Những việc Hà Nội cần làm khi tàu Hải dương Địa chất 8 quay lại !
Diễm Thi, RFA, 15/08/2019
Tàu thăm dò Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc đã trở lại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phía Nam Biển Đông của Việt Nam hôm 13/8. Lần trở lại này có sự hộ tống của những tàu Hải cảnh thuộc đội được cho là chủ lực của Trung Quốc.
Một lính hải quân trên tàu USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng hôm 5/3/2018. Reuters
Mục tiêu trở lại
Hoạt động quay lại của Tàu Hải dương Địa chất 8 và các tàu hải cảnh của Trung Quốc từng được một số chuyên gia cảnh báo.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, Nhà nghiên cứu cao cấp về lợi ích chiến lược và chiến lược quốc tế từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, nói với RFA :
"Nó sẽ khảo sát tiếp vì vùng khảo sát rất rộng, đến 36 ngàn cây số vuông. Kể cả nó khảo sát rồi thì nó cũng khảo sát lại một hoặc hai lần nữa để nó đối chiếu với lần trước xem có gì khác biệt hay không. Đó là về mặt kỹ thuật. Trên cơ sở đối chiếu hai lần khảo sát nó sẽ khẳng định dưới thềm lục địa có trữ lượng dầu, khí hoặc cả dầu cả khí đủ để nó tiến hành khai thác hay không.
Còn một thứ nữa là dầu đá phiến nằm trong các lớp đá xốp dưới đáy biển vùng này có trữ lượng nhiều gấp hàng triệu lần dầu mỏ bình thường".
Ngay khi tàu HD 8 rút đi, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cũng đã nhận định tàu này sẽ quay trở lại, bởi tàu này chỉ đủ dầu, lương thực và máy móc chạy trong 40 đến 42 ngày. Sau đó nó phải rút ra đảo Chữ Thập để lấy dầu, lấy nước, lấy lương thực, kiểm tra hoặc thay một số máy móc rồi sẽ quay lại.
Nhà nghiên cứu Biển Đông, ông Đinh Kim Phúc lại có đánh giá việc quay lại này cũng không nhằm mục đích như lần thứ nhất, đó là trước cuộc chiến tranh kinh tế Mỹ - Trung, Trung Quốc thiệt hại rất nặng nề, và ông Tập Cần Bình cần phải vực dậy uy tín trong tình hình có những biến động quanh Hoa Lục:
"Uy tín của Tập Cận Bình hiện nay đối với nhà tư bản Trung Quốc cũng như các nhà đầu tư nước ngoài không còn giống như những năm đầu cầm quyền của Tập Cận Bình nữa, và Tập cần phải thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc.
Nếu như ở Hong Kong, ở Đài Loan thì Tập Cận Bình rất khó thúc đẩy để cứu vãn cho những khó khăn của Tập Cận Bình trong cuộc chiến tranh kinh tế Mỹ - Trung thì tập chọn vùng Biển Đông của Việt Nam".
Thạc sĩ Hoàng Việt, một thành viên của Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông, cho rằng mục đích của Trung Quốc khi quay trở lại lần này là tạo áp lực để Việt Nam buông xuôi. Ông nói:
"Trung Quốc sẽ tăng áp lực lên khu vực (không phải bãi Tư Chính) một số lô, như lô 06, lô 01, lô 159, lô 160 ở vùng trũng Nam Côn Sơn. Có thể Trung Quốc sẽ điều những đội tàu hộ tống đông hơn với mục đích để phía Việt Nam cảm thấy mệt, cảm thấy bị áp lực và buông xuôi. Đó là điều Trung Quốc muốn làm. Vì vậy cho nên chắc chắn trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh áp lực hơn nữa".
Hiến kế giải pháp cho Việt Nam
Hai sĩ quan hải quân Việt Nam trên tàu cứu hộ và cứu hộ USNS trong một cuộc huấn luyện tại cảng Tiến Sa, Đà Nẵng vào ngày 25/12/2012. AFP
Vậy Việt Nam cần phải làm gì để Trung Quốc phải rút ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam một cách chính thức chứ không chỉ đi tiếp dầu rồi quay lại, dù Việt Nam cho rằng tàu Hải dương Địa chất 8 rút di là do chính phủ Việt Nam đã có những biện pháp đúng đắn, sáng suốt như bài báo trên Hà Nội Mới ngày 12/8 vừa qua rằng : "Việc nhóm tàu Trung Quốc buộc phải rút khỏi bãi Tư Chính một lần nữa cho thấy, Đảng, Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm, đặt nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo lên hàng đầu và từ đó có các giải pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả, trên tinh thần "dĩ bất biến, ứng vạn biến".
Thạc sĩ Hoàng Việt thừa nhận Việt Nam hiện không im lặng mà đang tìm cách buộc tàu Trung Quốc rút lui :
"Thứ nhất là Việt Nam đang phải chiến đấu trên thực địa, nghĩa là chúng ta cũng phải thi gan và bộc lộ ý chí với Trung Quốc. Trung Quốc tới đâu thì chúng ta cũng phải tìm mọi cách kiên trì để buộc Trung Quốc ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của chúng ta, giống như Việt Nam đã làm năm 2014.
Nếu chúng ta chiến đấu trên thực địa không tốt thì xuất hiện của Trung Quốc nó sẽ trở thành thường xuyên và trên thực tế, giống như trường hợp Trung Quốc đã làm Scarborough của Philippines năm 2012".
Theo Thạc sĩ Hoàng Việt giữ vững trên thực địa là việc lớn thứ nhất mà Hà Nội phải làm trong khi sử dụng biện pháp hòa bình nhưng kiên quyết để buộc tàu thăm dò HD 8 cùng đội tàu của Trung Quốc ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; Thứ hai là Việt Nam phải gửi thông điệp đến cộng đồng quốc tế để kêu gọi quốc tế lên án Trung Quốc.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cũng có cùng nhận định khi cho rằng Việt Nam không bị động, vẫn đấu tranh theo cách cũ là đối ngoại, nhưng việc cần làm bây giờ là phải tính đến biện pháp pháp lý, tức là phải đưa ra tòa, nhưng sẽ mất thời gian.
Theo ông thì chính quyền Việt Nam không sợ chính quyền Trung Quốc ; tuy nhiên nếu buộc phải đưa ra tòa thì phải làm sao để thủ tục phân xử xảy ra nhanh nhất, vì nếu xảy ra càng chậm thì Trung Quốc càng giở những trò mà Hà Nội không lường hết được như trừng phạt kinh tế, phá hoại, khuấy đảo… Ông đưa ra một giải pháp :
"Bây giờ họ tính nếu kiện theo cách mời Trung Quốc ra Ủy ban Xem xét Giới hạn thềm lục địa, được lập năm 1982 theo Công ước luật biển của Liên Hiệp Quốc - Ủy ban này có một nhiệm vụ rõ ràng là giúp cho Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc giải thích nội dung luật của Công ước về Luật biển - thì Trung Quốc không thể từ chối. Đấy là một cách.
Còn những khả năng nữa là đưa ra tòa, chẳng hạn như tòa PCA mà Manila (Philippines) đã đưa năm 2013 và nhận được phán quyết rất tốt năm 2016".
Theo nhận định của một số nhà quan sát thì nếu Trung Quốc tiến hành khai thác sau khi hoàn tất thăm dò thì mọi việc sẽ diễn biến theo tình hình rất xấu, bởi không nước nào chịu khoanh tay đứng nhìn "ăn cướp" vô nhà. Nhưng theo Thạc sĩ Hoàng Việt thì khả năng nổ súng là rất thấp vì Trung Quốc không dám và cũng không muốn nổ súng. Còn phía Việt Nam thì đương nhiên càng không muốn nổ súng, vì nếu Việt Nam nổ súng sẽ tạo cớ cho Trung Quốc tấn công vũ lực Việt Nam.
Vào ngày 3/7/2019, Trung Quốc điều tàu Hải Dương Địa chất 8 được hộ tống bởi 4 tàu hải cảnh và một tàu dân binh, tới khu vực phía bắc Bãi Tư Chính. Trong quá trình thăm dò địa chấn, Trung Quốc đã điều hàng chục tàu các loại vào vùng biển Việt Nam mà theo Giáo sư Carl Thayer, lúc nhiều nhất lên tới 80 chiếc.
Đến ngày 7/8/2019, tàu Hải Dương Địa chất 8 rút khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và neo đậu ở Đá Chữ Thập thuộc Quần đảo Trường Sa, nơi Trung Quốc kiểm soát từ năm 1988 đến nay.
Đảo này nay là một trong bảy tiền đồn mà Trung Quốc bồi lấp từ các bãi đá thành đảo nhân tạo rồi xây dựng thành căn cứ quân sự, trang bị vũ khí hiện đại trên đó.
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 15/08/2019
*******************
'Trung Quốc không chỉ đe dọa riêng Việt Nam'
Hà Hoàng Hợp, BBC, 15/08/2019
Manila vừa yêu cầu Bắc Kinh giải thích việc Trung Quốc điều các tàu của nước này vào vùng biển mà Philippines tuyên bố chủ quyền mà không được phép trong suốt thời gian từ tháng Hai đến tháng Bảy, theo trang tin Thời báo Hải quân (navytimes.com) hôm 14/8/2019.
Người biểu tình Philippines cầm biểu ngữ yêu cầu Trung Quốc rời khỏi vùng biển của Philippines trên Biển Đông
Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana yêu cầu Bắc Kinh giải thích về hoạt động của các tàu nghiên cứu và tàu chiến Trung Quốc trong những gì Philippines tuyên bố là vùng biển của mình mà không được phép của Manila.
Động thái này được đưa ra ngay trước thềm chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Rodriogo Duterte, tại đó lãnh đạo Philippines cam kết sẽ nhắc lại phán quyết của tòa PCA mà Philippines đã thắng kiện trước Trung Quốc tháng 7/2016.
Bộ trưởng Lorenzana nói hôm thứ Sáu tuần trước rằng Trung Quốc đã không xin phép khi phái một số tàu chiến qua eo biển Sibutu ở mũi phía Nam của quần đảo Philippines tất cả bốn lần trong thời gian trên, và ông cũng nói hai tàu khảo sát của Trung Quốc cũng đã hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
"Hai tàu chiến Trung Quốc bị phát hiện ở dọc eo biển Sibutu ở tỉnh Tawi-Tawi của Philippines trong tháng Bảy và ba chiếc khác bị phát hiện trong tháng Tám", Trung tướng Cirilito Sobejana, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Tây Mindanao của Philippines được truyền thông nước này dẫn lời, hôm 14/8 tuyên bố thêm.
"Trung Quốc từ lâu đã có các hành động đơn phương trái luật, khiêu khích, dọa nạt 3 trong 4 nước có tuyên bố chủ quyền ở biển Đông, gồm Việt Nam, Malaysia, Philippines"... một nhà nghiên cứu Đông Nam Á và chính trị khu vực bình luận với BBC News Tiếng Việt hôm thứ Năm về động thái trên.
"Chiến lược của Trung Quốc được tính toán kỹ, có những lúc Trung Quốc đã liều lĩnh, và sẽ còn liều lĩnh", Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nêu quan điểm trong cuộc phỏng vấn qua bút đàm hôm 15/8 sau đây, trong đó ông cũng bình luận về sự kiện Trung Quốc điều tàu trở lại khu vực bãi Tư Chính lần thứ hai trong mùa Hè này.
BBC : Tiến sĩ bình luận thế nào về việc Trung Quốc được cho là điều nhiều tàu vào vùng biển mà Philippines tuyên bố chủ quyền trong tháng Bảy và tháng Tám này, cùng thời gian với sự kiện đối đầu với Việt Nam diễn ra ở khu vực Bãi Tư Chính ?
Hà Hoàng Hợp : Số tàu chiến (của hải quân) Trung Quốc đi vào vùng biển thuộc chủ quyền của Philippines mà không báo trước, là hành động vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế.
Bộ Ngoại giao Philippines mới đây đã yêu cầu Trung Quốc giải thích. Theo luật quốc tế, tàu chiến đi vào vùng biển của một nước nào đó, thì phải xin phép. Nếu không, nước chủ nhà sẽ coi đó là đi qua không vô hại. Gần đồng nghĩa với xâm lấn, xâm lược.
Manila để đến nay mới phản ứng. Manila muốn có bằng chứng đầy đủ về hành vi xâm phạm chủ quyền này của Trung Quốc.
Cách thức phản ứng
BBC : Cách thức phản ứng của phía Philippines có gì đáng nói ? Có gì khác biệt không với cách thức mà Việt Nam đã đang phản ứng đợt này ?
Hà Hoàng Hợp : Tất cả các tàu hải cảnh của Trung Quốc đều là tàu thuộc lực lượng vũ trang Trung Quốc. Các tàu đó đi kèm để bảo vệ tàu thăm dò, hoặc đi vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong tháng 5 và tháng 6 để quấy rối hoạt động khai thác dầu khí của liên doanh dầu khí VN-Rosneft chính là hành động xâm phạm phi pháp.
Từ ngày 16 tháng Bảy, Việt Nam đã phản đối và sau đó đã nhiều lần yêu cầu các tàu đó rời vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Cụ thể hơn về luật pháp quốc tế, tàu cảnh sát biển của bất kỳ nước nào, trước khi vào vùng biển thuộc chủ quyền của một nước khác, cũng phải thông báo trước.
Tuy nhiên, quy chế thông báo trước áp dụng chặt chẽ hơn đối với tàu chiến (tức là tàu hải quân). Phản ứng của Manila hoàn toàn phù hợp. Phản ứng của Việt Nam vừa qua, cũng hoàn toàn phù hợp.
BBC : Dường như Trung Quốc đang có một tính toán để xuất hiện không chỉ riêng ở một quốc gia đơn lẻ ở vùng Biển và khu vực này, kế hoạch và tính toán của Trung Quốc là gì ? Kế hoạch này có khả thi không và có gì mạo hiểm không ?
Hà Hoàng Hợp : Trung Quốc từ lâu đã có các hành động đơn phương trái luật, khiêu khích, dọa nạt 3 trong 4 nước có tuyên bố chủ quyền ở biển Đông, gồm Việt Nam, Malaysia, Philippines. Nghiêm trọng nhất, là vụ Trung Quốc dùng tàu chiến chiếm Scarborough của Philippines năm 2012.
Xin nhắc lại năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam ; năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm Gạc Ma. Chiến lược của Trung Quốc được tính toán kỹ, có những lúc Trung Quốc đã liều lĩnh, và sẽ còn liều lĩnh.
BBC : Ngày 13/8/2019 diễn ra cuộc gặp giữa ông Dương Khiết Trì, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban Công tác Ngoại sự Trung ương của Đảng cộng sản Trung Quốc và ông Mike Pompeo, Ngoại trưởng Mỹ, tại Hoa Kỳ, cuộc gặp này có thể có ý nghĩa ra sao với an ninh ở Biển Đông và khu vực ?
Hà Hoàng Hợp : Theo tôi được biết, cuộc gặp Dương Khiết Trì - Mike Pompeo tại Mỹ có các nội dung : quan hệ Trung - Mỹ (chiến tranh thương mại, Đài Loan, Hong Kong).
Mở rộng các khu vực quan hệ, hai ông đó đã thảo luận các vấn đề : phi hạt nhân hóa Triều Tiên và hành xử của Bình Nhưỡng, vấn đề Hoa Đông, vấn đề biển Đông, Tân Cương, Trung-Ấn.
Riêng về vấn đề Biển Đông, có nguồn tin đáng tin cậy cho biết ông Pompeo cảnh báo nghiêm khắc các hành động của Trung Quốc ở biển Đông, nhấn mạnh vụ bãi Tư Chính, vụ quấy phá trong vùng đặc quyền kinh tế Malaysia, và các quấy phá ở vùng biển Philippines.
Mỹ nhắc Trung Quốc rằng Mỹ và các nước phương Tây đang theo tôn trọng trật tự quốc tế dựa trên các quy tắc. Trung Quốc không thể bất chấp luật pháp quốc tế, và không được phép tiếp tục không coi luật pháp quốc tế ra gì ! Đấy là thông điệp rõ rệt nhất.
Sau cuộc gặp kể trên, chúng ta thấy tổng thống Mỹ Donald Trump nói rằng Mỹ chỉ ký thỏa thuận thương mại với Trung Quốc khi Trung Quốc cư xử tử tế với Hong Kong.
Hải quân Nga hiện diện ?
BBC : Có tin nói hải quân Nga đang có sự hiện diện ở khu vực gần Bãi Tư Chính, nếu tin này là có cơ sở, thì việc này có ý nghĩa gì ?
Ông Dương Khiết Trì trong lần gặp ông Mike Pompeo tại Washington DC 9/11/2018 tại Đối ngoại ngoại giao và an ninh Mỹ-Trung
Hà Hoàng Hợp : Về thông tin có các tàu hải quân Nga ở gần bãi Tư Chính, tôi có thể nói như sau. Nga là một cường quốc biển. Hải quân Nga là hải quân mạnh mẽ hàng đầu trên thế giới.
Vì thế sự có mặt của tàu hải quân, của các máy bay ném bom chiến lược của Nga ở hải phận quốc tế, kể cả vừng hải phận quốc tế gần với Trường Sa, gần với bãi Tư Chính... là việc rất bình thường.
Nếu có tàu hải quân Nga ở gần bãi Tư Chính, thì đó là một minh chứng rõ rệt thể hiện sự nhất quán của Nga trong việc bảo vệ các lợi ích của Nga. Việc tháng trước, tàu hải cảnh Trung Quốc quấy việc khoan của liên doanh Nga - Việt, là trực tiếp đe dọa đến lợi ích của Nga.
Hiện nay việc tàu thăm dò Trung Quốc tiếp tục có mặt ở vũng bãi Tư Chính, là hành vi đe dọa gián tiếp đến lợi ích của Nga, nếu chỉ nói đến Nga. Không có bất kỳ thỏa thuận nào giữa Trung Quốc và Nga có thể làm thay đổi bản chất của hành vi này của Trung Quốc.
BBC : Ông so sánh ra sao các phản ứng giữa một số cường quốc và khối quốc gia ở khu vực liên quan tới các sự kiện ở Bãi Tư Chính trong hai tháng nay, trong đó có Úc, Ấn Độ, Asean so với Mỹ và Nhật Bản ?
Hà Hoàng Hợp : Tôi xin nói luôn rằng ở đây mà so sánh thì nó hơi khập khiễng. Mỗi nước đều có cách phản ứng của mình, nước phản ứng sớm, nước phản ứng muộn.
Tuy vậy, mọi phản ứng, đều có bản chất lên án các hành động bất tuân thủ luật pháp quốc tế, lên án những việc làm gây ra sự mất niềm tin chiến lược trong khu vực, lên án các hành động làm căng thẳng, ảnh hưởng xấu đến an ninh khu vực....
Riêng về ASEAN, đang trong quá trình đàm phán COC với Trung Quốc, quá trình này bắt đầu không còn mặn mà đối với ASEAN, bởi vì Trung Quốc vừa đàm phán, vừa dọa nạt các nước ASEAN.
Về nội dung dự thảo COC, Trung Quốc có 3 đòi hỏi vô lý : 1) Không đưa nội dung UNCLOS 1982 vào COC ; 2) Không được tập trận chung với bất kỳ nước nào bên ngoài Asean (cộng Trung Quốc) nếu không được dự đồng ý trước của tất cả các nước Asean + Trung Quốc ; và 3) Không được tiến hành các hoạt động kinh tế với bất kỳ nước nào bên ngoài mà không được sự đồng ý của tất cả các nước Asean và Trung Quốc.
Chắc chắn các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông không chấp nhận 3 đòi hỏi này. Việt Nam đã nhiều lần nói rằng Việt Nam không để bị động hay bất ngờ. Việc sử dụng các biện pháp hòa bình, chứng tỏ Việt Nam không mong muốn xảy ra xung đột vũ trang.
Nói đúng hơn, Việt Nam làm mọi cách để ngăn chặn xung đột vũ trang trong khi xử lý các vấn đề Biển Đông. Thế nhưng, nếu Trung Quốc, trong khi coi thường luật quốc tế, gây ra đụng độ vũ trang, thì chắc chắn Việt Nam sẽ buộc phải giáng trả tương xứng !
Mất niềm tin chiến lược ?
BBC : Cuối cùng, có người nói sự kiện giàn khoan HD-981 năm 2014 và Bãi Tư Chính mùa Hè 2019 là hai cuộc khủng hoảng ở Biển Đông đối với Việt Nam và hai cuộc khủng hoảng này có thể sẽ chỉ đẩy Việt Nam lại gần hơn với Hoa Kỳ và sẽ bất lợi với Trung Quốc và do đó Trung Quốc nên nhận thức điều đó, ông có đồng ý không ?
Hà Hoàng Hợp : Nói chính xác hơn, thì hành xử vô lối của Trung Quốc đang làm Việt Nam xa Trung Quốc nhiều hơn. Năm 2014, Trung Quốc đã làm mất niềm tin chiến lược đối với Việt Nam.
Từ đó đến vụ bãi Tư Chính năm nay, mọi nỗ lực để làm cho "canh ngọt'' trở lại, nước trà "ngon, đậm trở lại"", đều đã gần như vô ích ! Hành xử của Trung Quốc như lúc này, làm cho Việt Nam nhận thức rõ hơn, tích cực hơn về việc Mỹ, trong khi bảo vệ lợi ích của Mỹ ở khu vực này, thì cũng hợp tác và ủng hộ Việt Nam nhiều hơn, khi mà lợi ích của Mỹ và của Việt Nam có các phần chung.
Việt Nam luôn chủ động, đúng như người ta vẫn nói, thì đương nhiên, không ai "đẩy" Việt Nam gần lại với Mỹ.
Nhân đây, tôi cũng muốn nói đến Sách trắng Quốc phòng Trung Quốc công bố ngày 24/7/2019, trong đó coi Biển Đông là bộ phận lãnh thổ "không thể bị tách rời" của Trung Quốc. Trung Quốc tuyên bố bảo vệ "chủ quyền" của Trung Quốc ở Biển Đông bằng mọi giá, thì chắc chắn Trung Quốc đã tính toán đến các hành động không hòa bình.
Dọa nạt, đe dọa sử dụng vũ lực... là các chỉ dấu màu xám báo hiệu các hành động không hòa bình ! Việt Nam đang theo đuổi chính sách thực tiễn (realist), tức là chủ động tránh xung đột, trong khi vẫn giữ được lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Hy vọng rằng sẽ không có bất cứ nước nào dồn Việt Nam vào thế phải áp dụng chính sách thực dụng (realpolitik) để giáng trả đích đáng. Nói như vậy, ngoài lợi ích quốc gia là bất biến, mọi chính sách đều phải thay đổi sao cho lợi ích quốc gia được bảo đảm !
Quốc Phương thực hiện
Nguồn : BBC, 15/08/2019
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, mà phần trả lời ở trên là quan điểm cá nhân, đồng thời là thành viên nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS) có trụ sở tại London, Anh quốc, ông có nhiều nghiên cứu và phân tích về chính trị, chiến lược và địa chính trị liên quan Việt Nam, quốc tế và khu vực.
*********************
Hải Dương 8 giai đoạn 2 sẽ khó chịu hơn hẳn giai đoạn đầu ?
Thường Sơn, VNTB, 15/08/20149
Trái ngược hoàn toàn với lối ‘tự sướng’ cho rằng nhờ "công tác đấu tranh quốc tế đầy khôn khéo và sáng tạo của đảng và nhà nước ta nên đã đẩy đuổi được tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc khỏi Bãi Tư Chính", cũng tàu Hải Dương 8 đã tái xuất không phải ở đâu khác mà chính ngay Bãi Tư Chính, không đầy một tuần sau khi tàu này tạm thời ‘đi chơi’.
Giàn khoan Đông Phương đang hờm sẵn ở Biển Đông mà có thể lao vào Bãi Tư Chính bất cứ lúc nào.
Cùng lúc với sự xuất hiện trở lại của Hải Dương 8, đã có những tin tức không chính thức nhưng có vẻ đáng tin cậy về việc tàu này đã dùng mạn sườn của nó để đâm va với tàu hải cảnh của Việt Nam. Đồng thời, có tin chính thức về việc tàu Trung Quốc đẩy đuổi tàu cá của ngư dân Việt ra khỏi vùng biển ‘thuộc chủ quyền không tể tranh cãi của Việt Nam".
Tình hình trên cho thấy phía Trung Quốc còn lâu mới muốn rút Hải Dương 8 và các tàu hải cảnh bảo vệ cho nó khỏi Bãi Tư Chính. Ngay trước mắt, khảng thời gian mà Hải Dương 8 hoành hành ở khu vực này có thể ít nhất sẽ bằng với khoảng thời gian của giai đoạn đầu tiên của nó, tức hơn một tháng.
Vào năm 2014, biến cố Hải Dương 981 đã kéo dài suốt vài tháng và gây ra một cơn chấn động lớn trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam.
Trong suốt thời gian hai tháng trời phải đối mặt với Hải Dương 981, phía Việt Nam đã chỉ ‘vận động thuyết phục’ và đánh võ miệng trên mặt trận ngoại giao, nhưng không dám có bất cứ hành động đủ mạnh mẽ nào nhằm đẩy đuổi giàn khoan Trung Quốc. Thậm chí, cơ hội quá đầy đủ cho việc kiện Trung Quốc theo Công ước Liên hiệp quốc về luật Biển UNCLOS 1982 cũng không được giới chóp bu Việt Nam tận dụng. Rốt cuộc là giới lãnh đạo Bắc Kinh đã nắm thóp được não trạng chưa đánh đã sợ và tâm lý tác chiến đến mức ‘đái ra quần’ của những đồng chí tốt ở Việt Nam.
Nhân đà đó, Hải Dương 981 đã có một màn khiêu vũ lòng vòng ở biển Đông, hết nằm một chỗ lại di chuyển vòng quanh nhưng chưa chịu ra khỏi vùng chồng lấn. Chỉ sau một thời gian diễu binh như thế, giàn khoan này mới thực sự rút về nước.
Bài toán giờ đây còn nhiều ẩn số hơn cả giai đoạn đầu khi Hải Dương 8 bất thần xuất hiện.
Ngay cả khi quyết định chính thức rút Hải Dương 8 khỏi Bãi Tư Chính, phía Trung Quốc vẫn có thể thay thế tàu này bằng một hoặc một nhóm tàu mang tên Hải Dương khác mà Trung Quốc luôn nắm sẵn trong tay, tiếp tục gây ra một chiến dịch ‘vờn tàu’ với phía Việt Nam, nhưng ở quy mô lớn hơn và phạm vi rộng hơn. Thậm chí có thể nổ súng.
Hay ứng với kịch bản được cho là tồi tệ nhất hiện nay, nếu chưa tính đến kịch bản Trung Quốc gây ra một cuộc xung đột quân sự trên biển với lực lượng tàu chiến áp đảo hải quân Việt Nam, là tàu Hải Dương 8 sẽ được thay thế bằng một giàn khoan lớn, tức ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất của Việt Nam’ chẳng còn muốn ngụy trang bằng việc thăm dò khảo sát địa chất biển nữa, mà sẽ lao thẳng vào Bãi Tư Chính nhằm ăn cướp dầu - nguồn tài nguyên thên nhiên gần như duy nhất còn lại để chính thể độ tài ở Việt Nam dùng để nuôi đảng…
Trong thực tế, đã có những dấu hiệu khá rõ về một giàn khoan khổng lồ được Trung Quốc hờm sẵn ở Biển Đông.
Vào tháng 4 năm 2019, Trung Quốc đã thình lình tung ra động thái đưa giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai là Đông Phương vào Lưu vực Yinggehai ở Biển Đông. Giàn khoan này nặng 17.247 tấn, tương đương với 10 nghìn chiếc xe ôtô thông thường và rộng bằng một sân bóng đá và không thua kém gì giàn khoan Hải Dương 981 mà đã ngự trị ở Biển Đông trong năm 2014. Vụ Đông Phương hờm sẵn kịch bản tái hiện hải Dương 981 hiện ra trong bối cảnh ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng sắp công du Hoa Kỳ (nhưng cũng vào tháng 4 đó, ông Trọng bất thần bị một cơn bạo bệnh tại Kiên Giang nên chuyến đi Mỹ của ông ta phải dời lại).
Nếu Trung Quốc liều lĩnh điều cả một giàn khoan vào Bãi Tư Chính để ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam’ - như cái cách mà Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã trịch thượng yêu sách với giới chóp bu Hà Nội khi đến Việt Nam vào đầu năm 2018, đó sẽ là một thảm họa với Bộ Chính trị đảng Việt Nam. Đánh thì sợ mà không đánh thì chẳng còn ra thể thống gì.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 15/08/2019
******************
Tàu HD8 của Trung Quốc trở lại, Việt Nam phải làm gì ?
Trương Nhân Tuấn, 15/08/2019
Sau vài ngày cập bến Chữ thập (Fierry Cross) và Subi (để lấy nhiên liệu và thay thủy thủ đoàn ?), hôm nay 13 tháng 8 tin tức cho biết tàu Hải dương địa chất 8 và những chiếc hải giám bảo vệ của Trung Quốc trở lại vùng biển độc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Những chiếc tàu này đã có hơn một tháng hoạt động thăm dò địa chấn thềm lục địa khu vực trầm tích Tư chính trong suốt tháng 7.
Tàu HD 8 trở lại phải chăng sẽ tiếp tục thăm dò địa chấn khu vực bãi Tư chính, hay mở rộng ra trên toàn bộ khu vực EEZ của Việt Nam ? Mục đích có phải là xác định vị trí cùng trữ lượng những túi dầu khí hay Trung Quốc còn có ý đồ khác, như vẽ địa đồ thềm lục địa Việt Nam phục vụ cho quân sự ?
Tàu HD 8 trở lại phải chăng sẽ tiếp tục thăm dò địa chấn khu vực bãi Tư chính, hay mở rộng ra trên toàn bộ khu vực EEZ của Việt Nam ?
Câu hỏi "khó" là nhà nước Việt Nam làm gì để đối phó với hành vi quấy nhiễu, thách thức quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên vùng biển và thềm lục địa hợp pháp của quốc gia mình ?
Mục đích của Trung Quốc
Bài viết trước đây hai tuần tôi có bài viết đưa ra giả thuyết là lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình muốn chứng minh cho phe chống đối thấy sự hữu dụng của những đảo nhân tạo trong công cuộc bành trướng lãnh thổ và bảo vệ an ninh năng lượng. Những tiếng nói chỉ trích cho rằng khoa học gia Trung Quốc đã không nghiên cứu kỹ, trước khi xây dựng các đảo, về sự tàn phá của ánh nắng mặt trời (tia tử ngoại) đối với cơ sở hạ tầng và ảnh hưởng nước biển làm rỉ sét nhanh chóng khí tài kim loại hiện tồn trữ ở các đảo. Việc bảo trì đắt đỏ hàng năm trong khi hiệu quả (các đảo nhân tạo) chưa thấy chứng minh.
Giả thuyết này đến nay cho thấy phản ảnh được phần nào sự thật. Nhưng quyết tâm của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông đã là một thực tế. Ta sẽ thấy rằng từ nay Trung Quốc thường xuyên đưa tàu bè quấy nhiễu hải phận EEZ và thềm lục địa các quốc gia VN, Phi, Mã lai… với 3 mục đích :
1/ Các đảo nhân tạo có vai trò quan trọng trong công cuộc bảo đảm nguồn năng lượng thay thế nếu an ninh năng lượng Trung Quốc bị đe dọa (như trường hợp các eo biển chiến lược Malacca, Hormuz… bị nghẽn). Với việc cùng lúc đưa hàng loạt tàu nghiên cứu địa chất xuất phát từ các đảo nhân tạo tới vùng biển EEZ của VN, Mã lai, Phi… Trung Quốc lần hồi sẽ nắm rõ những dữ kiện chính xác về vị trí và trữ lượng của các túi dầu khí trong toàn bộ Biển Đông.
2/ Các đảo nhân tạo có vai trò trung tâm trong việc khẳng định các quyền "lịch sử" của Trung Quốc qua bản đồ chữ U chín đoạn.
3/ Tiếp tục củng cố việc "quân sự hóa" các đảo nhân tạo nhằm thiết lập khu vực "ADIZ vùng nhân diện phòng không". Việc này thể hiện qua các việc tập trận bằng đạn thật, phối hợp pháo binh trên bờ và pháo binh trên các đảo, cùng với với lực lượng hải quân và không quân… mục đích "chống hạm" và "chống tiếp cận" sao cho vùng không gian trên Biển Đông "bất khả xâm phạm". Các đảo nhân tạo là những điểm "cơ bản" từ đó tính bề rộng vùng nhận diện phòng không ADIZ.
Việt Nam sẽ phải có những đối sách nào đối với khuynh hướng bành trướng của Trung Quốc ?
Nhiều bài viết, bài phỏng vấn trên báo chí có cùng nội dung đề nghị Việt Nam phải sử dụng phương tiện pháp lý, trong đó có việc đi kiện, để giải tỏa những áp lực đến từ Trung Quốc.
Hiển nhiên các hành vi của Trung Quốc tập trận thường xuyên bằng đạn thật trên Biển Đông, các việc quân sự hóa các đảo nhân tạo và sử dụng các đảo này để làm bàn đạp cho tàu bè hải cảnh và tàu khảo sát địa chất quấy nhiễu các nước chung quanh Biển Đông… đã và đang là mối đe dọa thường trực không chỉ cho quyền tự do hàng hải của tàu bè các nước mà (các hành vi này) còn nguy hại đến sự ổn định và nền hòa bình của khu vực.
Đối với những hành vi của Trung Quốc liên quan tới quân sự như "quân sự hóa các đảo nhân tạo" hay "tập trận bằng đạn thật trên biển"... Việt Nam khó tìm được giải pháp pháp lý phù hợp để giải quyết do việc Trung Quốc "bảo lưu" theo điều 298 khoản (b) UNCLOS.
Nhưng đó là những việc thuộc phạm trù "quốc tế", có thể hiện hữu một giải pháp "đa phương" mà Việt Nam là một bên có lợi.
Đối phó với việc Trung Quốc cho tập trận, cho phóng hỏa tiễn từ đất liền (và có thể phóng từ các đảo) nhằm chống hạm, chống tiếp cận, các nước thân cận với Hoa kỳ có thể trang bị các loại hỏa tiễn tầm trung tương tự (tầm hoạt động 500kh đến 5.000km) để đối phó. Ngay cả Việt Nam cũng có thể trang bị, nếu điều kiện cho phép và nếu tình thế bị Trung Quốc bức hiếp thái quá.
Đối với quyền tự do hàng hải, các nước như Pháp, Anh, Nhật, Úc, Nam hàn, Ấn độ... đều có kế hoạch riêng. Đặc biệt Hoa kỳ, từ thời Obama với chương trình FONOP, các nước cho tàu bè đi qua Biển Đông, tất cả nhằm mục đích để bảo vệ quyền tự do hàng hải.
Về pháp lý, Việt Nam cũng có thể sử dụng các điều ước thuộc Công ước liên quan đến Tự do hàng hải và hàng không để đưa Trung Quốc ra một tòa án quốc tế thích hợp (trong trường hợp Trung Quốc hạn chế quyền tự do hàng hải và các biện pháp khác đã cạn kiệt).
Việc "quân sự hóa các đảo" cũng là một vấn đề "đa phương", vì nó đe dọa sự ổn định và nền hòa bình khu vực. Một giải pháp "đa phương", như các cuộc tập trận của Hoa kỳ với một quốc gia đồng minh (như Phi, Úc, Nam hàn… hoặc với VN) trên Biển Đông, nếu có, thì Việt Nam cũng là một bên có lợi.
Gần đây có những tiếng nói từ các viên chức Hoa kỳ, yêu cầu Tập Cận Bình giữ lời hứa với Tổng thống Obama năm 2015 về việc không "quân sự hóa các đảo". Trở ngại là Tổng thống Trump hiện nay có khuynh hướng loại bỏ tất cả những "di sản" của Tổng thống Obama, ngay cả khi những chương trình này "có lợi" cho nước Mỹ (như hiệp ước TPP hay hiệp ước hạn chế nguyên tử với Iran). Theo Luật quốc tế, một "tuyên bố đơn phương" từ một nguyên thủ quốc gia, về một vấn đề mà trên đó thể hiện sự "tin tưởng chính đáng - confiance légitime" của đối tác, tuyên bố đó có hiệu lực ràng buộc. Nội các Trump có buộc ông Tập tuân thủ lời hứa hay không vẫn còn là ẩn số.
Nhưng việc Trung Quốc cho tàu bè nghiên cứu tới làm khảo sát địa chấn trên thềm lục địa của Việt Nam là hành vi vi phạm quyền chủ quyền của VN. Trong khi các tàu hải cảnh của Trung Quốc hộ vệ thể hiện các hành vi thách thức các tàu chấp pháp của VN, hiển nhiên là việc thách thức quyền tài phán của Việt Nam trên hải phận EEZ của quốc gia mình.
Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa án nào ?
Có ý kiến cho rằng Việt Nam cần phải kiện Trung Quốc trước một "Hội đồng Trọng tài lâm-cấp thời (ad hoc) được thiết lập theo Phụ lục VII của UNCLOS" bởi vì "Phán quyết (PCA 11-7-2016) chỉ có tính ràng buộc giữa Philippines và Trung Quốc. Nếu Việt Nam muốn có một phán quyết có tính ràng buộc giữa mình và Trung Quốc, Việt Nam phải kiện Trung Quốc".
Để biết Việt Nam có bị ràng buộc đối với phán quyết ngày 11 tháng 7 năm 2016 của tòa Trọng tài thường trực (PCA) hay không, ta cần tìm hiểu Tòa PCA (xủ vụ Phi-Trung Quốc) có "thẩm quyền" phân xử về các việc gì và nội dung phán quyết gồm những điều gì ?
Vụ Phi đơn phương kiện Trung Quốc ra tòa Trọng tài thường trực (CPA) ngày 22/01/2013. Tòa được thành lập theo Phụ lục VII, phần XV, Mục 2 của UNCLOS.
Tòa có thẩm quyền "giải thích và áp dụng công ước" (điều 286). Đây là một phiên tòa với "thủ tục bắt buộc", đối phương không có quyền từ khước tham gia. Tòa ra "những quyết định bắt buộc", đối phương không thể khiếu nại lên bất cứ tòa nào. (Đúng như tiêu đề Mục 2). Điều này áp dụng ngay cả khi một bên đơn phương đi kiện.
Nội dung vụ kiện xoay chung quanh việc "giải thích và cách áp dụng công ước" trong phạm vi Biển Đông. Tòa đặc biệt khảo sát yêu sách "đường chữ U chín đoạn" của Trung Quốc có phù hợp với UNCLOS hay không ? Tòa khảo sát "vùng nước quần đảo" cũng như tư cách pháp lý các đảo, đá, bãi chìm, bãi nổi… thuộc quần đảo Trường Sa…
Việt Nam là quốc gia kế cận Biển Đông, có tuyên bố chủ quyền toàn bộ quần đảo Hoàng sa và Trường Sa. Tuy không là "một bên" trong vụ kiện nhưng Việt Nam có đệ trình công hàm lên Tòa, một mặt để bảo vệ lợi ích của mình, mặt khác công nhận "thẩm quyền" của Tòa đối với các khiếu nại của Phi. Việt Nam còn đề nghị Tòa bác bỏ yêu sách phi lý của Trung Quốc thể hiện theo bản đồ 9 đoạn đường chữ U.
Trung Quốc từ đầu đã tuyên bố không tham gia, không nhìn nhận thẩm quyền của tòa cũng như không thi hành phán quyết. Trong lúc tổng thống Phi Duterte không yêu cầu Trung Quốc thực thi phán quyết.
Như vậy phán quyết PCA "có hiệu lực" thi hành đối với Việt Nam hay không ?
Theo tôi, để làm sáng tỏ việc này Việt Nam có thể làm hai việc.
Thứ nhứt, Việt Nam hợp tác cùng Mã lai khiếu nại lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa thuộc Liên Hiệp Quốc (Commission on the Limits of the Continental Shelf - CLCS) về hồ sơ "Ranh giới thềm lục địa mở rộng" (200+150 hải lý).
Hồ sơ chung của Việt Nam và Mã lai nộp văn phòng Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc ngày 6 tháng năm 2009 đã bị Trung Quốc phản bác với lý do trình bày trong công hàm ngày 7 tháng 5 năm 2009.
Nội dung công hàm 7/5/ của Trung Quốc gồm các việc Trung Quốc có chủ quyền các đảo Trường Sa và "vùng nước liền kề". Tất cả được "minh họa" qua bản đồ 9 đoạn hình chữ U. Đây là lần đầu tiên bản đồ này xuất hiện trước Liên Hiệp Quốc.
Các yêu sách của Trung Quốc đã bị phán quyết tòa PCA ngày 11 tháng 7 năm 2016 bác bỏ. Vùng nước lịch sử theo bản đồ 9 đoạn thì không phù hợp với UNCLOS. Trong khi các đảo thuộc Trường Sa thì không có đảo nào được xem là "đảo" theo qui định điều 121 (3).
Toàn bộ nội dung công hàm phản đối của Trung Quốc đã bị Tòa PCA bác bỏ. Ủy ban ranh giới thềm lục địa không có lý do nào để từ chối không nhìn nhận hồ sơ chung của Việt Nam và Mã lai là "hợp cách", đáp ứng đúng như qui định của Luật Biển 1982.
Thứ hai, Việt Nam có thể làm thủ tục đệ đơn lên Tòa án công lý Quốc tế (ICJ) hay Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) để thụ lý xem rằng phán quyết của Tòa CPA có thể áp dụng cho Việt Nam trong khu vực hải phận kinh tế độc quyền và thềm lục địa của Việt Nam hay không ?
Thông thường các phán quyết của Tòa án quốc tế sau đó trở thành "thông lệ", một hình thức "luật" hay "hệ qui chiếu", để các vụ án sau này làm cơ bản.
Phán quyết của Tòa PCA, mục đích "diễn giải luật và phương cách áp dụng luật", đặc biệt cho quần đảo Trường Sa và khu vực Biển Đông.
Nếu Việt Nam kiện Trung Quốc ra một Tòa án về Luật Biển, (như Hội đồng trọng tài theo ý kiến của bài viết trên BBC) thì những khiếu nại của Việt Nam không thể khác với khiếu nại của Phi, nhứt là về đường 9 đoạn. Tòa không thể đưa ra một cách "diễn giải" khác hay một cách "áp dụng luật" khác với án lệ 11-7-2016.
Làm được một trong hai việc này Việt Nam đã "đi tắt" tới đích dễ dàng mà không cần phải đi kiện, vừa tốn kém vừa mất thời gian.
Nếu Trung Quốc rút khỏi UNCLOS
Một bài viết trên BBC có ý kiến cho rằng nếu Việt Nam không kiện Trung Quốc bây giờ thì (e rằng) Việt Nam sẽ không còn cơ hội. Bởi vì Trung Quốc có thể tuyên bố rút khỏi Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS 1982) để không còn bị ràng buộc bới bộ luật này nữa.
Ý kiến này có đáng lo ngại hay không ?
Theo tôi, sau phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực tại La Haye ngày 11 tháng 7 năm 2016, đến nay Trung Quốc không rút ra khỏi UNCLOS thì ít có khả năng Trung Quốc sẽ rút trong tương lai.
Ý kiến "Trung Quốc có thể rút khỏi UNCLOS" nguyên thủy là của luật gia Julian Ku viết trên Opinio Juris trong một bài viết ngày 4 tháng 11 năm 2015. Tác giả cho rằng Trung Quốc có thể rút khỏi UNCLOS (để tránh những ràng buộc trong vụ kiện) nhưng Trung Quốc vẫn gia nhập các kết ước khác của Liên Hiệp Quốc về luật biển (thông luật quốc tế - droit international coutumier). Tác giả cho rằng việc này sẽ không tốt cho Trung Quốc nhưng chắc chắn nó không giúp gì cho Phi (làm khó Trung Quốc).
Nếu Trung Quốc rút khỏi UNCLOS, lợi bất cập hại
Cái "lợi" hiển nhiên là để tránh ràng buộc phán quyết của Tòa PCA.
Thực tế cho thấy Trung Quốc đã làm bằng cách khác, là tuyên bố không tham gia, không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa và dĩ nhiên không công nhận phán quyết của Tòa.
Cái hại thì có rất nhiều. Rút khỏi luật biển 1982, Trung Quốc sẽ trở lại tuyên bố 4-9-1958 về hải phận.
Thứ nhứt, tất cả các đảo của Trung Quốc sẽ không còn hưởng vùng kinh tế độc quyền (EEZ 200 hải lý) cũng như thềm lục địa. Qui ước "vùng kinh tế độc quyền" và thềm lục địa chỉ đến từ UNCLOS 1982.
Thứ hai, tất cả các đảo của Trung Quốc chỉ có hiệu lực 12 hải lý. Công hàm 14/09/1958 của Việt Nam chỉ công nhận "hải phận 12 hải lý" mà thôi.
Điều tệ hại là Trung Quốc không được hưởng luật về "thời hiệu" đến từ UNCLOS 1982. Có nghĩa là trước kia Trung Quốc tuyên bố lãnh thổ và các đảo chỉ có hiệu lực 12 hải lý lãnh hải. Sau khi UNCLOS 1982 được đưa vào áp dụng, hải phận lãnh thổ và các đảo của Trung Quốc vẫn chỉ có 12 hải lý lãnh hải mà thôi.
Hiển nhiên phía Việt Nam có lợi. Tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc lúc đó sẽ trở thành việc áp đặt đơn phương "biển lịch sử" của Trung Quốc mà điều này án lệ 11/07/2016 đã bác bỏ. Trung Quốc chỉ có thể áp đặt việc này qua một cuộc chiến tranh mà phía Trung Quốc giành chiến thắng toàn diện.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb, nhantuan.truong, 15/08/2019
*********************
Haiyang Dizhi 8 trở lại vùng EEZ Việt Nam : Hà Nội cạn kiệt lựa chọn ?
Nguyễn Hiền, VNTB, 15/08/2019
Tàu khảo sát Haiyang Dizhi 8 của Trung Quốc đã quay trở lại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào ngày 13/8, vài ngày sau khi tàu thăm dò này được báo cáo là đã rời khỏi khu vực, Reuters đưa tin.
Việt Nam và Trung Quốc đang bị lôi kéo vào cuộc tranh chấp chủ quyền Biển Đông
Như vậy, việc rút tàu khảo sát Trung Quốc chỉ là tạm thời, dẫn đến nguy cơ đối đầu giữa các tàu Việt Nam và Trung Quốc ở Biển Đông sẽ phát sinh trở lại.
Hà Nội cạn kiệt lựa chọn ?
Trước đó, phương cách mà Hà Nội đưa ra là kêu gọi sự hỗ trợ của quốc tế trong "bảo đảm hòa bình, ổn định của Biển Đông", cũng nhưng kiên quyết đưa các tàu dân sự, bán dân sự ra để ngăn chặn Haiyang Dizhi 8 thăm dò ở vùng EEZ của Việt Nam. Đồng thời, Hà Nội cũng quyết định mở rộng hoạt động của một giàn khoan dầu trong Bãi Tư Chính cho đến cuối tháng 9, một trong những nỗ lực đẩy lùi hoạt động thăm dò của Trung Quốc trong khu vực.
Thế nhưng, Haiyang Dizhi 8 đã tiếp tục đưa Việt Nam vào tình thế khó khăn, một động thái mà nhiều bài viết trên Việt Nam Thời Báo đã mô tả như là cách thức mà buộc Việt Nam phải "thỏa hiệp", một trong số đó bao gồm thỏa hiệp về nội dung COC, đáp ứng 3 yêu cầu mà Bắc Kinh đề ra. Và tác động của USS Ronald Reagan là không thể phủ nhận.
Trong mắt Mỹ và đồng minh khu vực, Việt Nam là "chìa khóa cho an ninh hàng hải và tự do hàng hải", là "khiên đỡ" chống lại sự bành trướng của Trung Quốc ở vùng Biển Động. Góc độ nào đó, Hà Nội có phần cứng rắn trong sự nhạy cảm so với các nước láng giềng trong khu vực ASEAN, khi mà "lặng lẽ loại Huawei của Trung Quốc ra khỏi triển khai 5G trong nước, trong khi các nước láng giềng (bao gồm cả các đồng minh trung thành của Mỹ như Hàn Quốc và Thái Lan) vẫn giữ mối quan hệ hợp tác".
Quay trở lại câu chuyện Haiyang Dizhi 8, nó đặt ra cho Hà Nội một thách thức trong chiến lược cân bằng nhằm chống lại Bắc Kinh. Một nước láng giềng, đồng ý thức hệ, và là kẻ thù ngàn năm trong lịch sử. Có một hiện tượng mà giới bất đồng chính kiến thường chỉ trích chính quyền Hà Nội liên quan đến chiến lược cân bằng, đó là "tệ đu dây". Sự gìn giữ các mối quan hệ dựa trên sự cân bằng trong mối quan hệ với Trung Quốc, và ý thức hệ luôn là sợi dây ràng buộc. Dẫn đến một thực trạng cay đắng, mà tác giả Thường Sơn (Việt Nam Thời Báo) ngày 14/8 đã chỉ ra :
"Hầu hết các ‘đối tác chiến lược’ - mà giới chóp bu Việt Nam thường tự hào lên đến cả tá - đã chẳng đếm xỉa gì đến cử chỉ cầu cứu của Hà Nội".
Thực tế đã cho thấy, khi Việt Nam kêu gọi sự "hỗ trợ" của cộng đồng quốc tế trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, thì hoàn cảnh bi đát đã khiến Bộ Ngoại giao Việt Nam trở nên cứng đơ.
Một Đối tác chiến lược toàn diện là Trung Quốc đem tàu xâm lấn vùng EEZ của Việt Nam.
Hai Đối tác chiến lược toàn diện còn lại là Nga và Ấn Độ giữ quyền "im lặng" trước động thái hung hăng của Bắc Kinh.
Ba quốc gia có Quan hệ đặc biệt là Lào, Campuchia, Cuba thì đều giữ "quyền im lặng". Riêng Campuchia thì trở thành sân sau của Bắc Kinh, nơi tiếp nhận nguồn vốn tài trợ kinh tế và quân sự khổng lồ và luôn là quốc gia "phá hoại" các Tuyên bố chung ASEAN lên án Trung Quốc về vấn đề Biển Đông.
Cấp độ ngoại giao "đối tác chiến lược" trở nên rẻ rúng, bởi xét trong trường hợp Bãi Tư Chính, thì dường như khái niệm nêu trên đã không đóng một vai trò nào đối với an ninh, thịnh vượng và vị trí quốc tế của Việt Nam.
Thậm chí, Liên Bang Nga, một quốc gia được một số nhà bình luận nước ngoài xem là "Đồng minh kỳ lạ của Việt Nam trong cuộc chiến với Trung Quốc". Tuy nhiên, diễn biến thiếu thống nhất của Nga đã khiến cho chữ "đồng minh" trở nên rẻ rúng. Và Nga thuần túy chỉ là một "cường quốc lỗi thời" trong vấn đề Biển Đông.
Liên minh với Mỹ là mệnh lệnh chủ quyền ?
Vấn đề Bãi Tư Chính, Hà Nội đang cạn kiệt trong các lựa chọn ? Việc Hà Nội từ chối tham gia các sáng kiến khu vực của Washington vì sợ làm phức tạp mối quan hệ với Trung Quốc đã khiến cho yếu tố "đối tác an ninh tiềm năng" của Hà Nội trong mắt Mỹ trở nên thiếu bền vững. Nói cách khác, thì Hà Nội từ một "người thụ hưởng tiềm năng" giờ trở thành một "nạn nhân tiềm năng".
Haiyang Dizhi 8 trở lại vùng EEZ Việt Nam đã làm nổi bật giá trị của cuộc Hội thảo hợp tác chiến lược giữa Việt – Mỹ vào đầu tháng 4/2019, trong đó ông David Shear, cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam và cũng là cựu Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đề cập, mong muốn liên minh chặt chẽ hơn với Hà Nội, dù biết Việt Nam chịu nhiều tác động của Trung Quốc.
Như vậy, giải quyết câu chuyện từ "người thụ hưởng" trở thành "nạn nhân" chỉ thông qua chính con đường thiết lập quan hệ đồng minh với Mỹ, loại bỏ chính sách đối ngoại "không liên minh".
Và quan điểm của Đại sứ Việt Nam tại Mỹ - Lê Công Phụng, trong tuyên bố vào đầu năm 2019 nhân dịp Tết Nguyên Đán nên cần hiện thực hóa.
"Việt - Mỹ cam kết tăng cường hợp tác nhằm nâng cao quan hệ song phương lên quan hệ đối tác chiến lược trong tương lai gần", ông Phụng tuyên bố.
"Tương lai" toàn vẹn của Bãi Tư Chính, dưới áp lực của Mỹ, chính là tương lai của chính Đcộng sản Việt Nam.
Vậy vấn đề quan hệ đối tác chiến lược trong tương lai gần bao giờ sẽ hiện hữu ? Đó chính là khi bản thân hai quốc gia "hòa hợp nhau về lợi ích" để vượt qua những khác biệt.
Bởi về mặt chính trị, Đcộng sản Việt Nam lo ngại thay đổi chế độ. Do đó, Hà Nội hy vọng sẽ nhận được sự hỗ trợ và giúp đỡ từ các cường quốc bên ngoài mà không can thiệp vào công việc nội bộ của mình. Tuy nhiên, trong khi Washington muốn giúp Hà Nội cải thiện năng lực hàng hải, thì Mỹ cũng gây áp lực lên các điều kiện nhân quyền của nước này. Bản thân Hà Nội không muốn làm phật lòng Trung Quốc, nơi có chung đường biên giới dài, lịch sử phức tạp và hệ tư tưởng chính trị tương tự.
Quan hệ Việt – Mỹ có thể đạt được trạng thái cấp chiến lược nếu hai bên có thể giải quyết các vấn đề trên. Tuy nhiên trong câu chuyện Bãi Tư Chính, Hà Nội đã cạn kiệt các lựa chọn. Hoặc chấp nhận không phật lòng Bắc Kinh và EEZ trở thành vùng tranh chấp (khai thác chung), hoặc ngả hẳn về phía Mỹ và chấp nhận một sự đổi mới đi lên, với mô thức "đồng minh" mới của Mỹ, trong bối cảnh, Mỹ tìm đồng minh mới ở Châu Á.
Nguyễn Hiền
Nguồn : VNTB, 15/08/2019
Các bài viết liên quan
http://www.vietnamthoibao.org/2019/07/vntb-viet-nam-van-can-mot-ong-minh-thuc.html
http://www.vietnamthoibao.org/2019/08/vntb-hung-hang-cua-trung-quoc-va-ong.html