippines, nước này gần đây không phát triển được bất cứ mỏ khí đốt mới nào ở khu vực Biển Đông, trong bối cảnh các mỏ hiện tại đang dần cạn trữ lượng thì Philippines sẽ phải đối diện với tình trạng an ninh năng lượng bị đe doạ. Do vậy nước này đang ở trong thế khó trong việc ứng xử với Trung Quốc, mà đối với Trung Quốc thì họ chỉ chấp nhận phương án phát triển chung".
Còn giáo sư Carlyle Thayer thì cho rằng ‘chi phí cơ hội’ là thứ mà Việt Nam đang phải gánh chịu trước chiến lược của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính :
"Trong kinh tế tồn tại khái niệm chi phí cơ hội, Việt Nam đang không thể khai thác tài nguyên mà họ cần, trong trường hợp này là nguồn cung năng lượng, và khí đốt là một trong số đó, mà nguyên nhân chính là sức ép từ Trung Quốc".
Trường Sơn
Nguồn : RFA, 21/02/2024
Việt Nam gần đây đã hủy một số thỏa thuận với các đối tác nước ngoài về các hoạt động thăm dò dầu khí trên thềm lục địa gần Bãi Tư Chính ở Biển Đông. Động thái này đã gây nên quan ngại rằng sự khả tín của Việt Nam trong việc bảo vệ các lợi ích biển của mình ở Biển Đông sẽ bị suy yếu, khiến Việt Nam khó thu hút được các nhà đầu tư mới cho các dự án dầu khí trong tương lai.
Giàn khoan Noble Clyde Boudreaux, trong hình, không được triển khai cho hoạt động khoan sau khi PVN hủy hợp đồng khoan với Tập đoàn Noble. (Ảnh : Tập đoàn Noble, Facebook)
Tháng trước, Việt Nam đã hủy các hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC) dầu khí với Repsol, một công ty năng lượng quốc tế có trụ sở tại Tây Ban Nha, đối với các lô 135-136/03 và 07/03. Theo dàn xếp mới, Repsol sẽ chuyển giao lại toàn bộ lợi ích của mình trong các lô này cho Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN), đối tác địa phương của Repsol trong các PSC này. Đầu tháng này, PVN cũng đã hủy một hợp đồng khoan với Tập đoàn Noble, một nhà thầu khoan ngoài khơi có trụ sở tại London. Theo đó, giàn khoan Noble Clyde Boudreaux đã không được triển khai tại lô 06-01 gần đó để tiến hành một hoạt động khoan thăm dò như dự kiến ban đầu. Trong cả hai trường hợp, PVN đều phải chịu tổn thất tài chính đáng kể vì phải bồi thường cho Repsol và Noble.
Rõ ràng, áp lực của Trung Quốc là lý do chính khiến Việt Nam hủy các hợp đồng này. Vào tháng 7/2017, PVN đã phải yêu cầu Repsol ngừng khoan thăm dò tại lô 136/03 sau khi Trung Quốc được cho là đe dọa sẽ tấn công các cơ sở của Việt Nam tại Trường Sa nếu Việt Nam không dừng khoan. Trung Quốc cũng nhiều lần quấy rối các hoạt động dầu khí của Việt Nam tại lô 06-01. Năm ngoái, một cuộc đối đầu kéo dài bốn tháng giữa tàu khảo sát Haiyang Dizhi 8 của Trung Quốc, cùng với lực lượng hải cảnh và tàu bán quân sự của Trung Quốc đi kèm, và các tàu của Việt Nam chỉ kết thúc sau khi Việt Nam quyết định rút giàn khoan Hakuryu 5 ra khỏi lô 06-01.
Bản đồ phân lô dầu khí của Việt Nam tại thềm lục điạ phía Nam. Nguồn : Cvdvn.
Một điều chắc chắn là quyết định tạm dừng hoạt động thăm dò dầu khí trong các lô này của Việt Nam không có nghĩa là Việt Nam thừa nhận các yêu sách biển của Trung Quốc đối với Bãi Tư Chính cũng như các vùng biển xung quanh. Việt Nam luôn bác bỏ những yêu sách này là vô căn cứ và bất hợp pháp, đồng thời coi những lô dầu khí này là khu vực không có tranh chấp. Trong tương lai, Việt Nam luôn có thể tái khởi động các hoạt động dầu khí tại các lô này tại thời điểm thích hợp.
Ngoài áp lực từ Trung Quốc, một số yếu tố khác cũng có thể đã góp phần vào quyết định của Việt Nam. Thứ nhất, sự sụt giảm giá dầu hiện tại, dự kiến sẽ vẫn ở mức thấp trong thời gian tới, khiến cho việc theo đuổi thăm dò dầu khí tại các lô ngoài khơi này không khả dĩ về mặt thương mại. Thứ hai, do Đảng Cộng sản Việt Nam đang chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ 13 vào đầu năm tới, các nhà lãnh đạo Việt Namcó thể ưu tiên ổn định chính trị và quan hệ hòa bình với Trung Quốc nhằm đảm bảo đại hội diễn ra thành công. Thứ ba, các tính toán thương mại của Repsol, đặc biệt là trách nhiệm của ban giám đốc công ty đối với các cổ đông, cũng khuyến khích công ty này rút khỏi các thỏa thuận với PVN để ngăn chặn các tổn thất tài chính. Cuối cùng, như lưu ý của một chuyên gia từ PVN, những căng thẳng mới đối với lô 06-01 có thể làm gián đoạn các hoạt động khai thác khí hiện nay ở hai mỏ khí quan trọng gần đó. Do đó, PVN có thể đãưu tiên sự an toàn thay vì thúc đẩy cho việc triển khai giàn khoan Clyde Boudreaux.
Do quyết định hủy bỏ các thỏa thuận này gây thiệt hại đáng kể về tài chính và uy tín cho Việt Nam, Việt Nam nên cân nhắc lại chiến lược hoạt động dầu khí của mình tại các lô này để tránh những sự cố tương tự tái diễn trong tương lai.
Thứ nhất, Việt Nam nên lập kế hoạch một cách thật sự kỹ lưỡng cho các hoạt động này, đặc biệt là về mặtthời điểm và cách đối phó với áp lực của Trung Quốc, để các hoạt động này có thể đạt được các mục tiêu thành công. Việt Nam không nên tiến hành các hoạt động như vậy nếu không sẵn sàng cương quyết chống lại các áp lực từ Trung Quốc bởi những nỗ lực nửa vời cùng sự chuẩn bị kém sẽ dẫn đến việc ngừng các hoạt động giữa chừng, gây tổn thất uy tín và tài chính, trong khi càng làm cho Trung Quốc tự tin lấn tới, o ép Việt Nam hơn nữa.
Thứ hai, Việt Nam nên có cách tiếp cận chiến lược hơn trong việc lựa chọn đối tác tham gia các PSC cho các lô này. Những công ty như Repsol chủ yếu theo đuổi các mục tiêu thương mại và có thể nhanh chóng tìm cách thoát ra nếu họ phải đối mặt với áp lực từ Trung Quốc hoặc sức ép tài chính. Chọn các đối tác từ Mỹ có thể là một lựa chọn tốt hơn. Hôm 13/07, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ bác bỏ mọi yêu sách của Trung Quốc đối với vùng biển xung quanh Bãi Tư Chính, và bất kỳ hành động nào của Trung Quốc nhằm quấy rối hoạt động đánh cá hay phát triển dầu khí của các quốc gia khác trong khu vực này đều là bất hợp pháp. Do đó, chính phủ Mỹ có thể hỗ trợ các công ty Mỹ chống lại áp lực của Trung Quốc nếu Việt Nam hợp tác với họ thực hiện các hoạt động dầu khí trong khu vực này.
Cuối cùng, nếu Trung Quốc tiếp tục ngăn cản các hoạt động dầu khí của Việt Nam tại các vùng biển xung quanh Bãi Tư Chính, Việt Nam nên xem xét đệ trình một vụ kiện chống lại các yêu sách biển của Trung Quốc tại khu vực này. Hồi năm 2016, một toà trọng tài quốc tế trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc đã ra phán quyết rằng yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc là bất hợp pháp và các thực thể ở quần đảo Trường Sa chỉ có tối đa một vùng lãnh hải rộng 12 hải lý và không thể tạo ra vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) hoặc thềm lục địa cho riêng mình. Điều này có nghĩa là không có vùng chồng lấn giữa lãnh hải của các thực thể này với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ đất liền Việt Nam. Do đó, bất kỳ yêu sách biển nào của Trung Quốc đối với Bãi Tư Chính và vùng biển xung quanh đều là vô căn cứ và bất hợp pháp. Tuy nhiên, phán quyết này chỉ có hiệu lực với Philippines và Trung Quốc. Nhưng xét tiền lệ năm 2016, nếu Việt Nam đệ trình một vụ kiện tương tự chống lại các yêu sách biển của Trung Quốc đối với khu vực này, Việt Nam sẽ có cơ hội cao để thắng kiện và qua đó có cơ sở pháp lý vững chắc hơn nhằm chống lại sự quấy rối của Trung Quốc trong tương lai.
Lê Hồng Hiệp
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 24/07/2020
Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên ISEAS Commentary.
2019 : Bãi Tư Chính là 'cái bẫy' của Trung Quốc cài cho Việt Nam
Quốc Phương, BBC, 25/12/2019
Năm 2019, Việt Nam đã tránh được 'cái bẫy pháp lý' mà Trung Quốc cài khi đối đầu với Việt Nam ở bãi Tư Chính và vùng biển lân cận, theo một phân tích được đưa ra trong năm của một nhà quan sát an ninh Biển Đông của Việt Nam.
Chiến hạm Hải quân Nhân dân Việt Nam Trần Hưng Đạo đến cảng quân sự dự mọt cuộc tập trận quân sự giữa ASEAN-Trung Quốc 2018 hôm 21/10/2018 tại Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
"Cái bẫy pháp lý của người ta là người ta bảo là họ hoạt động vào khu vực ở bãi Tư Chính là một bộ phận của Nam Sa, quần đảo 'thuộc chủ quyền' Trung Quốc", Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam nói với BBC trong một phỏng vấn về bang giao quốc phòng của Việt Nam vào quý cuối năm.
"Rõ ràng ở đây Tư Chính và các bãi ngầm nằm ở trên thềm lục địa của Việt Nam, nó chẳng liên quan gì đến vấn đề quần đảo mà họ gọi là Nam Sa cả, tức là quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
"Đây là những bãi ngầm mà chìm sâu dưới mặt nước, chỗ sâu nhất là phải đến 17 mét mặt nước. Thế thì điều đó nó không có ý nghĩa gì, nhưng mà nếu như chúng ta phản đối rằng Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam thì như vậy cái bẫy pháp lý của họ đã thành công.
"Nghĩa là anh thừa nhận rằng các bãi ngầm này là thuộc bộ phận của quần đảo Trường Sa".
Theo chuyên gia này, đây là một 'cái bẫy' tinh tế được Trung Quốc 'giăng ra' mà ngay cả giới nghiên cứu cũng có thể 'nhầm lẫn', nếu không thực sự chú ý.
"Điều này ngay cả những người nghiên cứu cũng bị nhầm lẫn, thực ra đây là một bãi cạn ngầm mà nằm trong thềm lục địa được gọi là trên bãi cạn Tư Chính, chứ thực ra vùng biển ở vùng thềm lục địa của nó mới chính là điều chúng ta cần lưu ý, chứ không phải là bãi cạn.
"Vì nó chẳng có ý nghĩa khác gì cả, có là một cấu trúc của thềm lục địa thôi. Đó chính là bẫy pháp lý.
"Hay là họ nói rằng vùng biển mà xung quanh bãi Tư Chính là vùng biển phụ cận liên quan, nhưng trong luật biển chẳng có thuật ngữ 'phụ cận liên quan' như họ nói như vậy là nói một cách mơ hồ để người ta nhầm tưởng.
Mạng xã hội ở Việt Nam 'đi đầu' trong chủ động phát hiện các thông tin liên quan yêu sách đường lưỡi bò được 'cài' vào nhiều hàng hóa, dịch vụ, hoạt động của Trung Quốc đưa vào Việt Nam, theo nhà quan sát
"Thì thực sự mà nói là bãi cạn này về mặt pháp lý, Công ước luật biển thì nó chẳng có ý nghĩa gì để mà nói là vùng biển cái gọi là 'phụ cận liên quan' cả, bởi vì nó là bãi cạn mà nằm trên thềm lục địa, nó lại nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.
"Trung Quốc họ muốn nói như vậy, nếu chúng ta (Việt Nam) không cẩn thận, khi mà phản đối, khi nêu thực chất của vấn đề thì có thể họ dùng cái đó để nói rằng như vậy là Việt Nam đã đồng ý, hay là các nước có thể đồng ý với quan niệm yêu sách của Trung Quốc, đấy là vấn đề pháp lý của Trung Quốc mà họ đã giăng ra.
"Việt Nam vừa rồi tôi nghĩ đã không bị vướng vào cái bẫy pháp lý, bẫy của họ và nói rất rõ rằng việc vi phạm đó là vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam và vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán, không nói một cách chung chung như là 'chủ quyền lãnh hải' như là trước đây thường nói", Tiến sĩ Trần Công Trục nói.
Kịch tính, bị động, khó khăn ?
Bãi Tư Chính là một sự kiện quan trọng không phải chi cho năm nay, mà cho cả suốt 5 năm qua, một nhà quan sát chuyển động thời sự và truyền thông từ Hà Nội, nói với cuộc hội luận Bàn Tròn Thứ Năm cuối cùng của năm 2019.
"Sự kiện quan trọng và cực kỳ quan trọng không chỉ cho 2019, mà tôi cho là quan trọng nhất trong 5 năm qua, đó là vụ Bãi Tư Chính và vấn đề đường lưỡi bò, gọi là đường lưỡi bò", blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh nêu nhận định hôm 19/12/2019.
"Hai cái này tôi phải nêu làm một, bởi vì là nó đều rất liên quan đến âm mưu của Trung Quốc thôn tính Biển Đông. Vụ Tư Chính kéo dài hơn ba tháng và nó lôi kéo sự quan tâm rất là lớn của nhân dân cả nước (Việt Nam) và quốc tế".
Nhìn sang 2020, nhà điểm báo, điểm tin thời sự này cho rằng vụ việc Tư Chính trên Biển Đông sẽ có thể tiếp tục là thách thức cân não "kịch tính" đối với chính quyền Việt Nam :
"Về bãi Tư Chính và Biển Đông, đây là vấn đề mà chính quyền Việt Nam có thể nói gần như là hoàn toàn bị động, bây giờ xem xem, chờ xem Trung Quốc sẽ hành xử như thế nào và khi đó họ sẽ đối phó như thế nào là điều rất khó khăn.
"Và cái đó họ (chính quyền Việt Nam) không thể dễ như năm vừa qua, tức là năm nay, đó sẽ là vấn đề kịch tính. Hoặc rất ít khả năng là Trung Quốc không làm gì, nhưng nhiều khả năng là có chuyện và có chuyện thì nó sẽ rất kịch tính và Việt Nam đối phó như thế là điều cực kỳ khó".
Một tàu cá Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông, phía xa là các tàu tuần duyên của Trung Quốc (hình minh họa)
Bình luận về một tác động mà biến cố đối đầu ở bãi Tư Chính và các vùng biển lân cận trên Biển Đông gây ra với nội bộ Việt Nam trong năm 2019, nhà quan sát này nói :
"Đó là một điều cũng cho thấy rõ rằng người dân hiểu hơn về chính quyền và chính quyền cũng hiểu phần nào về người dân trong cái phản ứng với Trung Quốc.
"Tóm tắt chuyện này, tôi cho rằng đảng Cộng sản và chính quyền Việt Nam cho rằng là người dân cứ hãy yên tâm, yên trí là đảng và nhà nước rất sáng suốt, người dân không nên một chút nào là có những hoạt động riêng lẻ, mà nên tất cả mọi cái đều phải nằm trong sự hoạt động và tổ chức của nhà nước.
"Nhưng ngược lại, người dân cho rằng là rất nhiều động thái không thấy yên tâm và gây khó hiểu và thấy bí ẩn trong việc xử lý vấn đề bãi Tư Chính này.
"Rõ nhất là việc Trung Quốc quấy nhiễu như thế nào ngoài bãi Tư Chính cụ thể ra sao, hàng ngày như thế nào, rồi họ gây khó cho các tàu cảnh sát biển của chúng ta (Việt Nam) như thế nào, thì hoàn toàn báo chí không nêu gì cả. Ít nhất đó là một yếu tố mà người dân không thể nào hiểu nổi và không tin tưởng.
"Thứ hai nữa là một số phản ứng hoặc một số hoạt động có tính chất khoa học của những người rất có uy tín đối với cả chính quyền lẫn nhân dân thì lại bị một thái độ 'rất khó chịu' của chính quyền và thể hiện kể cả người lãnh đạo nhà nước cho đến báo chí của nhà nước cũng thể hiện là 'rất khó chịu' về những lời nói, cho đến những hoạt động như thế.
"Thì đấy là một hiện tượng không phải chỉ nằm trong chuyện chủ quyền và quan hệ Trung Quốc - Việt Nam mà nó còn thể hiện thêm nữa thái độ của chính quyền đối với nhân dân trong vấn đề biển đảo, trong vấn đề dân chủ. Và hai nữa là thể hiện thái độ của nhân dân đối với chính quyền trong vấn đề này, thì nó càng ngày càng rõ thêm vấn đề này".
Về điều được cho là cần quan tâm liên quan đến yêu sách chủ quyền bằng bản đồ đường chín đoạn, hay còn được gọi là 'đường lưỡi bò' và cách thức Trung Quốc tiếp cận trên thực tế và khoảng cách trong đối phó trong nội bộ giữa chính quyền và nhân dân Việt Nam, blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh nhấn mạnh :
Yêu sách chủ quyền dựa trên bản đồ đường chín đoạn (đường lưỡi bò) gây tranh cãi của Trung Quốc trên Biển đông
"Vấn đề đường lưỡi bò liên quan như thế, rất là nhiều sản phẩm của Trung Quốc tìm mọi cách rất là 'nham hiểm', 'khôn khéo' để mà đưa vào Việt Nam và chính hiện tượng mà không khích lệ lòng yêu nước của nhân dân bằng chính những hoạt động của họ - là họ phải chủ động phát hiện, chủ động để bảo vệ, chủ động để phản biện với chính quyền những hiện tượng đáng nghi ngờ.
"Không khích lệ cái đó, thì chính nó đã làm cho bộ lộ rất nhiều hiện tượng mà Trung Quốc đã âm thầm đưa những cái hình đường lưỡi bò vào Việt Nam và may, rất may là trên mạng xã hội, người ta bất chấp những sự gọi là gây khó chịu và thậm chí đe dọa, nhưng người ta vẫn có mọi cách để người ta phát hiện.
"Và chính báo chí nhà nước và nhà nước nhờ mạng xã hội để biết được chuyện đó", cựu sĩ quan an ninh từng làm việc trước đây trong ngành Công an của Việt Nam nói.
'Làm mạnh, xâm lược mềm' ?
Gần đây, tin tức nói Việt Nam đã gián tiếp lưu ý Trung Quốc điều chỉnh thái độ và ngưng động thái gây căng thẳng trên Biển Đông khi Việt Nam cho hay nước này đảm nhi ghế Chủ tịch luân phiên Asean, tuy nhiên, có ý kiến trong giới quan sát an ninh, quân sự và chính trị khu vực cho rằng Trung Quốc sẽ có thể tiếp tục 'làm mạnh' và có thể 'đưa giàn khoan' vào vùng biển mà Việt Nam có chủ quyền.
"Có những khả năng và giả thuyết thực tế rằng Trung Quốc tiếp tục làm mạnh ở Biển Đông, đặc biệt là có khả năng họ sẽ đưa giàn khoan vào khoan thăm dò và thậm chí là khoan khai thác ở trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và vùng thềm lục địa của Việt Nam mà họ coi đấy là vùng tranh chấp với đường chín đoạn của họ, mà họ tuyên bố" Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp khách mời thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Iseas, Singapore) nói với BBC tại một tọa đàm Bàn tròn thứ Năm cuối năm.
Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch và phái đoàn tiếp và làm việc với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và phái đoàn tại Hà Nội cuối tháng 11/2019
"Đấy là những khả năng thực tế và khả năng ấy là khả năng cao".
Bình luận tại chỗ về nhận định này, nhà nghiên cứu chính trị và bang giao quốc tế, Giáo sư Ngô Vĩnh Long từ Đại học Maine, Hoa Kỳ nói với BBC :
"Trung Quốc tiếp tục gây hấn như chúng ta đều biết. Vấn đề bây giờ là các nước trong khu vực và các nước ngoài sẽ làm gì ?
"Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ gần đây không chỉ sang thăm Việt Nam mà cũng sang thăm Philippines và nói với Philippines rằng nước này là đồng minh của Mỹ và Bộ trưởng Quốc phòng của Mỹ gặp Bộ trưởng Quốc phòng của Philippines và đã khẳng định lại quan hệ giữa Mỹ và Philippines.
"Thì chúng ta thấy rằng hiện nay có một chiều hướng của Mỹ là thúc đẩy các nước trong khu vực lên tiếng mạnh mẽ và có lên tiếng mạnh mẽ thì Mỹ và các nước khác mới có thể ủng hộ được.
"Mà ở đây vấn đề tôi thấy rất là lạc quan là bởi vì Việt Nam đã không những tuyên bố sẽ đem vấn đề Biển Đông ra Asean để đàm phán hay là để cho mọi người chú ý, mà cũng sẽ đem vấn đề Việt Nam ra trước Liên Hợp Quốc.
"Mà tôi nghĩ nếu Việt Nam đưa vấn đề Biển đông ra Liên Hợp Quốc thì Mỹ và các nước khác sẽ vận động ủng hộ Việt Nam".
Trước thông tin Việt Nam có thể 'kiện' Trung Quốc ra tòa quốc tế, Giáo sư Ngô Vĩnh Long bình luận thêm :
"Nói như vậy, có lẽ làm những nước quan tâm phấn khởi khi Việt Nam lần đầu tiên lên tiếng mạnh mẽ hơn là lúc trước".
Trở lại với khả năng Trung Quốc có thể làm gì tiếp theo trong năm mới 2020 ở trên Biển Đông, tại các khu vực mà Việt Nam quan tâm, Tiến sĩ Trần Công Trục với cái nhìn từ cuối năm 2019, đưa ra dự phóng :
"Hiện nay mà nói, để mà có thể xác định vị trí nào cụ thể thì rất khó, bởi vì Trung Quốc như đã biết thì họ đưa ra một yêu sách chiếm hầu hết Biển Đông rồi.
"Thì bất kỳ điểm nào mà nằm trong yêu sách đường lưỡi bò thì họ đều có thể sẽ tính họ làm, tùy thuộc vào tình huống, tùy thuộc vào thái độ của các nước có liên quan ở khu vực từ đó đến nay và tùy thuộc vào tình hình quốc tế, quan hệ quốc tế và thái độ của các nước trong việc lên tiếng đối với hoạt động đó của Trung Quốc để họ làm.
Người biểu tình Việt Nam xuống đường phản đối Trung Quốc ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh hôm 11/5/2014, sau khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển Việt Nam tuyên bố và thực thi chủ quyền
"Tôi nghĩ là như vậy, (Trung Quốc) có thể tiến hành ngay khu vực thềm lục địa, trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam như trước đây, hoặc là trong vùng quần đảo Trường Sa của Việt Nam, hay là vùng thềm lục địa của Malaysia hay là của Philippines.
"Tất cả những vị trí đó có thể có khả năng xảy ra, chứ bây giờ không thể nói chính xác được, nhưng cách làm của họ, theo tôi nghĩ là ở giai đoạn hiện nay, thời buổi hiện nay, có lẽ họ sẽ sử dụng các hoạt động mang tính chất như là kinh tế, khoa học - kỹ thuật.
"Nhưng theo nhiều người nói đây là họ tổ chức cuộc 'xâm lược mềm', họ không dùng vũ lực như trước đây để mà xâm chiếm nữa, mà họ sẽ sử dụng những biện pháp về mặt kinh tế, về mặt dân sự về mặt khoa học - kỹ thuật để họ giành lấy trên thực tế yêu sách của họ.
"Nếu như các nước không có một sự cảnh giác cần thiết, không có một biện pháp cần thiết, thì như vậy có thể là một cách mà họ muốn chấp nhận yêu sách của họ, từ yêu sách đó, so với đàm phán, họ muốn các hợp tác cùng khai thác với Trung Quốc, mà loại bỏ những hoạt động khác khai thác, hợp tác với các nước khác.
"Ví dụ như vậy cũng là một cái cách và tôi nghĩ họ sẽ tiến hành làm", Tiến sĩ Trần Công Trục đưa ra dự đoán với BBC trong một phỏng vấn cuối năm hôm 21/11 từ Hà Nội.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 25/12/2019
********************
Trung Quốc sẽ tiếp tục gây sức ép lên Việt Nam trong năm 2020
RFA, 23/12/2019
Trung Quốc sẽ tiếp tục gây sức ép lên Việt Nam trong hoạt động khai thác dầu khí năm 2020
Trung Quốc có nhiều khả năng sẽ tiếp tục gây sức ép lên Việt Nam nếu công ty Rosneft nối lại hoạt động khai thác dầu khí ở Biển Đông trong năm 2020, theo nhận định của một chuyên gia quốc tế về tình hình khu vực, đưa ra nhân dịp cuối năm 2019.
Hình minh họa. Hình chụp hôm 1/6/2014 từ tàu Cảnh sát biển Việt Nam cho thấy tàu hải cảnh của Trung Quốc dang đuổi tàu Việt Nam gần giàn khoan dầu HD 981 ở Biển Đông - AFP
Trong bài phân tích hôm 16/12, Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc nhận định :
"Năm 2020 sẽ rất quan trọng. Nếu (công ty) Rosneft Vietnam nối lại hoạt động khai thác tại lô dầu khí của công ty thì (công ty) sẽ có nguy cơ bị các tàu hải cảnh của Trung Quốc quấy nhiễu".
Theo giáo sư Carl Thayer : "Trong năm 2020, chúng ta sẽ có khả năng thấy sự tiếp tục của những nỗ lực từ phía Trung Quốc để gây sức ép lên các quốc gia ven Biển Đông để ngưng hoặc chấm dứt các hoạt động của các tàu khai thác dầu của nước ngoài".
Từ tháng 5 đến tháng 10 năm nay, Trung Quốc đã điều hàng chục tàu hải cảnh, dân binh và khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước Malaysia và Việt Nam, quấy nhiễu các hoạt động khai thác dầu khí ở hai nước.
Từ giữa tháng 6, Trung Quốc đã điều các tàu hải cảnh vào vùng thềm lục địa Việt Nam, quấy nhiễu hoạt động hậu cần phục vụ giàn khoan dầu ở lô 06 - 01 thuộc công ty liên doanh giữa Nga và Việt Nam là Rosneft Vietnam. Theo báo cáo của Minh Bạch Hàng Hải (một trang chuyên theo dõi về an ninh biển), tàu hải cảnh của Trung Quốc đã có lúc đi rất sát, gây nguy hiểm cho tàu hậu cần phục vụ giàn khoan dầu của Việt Nam.
Từ khoảng đầu tháng 7, Trung Quốc cũng điều hàng chục tàu bao gồm hải cảnh, dân binh và tàu khảo sát Hải Dương 8 vào khu vực phía bắc Bãi Tư Chính của Việt Nam. Tàu khảo sát Hải Dương đã có lúc chỉ còn cách bờ biển Phát Thiết ở miền trung của Việt Nam khoảng 185 km, tức là trong vòng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, căn cứ theo luật quốc tế.
Vị trí giàn khoan Hakuyru 5, tàu hải cảnh của Trung Quốc và tàu chấp pháp của Việt Nam gần lô 06 - 01 Courtesy of AMIT – Hình minh họa
Hôm 24/10, Trung Quốc tuyên bố rút tàu thăm dò Hải Dương 8 khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam sau khi có thông tin giàn khoan Hakuryu 5 phục vụ lô 06 - 01 đã được rút đi sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Theo Giáo sư Carl Thayer, trong năm 2020 : "Các tàu khảo sát của Trung Quốc sẽ không xin phép khi vào vùng nước mà Trung Quốc đòi chủ quyền. Điều này cho thấy là Trung Quốc đòi quyền đưa tàu khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam bất cứ khi nào Trung Quốc muốn".
Vào khi quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh căng thẳng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã lên tiếng khẳng định Trung Quốc có chủ quyền đối với toàn bộ vùng nước ở Bãi Tư Chính. Trung Quốc coi vùng nước này thuộc khu vực quần đảo Trường Sa mà nước này đòi chủ quyền toàn bộ.
"Kể từ tháng 5 năm nay, phía Việt Nam đã đơn phương thực hiện việc khoan tìm khí đốt ở vùng nước ở Wan'an Tan (Bãi Tư Chính) của Trung Quốc, điều này đã vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của Trung Quốc. Nó cũng vi phạm thỏa thuận song phương về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, điều 5 của Tuyên bố chung của các bên ở Biển Đông (DOC), và các điều khoản liên quan trong UNCLOS (Công ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc). Việt Nam nên ngay lập tức dừng các hoạt động vi phạm đơn phương để lập lại sự yên tĩnh tại vùng nước liên quan", ông Cảnh Sảng phát biểu trước các phóng viên ở Bắc Kinh hôm 18/9.
Giáo sư Carl Thayer, trong bài viết của mình hôm 16/9 cũng nhận định, Trung Quốc sẽ tiếp tục huy động sự có mặt thường xuyên của các tàu chiến, hải cảnh, dân binh và tàu cá ở khu vực Biển Đông.
"Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện những tuần tra khẳng định chủ quyền tại những vùng nước mà đường đứt khúc 9 đoạn đi qua chồng lên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển", giáo sư Carl Thayer viết.
Đường đứt khúc 9 đoạn của Trung Quốc đòi chủ quyền đến khoảng 90% diện tích khu vực Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo đang tranh chấp với các nước là Hoàng Sa và Trường Sa. Tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague, trong một phán quyết vào năm 2016, đã bác bỏ tính hợp lệ của đường đứt khúc này. Tuy nhiên, Bắc Kinh không chấp nhận phán quyết của tòa.
Không những thế, Giáo sư Carl Thayer cũng nhận định, trong năm 2020, Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục "quân sự hóa các đảo nhân tạo theo từng bước một, tiến hành nhữn cải tiến về chất lượng đối với các hệ thống vũ khí (trên các đảo)".
Từ khoảng cuối năm 2014, Trung Quốc đã tiến hành xây lấp các đảo nhân tạo ở Biển Đông và triển khai vũ khí ra các đảo này, bất chấp phản đối của quốc tế.
Theo đánh giá của chuyên gia Greg Poling, Giám đốc Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải (AMTI), việc xây lấp các đảo nhân tạo đã giúp Trung Quốc gây sức ép lên các nước khác và duy trì sự hiện diện của các tàu nước này tại các vùng biển xa.
"Việc xây dựng các cơ sở quân sự ở Trường Sa đã cho phép Bắc Kinh có thể triển khai tàu. Họ có thể triển khai tàu hải cảnh và thậm chí tàu dân quân biển đến các nơi và thường trực ở đó 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần trong toàn bộ khu vực nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn. Họ có thể liên tục gây sách nhiễu theo cách mà họ đã không thể làm được vào năm 2015".
Trong năm 2020, Trung Quốc được cho là cũng sẽ thúc đẩy việc hoàn tất các vòng tham vấn về Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Bắc Kinh trước đó đã đưa ra một khung thời gian để hoàn thành các vòng tham vấn này vào năm 2021.
Theo đánh giá của Giáo sư Carl Thayer, việc Bắc Kinh hối thúc các nước ASEAN hoàn tất các vòng tham vấn COC là khiến "các nước ASEAN sẽ có ít thời gian để mặc cả với Trung Quốc về các vấn đề còn tranh cãi như phạm vi địa lý, liệu COC có tính ràng buộc về pháp lý hay không, các tranh chấp sẽ được giải quyết thế nào, và việc giải quyết các tranh chấp sẽ được thực hiện ra sao, và vai trò của các bên thứ ba".
Trong đề nghị về COC, Bắc Kinh cũng muốn loại bỏ việc tham gia khai thác dầu khí của các công ty ngoài khu vực tại Biển Đông.
Năm 2020, Việt Nam sẽ là Chủ tịch luân phiên của ASEAN. Đây được cho là cơ hội nhưng cũng là một thách thức đối với Việt Nam. Năm 2010, khi là Chủ tịch luân phiên của ASEAN, Hà Nội đã thành công trong việc khiến Mỹ lên tiếng khẳng định quyền lợi của Mỹ ở Biển Đông ngay tại diễn đàn ASEAN. Lần này, theo Giáo sư Carl Thayer, Hà Nội có cơ hội tham vấn với các thành viên ASEAN, định hình nghị trình và kết quả các cuộc gặp của ASEAN và đưa ra tuyên bố của quốc gia chủ tịch. Mặc dù vậy thách thức cho Việt Nam là nguyên tắc đồng thuận của ASEAN trong mọi vấn đề. Đây cũng cũng chính là nguyên tắc khiến ASEAN có lúc đã không thể đưa ra được các tuyên bố chung, nhất là khi nói đến các hành động lấn lướt của Trung Quốc ở Biển Đông.
Nguồn : RFA tiếng Việt, 23/12/2019
Thật đúng là họa trời đày cho thói câm nín triệt khẩu trước Trung Quốc và tưởng đâu ‘im lặng thì nó tha cho’.
Tàu thám hiểm "Hải Dương Địa Chất 8" của Cục Khảo sát Địa chất Trung Quốc (Ảnh : China Geological Survey)
Sắp tới sẽ là ăn cướp
Chỉ vừa tròn một tuần lễ sau khi tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc rút khỏi khu vực Bãi Tư Chính, hai tàu khác - mang tên Hải Dương Thạch Du 618 và Hải Dương Thạch Du 620 (Haiyang Shiyou) - đã trám ngay vào khoảng trống Biển Đông, đi qua đường phân định trên biển và đi sâu vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, cách bờ biển Quảng Bình khoảng 65km.
Tin tức mà dễ khiến cho những kẻ đu dây chính trị thêm một lần nữa té lộn ngửa đó, một lần nữa vẫn được thông tin bởi những nguồn nghiên cứu độc lập trên mạng xã hội, như facebook Phạm Thắng Nam, chứ không phải được công bố bởi chính quyền ‘hèn với giặc, ác với dân’.
Nhưng mối nguy hiểm vào lần này đối với ‘đảng em’ Việt Nam còn lớn hơn gấp bội so với vụ Hải Dương 8, vì cả hai tàu Hải Dương Thạch Du 618 và 620 đều có nhiệm vụ hỗ trợ cho việc hạ đặt, thăm dò, khai thác cho các giàn khoan dầu khí.
Cái cách ‘hỗ trợ’ trên cho thấy rất có thể ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ là Trung Quốc - theo lối tụng ca dưới đáy liêm sỉ của giới chóp bu Việt nam mà vẫn la liếm đến tận những ngày gần đây - đã bước sang giai đoạn hai của chiến dịch ‘bóp cổ’ kẻ cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa với mình, chuyển từ ‘thăm dò địa chất’ sang việc chuẩn bị hạ đặt giàn khoan dầu khí.
Khả năng Trung Quốc sắp hạ đặt và ăn cướp dầu khí ngay trong vùng EEZ của Việt Nam là hoàn toàn có thể xảy ra, bởi vào tháng 9 năm 2019, cùng với cảnh Hải Dương 8 tha hồ quần thảo trong Bãi Tư Chính và kẻ bàn cờ ngang dọc gần sát vùng duyên hải Nam Trung bộ của Việt Nam, hình ảnh giàn khoan Lam Kình - lớn thứ hai của Trung Quốc - đã thấp thoáng hiện ra ở Biển Đông. Còn trước đó nữa là giàn khoan Đông Phương…
‘Hèn tướng’ và cái chết của ngư dân Việt
Vụ hai tàu Hải Dương 618 và 620 xâm nhập vùng EEZ của Việt Nam lại trùng với vụ một ‘ngư dân bám biển’ Việt là anh Nguyễn Ngọc Khởi, mới 23 tuổi, bị ‘tàu lạ’ bắn chết khi đang trên tàu đánh cá ở vùng biển Kiên Giang. Nhưng từ đó đến nay, vẫn không có bất kỳ kết quả điều tra nào từ các lực lượng ‘hải quân bám bờ’ như biên phòng, cảnh sát biển…, trong khi toàn bộ các tờ báo nhà nước vẫn không dám thốt nổi cái tên ‘tàu Trung Quốc’, dù chỉ đặt trong thể nghi vấn.
Cái chết mới nhất ấy của ngư dân Việt lại nhắc người ta hằn lại ký ức về vụ một ngư dân Việt khác là ông Trương Đình Bảy đã bị những ‘kẻ lạ mặt’ trên tàu mang cờ Trung Quốc xả súng AK giết chết vào tháng 11 năm 2015. Sau đó là liên tục hàng loạt vụ đâm va của ‘tàu lạ’ vào tàu cá Việt Nam, tại vùng biển Quảng Bình và vùng biển cách Côn Đảo không xa, khiến nhiều ngư dân rơi xuống biển mất tích. Nhưng từ đó tới nay đã không có bất cứ cuộc điều tra nào của các cơ quan chức năng Việt Nam để làm rõ kẻ nào là thủ phạm, cho dù hàng năm Bộ Quốc phòng Việt Nam vẫn ung dung chi xài đến 5 tỷ USD hoặc hơn nguồn ngân sách - tiền ‘nộp tô’ từ bờ vai gày guộc của dân chúng - vào công tác quân sự và "bảo vệ sự bình yên của vùng biển quê hương" như cái cách báo đảng ma mị.
Một lần nữa trong nhiều lần, thói câm nín của giới chóp bu Việt Nam đã được Bắc Kinh ‘đáp lễ’ đầy hậu hĩ.
"Thật không thể tưởng tượng nổi !" - một cán bộ lão thành trên 50 năm tuổi đảng thốt lên nhưng giọng như nghẹn lại - "Đến nước này mà thằng Khoa còn không dám há miệng cái tên Trung Quốc, mà vẫn là mấy cái từ ‘nước ngoài’ với ‘họ’ như vào thời còn chưa bị Tàu ngồi xổm trên đầu như bây giờ. Rồi lại cả thằng Lịch sếp của thằng Khoa, họp quốc hội cũng không há nổi một từ về Trung Quốc thì quân đội mình còn tinh thần ý chí đâu mà đánh chác nếu bị Tàu tấn công ! Đúng là một lũ mặc váy mang lon tướng ! Đúng là những thằng hèn !".
‘Thằng Khoa’ và ‘thằng Lịch’ mà người cán bộ lão thành trên nói đến là Trung tướng Trần Việt Khoa, Giám đốc Học viện Quốc phòng, và Đại tướng Ngô Xuân Lịch - Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam, lồng trong bối cảnh hai quan chức này phát biểu tại phiên thảo luận sáng 30/10/2019 của Quốc hội về "bối cảnh phức tạp của tình hình an ninh thế giới, đặc biệt trên biển Đông". "Nước ngoài’ và ‘họ’ là những từ ngữ được cố định trên miệng viên tướng Khoa, cho dù cuộc họp quốc hội này đã được thông báo là ‘họp riêng’, mà về thực chất là một cách đóng cửa phòng họp kín để báo chí và người dân chỉ được biết tin tức ở mức tối thiểu.
Thậm chí vào tháng 10 năm 2019 còn có "đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam do Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu tham dự Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh lần thứ 9 khai mạc tại Bắc Kinh, Trung Quốc". Ở nơi đó, Ngô Xuân Lịch trong khi vẫn như bó miệng mà không thốt nổi từ nào về Bãi Tư Chính, thì vẫn cười cợt xã giao với giới tướng lĩnh Tàu như không có chuyện gì xảy ra !
Không chỉ người cán bộ lão thành đã công phẫn, mà quá nhiều ý kiến của người dân và trí thức trên mạng xã hội đã chỉ đích danh Trần Việt Khoa và Ngô Xuân Lịch là ‘hèn’, ‘hèn tướng’, ‘nhục tướng’, ‘sợ đến đái ra quần’, ‘không xứng đáng là tướng’, ‘phải bị cách chức’… Không khí phẫn nộ đến mức chỉ chực chờ bùng nổ.
Cám cảnh trước tình cảnh của ‘quân đội nhân dân Việt Nam’ bao nhiêu, người ta càng thấm thía với mô tả của tướng Lê Mã Lương về giới tướng lĩnh quân đội - lên đến con số ‘lấy thúng mà đong’ gần 500 - là ‘chỉ giỏi nhiều tiền’, hoặc riêng Ngô Xuân Lịch còn ‘không biết đọc bản đồ thực địa’.
Toàn bộ chứng tự kỷ chính trị câm nín ấy diễn ra trong bối cảnh đã gần bốn tháng kể từ ngày Trung Quốc điều tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho tàu này xâm phạm Bãi Tư Chính như vào chốn vô chủ quyền, nhưng lực lượng cảnh sát biển và hải quân Việt Nam vẫn chưa một lần dám nổ súng cảnh cáo. Trong khi đó, toàn bộ chóp bu Việt Nam từ Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Thị Kim Ngân trở xuống vẫn kiên định ‘câm như hến’ mà không một lần dám nêu tên Trung Quốc, càng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giới ‘văn dốt, võ dát’ này dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Vẫn không dám nêu tên Trung Quốc !
Rốt cuộc, thói câm nín khiếp nhược toàn diện của giới chóp bu Việt Nam đã tặng cho Trung Quốc những món quà lớn về mặt ngoại giao quốc tế : tại Hội Nghị Các Bộ Trưởng ASEAN diễn ra ở Thái Lan vào cuối tháng Bảy, đầu tháng Tám 2019, bất chấp phía Việt Nam đã tìm cách vận động các quốc gia ASEAN để phản đối xâm phạm Bãi Tư Chính nói riêng và rộng hơn là Biển Đông, tuyên bố của Hội nghị đã chỉ đề cập khá chung chung và "quan ngại" về tình hình Biển Đông mà không hề nhắc đến cái tên Trung Quốc.
Còn tại Hội nghị cấp cao ASEAN 35 vào tháng 11 năm 2019 ở Thái Lan, sau khi thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc "nêu rõ vừa qua, có những vụ việc nghiêm trọng vi phạm luật pháp quốc tế xảy ra trên vùng biển khu vực và Việt Nam, tuy mới chấm dứt gần đây nhưng để lại những bài học sâu sắc cho ASEAN", nhưng vẫn không một từ dám đả động đến Bãi Tư Chính và cái tên Trung Quốc, đã chẳng có bất kỳ ý kiến nào từ các nước trong ASEAN bày tỏ ‘ủng hộ Việt Nam’, bất chấp Việt Nam đang là chủ tịch luân phiên của khối này.
Về thực chất, Bắc Kinh đã đạt được thắng lợi bước đầu khi dần biến Bãi Tư Chính từ ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’ thành ‘khu vực tranh chấp’, trước khi nhốt thẳng cánh vùng biển dồi dào dầu khí phục vụ ngân sách nuôi đảng này vào ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc’. Còn với quốc tế, cái cảnh những con tàu mang tên Hải Dương quần đảo ở Bãi Tư Chính và còn có thể áp sát đất liền Việt Nam đã trở nên nhàm chán. Càng nhàm chán hơn khi gã chủ nhà câm như hến mà không dám kêu cứu khi bị kẻ cướp xông vào nhà.
Không những thế, giới quan chức đớn hèn của ‘đảng em’ vẫn rúc mặt vào chính sách ‘Ba Không’ gậy ông đập lưng ông, kể cả một ‘Không’ nữa là ‘Không kiện Trung Quốc, để rốt cuộc trở thành kẻ cô độc tận cùng trên trường quốc tế, nhưng lại cực kỳ xung sát trên mặt trận ‘hèn với giặc, ác với dân’, sẵn sàng đàn áp dã man bất kỳ người dân nào ra mặt biểu tình chống Trung Quốc.
Không khí nhàm chán trên cũng là cơ hội để Tập Cận Bình và giới lãnh đạo ‘đảng anh’ không thể buông tha ‘đảng em’ một cách êm ái, mà sẽ phải là một kiểu ‘sống không ra sống, chết không ra chết’. Một khi Bắc Kinh đã có thừa thời gian để cho tàu Hải Dương 8 rồi đến Hải Dương 618 và 620 hành hạ tinh thần lẫn thể xác của giới chóp bu Việt Nam đến bốn tháng trời - lâu hơn hẳn thời gian hơn hai tháng mà giàn khoan Hải Dương 981 ngự trị ở Biển Đông ngay trước mũi Bộ Chính trị đảng Việt Nam vào năm 2014, chẳng có lý do đặc biệt gì để Trung Quốc không tiếp tục chiến dịch gây hấn ở Bãi Tư Chính và còn có thể ở quần đảo Trường Sa trong những tháng tới.
Phạm Chí Dũng
Biển Đông : Tàu khảo sát Trung Quốc Hải Dương Địa Chất 8 về tới Ma Cao (RFI, 26/10/2018)
Theo dữ liệu trên mạng theo dõi hành trình tàu biển Marine Traffic, lúc 16 giờ ngày 25/10/2019, tàu khảo sát Trung Quốc Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi) đã được định vị ngoài khơi Ma Cao.
Hoạt động của tàu Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi) tại bãi Tư Chính của Việt Nam từ ngày 26 đến 30/08/2019. Ryan Martinson/Twitter
Trong thông cáo cùng ngày, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lê Thị Thu Hằng xác nhận tàu Trung Quốc đã ra khỏi vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Giới chuyên gia cảnh báo : tàu Trung Quốc sẽ quay lại vùng biển của Việt Nam.
Thông cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 25/10/2019 nêu rõ : "Liên quan đến hoạt động của nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng. Mọi hoạt động trong vùng biển Việt Nam được xác định theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS), không được sự cho phép của Chính phủ Việt Nam đều là hành động xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt nam. Việt Nam yêu cầu các bên liên quan tôn trọng chủ quyền, các quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam và không tái diễn sự vi phạm".
Trước đó, ngày 24/10/2019 cũng mạng theo dõi hành trình tàu biển Marine Traffic đưa tin nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 cùng hai tàu hộ tống đã rời khỏi khu vực hoạt động, trong vùng đặc quyền kinh tế EEZ và thềm lục địa của Việt Nam. Nhóm tàu này di chuyển về Trung Quốc.
Tại Bắc Kinh, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oanh khẳng định nhóm tàu nói trên đã "hoàn thành nhiệm vụ khảo sát khoa học được tiến hành từ tháng 07/2019 tại một vùng biển đặt dưới quyền tài phán của Trung Quốc". Báo Hồng Kông South China Morning Post lưu ý, đại diện Bộ Ngoại giao Trung Quốc một lần nữa đã nhắc lại luận điểm cố hữu của Bắc Kinh nhưng tránh đi sâu thêm vào chi tiết trên hồ sơ nhậy cảm này.
Chuyên gia Ian Storey thuộc học viện ISEAS - Yusof Ishak tại Singapore đánh giá việc tàu Trung Quốc rút khỏi vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam nói trên chỉ mang tính "tạm thời". Một chuyên gia Trung Quốc về Đông Nam Á tại đại học Kim An, Quảng Châu, đánh giá việc Hải Dương Địa Chất 8 rời khỏi vùng biển của Việt Nam do "công việc đã hoàn tất" và cử chỉ này nhằm giảm thiểu căng thẳng Mỹ-Trung, chứ không phải là nhờ tác động từ những lời kêu gọi liên tiếp từ phía Việt Nam.
Thanh Hà
*****************
Bộ Ngoại giao Việt Nam thông báo xác nhận tàu Hải (RFA, 25/10/2019)
Truyền thông trong nước cho biết trong thông cáo phát đi, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nêu rõ "Liên quan đến hoạt động của nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng. Mọi hoạt động trong vùng biển Việt Nam được xác định theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS), không được sự cho phép của Chính phủ Việt Nam đều là hành động xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt nam. Việt Nam yêu cầu các bên liên quan tôn trọng chủ quyền, các quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam và không tái diễn sự vi phạm".
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam - Courtesy of VOV
Trước đó, ngày 24/10 trong bản tin của Reuters phát đi từ Hà Nội nêu rõ tàu Hải Dương 8 rút khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam với sự hộ tống của ít nhất hai tàu khác.
Nhóm tàu khảo sát của Trung Quốc đã liên tục vi phạm EEZ và thềm lục địa Việt Nam từ tháng 7 đến nay, gây căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Bộ Ngoại giao Việt Nam ít nhất 4 lần lên tiếng yêu cầu Trung Quốc rút tàu khảo sát và những tàu hộ tống đi vì đã vi phạm chủ quyền Việt Nam.
Ngược lại, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng vào ngày 18/9 cho rằng "Trung Quốc có quyền chủ quyền và tài phán đối với vùng nước ở bãi Tư Chính trong khu vực quần đảo Trường Sa". Mặc dù trước đó, ngày 12/9 người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng khẳng định tại một cuộc họp báo rằng Việt Nam kiên quyết phản đối việc nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc tiếp tục hành động vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên vùng biển của mình được xác định phù hợp với các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
Khu vực mà Trung Quốc gọi là 'bãi Vạn An' thực chất là bãi ngầm, là một phần của đáy biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982", bà Hằng nói. "Đây hoàn toàn không phải là khu vực tranh chấp hay có chồng lấn vì Trung Quốc không có bất kỳ cơ sở pháp lý quốc tế nào để đưa ra yêu sách đối với khu vực này. Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và thực tiễn xét xử thời gian qua đã khẳng định rõ điều này".
**************
Trung Quốc hôm 24/10 rút tàu thăm dò Hải Dương 8 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam ngay sau khi có thông tin giàn khoan Hakuryu 5 hoàn thành nhiệm vụ thăm dò gần khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam.
Theo dữ liệu hàng hải của Marine Traffic được Reuters trích dẫn hôm 24/10, tàu Hải Dương 8 đang rời khỏi vùng biển của Việt Nam hướng về phía Trung Quốc với sự hộ tống của hai tàu khác.
Trước đó một ngày, hôm 23/10, các nguồn tin không chính thức cho biết giàn khoan Hakuryu 5 của Nhật mà tập đoàn Rosneft của Nga thuê thăm dò dầu khí ở Lô 06.1 ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam đã hoàn thành các hoạt động và bắt đầu rời khỏi vị trí.
Trung Quốc đưa tàu Hải Dương 8 vào thăm dò quanh khu vực hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 từ đầu tháng 7 và gây nên căng thẳng nghiêm trọng trong mối quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Đầu tuần này, Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch đã nêu vấn đề Biển Đông tại Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh trong khi Tổng bí thư-Nguyễn Phú Trọng vào tuần trước tuyên bố trong một buổi tiếp xúc cử tri ở Hà Nội rằng Việt Nam sẽ "không nhân nhượng" trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, theo truyền thông trong nước.
Ngay sau khi ông Trọng lên tiếng một ngày, người phát ngôn Cảnh Sảng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã kêu gọi Hà Nội đối thoại với Bắc Kinh để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.
Trong vòng hơn 3 tháng qua, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần tố cáo tàu Trung Quốc "xâm phạm" vùng biển của Việt Nam trong khi Bắc Kinh luôn khăng khăng rằng tàu Hải Dương 8 luôn hoạt động trong vùng biển hợp pháp của họ.
Cho đến tối ngày 24/10, Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa lên tiếng về hành động rút tàu thăm dò của Trung Quốc.
Công chúng và nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế trong những tháng qua đã kêu gọi chính phủ Hà Nội có hành động pháp lý chống lại Bắc Kinh vì hành động "xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam" như Bộ Ngoại giao đã nhiều lần cáo buộc đối với tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc.
Một cuộc biểu tình của một nhóm nhỏ người dân Hà Nội bên ngoài Đại sứ quán Trung Quốc hồi tháng 8 đã bị công an giải tán.
Không có dấu hiệu nào cho thấy Hà Nội sẽ kiện Bắc Kinh ra tòa quốc tế như các chuyên gia Mỹ từng khuyên, nhưng hồi tháng 9, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nói rằng các hành vi cản trở hoạt động dầu khí của Việt Nam trên vùng biển của mình là sự vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982.
Hồi tháng 7, chuyên gia nghiên cứu về hải quân Trung Quốc của Trường Hải chiến Hoa Kỳ, Ryan Martinson, nói với VOA rằng Trung Quốc "quyết tâm ngăn chặn Việt Nam khai thác tài nguyên dưới đáy biển" sau khi Hà Nội "cho phép công ty dầu khí Nga Rosneft thuê giàn khoan dầu của Nhật Hakuryu 5 để khoan thăm dò vùng biển phía Tây của Bãi Tư Chính".
Dàn khoan Hakuryu 5 ban đầu được dự kiến hoạt động đến ngày 15/9, theo truyền thông trong nước. Tuy nhiên, theo trang Nguyentandung.org, giàn khoan này đã bắt kết thúc việc thăm dò và đã rời đi hôm 22/10.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp của Viện nghiên cứu Chiến lược Quốc tế IISS cũng nói với Reuters rằng Trung Quốc chỉ rút tàu Hải Dương 8 ngay sau khi dàn khoan Hakuryu hoàn thành thăm dò ở Lô 06.1.
Theo nhận định của nhà nghiên cứu này, "Trung Quốc quyết gây áp lực lên Việt Nam để ngừng khai thác và sản xuất dầu khí chung với các đối tác nước ngoài trong khu vực này".
Tháng trước cũng đã có thông tin cho rằng tập đoàn dầu khí Mỹ ExxonMobil sẽ rời Việt Nam vì sức ép của Trung Quốc. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Việt Nam sau đó đã phủ nhận thông tin này và cho biết Mỏ Cá Voi Xanh vẫn tiếp tục hoạt động.
Trước đó từ tháng 7/2017 đến tháng 3/2018, Hà Nội được cho là đã phải dừng hai dự án khai thác dầu khí với đối tác Repsol của Tây Ban Nha vì sức ép của Bắc Kinh.
Theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhiều khả năng "Trung Quốc sẽ đưa một giàn khoan dầu vào khu vực mà tàu Hải Dương 8 đã tiến hành các cuộc thăm dò trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam" trong những tháng qua.
Cách đây 5 năm, Trung Quốc đã đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, làm căng thẳng tăng cao trong mối quan hệ giữa hai nước và làm dấy lên các cuộc biểu tình ở trong và ngoài Việt Nam.
*****************
Tàu Trung Quốc rời vùng biển Việt Nam sau đợt thăm dò bị phản đối (RFA, 24/10/2019)
Tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc vào ngày 24 tháng 10 đã rời khỏi vùng biển Việt Nam sau hơn ba tháng tiến hành thăm dò tại đó. Reuters loan tin dẫn dữ liệu hàng hải về việc tàu khảo sát đại dương Hải Dương 8 rút khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thểm lục địa Việt Nam.
Hình minh họa. Đường đi của tàu Hải Dương 8 ở vùng biển của Việt Nam - Photo : RFA
Bản tin của Reuters phát đi từ Hà Nội nêu rõ tàu Hải Dương 8 rút đi với sự hộ tống của ít nhất hai tàu khác.
Hoạt động khảo sát của tàu Hải Dương 8 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam từ hồi đầu tháng 7 gây nên căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Bộ Ngoại giao Việt Nam ít nhất 4 lần lên tiếng yêu cầu Trung Quốc rút tàu khảo sát và những tàu hộ tống đi vì vi phạm chủ quyền Việt Nam. Ngược lại Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại cho tàu của họ đang hoạt động trong vùng biển của Hoa Lục.
Sau khi nhóm tàu Trung Quốc rút đi vào ngày 24 tháng 10, Reuters có gửi điện thư cho Bộ Ngoại giao Việt Nam hỏi về bình luận của Hà Nội đối với sự kiện đó ; tuy nhiên Reuters cho biết chưa nhận được hồi đáp.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hoa Xuân Oánh, hôm 24/10 lên tiếng tại cuộc họp báo thường nhật tại Bắc Kinh rằng hoạt động khảo sát của tàu Hải Dương 8 nay đã hoàm tất.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng xác nhận lại công tác khảo sát của tàu Hải Dương 8 bắt đầu từ đầu tháng 7.
Vào ngày 23 tháng 10, Thông tấn xã Việt Nam, dẫn kêu gọi của Phó chủ tịch Ủy Ban Quân Ủy Trung ương Trung Quốc đưa ra trong tuần này với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Ngô Xuân Lịch, về việc đối thoại giữa hai phía nhằm giải quyết tình hình phức tạp trong khu vực cũng như toàn cầu.
Cũng theo Thông tấn xã Việt Nam, bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch, cho rằng nổ lực chung của các quốc gia có thể giúp vượt qua những thách thức an ninh chung.
****************
Việt Nam ‘cắt’ ‘đường lưỡi bò’ trong ứng dụng ôtô nhập từ Trung Quốc (VOA, 24/10/2019)
Việt Nam đã ra lệnh cho một doanh nghiệp trong nước nhập ôtô Trung Quốc phải loại bỏ "đường lưỡi bò" trong máy định vị (Navigation) vì đã vi phạm chủ quyền quốc gia, theo trang South China Morning Post.
Bản đồ Biển Đông với đường "Lưỡi bò" do Trung Quốc vẽ nên.
Báo Thanh Niên dẫn lời ông Nguyễn Tô An, Trưởng phòng Chất lượng xe cơ giới, thuộc Cục Đăng kiểm Việt Nam ngày 22/10, nói rằng một số mẫu xe Trung Quốc do Công ty Kylin-GX668, có trụ sở tại Hải Phòng, nhập khẩu nguyên chiếc về bán tại Việt Nam có sử dụng ứng dụng dẫn đường trên máy định vị có bản đồ "đường lưỡi bò" vi phạm chủ quyền Việt Nam.
Truyền thông Việt Nam cho biết Cục Đăng kiểm đã yêu cầu doanh nghiệp này "phải rà soát, cập nhật lại phần mềm bản đồ phù hợp với các mẫu xe đang bán tại thị trường Việt Nam, cũng như làm việc lại với đối tác về bản đồ trên máy định vị trước khi nhập về bán".
Trang Thanh Niên dẫn lời đại diện của Công ty Kylin-GX668 cho biết đã gỡ bỏ ứng dụng Navigation trên tất cả ôtô Trung Quốc do công ty này phân phối.
Công ty này cũng cho rằng ứng dụng dẫn đường này không thể sử dụng tại Việt Nam do khác hệ thống định vị vệ tinh và không có dữ liệu.
Trước đó, hôm 14/10, Việt Nam đã rút bộ phim hoạt hình "Abominable" với tựa đề tiếng Việt "Everest : Người Tuyết bé nhỏ", sản phẩm hợp tác giữa DreamWorks Animation của Mỹ và Pearl Studio, một công ty của Trung Quốc, vì bộ phim này có hình ảnh bản đồ đường đứt khúc chín đoạn, hay còn gọi là "đường lưỡi bò".
**************
Biển Đông : Tàu khảo sát Trung Quốc rời vùng biển Việt Nam (RFI, 24/10/2019)
Theo dữ liệu trên mạng theo dõi hành trình tàu biển Marine Traffic, vào sáng hôm nay 24/10/2019, tàu khảo sát Trung Quốc Hải Dương Địa Chất 8 đã tăng tốc rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông và hướng về phía Trung Quốc, dưới sự hộ tống của ít nhất hai tàu Trung Quốc khác.
Tàu khảo sát Trung Quốc Hải Dương Địa Chất 8 đã tăng tốc rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông và hướng về phía Trung Quốc
Tàu khảo sát Trung Quốc đã xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ cuối tháng 06/2019, thoạt đầu hoạt động ở vùng thềm lục địa Việt Nam gần Bãi Tư Chính, rồi sau đó đi ngược lên khảo sát một dải biển dọc theo bờ biển miền Nam Trung Bộ, ngang tầm Phan Thiết ở phía dưới và Bình Định ở phía trên, và càng ngày càng áp sát bờ biển Việt Nam, có lúc chỉ cách bờ biển Việt Nam khoảng 150 km, tức là rất sâu bên trong vùng 200 hải lý của Việt Nam.
Chính quyền Hà Nội đã nhiều lần lên tiếng tố cáo Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam và yêu cầu Bắc Kinh rút tàu Hải Dương Địa Chất 8 ra khỏi vùng biển Việt Nam nhưng vô hiệu.
Hãng tin Anh Reuters đã gởi câu hỏi đến Bộ Ngoại giao Việt Nam để tìm hiểu thêm về vụ tàu khảo sát Trung Quốc rút đi, nhưng đến trưa nay chưa có hồi đáp.
Giới quan sát ghi nhận hai sự kiện gần như là đồng thời: Tàu khảo sát Trung Quốc đã rút khỏi vùng biển Việt Nam, một hôm sau khi một số thông tin trên mạng internet, chưa được kiểm chứng, xác định rằng giàn khoan dầu Hakuryu-5 của Việt Nam đã hoàn tất công việc tại lô 06.1, gần Bãi Tư Chính và đang trên đường đi về phía bờ biển Việt Nam.
Theo Reuters, chuyên gia Hà Hoàng Hợp, thuộc Viện Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế IISS đã cho rằng Trung Quốc chỉ rút tàu khảo sát đi ngay sau khi giàn khoan Hakuryu-5 của Việt Nam hoàn thành công việc khoan dò tại lô 06.1 được giao cho công ty Nga Rosneft khai thác.
Song song với việc cho tàu khảo sát vào hoạt động trong vùng biển Việt Nam, từ cuối tháng Sáu cho đến nay, tàu hải cảnh Trung Quốc đã liên tục sách nhiễu và tìm cách cản trở hoạt động của giàn khoan Việt Nam tại Bãi Tư Chính.
Theo chuyên gia Hà Hoàng Hợp, người đồng thời là chuyên gia khách mời của viện nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS -Yusof Ishak ở Singapore : "Trung Quốc không muốn bất kỳ công ty ngoài ASEAN nào khoan dầu ở Biển Đông (và) quyết tâm gây sức ép để Việt Nam chấm dứt hoạt động thăm dò và khai thác dầu chung với các đối tác nước ngoài trong khu vực".
Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng vào tuần trước đã kêu gọi các bên tranh chấp ở Biển Đông tự kềm chế, nhưng khẳng định rằng Việt Nam "không bao giờ thỏa hiệp" về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Trái lại, Trung Quốc vẫn lên giọng cứng rắn. Hôm thứ Hai 21/10/2019, bộ trưởng Quốc Phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa đã công khai nhắc lại rằng Biển Đông là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Trung Quốc và Bắc Kinh sẽ không để mất dù chỉ là một tấc đất.
Theo Reuters, chuyên gia Hà Hoàng Hợp đã lo ngại rằng "rất có khả năng là Trung Quốc sẽ cho một giàn khoan dầu đến khu vực mà tàu Hải Dương Địa Chất 8 của họ đã điều tra địa chấn, trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam".
Trọng Nghĩa
Căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam liên quan đến Bãi Tư Chính và hoạt động của tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 vẫn đang gia tăng, việc Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không thể đi Mỹ sớm, và Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ sẽ sớm đến Việt Nam. Tất cả cho thấy điều gì về 'bàn cờ' chiến lược Biển Đông ?
Tàu ngầm Trung Quốc xuất hiện cạnh tàu cá Việt Nam giữa tháng Chín 2019. Ảnh do ngư dân Quảng Ngãi cung cấp
Bãi Tư Chính vẫn 'nóng'
Ông James Borton, nhà nghiên cứu từ Trung tâm Khoa học ngoại giao thuộc Đại học Tufts (Hoa Kỳ), trả lời BBC News Tiếng Việt qua thư điện tử hôm 20/10, cho rằng, "Định vị hành trình của Hải Dương Địa Chất 8 rõ ràng cho thấy nó đang vi phạm vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam ; đồng thời thể hiện nỗ lực của Trung Quốc nhằm giành vai trò chi phối ở Biển Đông".
Ông Borton nhận xét là có vẻ như các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách của Hà Nội vẫn còn chia rẽ trong chọn lựa cách phản ứng với các hành động của Trung Quốc.
"Tuy nhiên, với việc Việt Nam tiếp cận cả Ấn Độ và Nga, với tư cách là những nước có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, cho thấy họ đang tìm những biện pháp nhằm đối phó," ông James Borton nói.
Còn ông Derek Grossman, chuyên gia cao cấp Trung tâm Chính sách Châu Á - Thái Bình Dương, RAND Corporation, cho BBC biết hôm 20/10 rằng trong tương lai gần, rất khó hình dung đến một kịch bản mà trong đó, Trung Quốc lại quyết định rút khỏi Bãi Tư Chính.
Ông Grossman phân tích :
"Không giống như trong vụ Trung Quốc hạ giàn khoan Hải Dương 981 hồi đầu tháng 5/2014, hiện nay, khả năng trình diễn sức mạnh của Bắc Kinh đã gia tăng, cả về số lượng trang thiết bị hiện đại, lẫn sự hoàn thiện các căn cứ của họ ở Biển Đông. Điều này cho phép họ duy trì nhịp độ hoạt động trong một thời gian dài, nhằm đạt các đòi hỏi về chủ quyền của mình.
"Tôi nghĩ, Hải Dương Địa Chất 8 được sử dụng đơn giản nhằm thực thi các yêu sách chủ quyền qua việc tuần tra liên tục. Tuy nhiên, đó cũng có thể là một cách hữu hiệu để thu hút sự chú , khiến người ta xao nhãng với cho các hoạt động khác của Trung Quốc, như triển khai giàn khoan hay các kế hoạch khác.
Ông Grossman đề xuất : "Để đối phó với tình hình này, Hà Nội cần xem xét tăng cường quan hệ đối tác toàn diện với Hoa Kỳ, liên kết hợp tác quân sự dưới hình thức tập trận chung và mua sắm vũ khí, cho dù với điều đầu tiên có vẻ sẽ khiến Việt Nam vi phạm chính sách 'ba không.'
"Việt Nam cũng có thể hợp tác với cả Mỹ lẫn các đồng minh của Mỹ như Úc, Nhật Bản hay với Ấn Độ, đưa các vấn đề trên ra các diễn đàn khu vực và quốc tế, khiến Bắc Kinh lùi bước. Chiến lược tương tự đã tỏ ra hiệu quả vào năm 2014, nhưng tôi sợ là hiện nay, Trung Quốc có vẻ ít còn quan tâm đến danh tiếng của mình, nên chiến lược đó có vẻ sẽ không còn mấy hiệu quả".
Trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 8 Quốc hội Việt Nam đã đề cập đến những diễn tiến căng thẳng gần đây trên Biển Đông.
Lựa chọn nào cho lãnh đạo Việt Nam
Trongmột post đăng trên Linkedin gần đây, ông Grossman đã từng cho rằng, các nhà lãnh đạo Việt Nam đang đối mặt với ba sự lựa chọn. Thứ nhất là không làm gì, nhưng điều này sẽ khiến người dân tức giận và có nguy cơ dẫn đến bất ổn. Thứ hai là lùi bước và điều này sẽ khiến phản ứng của dân chúng thậm chí còn tồi tệ hơn. Thứ ba là đương đầu với Trung Quốc, nhưng điều này hẳn nhiên sẽ gây thiệt hại thảm khốc.
Giải thích rõ hơn về này, ông Grossman cho hay : "Việt Nam có lẽ chỉ nên tiếp tục lên tiếng về những hành vi của Trung Quốc và tăng cường quan hệ với Mỹ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ, cũng như có thể với cả Anh và Pháp.
"Nhưng tôi cũng nhận thấy có sự chuyển động kín đáo, trong các bài viết gần đây về tư tưởng tiến công quân sự. Chẳng hạn, bài viết của Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng "Nét đặc sắc của tư tưởng quân sự, nghệ thuật quân sự Việt Nam," đăng trên tạp chí Quốc phòng toàn dân hồi tháng 8/2019, có đưa ra quan điểm, lấy tiến công làm tư tưởng chủ đạo, thay vì phòng thủ hoặc phòng ngự thụ động.
"Ngoài ra, nếu chúng ta để kỹ đến tuyên bố của Tổng bí thư Trọng tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11 vừa rồi, thì về cơ bản, ông nói rằng, tất cả các lựa chọn đều có thể được đưa ra bàn thảo và Việt Nam sẽ không bao giờ nhân nhượng với những gì thuộc về chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ," ông Grossman phân tích.
Theo ông Grossman, "điều đó nghe có vẻ như chuẩn bị đối phó với sự xâm lấn của Trung Quốc theo những cách quyết đoán hơn, gồm cả khả năng có hành động quân sự. Phải thừa nhận rằng, tôi đã có phần phỏng đoán ở đây, nhưng tôi không cho rằng, việc Hà Nội đương đầu bằng quân sự là điều gì đó hoàn toàn không thể".
Việt Nam ở cương vị chủ tịch luân phiên ASEAN
Cuối tháng 11 này, Hội nghị cấp cao ASEAN sẽ diễn ra tại Thái Lan và Hà Nội đang chuẩn bị cho việc tiếp nhận vai trò Chủ tịch khối này vào đầu năm tới. Nhưng liệu vai trò chủ tịch ASEAN có giúp Việt Nam thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á láng giềng thống nhất quan điểm trước các hành động bá quyền của Trung Quốc.
Ông Borton cho rằng, đây là thời điểm tuyệt vời để Việt Nam làm vậy.
"ASEAN cung cấp cho Việt Nam một nền tảng địa chính trị để thúc đẩy lợi ích an ninh quốc gia. Một chiến lược linh hoạt cho Hà Nội có thể là thúc đẩy một vài đồng thuận giữa các bộ trưởng quốc phòng ASEAN về các hành động của Trung Quốc trong các khu vực tranh chấp ở Biển Đông.
"Có lẽ, để có thể nắm lấy vai trò dẫn dắt trong vấn đề này, Việt Nam nên đề xuất tổ chức các hội thảo xây dựng niềm tin, cũng như tổ chức các diễn đàn hợp tác khoa học với các nước láng giềng ASEAN về các vấn đề ít gây tranh cãi như nghiên cứu hàng hải, các nỗ lực chống khủng bố hay chia sẻ các thông tin tình báo," ông Borton nói.
Việt Nam sẽ đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN vào đầu năm 2020.
Tuy nhiên, ông Grossman lại không mấy lạc quan về vai trò của ASEAN trong giải quyết tranh chấp Biển Đông.
Ông cho rằng, Việt Nam sẽ cố gắng đạt được thỏa thuận COC, nhưng điều đó hầu như cũng không thể khiến Trung Quốc từ bỏ các mục tiêu của mình. Trung Quốc vẫn có thể sẽ thuyết phục Campuchia, Lào, Myanmar, và có lẽ cả Thái Lan để ngăn chặn tiến độ của COC.
"Tôi không mấy lạc quan về vai trò của ASEAN trong tranh chấp Biển Đông," ông Grossman nói.
Việt Nam dè dặt hơn với Mỹ ?
Việc Tổng bí thư, chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chưa thể đi Mỹ mà theo cả ông Grossman và GS Carl Thayer của Đại học New South Wales (Úc) là vì lý do sức khỏe ; cũng như chuyến thăm Việt Nam sắp tới của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper đang được dư luận quan tâm.
Ông Borton cho rằng, với chính sách đối ngoại thất thường của Hoa Kỳ và nhất là quyết định gần đây của Tổng thống Trump bỏ rơi đồng minh người Kurd, có vẻ sẽ khiến Hà Nội dè dặt hơn với các cam kết của Mỹ, thậm chí cả với những hứa hẹn về việc bảo đảm quyền tự do hải hành trên Biển Đông.
"Tôi tin chắc rằng, ông Trọng vẫn ngần ngại để tin vào Hoa Kỳ. Điều này sẽ càng trở nên rõ ràng hơn với việc, gần đây Tổng thống Donald Trump liều lĩnh bỏ rơi các đồng minh của Hoa Kỳ.
"Trong khi Hà Nội và Washington có những điểm chung có thể chia sẻ, như giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hiệp quốc về luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982, dẫu Hoa Kỳ không phê chuẩn công ước này), bảo đảm quyền tự do hải hành, Việt Nam vẫn không quên một điều rằng, trong lịch sử, Mỹ từng từ bỏ rơi các cam kết trước đây đối với Việt Nam.
"Mặc dù năm 2015, Việt Nam đã ký Tuyên bố Tầm nhìn chung về Quan hệ Quốc phòng, trong chuyến thăm lịch sử của ông Nguyễn Phú Trọng đến Nhà Trắng dưới thời Tổng thống Barack Obama, tôi vẫn cho rằng, chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Mark Esper, dự kiến tới Hà Nội thời gian tới cũng không mấy đem lại hiệu quả.
Washington có thể tuyên bố rằng, chuyến thăm của ông Mark Esper là để hỗ trợ 'Chiến lược quốc phòng quốc gia [của Hoa Kỳ]' và đưa ra những bình luận gay gắt về việc các hành vi gây hấn của Trung Quốc đang gây bất ổn cho khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, nhưng tôi chưa thấy dấu hiệu nào cho thấy, chuyến thăm sẽ thúc đẩy một quan hệ hợp tác quốc phòng toàn diện giữa Mỹ với Việt Nam," theo ông Borton.
Việc hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ thăm cảng Đà Nẵng hồi tháng 3/2018, được cho là bước tiến quan trọng trong quan hệ quân sự Mỹ - Việt.
Còn ông Grossman thì bình luận rằng, với những hành động gây hấn gần đây của Trung Quốc trên Biển Đông, chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đáng lẽ phải tiến hành sớm hơn.
Bình luận về khả năng ông Trọng đi Mỹ, nhà nghiên cứu Grossman nói rằng : "Theo thông tin mới nhất mà tôi có thì ông Trọng sẽ không đi Mỹ. Tuy nhiên, điều đó vẫn có thể thay đổi, hoặc cũng có thể đó là thông tin sai. Tuy nhiên, nếu thông tin đó là đúng thì tôi nghĩ, khả năng nâng mối quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt nam và Hoa Kỳ lên thành đối tác chiến lược sẽ hạn chế, bởi một quyết định lớn như vậy cần phải được người đứng đầu đất nước đưa ra. Giả như ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đến thăm Nhà Trắng thay ông Trọng thì trọng lượng của chuyến đi cũng khác".
Việt Nam sẽ không từ bỏ 'ba không' ?
Với tinh thần của chủ nghĩa dân tộc đang dâng cao ở Việt Nam, tình hình Biển Đông hiện nay chính là một phép thử với các nhà lãnh đạo Việt Nam.
Tuy nhiên, liệu Hà Nội có từ bỏ nguyên tắc 'ba không', tức là không tham gia vào các liên minh quân sự, không cho đặt căn cứ quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam và không dựa vào quốc gia này để chống lại quốc gia khác, hay không ?
Ông Borton cho rằng, "Những nguyên tắc này là một phần trong tư tưởng Đảng Cộng sản, và như vậy, chúng sẽ không thay đổi trừ khi có áp lực mạnh mẽ từ người dân qua các cuộc biểu tình phản đối các hành động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam và tấn công ngư dân".
Còn ông Grossman cũng nêu ý kiến tương tự :
"Tôi không nghĩ là Việt Nam sẽ từ bỏ 'Ba không,' nhất là dưới thời ông Trọng. Nhưng điều đó vẫn có thể xảy ra trong tương lai, nếu áp lực của Trung Quốc tiếp tục gia tăng trên Biển Đông. Tuyên bố của ông Trọng tại Hội nghị Trung ương vừa rồi là tuyên bố mạnh mẽ nhất của ông trước sự gia tăng áp lực của Bắc Kinh trên Biển Đông và có khả năng dẫn tới một cách tiếp cận mới, như tôi đã đề cập ở trên".
Vấn đề Biển Đông đang làm 'nóng' chính trường Việt Nam. Trong ngày đầu nhóm họp của kỳ họp thứ 8, từ Biển Đông đã xuất hiện nhiều lần trong các bản báo cáo, trong đó có phát biểu khai mạc của Chủ tịch Quốc hội, bà Nguyễn Thị Kim Ngân lẫn báo cáo của Thủ tưởng Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Phúc.
Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri của Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn cũng nói rằng cử tri lo lắng về "những diễn biến phức tạp ở Biển Đông, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam".
Lê Viết Thọ
Nguồn : BBC, 22/10/2019
Cuối tháng 9, đầu tháng 10/2019, tàu khảo sát Trung Quốc hoạt động ngày càng sát bờ biển quốc gia (1), cùng lúc với các tàu hải cảnh liên tục quấy nhiễu Bãi Tư Chính. Trong bối cảnh quyền chủ quyền của đất nước bị xâm phạm hiện rõ, một hội nghị chưa từng có được tổ chức tại Hà Nội. Tướng Lê Mã Lương đã lên án đích danh ngành Ngoại Giao chậm khởi kiện Bắc Kinh.
Thiếu tướng Lê Mã Lương phát biểu tại Hội thảo về "Vùng biển Bãi Tư Chính và luật pháp quốc tế", Hà Nội, 06/10/2019. Copy d'ecran : youtube
Kiện hay không kiện Trung Quốc ? Đây là câu hỏi lớn đang ngày càng ám ảnh những người lãnh đạo Việt Nam. Ngày 06/10/2019, Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển (thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam - Vusta) tổ chức hội thảo khoa học về "Vùng biển Bãi Tư Chính và luật pháp quốc tế" (2).
Đặc biệt gây chú ý là phát biểu của thiếu tướng Lê Mã Lương, Anh hùng Lực lượng Vũ trang. Không nhanh chóng sử dụng các biện pháp pháp lý để chế ngự tham vọng của Trung Quốc, Việt Nam có thể bị rơi vào thế để Bắc Kinh ra tay trước, tấn công Bãi Tư Chính. Chiến tranh sẽ bùng nổ và Việt Nam buộc phải tự vệ. Ông Lê Mã Lương nhấn mạnh : "Nếu như để xảy ra chiến tranh, thì lỗi lớn nhất là Bộ Ngoại giao, ban Đối Ngoại trung ương (Đảng cộng sản), rồi đến Đối ngoại Quốc phòng".
Tạp chí Đặc biệt của RFI Tiếng Việt xin chuyển đến quý vị các nhận định của nhà báo Võ Văn Tạo (Nha Trang) về tướng Lê Mã Lương – tình hình Biển Đông và chính quyền Việt Nam.
***
RFI : Kính chào nhà báo Võ Văn Tạo, thưa ông, trong những ngày gần đây, dư luận trong nước đặc biệt chú ý đến các phát biểu của tướng Lê Mã Lương về các hành động xâm lấn táo tợn của Trung Quốc tại Biển Đông, và trách nhiệm của chính quyền Việt Nam. Có nhiều tin đồn trên mạng là ông Lê Mã Lương bị bắt. Thực hư ra sao thưa ông ?
Võ Văn Tạo : Sáng hôm 12, tôi từ Hà Nội bay về Nha Trang, trên dọc đường đi, tôi có tình cờ vào mạng thì thấy có tin đồn trên youtube thì thấy đêm 11, Bộ Công an triệu tập tướng Lê Mã Lương, sau khi ông phát biểu khá dữ dằn trong một hội thảo trước đó, về tình hình Bãi Tư Chính, cũng như Biển Đông.
Tôi có quen biết với tướng Lê Mã Lương. Trước đây, trong chiến tranh chống Mỹ, tôi cùng anh Lương một sư đoàn (sư đoàn 304), có tác chiến tại Quảng Trị, vào mùa hè năm 1972. Tôi vẫn biết là youtube ít khi kiểm soát chặt chẽ, ít độ tin cậy. Nhưng dù sao tin này nó đưa vào đúng thời điểm đó, làm cho mình cũng hơi băn khoăn. Tôi bèn rút điện thoại gọi cho tướng Lương, thì anh ấy trả lời là có gì đâu mình đang ngồi uống cà phê với bạn bè. Tôi lập tức viết trên Facebook một status để đính chính chuyện đó. Tôi bình luận : Chắc là "dư luận viên thờ Tàu" nó tung tin đó thôi. Sau đó, hai ba hôm nay lại có những thông tin khác nữa. Nào là lục soát, khám nhà, thấy tài liệu đảo chính nọ kia. Riêng tôi thì tôi không tin. Nhưng nó cũng làm cho dư luận ở Việt Nam nhiều người cũng băn khoăn.
RFI : Xin ông cho biết cụ thể trong hội thảo này, tướng Lê Mã Lương nói những điều gì là chính ạ ?
Võ Văn Tạo : Tại hội thảo đó, trong đoạn clip anh Lương phát biểu, cái đầu tiên anh kể lại câu chuyện trước đó anh có dự một hội thảo khác. Trong cuộc hội thảo đó, có đại diện của Bộ Ngoại giao tham dự, anh đã chất vấn thẳng Bộ Ngoại giao là : Vì sao không kiện Trung Quốc ? Điểm thứ hai anh cũng nêu Tư Chính là rất quan trọng, mất Tư Chính có nghĩa là mất hết chủ quyền biển đảo của Việt Nam, và nếu để mất Tư Chính anh ấy sẽ cầm đầu các quân nhân kéo đến Bộ Ngoại giao để "hỏi thăm" chuyện đó. Còn nội dung thứ ba quan trọng là anh ấy phê phán nhân sự cao cấp của Bộ Quốc phòng. Anh nói là lần đầu tiên trong lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam, một đại tướng bộ trưởng quốc phòng mà không biết sử dụng bản đồ quân sự, không biết đọc bản đồ quân sự (3).
RFI : Ông tổng bí thư Đảng cộng sản, chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cũng có một số phản ứng sau các chỉ trích mạnh mẽ và trực diện của tướng Lê Mã Lương nhắm vào các cơ quan ngoại giao của Việt Nam, xin ông cho biết cụ thể ?
Võ Văn Tạo : Cách đây chừng ba hôm, báo chí Việt Nam có đưa tin ông Trọng trong một cuộc tiếp xúc cử tri đã có phát biểu, mà ai cũng hiểu rằng để đập lại cái phát biểu của anh Lê Mã Lương, mặc dù ông Trọng không nêu đích danh. Ông Trọng nói nguyên văn thế này : "Có một số phần tử cố tình kích động, to tiếng lên, lên gân lên, ra vẻ ta là anh hùng, ra vẻ ta là yêu nước, vậy còn trung ương Đảng, chính phủ, tổng bí thư không yêu nước à ?".
Tôi theo dõi ông Trọng nhiều năm rồi tôi biết. Từ lâu rồi ông Trọng đã lên án những người trí thức luôn luôn muốn đòi hỏi quyền tự do, dân chủ, cho Việt Nam, giống như những nước văn minh trên thế giới. Theo tôi được biết, trong hình chụp hội nghị mùng 6 tháng 10 vừa rồi, mấy chục người đó đều là trí thức, họ không có ý đồ lật đổ đâu, họ chỉ muốn gây dựng thôi. Chúng tôi thường gọi họ là các trí thức trung thành.
Thế nhưng ông Trọng mà có thái độ như thế, tôi cho rằng không phù hợp, không thiện chí, không đoàn kết, những lời nói gan ruột, bộc trực của tướng Lương, lẽ ra một người biết ứng xử, một người cầm cương của đất nước, như ông Nguyễn Phú Trọng thì tôi nghĩ rằng ông Trọng cần phải đến tận nhà ông Lương, mà cám ơn, mà mời mọc, đề nghị ông Lương rủ bạn bè tướng lính cao cấp từng trải chiến trận có mưu lược, mời một cuộc hội thảo với Bộ Chính trị : Trong tình hình hiện nay đất nước đang lâm nguy như thế nào, thế lực mình rất kém so với Trung Quốc, mà nó đang muốn ăn cướp tất cả biển của mình như thế này !
RFI : Dù sao thì mọi người cũng để ý, trong hội nghị trung ương 11 vừa qua, lần đầu tiên ông Trọng có nêu vấn đề Biển Đông ra để thảo luận. Cho đến giờ kết quả thảo luận ra sao, thưa ông ?
Võ Văn Tạo : Ở hội nghị trung ương 11, ông Trọng gợi ra chuyện thảo luận về Biển Đông. Chỉ đăng thế thôi, nhưng cụ thể thảo luận như thế nào, thì hoàn toàn bị giữ kín. Phương tiện truyền thông của Nhà nước không hề truyền tải.
Còn chuyện ông ấy đặt vấn đề mà báo chí đã đăng, thì tôi thấy rằng trên mạng lâu nay đã lên án ông Trọng rất dữ dội là đã không nói năng gì trước hành động khiêu khích của Trung Quốc. Không nói tiếng nào, đặc biệt từ tháng 7 đến giờ, từ sự kiện tầu thăm dò và kể cả tầu khác, dàn khoan nữa, vào Tư Chính và cả vùng biển phía bắc nữa. Người ta lên án dữ dội lắm. Tôi biết khả năng là những chuyện đó cũng đến tai ông Trọng, và ông có đặt vấn đề đó cũng chẳng qua là thanh minh, thanh nga với dư luận thôi, mà không phải là một chiến lược có từ lâu nay.
RFI : Theo ông, vì sao tướng Lê Mã Lương lại lên tiếng kiên quyết, đưa ra những phát biểu gây chấn động như vậy ?
Nhà báo Võ Văn Tạo : Phát biểu của tướng Lê Mã Lương, tôi biết là do anh ấy xuất thân là người lính, rất là nhiệt tình, yêu nước. Anh ấy là con liệt sĩ Điện Biên. Anh ấy được tuyển chọn đi học ở nước ngoài và anh ấy đã từ chối đi học. Anh ấy phát biểu một câu rất nổi tiếng : Đất nước còn chiến tranh thì cuộc đời đẹp nhất đối với thanh niên là trên trận tuyến chống quân thù. Thế hệ của chúng tôi sau anh ấy vài năm cũng đã biết đấy là một người rất nhiệt huyết, yêu nước, trải qua trận mạc, hàng trăm trận. Anh ấy là người rất lo lắng và giận dữ trước thái độ của Trung Quốc đối với Việt Nam, đối với biển đảo Việt Nam. Bản chất con nhà lính lời nói của anh ấy rất bộc trực, không có rào đón trước sau, tránh né.
Anh nói thẳng vào sự thực. Tình hình rất căng thẳng như vậy, cả thế giới cũng phẫn nộ. Hoa Kỳ là nước lên tiếng chỉ đích danh Trung Quốc đã lấn hiếp Việt Nam. Châu Âu, Anh, Pháp… các cường quốc đều có ý kiến phản đối Trung Quốc như thế, rõ ràng là người Việt Nam, ai cũng giận dữ.
(Mà) Nhà nước Việt Nam trong thời gian vừa qua dứt khoát chưa kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế, (chính quyền) Việt Nam rất là yếu hèn trước Trung Quốc, bị Trung Quốc lấn hiếp rất là nhiều. Trung Quốc ra rằng vi phạm luật pháp quốc tế, nhưng Việt Nam vẫn chưa đệ đơn kiện. Khi dư luận rất bức xúc rất nhiều trên mạng, cả trên báo chí nữa, thì Bộ Ngoại giao Việt Nam, các quan chức trả lời một cách bóng bẩy rằng, tuy thế nhưng hồ sơ kiện đã sẵn sàng rồi. Sẵn sàng mà 5, 6 năm nay mà chưa thấy nộp đơn.
RFI : Khép lại chương trình Tạp chí Đặc biệt hôm nay về vấn đề Bắc Kinh xâm lấn Tư Chính, phản ứng tướng Lê Mã Lương và thái độ của chính quyền Việt Nam, xin nhà báo Võ Văn Tạo cho biết nhận xét chung của ông về tình hình hiện nay !
Võ Văn Tạo : Theo tôi nghĩ, trước tình hình biển đảo của ta bị xâm phạm như thế này, và những ý đồ và những hành vi thực tế của Trung Quốc quá hung hăng, nguy cơ chúng ta mất dần chủ quyền là không tránh khỏi. Các lo lắng của anh Lê Mã Lương cũng như các trí thức, cũng như đông đảo người dân trong nước là hoàn toàn có cơ sở.
Chuyện này có những sai lầm từ trước cộng lại cho đến bây giờ. Trước chủ trương ngả theo Trung Quốc, gọi là để giữ "chủ nghĩa xã hội", thực tế là để giữ "chế độ vua tập thể", lời của ông Nguyễn Văn An, cựu chủ tịch Quốc hội Việt Nam. Ai nghiên cứu về "chủ nghĩa xã hội" thì biết rồi, Trung Quốc và Việt Nam giờ bỏ hết, chỉ giữ lại một đặc điểm : Đảng cộng sản giữ độc quyền cai trị, không chia sẻ quyền lực với ai.
Rõ ràng Việt Nam hiện nay gay go, bảo vệ được chủ quyền là rất khó khăn, mà thái độ của Đảng cộng sản, đứng đầu là ông Nguyễn Phú Trọng là như thế, không tập hợp được sức mạnh của các tầng lớp, đặc biệt là các tướng lĩnh có kinh nghiệm trận mạc, để củng cố sức mạnh quốc phòng.
Thứ hai là chính sách của Việt Nam cứ khi nào cũng khư khư "Ba Không" (Không liên minh quân sự, Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, Không là đồng minh quân sự với nước khác), cứ sợ rằng liên minh quân sự sẽ mất chủ quyền, lệ thuộc người ta. Thế thì hiệp ước an ninh Nhật – Mỹ có làm Nhật mất chủ quyền so với Mỹ không ?
Ông Trọng trả lời giùm tôi cái này ! Liên minh giữa Mỹ và Hàn Quốc bảo đảm cho Hàn Quốc yên ổn phát triển hòa bình. Một khi anh liên minh quân sự tất nhiên các nước khác muốn lấn hiếp cũng phải nhìn mặt cái liên minh đó, như Trung Quốc bắt nạt Việt Nam. Để cứu vãn được tình thế, Đảng cộng sản Việt Nam phải lập tức thay đổi quyết liệt, thì may ra, nếu không thì chuyện mất chủ quyền sẽ không tránh khỏi !
RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà báo Võ Văn Tạo !
Trọng Thành thực hiện
Nguồn : RFI, 19/10/2019
Ghi chú :
1. "Biển Đông : Tàu Trung Quốc thăm dò ngày càng sát bờ biển Việt Nam", RFI, ngày 06/10/2019.
2. Theo nhiều nhà quan sát, đây là lần đầu tiên diễn ra một hội thảo về Biển Đông, kêu gọi khởi kiện Trung Quốc, có sự tham gia của các cựu quan chức - chuyên gia hàng đầu cùng nhiều trí thức phản biện, bao gồm cả những người thường xuyên lên án chế độ đảng trị. Cuộc hội thảo được nhiều báo chính thống trong nước giới thiệu. Xem thêm bài : "Dã tâm bất tận của Trung Quốc ở Biển Đông", báo mạng Thanh Niên, ngày 07/10/2019.
3. Tướng Lê Mã Lương cũng nêu nhận định về thực trạng các lãnh đạo ngành quốc phòng hiện nay chưa từng trải qua chiến tranh…. Phát biểu của tướng Lê Mã Lương dường như đã gây rúng động Bộ Quốc phòng. Báo Quân đội nhân dân (hôm 13/10/2019) có bài "Đấu tranh mạnh mẽ với bệnh công thần, kiêu ngạo cộng sản bằng sức mạnh của cả cộng đồng", lên án "một vị tướng được phong danh hiệu anh hùng nhưng lại lên mạng xã hội nói về vấn đề Biển Đông, nói về các tướng lĩnh quân đội không đúng sự thật".
Đã 3 tháng rưỡi trôi qua kể từ khi tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc cùng đội tàu hộ tống vào trái phép vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam để thực hiện khảo sát. Hải Dương 8 và đội tàu hộ tống đến lúc này đã mở rộng phạm vi hoạt động ra xa hơn về phía bắc dọc theo bờ biển Việt Nam.
Chiều 3/10, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng lần thứ 4 trong vòng 3 tháng qua lên tiếng phản đối hoạt động của tàu Trung Quốc ở vùng nước của Việt Nam. RFA edit
Việt Nam tiếp tục phản ứng lại hành động xâm lấn của Trung Quốc một cách kiềm chế. Đầu tiên, Việt Nam giữ im lặng trong suốt gần 2 tuần lễ sau khi Hải Dương 8 vào vùng EEZ. Đến ngày 17/7, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng kêu gọi "các nước liên quan và cộng đồng quốc tế làm việc cùng nhau để cùng bảo vệ và duy trì trật tự, hòa bình và an ninh trên Biển Đông".
Bài viết này nhìn lại phản ứng của cộng đồng quốc tế trước lời kêu gọi của Việt Nam.
Vào tháng 7, Bộ Ngoại giao Việt Nam đưa ra một báo cáo ngắn 6 trang về căng thẳng ở Bãi Tư Chính. Báo cáo này cho biết "Việt Nam đã gửi công hàm ngoại giao và nhiều lần liên hệ" với Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cùng các giới chức Trung Quốc có liên quan ở Bắc Kinh, bao gồm cả Ủy ban Trung ương Đảng về đối ngoại phụ trách an ninh và quốc phòng. Đến giữa tháng 10, truyền thông Việt Nam cho biết đã có 40 liên lạc như vậy được gửi tới phía Trung Quốc.
Báo cáo của phía Việt Nam yêu cầu các cơ quan ngoại giao của Việt Nam phải đưa vấn đề căng thẳng ở Bãi Tư Chính đến các đối tác ở Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, New Zealand, Nam Hàn, Pháp, Đức, Anh và Liên minh Châu Âu ở New York.
Hoa Kỳ là nước đầu tiên lên tiếng về căng thẳng Bãi Tư Chính. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã ra các thông cáo báo chí với lời lẽ mạnh mẽ. Vào ngày 20/7, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cáo buộc Trung Quốc "lặp lại các hành động gây hấn" nhắm vào các hoạt động khai thác dầu khí và làm ảnh hưởng tới thị trường năng lượng thế giới. Hoa Kỳ yêu cầu "Trung Quốc phải ngừng thái độ bắt nạt và kiềm chế không có các hành động gây hấn, gây mất ổn định".
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ra thông cáo thứ hai vào ngày 22/8. Thông cáo khá cụ thể trong việc chỉ đích danh tên Trung Quốc : "Việc triển khai tàu khảo sát của chính phủ Trung Quốc, cùng với đội tàu hộ tống có vũ trang, vào vùng nước ngoài khơi Việt Nam gần Bãi Tư Chính vào ngày 13/8 là một hành động leo thang từ phía Bắc Kinh trong nỗ lực nhằm đe dọa các nước đòi chủ quyền khác không được khai thác nguồn tài nguyên ở Biển Đông". Thông cáo cũng cáo buộc Trung Quốc đã phá hoại "hòa bình và an ninh trong khu vực" bằng việc ngăn cản các quốc gia Đông Nam Á tiếp cận với nguồn tài nguyên dầu khí được ước tính lên đến 2,5 nghìn tỷ đô la. Cuối cùng, tuyên bố kết luận là "Hoa Kỳ cam kết đảm bảo việc sản xuất dầu khí không bị gián đoạn cho thị trường toàn cầu".
Quan ngại của Hoa Kỳ về hành động bắt nạt và đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam cũng nhận được sự chia sẻ từ các đồng minh Nhật Bản, Australia. Tuy nhiên, các nước này đã tránh nói trực tiếp trong các phát biểu của mình và không chỉ đích danh tên Trung Quốc. Ví dụ, tuyên bố của chung các bộ trưởng được công bố sau Đối thoại An Ninh Ba bên Mỹ, Australia, Nhật Bản ở Bangkok hôm 2/8 đã dành 3 trong 6 đoạn nói về Biển Đông mà không nhắc tên Trung Quốc.
Ở điểm thứ 10, các bộ trưởng bày tỏ "quan ngại sâu sắc về việc triển khai các vũ khí hiện đại ra các thực thể đang tranh chấp… lên tiếng phản đối mạnh mẽ đối với các hành động lấn ép đơn phương có thể làm thay đổi hiện trạng và làm tăng căng thẳng….(và) bày tỏ quan ngại về các thông tin về các hoạt động làm gián đoạn những dự án dầu khí lâu dài ở Biển Đông". Ở điểm thứ 12, các bộ trưởng kêu gọi Bộ Quy tắc về ứng xử giữa Trung Quốc và ASEAN không được có định kiến với quyền lợi của các bên thứ ba hoặc quyền của các quốc gia theo luật quốc tế.
Ngay sau Đối thoại An ninh Ba bên, bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao Mỹ và Australia gặp nhau ở Sydney hôm 4/8 cho tham vấn AUSMIN hàng năm. Tuyên bố chung được công bố sau đó cũng tương tự như bản tuyên bố ở Đối thoại An ninh Ba bên.
Thủ tướng Australia Scott Morrison có chuyến thăm chính thức đến Việt Nam từ ngày 22 đến 24 tháng 8 theo lời mời của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Tuyên bố chung công bố sau cuộc gặp nhắc lại công thức chung của ASEAN về Biển Đông. Đáng chú ý, tuyên bố đã phá vỡ những gì vẫn được đưa ra trong các tuyên bố song phương trước đó bằng cách bày tỏ "quan ngại về các hoạt động gây gián đoạn các dự án dầu khí ở Biển Đông… tầm quan trọng của cơ chế giải quyết tranh chấp theo UNCLOS và kêu gọi các bên tôn trọng và thực hiện các quyết định được đưa ra theo các cơ chế này… (và) đối với bất cứ Bộ Quy tắc về ứng xử nào giữa ASEAN và Trung Quốc cũng phải tuân theo luật quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, mà không gây định kiến với quyền lợi của các bên thứ ba hoặc các quyền của các quốc gia theo luật quốc tế, ủng hộ kiến trúc khu vực hiện có".
Vào ngày 28/8, Đại diện cấp cao của EU về chính sách đối ngoại và an ninh có tuyên bố gồm 4 đoạn về vấn đề Biển Đông. Tuyên bố viết rằng những hành động đơn phương gần đây ở Biển Đông cho thấy "một đe dọa nghiêm trọng tới sự phát triển kinh tế hòa bình trong khu vực". Tuyên bố thúc giục các bên thực hiện kiềm chế, tránh khỏi việc quân sự hóa khu vực và giải quyết các tranh chấp qua các biện pháp hòa bình. Người phát ngôn của EU gợi ý là "các bên nên tìm kiếm sự trợ giúp từ bên thứ ba theo các hình thức hòa giải hoặc cơ chế tòa để giải quyết những đòi hỏi về chủ quyền, nếu cảm thấy cần thiết". Cuối cùng, EU cho biết sự ủng hộ toàn bộ của khối đối với các quá trình do ASEAN đứng đầu (và) một kết thúc nhanh chóng theo cách minh bạch, đối với các thảo luận về một Bộ Quy tắc về ứng xử có hiệu quả, thực chất và có tính ràng buộc về pháp lý.
Việc Việt Nam kêu gọi sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế để giải quyết những căng thẳng hiện tại ở Bãi Tư Chính đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ Mỹ. Nhật, Australia, và EU đã bày tỏ những quan ngại sâu sắc về những diễn biến gần đây mà không nêu tên Trung Quốc. Khi xem xét toàn bộ phản ứng của cộng đồng quốc tế, có thể thấy có 3 điểm chính : quan ngại về những đe dọa cho hoạt động sản xuất dầu khí, sự cần thiết phải tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng tài và quyền lợi của các bên thứ ba trong kết quả đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc về Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC).
Carl Thayer
Nguồn : RFA, 21/10/2019
_______________________
Carl Thayer là giáo sư thuộc trường Đại học New South Wales, Canberra, Australia. Ông là người đóng góp cho RFA các bài phân tích về ảnh hưởng của Trung Quốc tới Việt Nam.
Làm thế nào để cản phá "Mục tiêu điên cuồng" của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính ?
LTS : Hơn 3 tháng nay, Trung Quốc nhiều lần đưa các đội tàu xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (khu vực Bãi Tư Chính) nhằm thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông và thực hiện chiến lược biến Trung Quốc thành cường quốc đại dương.
Tàu hải cảnh 3901 và tàu Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc hoạt động trái phép tại khu vực bãi Phúc Tần - Tư Chính
Hành động của Trung Quốc không chỉ vi phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam mà còn thách thức luật pháp quốc tế, đặc biệt là thách thức Bản Hiến chương về đại dương, tức là Công ước về Luật Biển của Liên hiệp Quốc (UNCLOS-1982) mà Trung Quốc đã đặt bút ký, vi phạm nghiêm trọng an ninh khu vực và thế giới, đặc biệt đe dọa an ninh năng lượng không chỉ của Việt Nam mà còn của các đối tác liên quan như Tây Ban Nha, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, và cả Hoa Kỳ nữa. Khủng hoảng Bãi Tư Chính không chỉ xảy ra trong mấy tháng vừa rồi mà trước đó đã xảy ra vào các năm 2014, 2017 và 2018. Bằng nhiều biện pháp, từ "ngoại giao pháo hạm" đến "vừa ăn cướp vừa la làng", từ dùng sức mạnh "cứng" đe dọa đến đẩy mạnh "tam chủng chiến pháp",… Trung Quốc dường như đang muốn bắt cả dân tộc Việt Nam làm "con tin" cho chính sách bành trướng của họ. Trong chuyên mục Khách mời Tạp chí số 396 ngày 10/9, Văn Hóa Nghệ An đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng - Phó Viện trưởng Viện Các vấn đề phát triển (VIDS), Thư ký "Chương trình Minh triết làm chủ Biển Đông" về ý đồ của Trung Quốc trong việc kéo dài khủng hoảng quanh khu vực Tư Chính, khả năng bảo vệ chủ quyền của Việt Nam và một số kiến nghị liên quan đến cuộc đấu tranh ngoại giao và pháp lý với Trung Quốc. Tiếp theo câu chuyện này, khách mời của Văn Hóa Nghệ An kỳ này là Tiến sĩ Toán học Nguyễn Ngọc Chu.
Văn Hóa Nghệ An
***************
Tiến sĩ Toán học Nguyễn Ngọc Chu
Chu Thị Xuyến : Chào Tiến sĩ, dù không muốn bàn chuyện chính sự nhưng đã là con dân đất Việt, không ai có thể thờ ơ trước việc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc đang bị xâm phạm. Theo Tiến sĩ, Việt Nam cần có sách lược gì để giải quyết khủng hoảng ở Bãi Tư Chính ?
Nguyễn Ngọc Chu : Muốn có sách lược đúng về Bãi Tư Chính cần phải nhìn xuyên thấu tâm can của Trung Quốc không chỉ ở Bãi Tư Chính, không chỉ ở Biển Đông Nam Á, mà còn là ở mộng bá chủ toàn cầu. Càng nhìn xa được về chủ đích của Trung Quốc càng có đối sách thích hợp. Trong đó quan trọng hàng đầu là thiết lập các quan hệ chiến lược.
Chu Thị Xuyến : Ý ông muốn nói, mục tiêu của Trung Quốc không chỉ ở Bãi Tư Chính ?
Nguyễn Ngọc Chu : Đúng vậy ! Mục tiêu xuyên suốt và không khoan nhượng của Trung Quốc là chiếm trọn Biển Đông Nam Á. Để làm việc này thì phải biến đường lưỡi bò từ nét bút viển vông của kẻ điên thành biên giới lãnh hải thực tế của Trung Quốc. Từ đó, Trung Quốc sẽ trở thành chủ nhân toàn bộ vùng biển và vùng trời ở Biển Đông Nam Á. Trung Quốc sẽ khai thác tài nguyên, thủy sản, và kiểm soát lưu thông trên biển và trên trời toàn bộ khu vực Biển Đông Nam Á.
Bãi Tư Chính là điểm xa nhất của đường lưỡi bò so với điểm cực nam của đảo Hải Nam. Trung Quốc xem Bãi Tư Chính là tiền đồn của đường lưỡi bò, là nơi mở rộng xa nhất lãnh thổ của Trung Quốc. Cho nên Trung Quốc không khoan nhượng ở Bãi Tư Chính. Có thể nói đó là "Trận chiến (Battle) Bãi Tư Chính".
Trong trường hợp Trung Quốc không thành công ở Bãi Tư Chính, thì Trung Quốc buộc phải giành giật ở điểm lân cận kế tiếp Bãi Tư Chính.
Chu Thị Xuyến : Cả 3 nước Đông Nam Á là Phillipines, Malaysia và Việt Nam đều nằm trong mưu đồ xâm chiếm của Trung Quốc. Theo ông, nước nào là mục tiêu số 1 của Trung Quốc ? Vì Sao ?
Nguyễn Ngọc Chu : Tuy Philippines và Malaysia cùng là nạn nhân bị mất biển như Việt Nam khi Trung Quốc độc chiếm Biển Đông Nam Á, nhưng cái gai phải nhổ số 1 của Trung Quốc là Việt Nam chứ không phải là Philippines hay Malaysia. Đây là nhận thức xuyên suốt của Trung Quốc. Vì sao vậy ? Theo tôi, có 3 lý do chính :
Thứ nhất là bởi vì, khi Trung Quốc chiếm trọn đường lưỡi bò, thì Việt Nam là nước chịu mất mát lớn nhất trong ba nước đã nêu : Về lãnh thổ, biển đảo, vùng trời, tài nguyên, thủy sản, không gian sinh tồn, lối ra với thế giới, và tương lai phát triển.
Thứ hai, là hơn thế nữa, Việt Nam là lô cốt cản trở đầu tiên và khó vượt qua nhất trên con đường bành trướng xuống Đông Nam Á của Trung Quốc.
Thứ ba là thêm vào đó, Việt Nam là nước có tiềm lực nhất trong các nước Đông Nam Á để các đối thủ của Trung Quốc có thể liên minh chống lại sự mở rộng thống trị toàn cầu của Trung Quốc.
Tóm lại, Việt Nam là mục tiêu số 1 mà Trung Quốc phải khuất phục trên con đường độc chiếm Biển Đông Nam Á.
Chu Thị Xuyến : Sách lược giải quyết khủng hoảng ở Bãi Tư Chính, như trên ông đã nói - quan trọng hàng đầu là thiết lập các quan hệ chiến lược. Vậy, theo ông, ai là liên minh số 1 của Việt Nam trong cuộc chiến chống lại Trung Quốc độc chiếm Biển Đông Nam Á ?
Nguyễn Ngọc Chu : Sau Việt Nam thì Philippines và Malaysia là hai nước có thiệt hại trực tiếp lớn nhất khi Trung Quốc chiếm trọn đường lưỡi bò. Vì cả hai nước Philippines và Malaysia đều có vùng biển lớn bị Trung Quốc khoanh vào đường lưỡi bò mà Trung Quốc nhất quyết thôn tính.
Tuy vậy, đồng minh số 1 của Việt Nam trong thành lũy cản ngăn Trung Quốc độc chiếm Biển Đông Nam Á là Hoa Kỳ chứ không phải là Philippines hay Malaysia. Tất nhiên, sau Hoa Kỳ còn có các đồng minh khác, tôi sẽ đề cập sau.
Chu Thị Xuyến : Tiến sĩ có thể cho biết những mục đích chính của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính ?
Nguyễn Ngọc Chu : Chưa nói đến các mục tiêu về lãnh thổ, thủy sản, hàng hải, hàng không, quan hệ quốc tế, thì Trung Quốc có 4 mục đích rất rõ ràng ở Bãi Tư Chính về tài nguyên lòng biển.
Một là, cản trở triệt để hoàn toàn không cho Việt Nam tự khai thác dầu khí.
Hai là, cản trở tối đa công cuộc khai thác dầu khí của Việt Nam với liên doanh nước ngoài. Cản trở tối đa có thể dẫn đến cản trở triệt để hoàn toàn - khi đối tác liên doanh của Việt Nam là đối tác yếu.
Ba là, buộc Việt Nam chỉ có thể khai thác chung với Trung Quốc trong sự áp đặt của Trung Quốc.
Bốn là, Trung Quốc tự khai thác, bất chấp Việt Nam và phản ứng quốc tế.
Từ những mục đích đó có thể kết luận rằng "Mục tiêu điên cuồng" của Trung Quốc là tìm mọi cách đặt cho bằng được dàn khoan tại Bãi Tư Chính.
Chu Thị Xuyến : Theo như ông nói thì Bãi Tư Chính được xem là cứ điểm không thể lùi ?
Nguyễn Ngọc Chu : Đúng vậy ! Đây là vấn đề tối quan trọng đối với Việt Nam. Việt Nam phải cản trở bằng được "Mục tiêu điên cuồng" đặt dàn khoan của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính. Thất bại trong việc ngăn cản "Mục tiêu điên cuồng" của Trung Quốc là Việt Nam mất thêm biển đảo cho Trung Quốc.
Chu Thị Xuyến : Vậy, làm thế nào để cản phá "Mục tiêu điên cuồng" của Trung Quốc ?
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chu : Xác định được mục tiêu của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính, Biển Đông Nam Á, và trên toàn cầu - sẽ cho phép Việt Nam lựa chọn được giải pháp ứng phó thích hợp.
Trong các "Bảo bối" để ngăn cản "Mục tiêu điên cuồng" của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính, có thể kể đến 10 "Bảo bối" sau đây :
1. "Bảo bối" pháp lý : Phải kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế về Bãi Tư Chính.
Đây là điều cực kỳ quan trọng và phải gấp rút tiến hành. Chọn vấn đề gì và kiện ở đâu là chuyện của các nhà chuyên môn sẽ bàn sau. Nhưng nhất thiết phải kiện Trung quốc ra Tòa án quốc tế.
Bởi vì :
Một là, không bao giờ giải quyết song phương được với Trung Quốc về Bãi Tư Chính ;
Hai là, sự phán xét của tòa án quốc tế sẽ chứng minh cho toàn thế giới - trong đó nhất là nhân dân Trung Quốc - thấy rõ hành động phi nghĩa của Trung Quốc. Lý lẽ rằng Trung Quốc bất chấp mọi phán xét công lý của quốc tế, nên kiện ra tòa án quốc tế không có giá trị, là lý lẽ mê muội và che dấu bản chất sợ hãi trước Trung Quốc. Chúng ta có chính nghĩa được thừa nhận bởi tòa án quốc tế thì sức mạnh của chúng ta được nhân lên gấp bội, còn Trung Quốc thì trong lòng yếu đi, dẫu ngoài miệng có ngàn lần lớn tiếng.
2. "Bảo bối" thứ hai : Thành lập liên minh quốc tế lên án Trung Quốc về Bãi Tư Chính. Đây là mặt trận ngoại giao.
3. Phải tìm cách thông tin cho nhân dân Trung Quốc biết sự thật về Bãi Tư Chính. Đây là mặt trận truyền thông quan trọng hàng đầu. Khi nhân dân Trung Quốc biết được sự thật thì sức mạnh của nhà cầm quyền Trung Quốc và quân đội Trung Quốc bị suy giảm.
4. Thiết lập đồng minh hạt nhân chống sự xâm lược của Trung Quốc ở bãi Tư Chính, ở Biển Đông Nam Á, và mưu toan thống trị thế giới. Hợp tác toàn diện về quân sự và tập trận chung với các đồng minh hạt nhân quan trọng. Hợp tác kinh tế toàn diện với các nước đồng minh hùng mạnh, trong đó có khai thác tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.
Đồng minh chia thành 5 lớp. Tính "hạt nhân" đi từ lớp 1 trở ra. Đồng minh hạt nhân lớp 1 : Mỹ. Đồng minh hạt nhân lớp 2 : Nhật, EU, Ấn Độ, Úc, Anh, Canada, Israel, Hàn Quốc, Nga. Và đồng minh hạt nhân lớp 3 : Malaysia, Philippines (đây là đồng minh tuy không mạnh về quân sự và có khi thất thường trong đường hướng quan hệ với Trung Quốc, nhưng có chung biển đảo bị Trung Quốc xâm chiếm trực tiếp, nên có nhiều điểm chung). Đồng minh lớp 4 : Các nước chủ chốt trong ASEAN, các nước khác là thành viên NATO. Đồng minh lớp 5 : Một số nước chọn lọc khác còn lại.
Nga là trường hợp đặc biệt. Vì bị cô lâp nên ông Putin phải "liên minh" với Trung Quốc, tuy nhiên trong lòng thì tê tái. Nga biết sự nguy hiểm của Trung Quốc. Khi Nga hết bị Mỹ và EU cô lập thì Nga sẽ giữ quan hệ bình thường với Trung Quốc. Nga có quyền lợi mật thiết và quan hệ truyền thống với Việt Nam. Ngoài mặt Nga có thể trung lập, mà bên trong thì ngầm hỗ trợ - vì quyền lợi hợp tác với Nga và vì ngầm kiềm chế Trung Quốc bởi Trung quốc cũng là đối thủ nguy hiểm trực tiếp của Nga.
Tùy quan hệ song phương, mà một nước có thể di chuyển thay đổi trong các nhóm lớp đồng minh 2,3,4,5.
Thành lập đồng minh hạt nhân là một quá trình. Cần thiết lập tức thì là đồng minh hạt nhân lớp 1 và 2.
5. Nguyên tắc dựa vào công nghệ khắc chế. Đây là điều cực kỳ quan trọng. Muốn làm thất bại việc khai thác dầu khí của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính là phải dựa vào công nghệ khắc chế. Cũng như muốn làm giảm uy lực sức mạnh quân sự của Trung Quốc là phải dựa vào công nghệ khắc chế.
6. Đẩy mạnh sự đồng thuận trong ASEAN, nhất là với Malaysia, Philippines, Indonesia, Singapore, Thái Lan để chống lại sự thâu tóm đường lưỡi bò của Trung Quốc.
7. Kêu gọi sự hiện diện trực tiếp của cảnh sát biển và hải quân Mỹ và các nước khác có mặt tại Biển Đông Nam Á để bảo vệ tự do hàng hải. Tạo điều kiện cho hải quân các nước được sử dụng cơ sở và dịch vụ của Việt Nam trong việc tuần tra tại Biển Đông Nam Á.
Nhờ vào viện trợ kỹ thuật, phương tiện và công nghệ để cản phá Trung Quốc đặt giàn khoan tại Bãi Tư Chính. Nhờ vào viện trợ thông tin để đối phó với Trung Quốc trên biển.
8. Tự cường : Bằng mọi giá, gấp rút tăng cường lực lượng cảnh sát biển, dân quân biển, hải quân và quân đội. Với phương tiện thiết bị thì dựa trên nguyên tắc mua và viện trợ. Tập trung lực lượng quân sự để chuẩn bị cho trường hợp đối đầu xấu nhất ở Bãi Tư Chính, trên biển, và trên đất liền.
9. Gấp rút đổi mới về nhân sự. Trước hết là nhân sự lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước và lãnh đạo Bộ Quốc phòng, sao cho người thực tài được lên nắm quyền.
10. Cải cách thể chế, cải cách quân đội, giải phóng nội lực - để đất nước nhanh chóng hùng mạnh.
Chu Thị Xuyến : Ông có tin Việt Nam có thể cản phá thành công "Mục tiêu điên cuồng" của Trung Quốc ?Và trách nhiệm này trước hết thuộc về ai ?
Nguyễn Ngọc Chu : Phải khẳng định rằng, Việt Nam có khả năng cản phá thành công "Mục tiêu điên cuồng" của Trung Quốc vào thời điểm hiện tại. Vấn đề là ai sẽ đại diện cho Việt Nam đứng ra dẫn đầu để làm điều này ? Đây là lúc cần xuất hiện vai trò cá nhân lịch sử, chứ không phải là tập thể lãnh đạo. Nhưng phải "khắc cốt ghi tâm" rằng càng để lâu càng khó chống lại "Mục tiêu điên cuồng" của Trung Quốc đặt dàn khoan tại Bãi Tư Chính. Nên nhớ rằng trong thập niên 90 của thế kỷ trước, Trung Quốc đến rồi phải rút khỏi Bãi Tư Chính là vì lực chưa đủ mạnh, chưa có khả năng đặt giàn khoan và không thể bảo vệ. Còn hiện nay, Trung Quốc có thể đặt được giàn khoan tại Bãi Tư Chính nhưng đang khó khai thác và đang khó bảo vệ. Chỉ vài năm nữa thôi, Trung Quốc sẽ đặt giàn khoan mà vừa dễ bảo vệ lại vừa có thể khai thác. Cho nên, phải hành động ngay bây giờ khi mà Trung Quốc chưa sở hữu công nghệ khai thác dầu khí hoàn hảo, chưa đủ phương tiện để duy trì việc khai thác dầu khí ở xa và ở độ sâu của đại dương, chưa đủ sức mạnh quân sự vượt trội để bảo đảm thắng lợi tuyệt đối khi một cuộc đối đầu quân sự trên biển xẩy ra.
Hành động muộn là phải mất một phần Bãi Tư Chính cho Trung Quốc. Từ đó sẽ mất thêm rất nhiều vùng đặc quyền kinh tế nữa cho Trung Quốc.
Phải "khắc cốt ghi tâm" rằng nếu Trung Quốc liều lĩnh mang quân tấn công trên bộ thì Trung Quốc sẽ phải nhận lấy thất bại. Nhưng càng phải "khắc cốt ghi tâm" rằng không có đồng minh thì không thể nào cản ngăn được Trung Quốc chiếm thêm biển đảo.
Chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc là muôn đời thiêng liêng. Khi chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị xâm phạm thì trách nhiệm không chỉ ở người cầm quyền mà là trách nhiệm của toàn dân. Chỉ toàn dân mới có đủ trí tuệ và lực lượng để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Toàn dân là tất cả chúng ta. Ai cũng phải có trách nhiệm đóng góp trí tuệ, sức lực, của cải, và cả sinh mạng để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Vì thế, ai nói rằng đã có Bộ Chính trị, Đảng, và Nhà nước lo thì đó chính là kẻ trốn tránh trách nhiệm.
Chu Thị Xuyến : Xin cảm ơn Tiến sĩ về cuộc trao đổi hôm nay !
Chu Thị Xuyến thực hiện
Nguồn : Văn Hóa Nghệ An, 15/10/2019
Tuyên bố của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc vào ngày 18 tháng Chín năm 2019, không những khẳng định vùng biển ở Bãi Tư Chính (nằm ở Đông Nam Việt Nam) là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, mà còn đòi “Việt Nam phải chấm dứt các hoạt động khoan tìm dầu khí đơn phương tại Bãi Tư Chính,” là chưa từng có, rất có thể là bước dọn đường dư luận quốc tế và dư luận tại đại lục để nhảy sang hành động tiếp biến khó lường : Chiến tranh !
Hải quân Việt nam vẫn thường 'tự sướng' với 'tàu buồm Lê Quý Đôn hiện đại nhất thế giới' (!?)
Sau ba lần Trung Quốc gây hấn và lộ rõ ý đồ muốn nuốt gọn Bãi Tư Chính - khu vực màu mỡ nhất về trữ lượng dầu khí và đất hiếm của Việt Nam - vào các năm 2017, 2018 và 2019, giới quan sát chính trị đang đặt dấu hỏi lớn về việc liệu Bộ Quốc phòng Việt Nam có thể gia tăng ngân sách quân sự - khí tài và vũ khí sát thương - để đối phó với Trung Quốc hay không.
Kịch bản ngày càng lộ rõ là Việt Nam khó có thể tránh thoát nguy cơ một cuộc tấn công quân sự, dù có thể chỉ ở cấp độ chiến dịch, từ phía Trung Quốc. Chiến dịch tấn công này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ diễn ra trên biển và rất gần gũi về mặt kinh tuyến và vĩ tuyến với những mỏ dầu mà Việt Nam đang dự định khai thác nhưng nằm trong “đường lưỡi bò” mới được Trung Quốc vẽ bổ sung.
Bước đầu, Trung Quốc có thể tấn công các tàu hải cảnh của Việt Nam đang bảo vệ Bãi Tư Chính. Sau đó, cuộc chiến sẽ leo thang với sự đụng độ giữa các tàu chiến của hai bên.
Tuy nhiên xét về năng lực hải quân thì cho dù có điều động toàn bộ số tàu chiến và hải cảnh ra Biển Đông, phía Việt Nam cũng chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng lượng tàu chiến và hải cảnh của Trung Quốc, chưa kể hàng chục ngàn tàu “thương mại dân sự,” tức tàu cá được bọc sắt, mà Bắc Kinh tung ra như một đòn chiến thuật biển vào những lúc không cần có mặt tàu chiến.
Trên một phương diện tổng quan hơn, nếu so sánh lượng chi phí quốc phòng từ 4- 5 tỷ USD/năm của Việt Nam với con số 177 tỷ USD/năm của Trung Quốc thì càng quá khập khiễng.
Nếu chỉ căn cứ vào vài so sánh trên, hoàn toàn có thể nhận ra tình thế sẽ khó lòng cầm cự được lâu của Hải Quân Việt Nam nếu nổ ra chiến tranh ở Biển Đông.
Còn nếu xét về ý chí “hải quân bám bờ” trong suốt thời gian nhiều năm qua thì chẳng có hy vọng gì về việc Hải Quân Việt Nam dám can đảm chống cự tàu Trung Quốc khi bị tấn công, thậm chí cảnh “bỏ của chạy lấy người” còn có thể lan tỏa rộng – đúng theo phương cách “chống giặc bằng cờ” mà giới chóp bu Việt Nam đang đốc thúc phát 1 triệu lá cờ đỏ sao vàng cho ngư dân để “bám biển.”
Nhưng nguy cơ mất Bãi Tư Chính, và còn có thể dẫn tới mất cả quân đảo Trường Sa, lại là cơ hội để Bộ Quốc phòng ‘vòi’ thêm tiền từ ngân sách.
Cơ quan Bộ Quốc phòng và các lực lượng biên phòng, trong khi đã chưa làm được bất kỳ động tác điều tra ra hồn nào để chỉ đích danh thủ phạm là các tàu Trung Quốc và người Trung Quốc đã đâm va, bắn giết và gây ra nhiều cái chết không thể nhắm mắt của ngư dân Việt, lại thường tự hào có đến 6 tàu ngầm lớp kilo tân trang mua lại của người Nga mà phải bỏ đến hàng tỷ USD hoặc hơn, hoặc ‘tàu buồn Lê Quý Đôn hiện đại nhất thế giới’…
Thế nhưng càng về những năm sau này, kinh phí ngân sách rót cho ngành quốc phòng, dù vẫn tăng lên đều đặn, nhung càng bị chặn trên bởi nạn túi thủng ngân khố, đặc biệt là nạn túi thủng ngoại tệ.
Bất chấp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc luôn tự sướng với bài ca ‘dự trữ ngoại hối tăng cao chưa từng có’, con số từ 60 - 70 tỷ UDD dự trữ ngoại hối hiện thời mới chỉ đủ đáp ứng cho tiêu chí tối thiểu 3 tháng nhập khẩu, ngoài ra còn phải bảo đảm ổn định thị trường ngoại hối, chi dùng cho đội ngũ ‘còn đảng còn mình’, và đương nhiên phải tính đến việc trả số nợ nước ngoài - cả gốc lẫn lãi - lên đến hàng chục tỷ USD mỗi năm.
Vậy trong tình cảnh đó, làm thế nào Bộ Chính trị và Bộ Quốc phòng Việt Nam có gan chạy đua vũ trang với Trung Quốc ? Hoặc giả có dám gia tăng ngân sách quốc phòng, tất cả cũng chỉ là tiền thuế của dân và đổ núi nợ lên đầu các đời con cháu ‘tương lai của đất nước’.
Vả lại, khi tàu Trung Quốc đã sát gần Bãi Tư Chính và các bờ biển Phan Thiết, Phan Rang, Phú Yên…, không còn thời gian cho Bộ Quốc phòng chạy đua vũ trang nữa.
Lối thoát phòng vệ quân sự duy nhất hiện thời của giới chóp bu Việt Nam chỉ còn là phải tìm cách dựa dẫm ngay một lực lượng quân sự sẵn có và hùng hậu của nước ngoài.
Lực lượng đó chính là Hoa Kỳ - đối trọng quân sự duy nhất với Trng Quốc ở Biển Đông.
Nhưng ‘dựa’ như thế nào khi vẫn nhắm mắt đu dây chính trị cùng nguyên tắc ‘Ba không’ gậy ông đập lưng ông ?
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 13/10/2019