Dịch Covid-19 : nguyên liệu các ngành sản xuất cạn kiện, doanh nghiệp tìm nguồn ở đâu ?
Thanh Trúc, RFA, 27/02/2020
Tại cuộc họp đánh giá tác động dịch bệnh Covid-19 đối với sản xuất trong nước, Bộ Công Thương Việt Nam loan báo nguyên liệu trong các ngành điện, điện tử và dệt may chỉ còn đủ cho sản xuất đến hết tháng 3/2020 mà thôi.
Hình minh họa. Hình chụp hôm 24/5/2019 tại một nhà máy may mặc ở Hà Nội - AFP
Vẫn theo Bộ Công Thương, nguyên liệu dệt may, da giày, túi xách cũng gặp tình trạng tương tự, nghĩa là chỉ đủ cho tháng Ba hay chậm lắm là đầu tháng Tư, dẫn đến khả năng nhiều doanh nghiệp sẽ phải tạm dừng hoạt động.
Giải thích về việc này, Bộ Công Thương cho biết vì Trung Quốc là nước xuất khẩu nguyên liệu lớn nhất cho các ngành công nghiệp trên thế giới, nay đang bị dịch bệnh Covid-19 hoành hành khiến các ngành sản xuất, vận tải, hậu cần, phân phối, dịch vụ…qua Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đều bị tác động.
Bên cạnh đó, tình hình Covid-19 tại Hàn Quốc và Nhật Bản cũng ngày càng phức tạp khiến nguồn cung nguyên phụ liệu nhập khẩu từ hai nước này vào Việt Nam cũng sẽ bị giảm sút.
Số liệu mới nhất từ Trung tâm Thông tin Công nghiệp- Thương mại, Bộ Công Thương cho thấy năm 2019 gần 30% hàng nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc.
Hình minh họa. Hàng hóa ở cửa khẩu Hữu Nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc hôm 20/2/2020 Reuters
Đại diện Hiệp hội Dệt May Việt Nam và chủ một công ty may mặc ở Đồng Nai từ chối bình luận về tình trạng này với RFA.
Vấn đề được doanh nhân Diệp Thành Kiệt, chuyên gia May Mặc & Da Giày, phân tích :
"Cái đó hoàn toàn đúng. Bộ Công Thương một mặt dựa trên số liệu mà Bộ được báo cáo, một mặt dựa trên tổng hợp ý kiến các ngành, các hội, cho nên thông tin đó khá là chính xác.
Dĩ nhiên là tùy theo hoàn cảnh mỗi doanh nghiệp, có thể họ bị sớm hơn hoặc trễ hơn. Nhưng nói chung là nếu với tình hình như hiện nay, tức là chốt lại những điều kiện hiện nay ở Trung Quốc là mới mở cửa khoảng trên 50% các nhà máy, rồi Hàn Quốc hiện rơi vào dịch, nếu tình hình không cải thiện thì việc Bộ Công Thương công bố khoảng tháng Ba các doanh nghiệp, kể cả xuất khẩu lẫn tiêu thụ nội địa, đều sẽ gặp khó khăn. Cái đó hoàn toàn đúng".
Doanh nhân Nguyễn Tử Quảng, Giám đốc công ty phần mềm BKAV và điện thoại di động ở Hà Nội, đồng ý với thông tin của Bộ Công Thương rằng việc nhiều doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động do thiếu nguyên liệu sản xuất là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra :
"Hiện nay chuỗi sản xuất của các nhà sản xuất trên toàn thế giới đều có sự phụ thuộc lẫn nhau. Một sản phẩm bây giờ thì linh kiện của nó có mặt ở rất nhiều nước. Ngay như Nhật Bản, nơi sản xuất rất nhiều linh kiện cho các thiết bị điện tử mà nếu tình hình Covid-19 cứ diễn biến xấu thì chắc chắn điều Bộ Công Thương nói là đúng"
"BKAV thì có nhiều mảng sản xuất và kinh doanh khác nhau. Mảng phần mềm thì không chịu ảnh hưởng rồi, thế còn phần cứng sản xuất điện tử chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng. Chúng tôi có sẵn linh kiện dự trữ, có thể không đến mức phải đóng cửa. Nhưng Bộ Công Thương nói thiếu đây là nói chung cả ngành trong quãng thời gian như vậy. Tất nhiên không doanh nghiệp nào là không lo lắng trong tình trạng như thế này. Phải chấp nhận thôi, tùy theo tình hình mà đối phó, mà chọn giải pháp tốt nhất".
Về phía doanh nghiệp, ông Diệp Thành Kiệt nói tiếp, bên cạnh nỗi lo về nguyên liệu đầu vào thiếu hụt thì còn nỗi lo khác là đầu ra của sản phẩm :
"Có lẽ nhiều doanh nghiệp cũng sẽ dần dần thấy được cái khó khăn về đầu ra của sản phẩm. Chứ còn thực ra đối với đầu vào của sản phẩm, tức là nguyên liệu, thì không chỉ Việt Nam hay một số nước khác mà kể cả Trung Quốc cũng sẽ gặp khó khăn. Bởi vì nếu không có biện pháp khắc phục thì chính sản xuất của Trung Quốc sẽ bị đình đốn trước".
Phát biểu tại cuộc họp đánh giá tác động của Covid-19 đối với sản xuất ở Việt Nam trong giai đoạn này, ông Trương Thanh Hoài, cục trưởng Cục Công Nghiệp, cũng cho biết thêm là nhiều nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu tại Trung Quốc đang ngừng sản xuất. Nếu còn hoạt động, ông nói tiếp, lượng nguyên phụ liệu sản xuất ra rất ít.
Vẫn theo lời ông, nếu dịch bệnh kết thúc và phía Trung Quốc nối lại sản xuất thì giá thành nguyên vật liệu có thể sẽ tăng lên, gây ảnh hưởng đến giá thành sản xuất sản phẩm trong nước.
Điều này được doanh nhân ngành May Mặc& Da Giày Diệp Thành Kiệt giải thích bổ sung :
"Cái mà chúng tôi lo ngại là hiện Covid-19 đã lây lan đến khu vực thị trường. Tức là trước đây nó nằm chủ yếu ở khu vực cung ứng mà đặc biệt là Trung Quốc, thì bây giờ nó đã lan đến nơi tiêu thụ rồi, thí dụ như Ý rồi một số nước Châu Âu. Chưa cần nó có thể lan ra khắp Châu Âu và Mỹ, nhưng với tâm lý hiện nay là người ta rất ngại tập họp đông và người ta giảm chuyện mua sắm đi, thì cái lo lớn hiện nay của chúng tôi là đầu ra của sản phẩm. Nói nôm na là thị trường tiêu thụ sẽ bị sút giảm. Đó là cái đáng lo mà tôi nghĩ cũng nên báo động để các doanh nghiệp phải lo tính toán ngay từ bây giờ".
Bộ Công Thương có thể đề ra biện pháp gì trong lúc này nhằm giúp các doanh nghiệp ngành điện, điện tử, dệt may, vốn có tổng lượng nhập khẩu phụ tùng, linh kiện và nguyên vật liệu từ ngoài vào khoảng trên dưới 50%. Theo chuyên gia May Mặc & Da Giày Diệp Thành Kiệt, các biện pháp của chính phủ không thể giải quyết được toàn bộ nhưng có thể giải quyết từng phần. Ông góp ý :
"Thứ nhất là khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tăng cường sản xuất nguyên liệu lên. Như đã nói thực sự mỗi ngành đều có một tỷ lệ nội địa hóa nhất định, vẫn có khả năng sản xuất ra nhất định chứ không phải là không có gì cả.
Tuy nhiên trong thời gian vừa qua chúng ta không cạnh tranh được với nguyên liệu nhập là do giá thành sản xuất của chúng ta cao hơn, hoặc do những điều kiện mua hàng, thí dụ khi doanh nghiệp mua nhập về xuất khẩu họ chỉ trả giá bán của bên người mà họ mua hàng, nhưng về đây họ không chịu các khoản thuế nhập khẩu hay là thuế VAT.
Còn trong trường hợp nếu nguyên liệu đó mà mua ở trong nước, khi mua thì doanh nghiệp bán hàng đã xuất hóa đơn có VAT. Việc này tôi nghĩ Bộ Công Thương đang có sự nghiên cứu có thể là dời lại, hoãn lại hay cho phép chậm, đó cũng là cách khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất mua nguyên liệu trong nước, và các doanh nghiệp trong nước sẽ sản xuất ra nguyên liệu để bán cho trong nước.
Thứ hai là tìm giải pháp giữa Việt Nam với Trung Quốc bởi phần lớn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của Việt Nam nhập từ Trung Quốc :
"Làm sao để bàn về một cơ chế thông quan như thế nào mà nó thông thoáng hơn, trên tinh thần vừa bảo đảm hạn chế sự lây lan của bệnh dịch vừa bảo đảm được sự phát triển của kinh tế như thủ tướng chính phủ Việt Nam đã chỉ thị".
Mặt khác, ông Diệp Thành Kiệt khẳng định, đương nhiên các doanh nghiệp phải tự cứu mình trước.
Ông Nguyễn Tử Quảng nhận định về giải pháp cho các doanh nghiệp :
"Thế còn những công việc bị ảnh hưởng thì mình phải tìm các kênh khác nhau, chẳng hạn như hàng linh kiện thì phải chuyển đổi các nguồn khác nhau.
Tuy nhiên điều đấy không hề dễ vì cả 3 nước có nhiều kinh kiện như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, 3 nước đã cung cấp phần lớn rồi. Kể cả như các linh kiện của Mỹ thì cũng đặt sản xuất ở Trung Quốc, nên là cả ngành này chắc chắn sẽ có ảnh hưởng lớn. Mà không chỉ Việt Nam đâu, tất cả các công ty sản xuất công nghệ sẽ đều có vấn đề như vậy.
Hoặc các doanh nghiệp bán nội địa nên nhân cơ hội này mà chào hàng mạnh lên với các doanh nghiệp đang cần hàng, đó là cách tốt nhất trong giai đoạn hiện nay để mà khắc phục chứ không thể nói nó sẽ trở lại như bình thường được".
Theo ông Diệp Thành Kiệt thì mỗi ngành có cơ cấu nhập nguyên liệu khác nhau. Lấy thí dụ ngành Da Giày, đối với những nguyên liệu cao cấp thì phải mua từ bên ngoài nhiều hơn, còn với loại sản phẩm cấp trung hoặc thấp hơn một chút thì nhiều doanh nghiệp có thể chủ động khoảng hơn 65% và chỉ nhập khoảng 30 hay 40% mà thôi :
"Nhưng mà có những doanh nghiệp lệ thuộc nước ngoài từ khâu thiết kế đến khâu nguyên liệu thì có khi họ phải nhập đến 70 hay 80%. Ngành điện tử thì nói thẳng là chúng ta nhập rất nhiều, từ các con chip các linh kiện… Ở đây chúng ta chỉ làm được những phụ kiện bằng plastic, vỏ mộc hay là hộp thôi, chứ còn gần như nhập hết".
Nên chăng từ lúc này Việt Nam hãy hướng tới đa dạng hóa nguồn nguyên liệu nhập vào từ bên ngoài, là gợi ý của kinh tế gia Phạm Chi Lan.
Theo nhà nghiên cứu độc lập Phạm Chi Lan, với những FTA đã có cũng như EVFTA mới đây, hy vọngViệt Nam sẽ tự chủ được vấn đề sản xuất nguyên liệu cho chính mình, không tùy thuộc quá nhiều vào bất cứ một nguồn cung ứng nhất định nào nữa.
Thanh Trúc
Nguồn : RFA, 27/02/2020
****************
Kinh tế Việt Nam có thể nhân dịch bệnh Covid-19 để ‘thoát Trung’ ?
RFA, 26/02/2020
Cơ hội thoát Trung
Trong một cuộc phỏng vấn với Trí Thứ Trẻ liên quan tác động của dịch Covid-19 đối với kinh tế Việt Nam, được đăng tải vào hôm 19/2, Viện trưởng Viện nghiên cứu Phát triển thành phố Hồ Chí Minh-Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân nhận định rằng kinh tế của Việt Nam bị ảnh hưởng ngay tức thì vì là quốc gia láng giềng với Trung Quốc và khi hai nước có tổng xuất nhập khẩu lên đến khoảng 4500 tỷ đô la Mỹ (USD).
Công nhân Việt Nam làm việc tại nhà máy sản xuất xe hơi Ford ở tỉnh Hải Dương. Hình chụp ngày 11/01/2017. AFP
Tiến sĩ Trần Hòang Ngân đưa ra số liệu kim ngạch xuất nhập khẩu hiện tại giữa Việt Nam và Trung Quốc là 117 tỷ USD, chiếm 23% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, đã có đến 20% xuất khẩu qua đất liền bị đóng băng và con số này chưa tính đến giao thương qua đường tiểu ngạch. Bên cạnh đó, lượng du khách Trung Quốc (chiếm đến 30% tổng số du khách nước ngoài) đang bị hạn chế vào du lịch Việt Nam trong thời điểm dịch Covid-19 không chỉ gây tác hại trong ngành du lịch mà còn dẫn đến hiệu ứng domino cho các chuỗi ngành khác liên quan như khách sạn, nhà hàng, hàng không…Trong lĩnh vực sản xuất, Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân dự báo Quý II năm 2020 là giai đoạn rất khó khăn cho nhiều doanh nghiệp dệt may, da giày, sản xuất điện thoại…vì nguyên liệu dự trũ đầu vào, mà chủ yếu nhập từ Trung Quốc bị cạn kiệt.
Viện trưởng Viện nghiên cứu Phát triển thành phố Hồ Chí Minh khẳng định kinh tế Việt Nam đang đối mặt với những bất lợi qua các trưng dẫn vừa nêu. Thế nhưng, Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân cho rằng "đây là thời điểm để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế một cách mạnh mẽ hơn, tránh phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc từ nguyên liệu đầu vào đến thị trường hòa hóa đầu ra" cho giải pháp trung và dài hạn đối với nền kinh tế của Việt Nam.
Tiến sĩ kinh tế Lê Đăng Doanh, vào tối ngày 25/2 nói với RFA rằng đề xuất này của Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân là hợp lý :
"Việt Nam từ trước đến nay vẫn có câu là ‘trong họa thì có phúc’, ‘trong nguy thì có cơ’. Trong diễn biến như thế này, thì đúng là có cơ hội để Việt Nam đổi mới, tái cơ cấu và thay đổi. Tôi nghĩ rằng sức ép đó cần phải biến thành những phương án cụ thể".
Ông Lê Văn Triết, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, bày tỏ đồng quan điểm với Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân về viễn cảnh kinh tế Việt Nam phải chủ động để "thoát Trung" :
"Nếu như Việt Nam thông minh nhìn xuyên suốt bàn cờ thế giới thì càng nên đi vào con đường đa phương hóa, đa dạng hóa hoạt động kinh tế và thương mại của mình, chứ không nên chỉ cố rút vào thị trường truyền thống cũ, mà thị trường đó mình càng lệ thuộc nhiều thì mình càng chết. Theo thiển kiến của tôi thì hướng đi tốt nhất của Việt Nam trong tình hình hiện nay là phải càng đi sâu về chủ trương và đường lối đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ kinh tế và thương mại của mình với tất cả các quốc gia".
Chuyên gia tài chính-ngân hàng độc lập, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu cho RFA biết rằng quan điểm của Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân đã được giới chuyên gia nhiều lần đề xuất với Chính phủ Việt Nam trong những năm vừa qua :
"Nhiều chuyên gia kinh tế yêu cầu Việt Nam thực hiện đa dạng hóa cả đầu vào và đầu ra. Đầu vào là thay vì Trung Quốc thì mình đi tìm những thị trường nhập khẩu như Hàn Quốc, Nhật và các thị trường ở vùng Đông Nam Á. Tận dụng vị thế của Việt Nam để nhập khẩu nhiều từ các thị trường ở Đông Nam Á và Châu Á-Thái Bình Dương và từ đó đưa ra xuất khẩu. Còn về xuất khẩu thì ngay cả thị trường Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam cũng phải được đa dạng hóa. Tại vì đến một thời điểm nào đó mà thị trường Mỹ gặp khó khăn thì xuất khẩu của Việt Nam cũng gặp khó khăn".
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh xác nhận với RFA rằng mặc dù theo như Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu vừa trình bày. Tuy nhiên :
"Cho đến nay, tôi chưa thấy có một đề án về tái cơ cấu và đa phương hóa, đa dạng hóa mà công việc đó hiện nay là Bộ Công thương đang chịu trách nhiệm chủ trì về việc tìm kiếm thị trường mới. Các doanh nghiệp cũng đang rất nỗ lực. Nếu mà xây dựng một phương án tổng thể thì cần phải có Thủ tướng chỉ đạo và có sự tham gia của các bộ, các viện và các ngành".
"Giảm, hoãn thuế và gia hạn nợ cho doanh nghiệp"
Truyền thông trong nước vào ngày 26/2 dẫn nguồn từ Bộ Công thương cho biết, tại cuộc họp đánh giá tác động của dịch bệnh Covid-19 đến các ngành sản xuất của Việt Nam, rằng các ngành điện, điện tử chỉ còn đủ linh kiện cho sản xuất nhiều nhất là đến cuối tháng 3. Tương tự, ngành dệt may, da giày, túi xách cũng chỉ còn nguyên liệu sản xuất đến đầu tháng 3 hoặc nhiều nhất là đến đầu tháng 4/2020 và có nhiều khả năng doanh nghiệp phải tạm dừng sản xuất.
Tiến sĩ Đinh Trọng Thịnh cho RFA biết giải pháp ngắn hạn mà Bộ Công thương đưa ra là có thể nhập bông vải sợi từ Ấn Độ hay nhập linh kiện điện tử từ Nhật Bản, Đài Loan để thay thế nguồn nguyên vật liệu từ Trung Quốc.
Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân trong cuộc phỏng vấn với Trí Thức Trẻ còn nhấn mạnh một trong những giải pháp có thể giúp giảm thiểu tối đa tác động của dịch Covid-19 đối với nền kinh tế là cần phải ngay lập tức hỗ trợ cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng được giảm, hoãn thuế, gia hạn nợ, khoanh nợ, khoanh lãi đối với khỏan vay ngân hàng.
Qua trao đổi với một số doanh nghiệp ở trong nước, Đài RFA ghi nhận nguyện vọng của họ mong muốn Chính phủ giảm lãi suất. Bà Nguyễn Thị Ba, nhân viên một công ty tư nhân ở Sài Gòn bày tỏ :
"Lãi suất phải giảm xuống. Hoặc có thể những hộ nuôi trồng nông sản, thủy hải sản cho người ta được giảm lãi suất hoặc không lãi suất trong thời gian 3 đến 6 tháng".
Một doanh nhân kinh doanh về phân bón và nông sản hữu cơ, ẩn danh, cho RFA biết người nông dân trồng cây ăn trái ở Việt Nam là những người bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong dịch bệnh Covid-19. Do đó :
"Phải giảm lãi suất và thậm chí là ưu đãi không lãi suất cho họ".
Ngân hàng Nhà nước, vào ngày 24/2 ban hànhcông văn số 1117/NHNN-TD yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện các giải pháp hỗ trợ cho khách hàng do ảnh hưởng của dịch CCovid-19. Theo đó, các tổ chức tín dụng phải áp dụng thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng đối với các khoản nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 và có dư nợ gốc và/hoặc lãi đến kỳ hạn trả nợ trong thời gian từ ngày 23-1/2020 đến ngày 31-3/2020.
Đài RFA nêu vấn đề với Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu rằng giải pháp Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân nêu ra cũng như đề nghị của khối doanh nghiệp về giảm lãi suất liệu có thể khả thi hay không ; trong khi chỉ vài ngày trước lúc Việt Nam công bố dịch Covid-19, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu từng nhận định năm 2020 sẽ là năm mà nhiều ngân hàng rất khó giảm lãi suất do gặp áp lực về chi phí vốn. Trả lời câu hỏi của RFA, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu khẳng định Chính phủ Việt Nam thực tâm muốn giảm lãi suất thì có thể thực hiện được.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu giải thích rằng Việt Nam hiện có hai thị trường vốn 1 và 2. Thị trường 1 là thị trường vốn của người dân và các thành phần kinh tế. Còn thị trường 2 là thị trường vốn của các ngân hàng với nhau. Việc giảm lãi suất có thể bắt đầu từ Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất điều hành (là loại lãi suất mà Ngân hàng Trung ương áp dụng trong hệ thống liên ngân hàng). Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh :
"Thế thì Ngân hàng Nhà nước có thể giảm lãi suất áp dụng trên thị trường 2, trong đó có lãi suất tái cấp vốn, alxi suất omo, lãi suất chiết khấu. Đây là các lãi suất mà Ngân hàng Trung ương có thể tự định ra. Khi Ngân hàng Trung ương giảm lãi suất điều hành ở thị trường 2 thì có thể các ngân hàng có dòng vốn rẻ hơn và họ sử dụng dòng vốn đó cho thị trường 1 là thị trường cho vay. Ngân hàng Nhà nước giảm mặt bằng lãi suất, nhưng với liều lượng ít nhất vào khỏang 0,5% ; chứ còn như những lần trước với liều lượng 0,25% thì không đủ. Và cũng cần độ trễ vào khoảng 3 tháng thì mới lan tỏa sang thị trường 1".
Bệnh nhân thứ 16 được điều trị khỏi Covid-19 xuất viện vào sáng ngày 26/2/2020. Courtesy : VGP News
"Tạo niềm tin rất lớn cho nhà đầu tư nước ngoài"
Tại cuộc họp trực tuyến của Bộ Y tế vào sáng ngày 25/2, bộ này thông báo 16 trường hợp nhiễm virus corona tại Việt Nam đã khỏi bệnh. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tuyên bố rằng "có thể đánh giá Việt Nam đến nay kiểm soát được dịch Covid-19".
Tiến sĩ Trần Hòang Ngân, qua cuộc phỏng vấn với Trí Thức Trẻ, đã rất lạc quan nói rằng Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đánh giá rất cao khả năng ứng phó với bệnh dịch của Việt Nam. Điều này mang lại niềm tin rất lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài đến làm ăn, kinh doanh tại Việt Nam. Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân cũng lưu ý về xu thế chuyển dịch ra khỏi Trung Quốc của các tập đoàn sản xuất lớn và Việt Nam là quốc gia có nhiều lợi thế để thu hút các tập đoàn này đến đầu tư.
Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân còn khẳng định trong thời gian tới, Việt Nam sẽ có cơ hội đón được nguồn đầu tư từ Châu Âu, với công nghệ tiên tiến chất lượng cao khi hai Hiệp định Tự do Thương mại Việt Nam-EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam-EU (EVIPA) có hiệu lực.
Mộ số vị chuyện gia, Đài RFA có dịp trao đổi, đồng thời cũng nhấn mạnh về thị trường EU rộng lớn, đầy tiềm năng cho Việt Nam trong tương lai.
Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Huy Vũ, từ Na Uy, qua ứng dụng messenger chia sẻ với RFA ghi nhận của ông :
"Sau cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, cuộc khủng hoảng vì dịch bệnh ở Trung Quốc cũng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp nước ngoài ở Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư thêm ra các nước khác để đa dạng hoá danh mục đầu tư phòng ngừa rủi ro. Việt Nam nếu kiểm soát dịch bệnh tốt, cải thiện môi trường đầu tư, hạ tầng, thuế và cung cấp thêm nhân công có trình độ tay nghề thì sẽ trở thành một điểm đến cho các nhà đầu tư này".
Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ còn đề cập đến trào lưu những người đến tuổi nghỉ hưu ở Mỹ và phương Tây muốn tìm một nơi thoải mái và rẻ tiền để sống lâu dài lúc về hưu. Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ cho rằng :
"Nếu Việt Nam cải thiện các điều kiện xin visa sống lâu dài, bảo đảm quyền sở hữu nhà ở của người nước ngoài, miễn thuế đối với các thu nhập có nguồn gốc ở nước ngoài, và cải thiện hệ thống y tế sẽ khuyến khích nhiều người Âu, Mỹ chọn nghỉ hưu ở Việt Nam. Họ sẽ là những khách du lịch dài hạn, thậm chí trong nhiều trường hợp trở thành những nhà đầu tư. Làm được vậy sẽ giúp ngành du lịch đa dạng hoá nguồn khách du lịch, bớt phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, tăng nguồn thu ngoại tệ, kích thích đầu tư trong nước".
"Nói thì dễ nhưng thực hiện không dễ"
Nhà quan sát tình hình Việt Nam-Tiến sĩ Vũ Quang Việt, chuyên gia kinh tế từng làm việc tại Cục Thống kê Liên Hiệp Quốc, vào ngày 25/2 lên tiếng với RFA rằng trước mắt dù dịch Covid-19 được kiểm soát tốt đến đâu thì :
"Sắp tới kinh tế Việt Nam đương nhiên sẽ bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh này. Đầu tư địa ốc từ nước ngoài ở Việt Nam có thể sẽ giảm. Do đó, khu vực bất động sản sẽ cực kỳ khó khăn. Như vậy một số ‘đại gia’ trong ngành này sẽ phá sản và sẽ lôi kéo tình trạng khủng hoảng tài chính của Việt Nam".
Liên quan đề xuất Việt Nam "trong nguy có cơ" để nền kinh tế không còn quá phụ thuộc vào Trung Quốc, Tiến sĩ Vũ Quang Việt cho rằng "không hề đơn giản". Từ Hoa Kỳ, Tiến sĩ Vũ Quang Việt lý giải :
"Thí dụ ngay cả đến như Samsung có số lượng điện thoại bán trên thế giới có một nửa là sản xuất tại Việt Nam. Một phần các con chip trong điện thoại Samsung được sản xuất ở bên Trung Quốc. Có thể thêm một thời gian nữa thì Samsung tại Việt Nam sẽ gặp khó khăn vì dự trữ không còn nữa. Ngay cả bây giờ Nam Hàn cũng bị vấn đề tương tự như vậy.
Ví dụ có một tập đoàn nào đó muốn sản xuất sắt thép tại Việt Nam, mà Việt Nam không có những nguyên liệu sắt thép thì họ sẽ phải làm sao cho năng lượng, cho điện rất rẻ để người ta đưa vào (sản xuất). Đại khái với cách làm như vậy thì họ sẽ thu hút những công nghệ rất lạc hậu và rẻ tiền đưa từ Trung Quốc hoặc từ Hàn Quốc sang. Những chuyện như vậy, chúng ta thấy rồi.
Hay ví dụ như Tập đoàn Vingroup nhảy vào sản xuất xe hơi. Nhưng sau khi Hiệp định EVFTA được ký và thông qua thì ngay lập tức xe hơi nhập vào Việt Nam với thuế suất là 0. Bây giờ không phải chỉ là Vingroup thôi mà cả những công ty khác đầu tư sản xuất xe hơi ở Việt Nam sẽ phải giải quyết vấn đề như thế nào ?"
Các vị chuyên gia kinh tế Đài RFA tiếp xúc cùng có chung nhận định rằng sẽ rất khó để kinh tế Việt Nam không bị phụ thuộc vào Trung Quốc vì rất nhiều nguyên nhân như hàng hóa rất rẻ, thuận tiện cho việc chuyên chở giao nhận do ở sát biên giới, đặc biệt tập tục buôn bán và văn hóa kinh doanh của hai nước rất tương đồng với nhau…Tiến sĩ Nguyễn Hiếu khẳng định :
"Trung Quốc có rất nhiều lợi thế mà không dễ gì có thể thay thế được những lợi thế đó bằng những lợi thế của những quốc gia khác. Thành ra nói thì dễ nhưng việc thực hiện không phải là chuyện dễ, dù có thể khả thi".
*****************
Thái Lan áp thuế bán phá giá hơn 50% đối với thép Việt Nam
RFA, 25/02/2020
Ủy ban về phá giá và trợ cấp Thái Lan đã quyết định áp thuế chống bán phá giá từ 6,97% lên 51,61% đối với các sản phẩm thép nhập khẩu từ Việt Nam bị điều tra với cáo buộc đe dọa thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất nội địa.
Sản phẩm thép cuộn cán nguội. AFP
Đó là thông tin trích từ kết luận của Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công thương) Thái Lan được truyền thông trong nước loan đi hôm 25/2.
Tuy nhiên theo kết luận của phía Thái Lan, thuế chống bán phá giá nói trên sẽ được miễn áp dụng đối với nhập khẩu hàng hóa liên quan nhằm sản xuất phục vụ xuất khẩu, nhập khẩu với mục đích sử dụng đặc biệt, hoặc được xếp vào loại đặc biệt.
Mức thuế chống bán phá giá đối của Thái Lan đối với sản phẩm thép của Việt Nam được cho biết sẽ áp dụng tối đa trong năm năm, và sẽ được rà soát hàng năm nếu có yêu cầu chính thức từ phía các bên liên quan hoặc nếu cơ quan điều tra thấy cần thiết.
Cục Phòng vệ thương mại Việt Nam khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam tiếp tục xem xét tham gia các đợt rà soát để đảm bảo quyền và lợi ích.
Vào/2/2020, Thái Lan cũng đã áp thuế chống bán phá giá 14,35% đối với một số sản phẩm thép carbon nguội hoặc không nguội xuất khẩu từ Việt Nam.